Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Phương pháp kể chuyện về bài tập vận động trong giáo dục thể chất cho trẻ 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 87 trang )

Lời cảm ơn

Khoá luận tốt nghiệp "Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận
động trong giáo dục thể chất cho trẻ 4 - 5 tuổi đã đợc hoàn thành với
sự giúp đỡ nhiệt tình của các trờng mầm non, của các thầy, cô giáo
trong khoa Giáo dục tiểu học, và đặc biệt là cô giáo Nguyễn Thị Mỹ
Trinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn trờng mầm non Trờng Thi và một
số giáo viên ở các trờng mầm non khác đã giúp tôi hoàn thành khoá
luận. Cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học, đặc
biệt, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Mỹ Trinh - ngời
đã tận tuỵ giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này đảm bảo chất lợng và
đúng thời hạn. "Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động cho trẻ 4 5 tuổi" là một đề tài mới và khó, nên tôi gặp không ít khó khăn. Do
đó, khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong đợc các thầy cô giáo cũng nh quý độc giả đóng góp ý kiến.
Xin chân thành cảm ơn.

Vinh, tháng 5/2003


2

Phần mở đầu
1-Lý do chọn đề tài.
Chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh với nhiều thành tựu
khoa học tiến bộ. Xã hội hiện nay đòi hỏi rất nhiều ở con ngời mới - con
ngời phát triển toàn diện về mọi mặt: Đức - Trí - Thể - Mĩ đủ khả năng đ a
đất nớc mình "tiến lên sánh vai với các cờng quốc năm châu" nh Bác Hồ
hằng mong muốn.
Để đào tạo đợc những con ngời nh vậy chúng ta phải bắt đầu ngay từ
lứa tuổi mầm non. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học cho thấy, giáo
dục trẻ ngay từ buổi bình minh của cuộc đời sẽ có hiệu quả cao. Đúng nh


lời L.N Tônxtôi đã nói rằng: Tất cả những gì mà đứa trẻ sẽ có sau này
khi trở thành ngời lớn đều đợc thu nhận đợc trong thời thơ ấu. Trong quãng
đời còn lại những cái mà nó thu nhận đợc chỉ đáng một phần trăm những
cái đã có mà thôi.Và ông cũng đa ra phép so sánh: Nếu từ trẻ 5 tuổi
đến ngời lớn khoảng cách chỉ là một bớc thì từ đứa trẻ sơ sinh đến 5 tuổi
khoảng cách dài kinh khủng.[6].
Thời kỳ từ 0 - 6 tuổi tốc độ phát triển của trẻ rất nhanh, có thể nói là
nhanh nhất trong cuộc đời của con ngời. Tốc độ phát triển nhanh nh vậy
không bao giờ còn thấy đợc trong những năm tháng về sau. Mặc dù vậy,
sức đề kháng của trẻ đối với những tác động không tốt của môi trờng xung
quanh rất yếu ớt, khả năng hoạt động của chúng cha bền, cha mạnhvì thế,
trong giai đoạn này nếu hình thành ở trẻ kỹ năng và thói quen luyện tập thể
dục, thể thao hợp lý thì trẻ sẽ trở nên khoẻ mạnh, rắn rỏi, độc lập, tự tin
hơn trong cuộc sống sau này. Bác Hồ đã nói: Sức khỏe là vốn quý nhất của
mỗi con ngời và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc [2]. Nhà giáo dục phải biết rõ điều đó để có
những phơng pháp tác động thích hợp.


3

Giáo dục thể chất làs một bộ phận quan trọng trong giáo dục toàn
diện, đó là quá trình tác động chủ yếu lên cơ thể trẻ (thông qua việc rèn
luyện cơ thể và hình thành, phát triển kỹ năng, kỹ xảo vận động cùng các tố
chất vận động), tổ chức các hoạt động - vệ sinh hợp lý nhằm làm cho cơ thể
phát triển một cách hài hoà, cân đối.
Giáo dục thể chất cho trẻ em trớc 6 tuổi có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Trớc hết, vì cơ thể của trẻ em ở lứa tuổi này đang phát triển mạnh
mẽ: Hệ thần kinh, hệ xơng hình thành nhanh, bộ máy hô hấp đang hoàn
thiện Thứ hai: Cơ thể trẻ còn non yếu, dễ bị phát triển lệch lạc, mất cân

đối. Nếu không quan tâm giáo dục thể chất đúng đắn thì gây nên những
thiếu sót trong sự phát triển cơ thể của trẻ em về sau không thể khắc phục
đợc. Cuối cùng, sự phát triển thể chất cho trẻ có ảnh hởng đến sự phát triển
tâm lý, sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ. Có thể nói, sự thành công
trong bất cứ hoạt động nào của trẻ (đặc biệt là trớc 6 tuổi) đều phụ thuộc
vào trạng thái sức khoẻ của nó.
Trẻ 4 - 5 tuổi cũng không nằm ngoài quy luật đó, chúng phải đợc
chuẩn bị về mọi mặt: tâm thế, kiến thức và điều quan trọng là về sức khoẻ.
Trẻ phải khoẻ mạnh thì chúng mới tự tin vào chính mình, mới có thể tham
gia vào mọi hoạt động của trờng, của lớp nh vui chơi, học tập Song, việc
giáo dục thể chất cho trẻ 4 - 5 tuổi nh thế nào để đem lại hiệu quả cao đang
là vấn đề quan tâm của các trờng mầm non hiện nay. Theo tài liệu nghiên
cứu, để giáo dục thể chất có hiệu quả giáo viên phải biết áp dụng đồng bộ,
linh hoạt nhiều phơng pháp, biện pháp trong đó không thể không nhắc đến
phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động (trong nhóm phơng pháp dùng
lời). Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động không những giúp cho giáo
viên dễ dàng thực hiện nhiệm vụ của mình mà quan trọng hơn là tính tích
cực hoá hoạt động của trẻ. Trẻ mẫu giáo rất thích đợc nghe ngời lớn (giáo
viên) kể chuyện. Khi nghe kể chuyện về bài tập vận động, trẻ, không những
rất thích thú mà còn muốn tham gia hoạt động (làm) giống nhân vật trong


