Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Khái quát về an sinh xã hội.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.44 KB, 30 trang )

Bài tiểu luận: Tài Chính Công
Lời mở đầu
uộc sống ngày càng phát triển, ngày càng tiến bộ, con người ngày càng
có cuộc sống đầy đủ, phong phú hơn, song quy luật “sinh lão bệnh tử”
không chừa một ai, cuộc sống luôn luôn tồn tại những khó khăn, rủi ro
khó lường từ các hoạt động của con người, từ thiên nhiên, dịch bệnh, các quá trình
phát triển kinh tế - xã hội...Điều đó tác động xấu đến chất lượng cuộc sống của
con người, để tồn tại và phát triển con người đã có nhiều biện pháp để khắc phục
khó khăn. An sinh xã hội (ASXH) ra đời đã ngăn chặn và hạn chế bớt những khó
khăn, rủi ro trên.
C
Truyền thống tương trợ, hỗ trợ, san sẻ nhau đã xuất hiện từ xa xưa lúc con người
cùng nhau săn bắt, hái lượm để tồn tại, cùng nhau chiến đấu với thú dữ, thiên tai,
và cho đến ngày nay trước những biến cố, rủi ro của cuộc sống, tinh thần ấy vẫn
được phát huy mạnh mẽ và ngày càng có những hình thức đa dạng như: bảo hiểm
xã hội, trợ cấp xã hội, trợ cấp gia đình, các chương trình xoá đói giảm nghèo, các
quỹ tiết kiệm xã hội...Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội
luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt
đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội
và phát triển bền vững của đất nước.
Vậy an sinh xã hội (ASXH) là gì? Thực trạng ASXH ở nước ta như thế nào? Còn
những hạn chế, tiêu cực gì trong ASXH? Vai trò của chính phủ như thế nào trong
việc giúp cuộc sống của người dân được nâng cao hơn, đảm bảo công bằng
hơn?...Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp từ những tài liệu trên sách, báo,
internet...và những gì thấy được ở thực tế, nhóm tiểu luận sẽ giải đáp những câu
hỏi trên, đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp trong việc thực hiện an sinh xã
hội được tốt hơn, công bằng hơn.
Song kiến thức là bao la, thực tế lại là một bí ẩn khó có thể khám phá hết mọi khía
cạnh, những hiểu biết của chúng em lại còn hạn chế nên khó có thể tránh được
thiếu sót trong quá trình viết bài này. Rất mong thầy và các bạn góp ý thêm để bài
tiểu luận hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!


Phần 1: Khái quát về An Sinh Xã Hội ( ASXH)
Trang 1
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
1. Khái niệm
Theo tiếng Anh, ASXH thường được gọi là Social Security.Theo nghĩa chung nhất,
Social Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong
hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn
khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có
việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống
thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già…. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu
là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao
động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng
lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người
tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên tai, dịch hoạ…Theo chúng
tôi, ASXH mà chúng ta đang nói tới, nên được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm
Social Security này. Bên cạnh khái niệm này, từ những cách tiếp cận khác nhau, một
số nhà khoa học đưa ra những khái niệm rộng- hẹp khác nhau về ASXH.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng: ASXH là sự bảo vệ của xã hội
đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm
chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây
ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết;
đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Như vậy, về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho
các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công
cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy
mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.
Việc có một hệ thống an sinh xã hội có thể làm thay đổi cuộc sống của mọi người
theo chiều hướng tốt lên cũng như không có một hệ thống an sinh xã hội cũng làm
thay đổi cuộc sống của họ theo chiều hướng xấu đi.
Hệ thống an sinh xã hội của mỗi nước có tác động rất lớn đến an sinh khu vực và

thậm chí là cả thế giới.
2. Các bộ phận cấu thành của ASXH
2. 1- Bảo hiểm xã hội
Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH. Có thể nói, không có BHXH
thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
khi họ mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả
năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài
chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần bảo
đảm an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo
đảm an toàn xã hội.
Trang 2
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro
giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia phải đóng góp tạo nên
một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ
điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ
được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia, thường là sự chia sẻ
giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước;
đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử
dụng của Quỹ được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng
chế độ BHXH; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không
liên quan đến tài sản của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ
lệ với thu nhập trước khi hưởng BHXH…
2.2- Trợ giúp xã hội
Đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh
sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bất
hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối thiểu của
bản thân và gia đình.
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền hoặc

bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ có thể phát
huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa nhập trở lại với
cuộc sống của cộng đồng.
2.3- Trợ cấp gia đình
Trong hệ thống ASXH của nhiều nước quy định chế độ BHXH dựa trên
những nhu cầu đặc biệt và có những chi phí bổ sung gắn với gia đình.
Những phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng cơ cấu thuế để gắn với
trách nhiệm gia đình. Người không có con phải nộp thuế cao hơn những người có
con; người ít con phải nộp thuế nhiều hơn người đông con…
2.4- Các quỹ tiết kiệm xã hội
Ngoài BHXH, trong hệ thống ASXH của nhiều nước có tổ chức các quỹ tiết
kiệm dựa trên đóng góp cá nhân.
Những đóng góp được tích tụ dùng để chi trả cho các thành viên khi sự cố
xảy ra. Đóng góp và khoản sinh lời được chi trả một lần theo những quy định.
Từng cá nhân nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời, không chia
sẻ rủi ro cho người khác…
2. 5. Các dịch vụ xã hội được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng
Trang 3
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
Trợ cấp cơ bản cho mọi cư dân, hoặc tất cả những người đã từng làm việc
trong một khoảng thời gian nhất định.
rợ cấp này không liên quan đến tài sản trước đó của người thụ hưởng; các
chế độ được chi trả từ ngân sách Nhà nước.
2.6.Trách nhiệm từ chủ sử dụng lao động
Thường chỉ là hệ thống tai nạn nghề nghiệp hoặc hệ thống đền bù cho người
lao động.
Chủ yếu liên quan đến tai nạn tại nơi làm việc và bệnh nghề nghiệp.
Trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với chăm sóc y tế và bồi thường
tuỳ theo mức độ tai nạn và bệnh nghề nghiệp.
Có thể bao gồm một phần để chi trả chế độ cho người lao động trong thời

gian ngừng việc (nằm trong chế độ BHXH).
2.7. Dịch vụ xã hội khác
3. Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội
Theo khái niệm an sinh xã hội ở trên, có thể thấy:
+ ASXH trước hết đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của
mình.
+ Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các biện pháp công cộng.
+ Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội
trước những biến cố, những “ rủi ro xã hội” dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập….
Như vậy, có thể nói, bản chất sâu xa của ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập
và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là thông qua
các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội
và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Có thể thấy rõ bản chất của
ASXH từ những khía cạnh sau:
3.1 ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên hợp quốc
thừa nhận.
Để thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của ASXH là
tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả mọi thành viên
của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng
chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên nhân khác nhau, như
Trang 4
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
ốm đau, thương tật, già cả… gọi chung là những biến cố và những “rủi ro xã hội”.
Để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ
trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều hình thức,
phương thức và các biện pháp khác nhau.
ASXH, như đã nêu, có nội dung rất rộng lớn, nhưng tập trung vào ba vấn đề chủ
yếu:
Thứ nhất, là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự bảo đảm, đó là sự BHXH. Có thể
nói BHXH là xương sống của hệ thống ASXH. Chỉ khi có một hệ thống BHXH hoạt

động có hiệu quả thì mới có thể có một nền ASXH vững mạnh.Thông qua các trợ
cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu nhập bù đắp hoặc thay thế cho
những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong những trường hợp họ bị giảm hoặc
mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Thứ hai, là sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động và
các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao động, duy trì
và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con
người, kể cả phát triển bản thân con người.
Thứ ba, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…) cho những
người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự giúp
đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình… ASXH cũng khuyến khích, thậm chí bao
quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch vụ đi lại…
Hệ thống ASXH hiện đại phân phối lại tiền bạc, của cải và các dịch vụ xã hội có lợi
cho những nhóm người “yếu thế” hơn (hiểu một cách tương đối, biện chứng nhất –
TG) trong cộng đồng xã hội.
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các
thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.
3.2 ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp.
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác nhau… là
những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội. Nhưng vượt lên trên tất
cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo đảm mọi mặt để phát huy đầy đủ
những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo…
ASXH tạo cho những người bất hạnh, những người kém may mắn hơn những người
bình thường khác có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục
những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”, có cơ hội để phát triển, hoà nhập vào cộng
đồng. ASXH kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả những người
giàu và người nghèo; người may mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới
Trang 5
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
những chuẩn mực của Chân – Thiện – Mỹ. Nhờ đó, một mặt có thể chống thói ỷ lại