4

chuyện kể. Chính vì vậy, tiết học thể chất trở nên nhẹ nhàng hơn, sôi nổi
hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, khi dạy những vận động cơ bản khó
giáo viên có thể lồng vào một câu chuyện và nhấn mạnh bằng cách kể chuyện
về hậu quả của bài tập vận động đó nếu trẻ thực hiện không đúng yêu cầu kỹ
thuật Nh vậy, trẻ sẽ hứng thú và tập trung chú ý hơn.
Nhng hiện nay ở các trờng mầm non việc sử dụng phơng pháp kể

chuyện về bài tập vận động còn rất hạn chế, nhất là với trẻ 4 - 5 tuổi. Làm
thế nào để phát huy đợc u điểm của phơng pháp này? Đây là vấn đề khiến
tôi trăn trở, chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt
nghiệp của mình là: Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động trong
giáo dục thể chất cho trẻ 4 - tuổi ở các trờng mầm non.
Hy vọng rằng khi tìm hiểu vấn đề này tôi có thêm nhiều hiểu biết để
sau này làm tốt hơn trong công tác của mình, góp phần cùng xã hội chăm
sóc, nuôi dỡng trẻ thơ thành những con ngời mới.
2- Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu việc sử dụng phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động, từ
đó xây dựng và thử nghiệm các tiết học thể dục dới dạng những câu chuyện
kể theo chủ điểm trong giáo dục thể chất cho trẻ 4- 5 tuổi.
3- Giả thuyết khoa học:
Nếu giáo viên mầm non biết sử dụng linh hoạt phơng pháp kể chuyện
về bài tập vận động trong giáo dục thể chất cho trẻ 4- 5 tuổi, thì sự phát
triển thể lực ở trẻ sẽ hiệu quả hơn.
4- Đối tợng nghiên cứu:
Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động trong giáo dục thể chất
cho trẻ 4-5 tuổi.
5- Khách thể nghiên cứu:
50 trẻ tại 2 nhóm - lớp mẫu giáo nhỡ ở trờng mầm non Trờng Thi,
Thành phố Vinh (25 trẻ của lớp thực nghiệm - 4A; 25 trẻ của lớp đối chứng
- 4B).


5

40 giáo viên mầm non ở các trờng: Hoa Hồng; Bình Minh;Trờng Thi.
4 hiệu phó chuyên môn ở các trờng: Hoa Hồng; Bình Minh;Trờng
Thi; Quang trung II.

6- Phạm vi nghiên cứu:
Trong khoá luận này chúng tôi chỉ xây dựng và thử nghiệm các giáo
án tiết thể dục có sử dụng linh hoạt phơng pháp kể chuyện về bài tập vận
động dới hình thức theo chủ đề, chủ diểm.
7- Nhiệm vụ nghiên cứu:
7.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Khảo sát thực trạng sử dụng phơng pháp kể chuyện về bài tập vận
động cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
7.3. Xây dựng các giáo án dạy thể dục cho trẻ mẫu giáo nhỡ (có áp
dụng linh hoạt phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động) và tiến hành thử
nghiệm chúng.
7.4. Kết luận và đề xuất khoa học .
8- Phơng pháp nghiên cứu:
8.1. Nghiên cứu tài liệu lý luận.
Mục đích: Làm rõ vai trò, vị trí, ý nghĩa, của phơng pháp kể chuyện
về bài tập vận động đối với sự phát triển của trẻ mầm non.
8.2. Khảo sát bằng bảng hỏi.
Mục đích: Khảo sát việc sử dụng phơng pháp kể chuyện về bài tập
vận động cho trẻ mẫu giáo nhỡ ở các trờng mầm non.
8.3. Phỏng vấn sâu một số giáo viên dạy ở các lớp mẫu giáo nhỡ.
Mục đích: Tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về phơng pháp
kể chuyện về bài tập vận động và việc sử dụng chúng trong giáo dục thể
chất cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
8.4. Quan sát các tiết dạy thể dục cho trẻ mẫu giáo nhỡ ở các trờng
mầm non, tìm hiểu các giáo án dạy thể dục của giáo viên ở các lớp mẫu
giáo nhỡ tại các trờng mầm non.


6


8.5. Thực nghiệm s phạm
- Thực nghiệm kiểm tra : Mục đích kiểm tra mức độ phát triển ban đầu của
các tố chất vận động (cơ bản Nhanh - Mạnh - Khéo) ở hai lớp ĐC và TN.
- Thực nghiệm hình thành:
Mục đích: Thử nghiệm các giáo án có sử dụng linh hoạt phơng pháp
kể chuyện về bài tập vận động trong các tiết thể dục cho trẻ ở lớp thực
nghiệm.
- Thực nghiệm kiểm chứng:
Mục đích: Kiểm tra mức độ phát triển các tố chất vận động cơ bản
(nhanh- mạnh- khéo) sau thời gian thử nghiệm việc sử dụng linh hoạt phơng
pháp kể chuyện về bài tập vận động trong các giáo án thể dục.
8.6. Sử dụng toán thống kê để xử lý kết quả thu đợc.
9- Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu.
9.1. Làm rõ hơn khái niệm và các hình thức sử dụng phơng pháp kể
chuyện về bài tập vận động trong giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.
9.2. Xây dựng một số giáo án thể dục cho trẻ 4-5 tuổi có áp dụng linh
hoạt phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động.
9.3. Làm rõ tính hiệu quả của việc sử dụng linh hoạt phơng pháp kể
chuyện về bài tập vận động cho trẻ 4 - 5 tuổi.


7

Phần II
Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
------------------------Chơng 1. Cơ sở lý luận
1- Sơ lợc về lịch sử vấn đề nghiên cứu.
Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động(PPKCVBTVĐ) là một
trong nhóm phơng pháp dùng lời trong giáo dục thể chất (GDTC) cho trẻ
Mầm non (MN). Tuy nhiên trong nhiều tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam hiện

nay không hoặc rất ít đề cập đến phơng pháp này cả về mặt khái niệm cũng
nh hớng dẫn cách sử dụng trong GDTC cho trẻ MN, mặc dù ý nghĩa của nó
trong tài liệu này hay tài liệu khác đều ít nhiều đề cập đến. Trong "Vun
trồng thể lực cho đàn em nhỏ" PGS.TS Đào Duy Th nhấn mạnh " khi hớng dẫn trò chơi, bài tập thể dục trên theo hình thức kể chuyện qua các hình
tợng con vật trong đời sống, hình ảnh lao động và sinh hoạt của con ngời sẽ
làm cho các em say sa và hình dung dễ dàng động tác hơn" (1994 tr 97).
Hay trong "Thể dục và phơng pháp giáo dục thể chất cho trẻ" Đặng Đức
Thao và Trần Tiên Tiến cũng khuyến khích. "trong quá trình luyện tập có
thể dùng thơ, ca, câu chuyện để gây hứng thú cho trẻ, dẫn dắt trẻ mô phỏng,
bắt chớc các hành động, động tác theo ý đồ của giáo viên" (1998).
Trong các tài liệu nớc ngoài (đặc biệt là Liên Xô cũ) có nhiều tác giả
đề cập đến PPKCVBTVĐ, tuy vậy mức độ còn hạn chế, cha đủ để ngời đọc
nhận thức sâu sắc và sử dụng linh hoạt phơng pháp này. Ví dụ: Trong giáo
trình giảng dạy Đại học "Lý luận và phơng pháp giáo dục thể chất cho trẻ
MN" (1985) A.V.Kenheman và Đ.V.Khukhlaieva coi " PPKCVBTVĐ t ơng tự nh việc sử dụng một câu chuyện cổ tích ngắn (1,5 - 2 phút) nhằm
khơi gợi ở trẻ sự tởng tợng tái tạo, phát triển khả năng quan sát tất cả các b-