vào xã hội; mặt khác, có thể chống lại được tư tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai
nhà ấy rạng”… ASXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người không phân biệt
chính kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng tới
một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.
3.3 ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân
tương ái của cộng đồng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một
trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng,
giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của
con người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh.
3.3.1. ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ xã hội. Trên bình
diện xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp
dân cư. Trên bình diện kinh tế, ASXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa
các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều ngang và dọc. Sự
phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự phân phối lại giữa những người khoẻ
mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và người đã nghỉ việc…. Một bên
là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ ASXH hoặc đóng thế, còn bên
kia là những người được hưởng trong các trường hợp với các điều kiện xác định.
Thông thường, sự phân phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ những
nhóm người được quyền hưởng trợ cấp (một “tập hợp đóng” tương đối).
Sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức mua của
những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp, cho những
nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo chiều dọc được thực hiện bằng nhiều kỹ
thuật khác nhau: trực tiếp (thuế trực thu, kiểm soát giá cả, thu nhập và lợi nhuận…)
hoặc gián tiếp (trợ cấp thực phẩm, cung cấp hiện vật hoặc các dịch vụ công cộng
như giáo dục, y tế, nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ em…). Việc phân phối lại theo
chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện cho một “tập hợp mở” tương đối).
3.3.2. ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.Bảo đảm phân phối công
bằng hơn về thu nhập và của cải, tiến tới công bằng xã hội; đạt được hiệu quả sản
xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng và cải thiện về thu nhập giáo dục và y tế cộng
đồng; giữ gìn và bảo vệ môi trường… Đáp ứng những nhu cầu tối cần thiết cho

những người gặp khó khăn, bất hạnh là vấn đề được ưu tiên trong chiến lược phát
triển của thế giới. Những lưới đầu tiên của ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn
cho họ. Sự phát triển sau này của những lưới khác tạo ra sự đa dạng trong ASXH,
giải quyết được những nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong những
trường hợp “rủi ro xã hội”. Tuy nhiên, phải thấy rằng, ASXH không loại trừ được
Trang 6
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
sự nghèo túng mà chỉ có tác dụng góp phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào việc
thúc đẩy tiến bộ xã hội.
3.3.3. ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người.
Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều có những nhóm
dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể tự lo liệu được cuộc sống,
hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành những người “yếu thế” trong xã hội.
Nếu trong xã hội có những nhóm người “yếu thế”, những người gặp rủi ro, bất hạnh
thì cũng chính trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ chế hoặc tự phát, hoặc tự giác,
thích ứng để giúp đỡ họ. Đây là cơ sở để hệ thống ASXH hình thành và phát triển.
Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát triển toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và
ngày càng phong phú, đa dạng.
Phần 2: Tìm hiểu và phân tích An Sinh Xã Hội ở Việt Nam ( ASXH)
1. Các vấn đề chung về ASXH ở Việt Nam
1.1 Khái niệm theo quan điểm ở Việt Nam
An sinh xã hội chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của
mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế
và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo
vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ
1.2 Các bộ phận cấu thành chủ yếu của ASXH ở Việt Nam
Bảo hiểm xã hội.
Trợ giúp xã hội.
Trợ cấp gia đình.

Các quỹ tiết kiệm xã hội.
Các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng…
Các tổ chức chính liên quan đến ASXH ở Việt Nam
Bô lao đông -thương binh và xã hội
Bộ Y tế
Hội chữ thập đỏ
Trang 7
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
Ngân hàng chính sách xã hội
1.4 Vai trò và tầm quan trọng của ASXH ở Việt Nam.
1.4.1 Vai trò của an sinh xã hội:
Hệ thống an sinh xã hội có vai trò là quản lý và đối phó với rủi ro, bao gồm
ba nấc:
Một là, phòng ngừa rủi ro thông qua hệ thống các chính sách bảo hiểm xã
hội. Bảo hiểm xã hội là bộ phận quan trọng nhất, có ý nghĩa vô cùng to lớn và thiết
thực đối với đời sống của người lao động trong hệ thống an sinh xã hội. Với việc
mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến mọi người dân dưới hai hình thức tham gia
bắt buộc và tự nguyện; với chế độ bảo hiểm xã hội bằng các khoản trợ cấp dài hạn,
trợ cấp ngắn hạn và bảo hiểm y tế; với việc quản lý và thực hiện bảo hiểm xã hội tập
trung thống nhất, và với việc quỹ bảo hiểm xã hội được thanh toán độc lập dưới sự
bảo trợ và điều hành của Nhà nước, thì hệ thống an sinh xã hội sẽ hoàn toàn có thể
làm tốt chức năng phòng ngừa rủi ro.
Trong cuộc sống hầu như không ai không một lần gặp rủi ro, bất hạnh. Có
những rủi ro đột xuất không thể dự đoán được, như tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp,
nhưng cũng có những rủi ro không ai có thể tránh được như bệnh tật, tuổi già. Bởi
vậy, phòng ngừa rủi ro là nhiệm vụ của mỗi người, của toàn dân mà Nhà nước là
người đứng ra tổ chức, điều hành. Phòng ngừa rủi ro phải phòng ngừa từ xa. Từ lúc
con người còn trẻ khỏe, làm việc, sống bình thường, phải lo tích lũy một số vốn nào
đó trong quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế… để khi đã già, yếu không còn sức
lao động nữa họ vẫn có thể sống được nhờ vào lương hưu, tiền bảo hiểm tuổi già,