8
ớc của vận động và các tình huống của hành động chơi, kích thích sự tích
cực vận động của trẻ. Thay vào chỗ giải thích đơn điệu về trò chơi, phân vai
chơi, luật chơi (hay bài tập vận động) giáo viên có thể trình bày nội dung và
luật chơi bằng một câu chuyện kể ngắn gọn". Rõ ràng, cách trình bày nh
thế cha đủ để ngời đọc hiểu thế nào PPKCVBTVĐ và vì thế hạn chế khả
năng sử dụng phơng pháp này vào thực tiễn giáo dục MN.
Tóm lại: Các tác giả trong và ngoài nớc cha thực sự quan tâm đến
PPKCVBTVĐ trong giáo dục thể chất cho trẻ MN
2- Ngôn ngữ và vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển trẻ em.
2.1- Khái niệm và chức năng của ngôn ngữ.
+ Khái niệm về ngôn ngữ:

Ngôn ngữ là một hiện tợng xã hội - lịch sử. Do sống và làm việc
(hoạt động) cùng nhau nên con ngời có nhu cầu phải giao tiếp (thông báo)
với nhau và nhận thức (khái quát hoá) hiện thực. Quá trình lao động (hoạt
động) cùng nhau, quá trình giao tiếp và nhận thức không tách rời nhau: để
lao động phải thông báo cho nhau về sự vật, hiện tợng nào đó, nhng để
thông báo lại phải khái quát sự vật, hiện tợng đó vào một lớp, một nhóm các
sự vật, hiện tợng nhất định cùng loại. Ngôn ngữ ra đời và thoả mãn đợc nhu
cầu thống nhất các hoạt động đó.
Tóm lại: Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu từ ngữ đặc biệt, dùng làm
phơng tiện để giao tiếp và làm công cụ để t duy.[1]
+ Chức năng của ngôn ngữ:
Con ngời có thể truyền đạt kinh nghiệm của mình cho ngời khác và
sử dụng kinh nghiệm của ngời khác vào hoạt động của mình từ đó nhận
thức và điều khiển đợc những quy luật của tự nhiên, xã hội và bản
thân.chính là nhờ có ngôn ngữ.
Ngôn ngữ có 3 chức năng cơ bản sau đây:


9
- Chức năng chỉ nghĩa: Ngôn ngữ dùng để chỉ định sự vật, hiện tợng làm
vật thay thế cho chúng. Nói cách khác: ý nghĩa của sự vật, hiện tợng có thể
tồn tại, khách quan hoá một lần nữa và có thể di chuyển đi nơi khác, làm
cho con ngời có thể nhận thức ngay cả khi chúng không có mặt (tức ngoài
phạm vi cảm tính). Các kinh nghiệm nhận thức loài ngời đợc cố định lại, đợc tồn tại và truyền đạt lại cho các thế hệ sau là nhờ ngôn ngữ. Chính vì
vậy, chức năng chỉ nghĩa của ngôn ngữ còn đợc gọi là chức năng làm phơng
tiện tồn tại, truyền đạt và nắm vững kinh nghiệm lịch sử- xã hội loài ngời.
- Chức năng thông báo (giao tiếp): Ngôn ngữ đợc dùng để truyền đạt
và tiếp nhận thông tin để biểu cảm và nhờ đó thúc đẩy, điều chỉnh hành
động của con ngời.
- Chức năng khái quát hoá: Ngôn ngữ (từ ngữ) không chỉ một sự vật,

hiện tợng riêng lẻ mà chỉ một lớp, một loại (một phạm trù ) các sự vật, hiện
tợng có cùng thuộc tính bản chất. Chính nhờ vậy nó là phơng tiện đắc lực
của hoạt động trí tuệ (tri giác; trí nhớ; t duy.) Hoạt động trí tuệ bao giờ
cũng có tính khái quát và không thể tự diễn ra mà phải dùng ngôn ngữ làm
phơng tiện, công cụ để cố định lại kết quả của hoạt động này.
Chức năng khái quát hoá của ngôn ngữ còn gọi là chức năng nhận
thức hay chức năng hoạt động trí tụê [1]
2.2 Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển trẻ em.
2.2.1- Khái niệm về sự phát triển và sự phát triển thể lực ở trẻ em:
Theo quan điểm triết học sự phát triển là quá trình biến đổi sự vật,
hiện tợng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là quá trình tích luỹ
dần về lợng dẫn tới sự thay đổi về chất ở sự vật, hiện tợng, là quá trình đấu
tranh giải quyết những mâu thuẫn bản chất bên trong sự vật hiện tợng.
Theo các nhà giáo dục học phát triển là quá trình trong đó có sự hình
thành, hoàn thiện, đa dạng hoá, phức tạp hoá các chức năng của con ngời và
sự phát triển mang tính tổng thể. Hai quá trình giáo dục và phát triển khác


10
biệt nhau nhng phụ thuộc vào nhau, diễn ra trong suốt quá trình liên tục
phản ứng và thích ứng với những điều kiện bẩm sinh và môi trờng xã hội
bao quanh [2].
+ Khái niệm về sự phát triển thể lực ở trẻ em.
Phát triển thể lực là quá trình biến đổi hình thức và chức năng của cơ
thể con ngời dới ảnh hởng của giáo dục và điều kiện sống (nếu xem xét ở
một khía cạnh nào đó thì sự phát triển thể lực còn bị ảnh hởng bởi những
yếu tố di truyền.)
Phát triển thể lực đợc hiểu theo hai nghĩa.
-Theo nghĩa rộng:
Phát triển thể lực là quá trình phát triển các tố chất thể lực, tố chất vận

động: Phản xạ nhanh hay chậm, mạnh hay yếu, bền bỉ hay không bền bỉ, mức
độ linh hoạt, khéo léo của cơ thể khi thích nghi với điều kiện sống mới.
- Theo nghĩa hẹp:
Phát triển thể lực là mức độ phát triển cơ thể đợc biểu hiện bằng
những chỉ số sau: Chiều cao ,cân nặng, chu vi vòng ngực, vòng đầu, vòng
tay..phù hợp với yêu cầu của giai đoạn lứa tuổi tơng ứng [5].
Trong thực tiễn ta có thể hiểu sự phát triển thể lực trẻ em nh sau:
Phát triển thể lực ở trẻ em là quá trình biến đổi các tố chất vận động nh:
Sức nhanh, sức mạnh, sức bền,sự khéo léo. phù hợp với điều kiện sống,
phù hợp với hoàn cảnh vận động và yêu cầu của từng giai đoạn lứa tuổi tơng ứng. từ đó tạo điều kiện giúp trẻ hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động
mới hiệu quả hơn.


11
2.2.2- Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển tâm lý ở trẻ mầm non.
*Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển nhận thứcở trẻ MN.
K.Đu Usinxky đã nhận định rằng " Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi
sự phát triển, là vốn quý của mọi tri thức." [4]. Ngôn ngữ là phơng tiện giúp
trẻ nhận thức thế giới xung quanh. Thực tiễn đã chứng minh rằng: Trẻ em
chỉ nhận thức đợc thế giới xung quanh khi có sự giúp đỡ của ngời lớn, bằng
con đờng giao lu với họ. Trong quá trình giao lu (bằng ngôn ngữ là chính)
ngời lớn giúp trẻ phân biệt sự vật này với sự vật khác, biết đợc tên gọi, màu
sắc hình dáng, công dụng và những thuộc tính cơ bản của sự vật, hiện tợng.
Nếu để cho trẻ tự quan sát, tự nhận thức thế giới xung quanh (mà không đợc ngời lớn giải thích, hớng dẫn) thì tri thức thu đợc nhất định sẽ hời hợt,
nông cạn có khi còn bị sai lệch về bản chất.
Ngoài ra, khi nhận biết các sự vật, hiện tợng trẻ dùng từ để gọi tên sự
vật, tên các chi tiết, đặc điểm, tính chất, công cụ của sự vật. Nhờ đó, quá
trình nhận thức sự vật, hiện tợng ở trẻ trở nên sâu sắc hơn, chính xác hơn.
Khi lớn hơn một chút nữa, nhận thức của trẻ đã phát triển hơn. Trẻ
nhận biết không chỉ những sự vật, hiện tợng trực tiếp mà cả gián tiếp. Trẻ

muốn biết về quá khứ, về tơng lai, trẻ muốn biết về công việc và quan hệ
của ngời lớn trong xã hội. Để đáp ứng đợc nhu cầu nhận thức ngày càng
tăng của trẻ, ngời lớn cần phải tổ chức, hớng dẫn cho trẻ tham gia nhiều
hoạt động đa dạng và phong phú. Khi đó ngôn ngữ là công cụ không thể
thiếu đợc để nhận thức thế giới xung quanh.
Khi có vốn ngôn ngữ nhất định, trẻ sử dụng ngôn ngữ nh phơng tiện
hữu hiệu để phát triển nhận thức của mình. Trẻ có thể dùng lời để diễn đạt
những suy nghĩ, những xúc cảm của mình cho ngời khác hiểu, đồng thời trẻ
hiểu đợc nhũng lời chỉ dẫn của ngời lớn. Có thể nói, khi đó các hoạt động
nhận thức của trẻ đợc tăng cờng, hoạt động và giao tiếp đợc tích cực hơn.
Nhờ đó sự hiểu biết của trẻ càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.


12
Kết luận: Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát
triển nhận thức của trẻ.
* Ngôn ngữ đối với việc giáo dục tình cảm cho trẻ mầm non.
Phát triển và hoàn thiện dần ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi mầm non
không những có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nhận thức mà còn có
tác dụng quan trọng trong giáo dục tình cảm ở lứa tuổi này- lứa tuổi bắt đầu
tìm hiểu và lĩnh hội những khái niệm, những quy tắc, những chuẩn mực đạo
đức xã hội. ở lứa tuổi mầm non việc giáo dục tình cảm đạo đức là rất quan
trọng. Trẻ cha hiểu nhiều về cuộc sống, về con ngời cũng nh thế giới xung
quanh, giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ ở lứa tuổi này có ảnh hởng rất lớn
đến sự phát triển đời sống tình cảm mai sau của chúng.
Đối với trẻ mầm non (với hình thức t duy trực quan - hành động là
chủ đạo), ngời lớn cần phải thông qua sự việc, hoàn cảnh và con ngời cụ thể
để tác động vào suy nghĩ, vào tình cảm, hình thành thái độ đúng đắn ở các
em, qua đó giúp các em lĩnh hội đợc những quy tắc đạo đức, những chuẩn
mực hành vi của xã hội. Vì thế, đối với trẻ mầm non ngời ta thờng giáo dục

tình cảm đạo đức thông qua các câu chuyện kể.
Ví dụ: Khi nghe câu chuyện "Ba cô gái" trẻ sẽ nhận ra rằng cô cả và
cô hai không thơng mẹ, chỉ có cô út mới thực lòng thơng mẹ và cuối cùng
cô đợc sống cuộc đời hạnh phúc. Từ đó, trẻ suy nghĩ và hành động sao cho
tốt hơn.
Kết luận: Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục tình cảm
đạo đức cho trẻ.
* Ngôn ngữ đối với sự phát triển hành động ý chí của trẻ mầm non.
*Thế nào là ý chí: Là một phẩm chất nhân cách, ý chí thể hiện năng
lực thực hiện hành động có mục đích, đòi hỏi có sự nỗ lực khắc phục khó
khăn.


13
ý chí đợc coi là mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện cụ thể của
ý thức trong thực tiễn, ở đó con ngời tự giác đợc mục đích của hành động,
đấu tranh động cơ, lựa chọn các phơng pháp vợt qua mọi trở ngại, khó khăn
để thực hiện đến cùng mục đích đề ra. ý chí bao gồm các mặt năng động
của trí tuệ, mặt năng động của tình cảm đạo đức, là hình thức điều khiển,
điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con ngời. Giá trị chân chính của ý chí
không phải chỉ ở cờng độ ý chí mạnh hay yếu mà chủ yếu ở nội dung đạo
đức có ý nghĩa của mục đích mà ý chí nỗ lực vơn tới [1].
* Hành động và hành động ý chí ở trẻ mầm non.
- Hành động ý chí là một hành động có ý thức, có chủ tâm, đòi hỏi sự nỗ
lực khắc phục mọi khó khăn, thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.
Đối với trẻ mầm non các hành động ý chí đúng nghĩa cha nhiều nhng
ngôn ngữ vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc điều khiển hành động (cha
có ý chí, có ý chí) ở chúng.
Trẻ mầm non thờng hành động theo ý thích riêng của mình, nếu gặp
khó khăn không làm đợc chúng thờng bỏ cuộc. Lúc này trẻ cần có sự giúp

đỡ của ngời lớn. Ngời lớn dùng lời ngôn ngữ hớng dẫn trẻ làm và động viên
trẻ thực hiện thành công hành động của mình. Qua đó phát triển ở trẻ tính
mục đích, tính chủ động, sự kiên trì, bền bỉ vợt qua khó khăn, biến những
hành động cha ý chí thành hành động ý chí ở chúng.
Các hành động ý chí của trẻ mầm non hình thành ngày một nhiều dới
tác động của giáo dục và môi trờng sống nh các hành động thực hiện các
yêu cầu của giáo viên, các hoạt động chơi
Để thấy rõ hơn vai trò của ngôn ngữ đối với hành động của trẻ mầm
non, chúng ta xem xét ba giai đoạn cơ bản của một hành động ý chí điển
hình:
- Giai đoạn chuẩn bị: Giai đoạn này gồm các khâu:


14
+ Xác định mục đích, hình thành động cơ, trong giai đoạn này sự đấu
tranh động cơ để chọn lấy một mục đích, một động cơ nổi bật. Việc đấu
tranh động cơ còn diễn ra suốt quá trình hành động.
+ Lập kế hoạch hành động
+ Chọn phơng tiện và phơng pháp hành động
+ Quyết định hành động.
ở giai đoạn này sự có mặt của ngôn ngữ (bên trong và bên ngoài)sẽ
giúp cho các quá trình t duy và hành động diễn ra một cách thuận lợi. Chính
vì vậy, ngôn ngữ giữ vai trò chủ đạo trong giai đoạn này.
- Giai đoạn thực hiện:
Việc chuyển từ quyết định hành động đến hành động là sự thay đổi
về chất vì đó là sự chuyển biến nguyện vọng thành hiện thực. Sự thực hiện
quyết định có thể diễn ra dới hai hình thức
+ Thực hiện hành động bên ngoài
+ Hành động ý chí bên trong (hay kìm hãm các hành động bên
ngoài)

- Giai đoạn đánh giá kết quả của hành động
Giai đoạn này ngôn ngữ đóng vai trò điều chỉnh, điều khiển hành
động theo mục đích đặt ra.
Khi hành động đạt đến mức độ phát triển nào đó con ngời dùng ngôn
ngữ làm công cụ để với mục đích đã định. Khi kết quả hành động phù hợp
với mục đích thì hành động kết thúc. Sự đánh giá thờng đem lại sự hài lòng
thoả mãn hoặc cha thoả mãn, cha hài lòng, sự đánh giá có thể trở thành
động cơ kích thích hoạt động tiếp theo.
Ba giai đoạn trên của một hành động ý .. có liên quan hữu cơ nối tiếp
nhau và bổ sung cho nhau.


15
Nh vậy cả ba giai đoạn của hành động ý chí đến có sự tham gia của
ngôn ngữ, ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng và thiết yếu không thể thiếu đợc của hành động ý chí.
Tóm lại: Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển tâm
lý của trẻ em, ngôn ngữ giúp trẻ giao tiếp đợc với thế giới xung quanh,
giúp trẻ đáp ứng đợc những nhu cầu nhận thức, tình cảm ngày càng tăng.
Ngoài ra ngôn ngữ còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, điều
khiển các hành động cha ý chí và ý chí của trẻ.
2.2.3. Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển thể lực ở trẻ em
Giáo dục thể chất ở trờng mầm non là quá trình tác động chủ yếu vào
cơ thể trẻ, tổ chức cho trẻ em vận động, rèn luyện cơ thể, giữ vệ sinh, tổ
chức các chế độ sinh hoạt hợp lý nhằm bảo vệ và làm cho cơ thể phát triển
một cách hoàn thiện, cân đối, sức khoẻ tăng cờng, đạt đến trạng thái hoàn
thiện về mặt thể chất [5].
Để phát triển thể chất cho trẻ cần sử dụng kết hợp nhiều phơng tiện
khác nhau: Yếu tố vệ sinh, yếu tố thiên nhiên và bài tập thể dục, (trong đó
các bài tập vận động đóng vai trò quan trọng). Hàng ngày ngời lớn dùng
ngôn ngữ để hớng dẫn trẻ em thực hiện tốt các yêu cầu về rèn luyện thể lực,

góp phần làm cho cơ thể trẻ phát triển toàn diện, đặc biệt trong giờ học thể
dục, các vận động cơ bản và các trò chơi vận động... Ngoài ra, chế độ dinh
dỡng, vệ sinh và các yếu tố thiên nhiên cũng góp phần quan trọng trong sự
phát triển thể lực của trẻ. Ngời lớn cần dùng ngôn ngữ để động viên, kích
thích trẻ thực hiện tốt chế độ vệ sinh, dinh dỡng hợp lý, hớng dẫn trẻ luyện
tập với các yếu tố thiên nhiên để và tẩy rửa các vết bẩn tăng cờng sức đề
kháng nhằm phát triển cơ thể một một cách rắn chắc và khoẻ mạnh.
* Chúng ta có thể thấy rõ hơn điều đó khi xem xét vai trò của ngôn ngữ đối
với sự hình thành kỹ năng- kỹ xảo vận động - một trong những nhiệm vụ cơ
bản trong giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.


16
Hình thành kỹ xảo vận động là quá trình hình thành nhiều động hình,
động lực trong sự tác động qua lại của hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai.
Trong đó hệ thống tín hiệu thứ hai giữ vai trò chủ đạo. Cụ thể:
Quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động của trẻ trải qua ba
giai đoạn. Giai đoạn 1: Hình thành kỹ năng vận động; Giai đoạn 2: Học sâu
từng phần của bài tập vận động, giai đoạn 3 củng cố và hoàn thiện kỹ năng
vận động hình thành kỹ xảo vận động
Trong quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cho trẻ mẫu
giáo ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng. Tuy ngôn ngữ không trực tiếp
tham gia vào quá trình vận động của trẻ nhng nó lại là yếu tố không thể
thiếu đợc trong quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động của trẻ.
Ngôn ngữ giúp trẻ hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về ý nghĩa của việc thực hiện
các vận động đó, về cách tiến hành vận động (kỹ thuật thực hiện vận động).
Giai đoạn 1: Hình thành kỹ năng vận động ban đầu (tức là dạy cho trẻ làm
quen với các vận động mới). Để trẻ biết và nhớ đợc tên các bài tập vận động
không có cách nào khác là cô giáo phải nhắc tên các tài tập. Để trẻ thực
hiện đợc vận động đó và nắm đợc kỹ thuật của bài tập đó cô giáo cũng phải

giải thích, hớng dẫn kỹ thuật thực hiện bài tập vận động . Nếu không có
ngôn ngữ thì giáo viên không thể hớng dẫn cho trẻ đợc và trẻ cũng khó thực
hiện đợc bài tập vận động. Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá
trình hình thành kỹ năng vận động mới.
Giai đoạn 2: Học sâu từng phần của bài tập vận động (kỹ thuật của bài tập
vận động)
Giai đoạn này đòi hỏi trẻ tập trung chú ý đến các chi tiết kỹ thuật của
bài tập vận động. Làm sao để trẻ biết dùng sức hợp lý khi thực hiện các
phần của bài tập và biết cách phối hợp các động tác giữa tay và chân? ở
giai đoạn này cô giáo hớng dẫn cho trẻ các phần cơ bản của bài tập. Để
phối hợp đợc giữa các phần trên cơ thể cô giáo phải làm t thế, vừa làm mẫu


17
vừa dùng lời (ngôn ngữ) giải thích, nhấn mạnh những chi tiết kỹ thuật cho
trẻ ghi nhớ.
Giai đoạn 3: Hoàn thiện kỹ năng vận động (hình thành kỹ xảo vận động)
Giai đoạn này trẻ đã nắm vững kỹ thuật của bài tập vận động nhng
cần tiếp tục hoàn thiện các chi tiết kỹ thuật. Cho trẻ tập luyện nhiều lần vận
động đã học để trở thành kỹ xảo vận động. Giai đoạn này dễ gây chán nản
cho trẻ vì thực hiện bài tập một cách liên tục không biến đổi. Nếu cô giáo
không khuyến khích, động viên (đặc biệt là khen trẻ) thì trẻ khó mà thực
hiện đợc. Vì thế sự tham gia của ngôn ngữ sẽ giúp trẻ trong suốt quá trình
luyện tập các bài tập vận động ở giai đoạn này.
Kết luận: Sự hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động ở trẻ phụ thuộc
phần lớn vào giáo viên. Giáo viên phải luôn gần gũi với trẻ, hớng dẫn, động
viên trẻ thực hiện bài tập vận động một cách tốt nhất. Nh vậy, trong quá
trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động của mần non ngôn ngữ đóng vai
trò hết sức quan trọng góp phần to lớn trong việc giáo dục trẻ thành ngời
phát triển toàn diện.

3-Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động.
3.1-Bài tập vận động: khái niệm, bản chất, nội dung, hình thức, phân
loại.
3.1.1.Khái niệm:
Theo định nghĩa của A. B Kehemane và A.B Khukhlaieva [10].
Bài tập vận động là những cử động, thao tác vận động và cả những
dạng phức hợp của vận động (trò chơi vận động) đợc lựa chọn nh là phơng
tiện để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục thể chất.
Thuật ngữ "Bài tập" đợc sử dụng để chỉ sự lặp đi lặp lại của vận động.
3.1.2 Sự ra đời của các bài tập vận động.
Các bài tập vận động xuất hiện khi con ngời ý thức đợc sự cần thiết
của việc chuẩn bị thể lực cho cuộc sống và hoạt động lao động của mình (ví


18
dụ: Săn bắn, chế tạo công cụ, lao động ). Kinh nghiệm sống giúp họ nắm
bắt đợc mối quan hệ giữa kết quả của cuộc săn bắn với sự chuẩn bị thể lực
từ trớc cho các thợ săn, từ đó họ coi trọng hơn việc truyền thục cho thế hệ
sau những kinh nghiệm vận động đã tích luỹ đơc. Trong quá trình lặp đi lặp
lại nhiều lần các vận động đã phát triển kỹ năng ném trúng đích, mở rộng
tầm nhìn, tăng sức lực và phát triển những tố chất thể lực khác ở họ.
Tóm lại, bài tập vận động bắt đầu hình thành từ các vận động lao
động. Hoạt động chiến tranh, khoa học, nghệ thuật có ảnh hởng rất lớn đến
sự phát triển tiếp theo của bài tập vận động.
Tiếp theo ngời ta nắm bắt đợc mối quan hệ giữa các hình thức hành
động, lao động với các bài tập vận động, từ đó cho phép phân tích hoạt
động vận động phức hợp thành các bài tập vận động đơn lẻ (chạy, nhảy,
ném và sử dụng chúng vào mục đích giáo dục thể chất cho thế hệ sau).
Trong quá trình phát triển lý luận và thực tiễn giáo dục thể chất đã
hình thành những bài tập đặc biệt dành cho các nhóm cơ khác nhau và cả

những trò chơi thể thao (đá bóng, bóng chuyền ). Hiện nay, có một số l ợng lớn các bài tập vận động và sự phát triển của nó còn tiếp tục.
3.1.3. Nội dung và hình thức của bài tập vận động:
+ Nội dung:
Nội dung bài tập vận động bao gồm các phần (các bớc) của bài tập, các
quá trình tâm lý, sinh lý, sinh hoá, vật lý ) diễn ra trong cơ thể khi thực hiện
bài tập vận động và kết quả tác động của quá trình đó đến ngời tập.
+Hình thức: Hình thức của bài tập vận động bao gồm hình thức bên trong
và hình thức bên ngoài.
-Hình thức bên ngoài của bài tập vận động là cái quan sát đợc thể
hiện ở những mối quan hệ không gian và sự tiêu hao sức lực trong quá trình
thực hiện bài tập vận động.


19
-Hình thức bên trong của bài tập vận động biểu hiện ở mối quan hệ giữa
các quá trình diễn ra trong cơ thể khi thực hiện bài tập vận động. (sự phối hợp
giữa các quá trình tâm lý, sinh lý, sinh hoá ). Hình thức bên trong của bài
tập vận động trong từng trờng hợp cụ thể khác nhau thì khác nhau. Ví dụ: Khi
chạy sẽ khác nhảy cho nên cấu trúc bên trong của các bài tập ấy sẽ khác nhau.
Nội dung và hình thức của bài tập vận động có liên quan với nhau.
Nội dung giữ vai trò chủ yếu hơn so với hình thức, nội dung là phần linh
hoạt hơn, phần không ngừng thay đổi của bài tập vận động - Ví dụ: Chạy
với các tốc độ khác nhau (các thành phần của nội dung) sẽ xuất hiện khác
nhau, các yếu tố hợp thành kỹ thuật chạy: độ dài bớc chạy, vị trí thân ngời
(là các thành phần của hình thức) cũng sẽ khác nhau. Tuy nhiên hình
thức cũng ảnh hởng đến nội dung. Ví dụ: Sự xuất hiện cụ thể các tố chất vận
động này hay tố chất vận động khác khi thực hiện bài tập vận động đều do ảnh
hởng của kỹ năng, kỹ xảo vận động (thành phần của hình thức). Nếu thực hiện
đúng cách vung tay khi ném xa sẽ tăng độ xa của vật ném.
Duy trì tơng quan giữa nội dung và hình thức của bài tập vận động là

một trong những vấn đề quan trọng của quá trình giáo dục thể chất.
3.1.4. Kỹ thuật của bài tập thể dục
Kỹ thuật của bài tập thể dục là cách thức thực hiện các bài tập thể
dục, nhờ đó nhiệm vụ vận động đợc giải quyết hợp lý và có hiệu quả nhất.
Kỹ thuật các bài tập thể dục không ngừng thay đổi và hoàn thiện. Sự hoàn
thiện kỹ thuật và thiết lập những hình thức mới của các bài tập thể dục
nhằm mục đích đạt kết quả cao, nâng cao sự chuẩn bị thể lực của ngời tập,
khám phá những quy luật sinh cơ học của vận động nhờ ứng dụng những
thiết bị thể dục, thể thao hoàn thiện hơn.
Kỹ thuật bài tập vận động bao gồm các khâu.
+ Nguyên lý kỹ thuật: là những thành tố chính của bài tập, cần thiết
dể giải quyết nhiệm vụ bài tập vận động. Nếu thiếu bất cứ một thành tố nào


20
của nguyên lý kỹ thuật thì bài tập đó không thể thực hiện đợc hoặc bài tập
sai. Ví dụ: Nhảy cao có đà: Các thành tố chính của bài tập là chạy (chân bớc tay vung) "bay" qua dây, "hạ" xuống mặt đất.
+ Khâu cơ bản của kỹ thuật: Là phần quan trọng và quyết định nhất
của cơ chế cơ bản của bài tập: Ví dụ trong nhảy cao có đà thì khâu cơ bản
của kỹ thuật là dậm nhảy kết hợp với chân đà lăng cao và nhanh ("bay" qua
dây). Khâu này thực hiện trong khoảng thời gian ngắn và đòi hỏi sự gắng
sức hơn của cơ bắp.
+ Các chi tiết kỹ thuật: là những đặc điểm thứ yếu của bài tập. Những
đặc điểm này có thể thay đổi mà không ảnh hởng đến cơ chế cơ bản của bài
tập (thờng là t thế cuối cùng của bài tập).
Chi tiết kỹ thuật của bài tập có thể khác nhau ở những trẻ khác nhau,
đa số các trờng hợp chúng phụ thuộc vào đặc điểm chức năng và thể hình
của cá nhân trẻ, vào điều kiện thực hiện bài tập vận động.
3.1.5. Phân loại bài tập vận động
Dựa trên những cơ sở sử dụng những phơng tiện và phơng pháp tiến

hành các bài tập vận động ngơì ta chia các bài tập vận động thành bốn
nhóm. Mỗi nhóm bài tập vận động có giá trị đặc trng và đợc chia thành các
nhóm nhỏ hơn.
+ Các bài tập thể dục
Đặc điểm đặc trng của bài tập thể dục là sự tác động có chọn lọc lên
các bộ phận cơ thể: lên các nhóm cơ, bắp, khớp, dây chằng và tác động lên
những hoạt động khác của cơ thể. Các hệ cơ quan, trạng thái của chúng (co,
giãn cơ bắp), khả năng xác định trờng lực, sự đa dạng của bài tập, sử dụng
dụng cụ tập theo nhạc, hội thao thể dục. Những đặc điểm trên của bài tập
vận động cho phép sử dụng chúng để luyện tập cho tất cả các lứa tuổi với sự
chuẩn bị thể lực và tình trạng sức khoẻ khác nhau.
+ Bài tập thể thao


21
Đó là hệ thống các bài tập thể chất nhằm mục đích đạt thành tích cao
khi tham gia vào cuộc thi.
Thể thao đòi hỏi những yêu cầu thể lực và sức mạnh tinh thần của ngời luyện tập, do các bài tập thể thao chỉ đợc phép tiến hành ở các độ tuổi
nhất định và trong điều kiện phù hợp với phát triển và chuẩn bị thể lực
Với trẻ ở cuối độ tuổi mầm non ngời ta áp dụng những bài tập thể thao đơn
giản nh đi xe đạp 4 bánh, tập bơi.
+ Các trò chơi vận động
Các trò chơi vận động đợc phân biệt với các bài tập vận động bởi đặc
điểm tổ chức các hoạt động của chúng.
Trong trò chơi vận động hoạt động của trẻ đợc tổ chức trên cơ sở nội
dung hoặc nhiệm vụ của trò chơi đã đợc dự tính trớc.
Hoạt động của trò chơi vận động mang đặc điểm tổng hợp và đợc xây
dựng dựa trên sự kết hợp các thao tác vận động (chạy, nhảy.)
+ Các bài tập vận động sử dụng trong du lịch - thể thao.
Các bài tập vận động sử dụng trong lĩnh vực này nhằm mục đích

củng cố kỹ năng vận động và phát triển tố chất vận động trong điều kiện tự
nhiên (thiên nhiên). Ngời ta tổ chức cho trẻ nhỏ những cuộc dạo chơi kết
hợp sử dụng các bài tập vận động
Đối với mần non các bài tập thể dục và trò chơi vận động là những
bài tập vận động cơ bản [5].


22
3.2. Khái niệm, vị trí của phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động
3.2.1. Khái niệm: Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động cho 4- 5
tuổi là quá trình cô giáo sử dụng các câu chuyện có liên quan đến bài tập
vận động để kể cho các cháu nghe nhằm tăng sự hấp dẫn của giờ học hay
trò chơi vận động, làm chính xác hoá các động tác cơ bản, giúp trẻ tởng tợng tốt hơn tình huống chơi hay vận động, kích thích sự cố gắng thực hiện
động tác của trẻ.
Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động đựoc sử dụng dới ba hình
thức cơ bản:
a) Dạy các bài tập vận động cho trẻ dới hình thức tiết học theo chủ đề,
chủ điểm, có nghĩa là tiết học thể dục đợc xây dựng bằng một câu chuyện kể.
Xuyên suốt từ phần mở đầu, phần khởi động, trọng động và hồi tỉnh.
b) Dạy vận động cơ bản khó bằng cách lồng vào một câu chuyện hình thức này giúp trẻ thực hiện bài tập một cách dễ dàng, nắm bắt đợc
chính xác các kỹ thuật của bài tập. Hình thức này thờng áp dụng vào thời
gian ngoài tiết học
c) Sử dụng chuyện kể vào đầu tiết học hoặc trò chơi vận động để gây
hứng thú và kích thích sự tích cực hoạt động của trẻ.
3.2.2. Vị trí của phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động
Trong giáo dục thể chất mầm non ngời ta sử dụng nhiều phơng pháp
khác nhau, có thể chia thành 3 nhóm chính sau đây [5]:
a) Nhóm phơng pháp trực quan
Cơ sở của nhóm phơng pháp này là những càm giác, tri giác trực tiếp
của trẻ về bài tập vận động.

Nhóm phơng pháp này gồm:
- Phơng pháp làm mẫu
- Phơng pháp mô phỏng
- Phơng pháp bắt chớc


23
- Phơng pháp sử dụng vật chuẩn thính giác và thị giác
- Phơng pháp sử dụng tài liệu trực quan
Khi hớng dẫn các bài tập vận động cho trẻ cô giáo cần phối hợp các
phơng pháp nói trên một cách linh hoạt, sao cho các bài tập vận động mẫu
của cô chính xác, rõ ràng, đẹp và hấp dẫn đối với trẻ.
b) Nhóm phơng pháp thực hành
Phơng pháp này đợc tiến hành dới nhiều hình thức nh luyện tập, trò
chơi, thi đua.
Sử dụng nhóm phơng pháp thực hành để rèn luyện và cũng cố kỹ
năng, kỹ xảo vận động của trẻ. Nhờ đó phát triển cảm giác vận động của cơ.
Khi trẻ thực hiện bài tập vận động cô giáo có thể dễ dàng quan sát, nhận xét
và đánh giá việc luyện tập của trẻ, từ đó kịp thời phát hiện, sửa sai cho trẻ
theo yêu cầu từng độ tổi.
c) Nhóm phơng pháp dùng lời
Sử dụng phơng pháp dùng lời giúp trẻ quan sát bài tập vận động một
cách có mục đích, hiểu sâu hơn các bớc thực hiện bài tập vận động, tạo điều
kiện cho trẻ tiếp thu bài tập vận động chính xác và đầy đủ hơn. Khi sử dụng
nhóm phơng pháp dùng lời yêu cầu ngôn ngữ của cô phải có sức truyền cảm
rõ ràng, mạch lạc và giàu hình ảnh.
Gồm các phơng pháp sau:
Phơng pháp gọi tên bài tập vận động
Phơng pháp miêu tả bài tập vận động
Phơng pháp giải thích bài tập vận động

Phơng pháp chỉ dẫn bài tập vận động
Phơng pháp đàm thoại về bài tập vận động
Phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động
Nh vậy phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động nằm trong nhóm
phơng pháp dùng lời


24

3.3. Tính tự kỹ trung tâm ở trẻ 4 - 5 tuổi và vai trò của phơng pháp kể
chuyện về bài tập vận động trong giáo dục thể chất cho mầm non
3.3.1. Tính tự kỹ trung tâm ở trẻ 4 - 5 tuổi
Jean Pieget gọi là "egoxentrisme", tức là tự lấy mình làm trung tâm,
tức là luôn đứng vị trí của mình mà nhìn nhận sự vật, dù là sự vật tự nhiên,
ngời khác, hay bản thân. Từ đó cũng có thể dịch là tính tự kỷ trung tâm.
Chữ tự kỷ ở đây không mang tính đạo đức nh trong ích kỷ, vị kỷ, mà cần
hểu theo quan điểm lôgíc, hiểu về mặt nhận thức. Đây là một tình trạng bất
phân, hoá nhập bản thân vào sự vật, vào ngời khác, hoá nhập những thuộc
tính khách quan của sự vật với những cảm nghĩ chủ quan. Do tính tự kỷ ấy
trẻ em không nhận thức đợc cái chủ quan và cái khách quan, hiện thực chỉ
dàn trải trên một bình diện duy nhất. Vì thế trẻ em cho rằng sự vật cứ theo
những cảm nghĩ của mình mà chuyển biến. Hệ quả là chúng cho rằng sự vật
đều có ý đồ tình ý nh con ngời và còn cho rằng chúng đợc tạo ra do con ngời hay một đấng linh thiêng nào đó theo những ý đồ và kế hoạch nhất
định[11]. Trẻ em trớc 6 tuổi nói chung và 4 - 5 tuổi nói riêng khác với các
lứa tuổi khác đều tin vào những nhân vật trong truyện kể, đặc biệt là truyện
cổ tích. Vì thế trong giáo dục trẻ trớc 6 tuổi (Giáo dục gia đình và nhà trờng) đều sử dụng linh hoạt phơng pháp kể chuyện, và giáo dục thể chất cho
trẻ mầm non cũng không nằm ngoài quy luật đó.
3.3.2. Vai trò của phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động trong giáo
dục thể chất cho trẻ mầm non.
Trong suy nghĩ của trẻ mầm non, kể chuyện mở ra một thế giới vô

cùng mới mẻ và hấp dẫn - thế giới của những nhân vật huyền thoại. Trẻ nh
đợc sống cùng các nhân vật huyền thoại ấy, trẻ tỏ ra say sa cùng diễn biến
của câu chuyện.
Trong giáo dục thể chất ở các trờng mầm non, giáo viên thờng quan
niệm rằng chỉ cần dùng các phơng pháp nh gọi tên bài tập vận động, miêu


25

tả bài tập vận động, giải thích bài tập vận động, chỉ dẫn bài tập vận động,
đàm thoại về bài tập vận động là đủ để hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận
động và phát triển các tố chất vận động.
Vì vậy, từ trớc đến nay các giáo viên mầm non không biết và không sử
dụng đến phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động. Nhng nếu xem xét kỹ
hơn, tất cả các phơng pháp: gọi tên bài tập vận động; miêu tả bài tập vận
động; giải thích bài tập vận động, chỉ dẫn bài tập vận động, đàm thoại về bài
tập vận động chỉ dạy trẻ một bài tập vận động (Ví dụ: ném trúng đích thẳng
đứng), chứ không thể dạy một loạt bài tập vận động. Ngoài ra khi sử dụng
chúng vào qúa trình giáo dục thể chất không thu hút sự chú ý của trẻ. Tiết
học thể dục trở nên cứng nhắc, gò bó, khô khan, mang tính rập khuôn, nặng
về kỹ thuật. Trẻ có cảm giác nh mình đang phải học một cách thực sự - điều
này trái với đặc điểm tâm - sinh lý của trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Khi áp dụng linh hoạt phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động tiết
học thể dục sẽ diễn ra một cách nhẹ nhàng, thoải mái, trẻ có cảm giác nh
mình đang đợc chơi chứ không phải đang học. Ngoài ra, phơng pháp kể
chuyện về bài tập vận động còn đợc áp dụng xuyên suốt cả 3 giai đoạn dạy
vận động cho trẻ, có thể sử dụng dạy không chỉ cho một bài tập vận động
mà cả một loạt bài tập vận động (tiết thể dục; trò chơi vận động).
Vì thế: áp dụng linh hoạt phơng pháp kể chuyện về bài tập vận động
sẽ đem lại hiệu quả cao cho quá trình giáo dục thể chất mầm non.



×