tiền bảo hiểm y tế tại các bệnh viện. Thực tế cho thấy, chi phí cho phòng ngừa rủi ro
sẽ thấp hơn rất nhiều so với chi phí để khắc phục rủi ro.
Hai là, giảm thiểu rủi ro. Rủi ro xảy ra có thể rất nặng nề, gây nên những
mất mát rất lớn về vật chất và tinh thần, nhưng với hệ thống các chính sách an sinh
xã hội, hậu quả của các rủi ro đó hoàn toàn có thể được giảm nhẹ, được khống chế ở
mức độ có thể chấp nhận được. Để có thể giảm thiểu rủi ro, một mặt, Nhà nước phải
có một hệ thống tổ chức, điều hành chặt chẽ, nhưng linh hoạt hệ thống an sinh xã
hội; mặt khác, mọi thành viên trong xã hội cũng cần phải có ý thức tự giác tham gia
vào các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ phòng chống
thiên tai, quỹ an sinh xã hội v.v.. trước hết vì cuộc sống của bản thân và gia đình của
mỗi người, sau nữa là vì cộng đồng, sự ổn định và phát triển của xã hội. Việc giảm
thiểu rủi ro này chủ yếu thuộc về các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
và các chính sách trợ giúp xã hội có liên quan đến giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm.
Ba là, khắc phục rủi ro được thực hiện chủ yếu thông qua các chính sách
trợ giúp xã hội (trợ cấp xã hội, tương trợ xã hội và cứu tế xã hội). Có hai chế độ trợ
giúp: thường xuyên (áp dụng đối với các đối tượng người già cô đơn, trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa, người tàn tật nặng…) và trợ giúp đột xuất đối với những đối
Trang 8
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
tượng chẳng may gặp rủi ro, hoạn nạn. Hệ thống an sinh xã hội phải có trách nhiệm
chủ đạo trong việc khắc phục các rủi ro đó nhằm giúp cho mọi thành viên trong xã
hội mau chóng ổn định cuộc sống.
1.4.2 Tầm quan trọng của ASXH:
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, với hơn 100 năm đô hộ của thực dân
đế quốc. Đến năm 2009, thu nhập trung bình của Việt nam là 1000 USD thuộc tốt
thu nhập trung bình thấp của Thế Giới. Vì vậy, phúc lợi xã hội là vô cùng cần thiết
khi đại bộ phận người là người nghèo khổ. Vậy, ASXH là vô cùng quan trọng cho
đời sống người dân.
Hệ thống bảo hiểm xã hội:
BHXH đảm bảo quyền lợi cho người lao động trên cơ sở đóng góp

của người sử dụng lao động và người lao động.
Bản chất của BHXH là bảo đãm bù đắp một phần hoặc thay thế thu
nhập của người lao động khi bị giảm hoặc mật thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
giao thông, bệnh nghề nghiệp…
Thực hiện BHXH,BHYT nhằm ổn định cuộc sống người dân, trợ giúp
người lao động khi họ gặp rủi ro đau ốm … đối với Doanh nghiệp thì nó giúp cho
doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp khi
gặp sự cố để họ yên tâm sản xuất kinh doanh.
Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội,
giúp nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô.
Bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển nhưng vẫn giữ vững ổn định xã hội
trong từng thời kì cũng như trong xuốt quá trình.
Với quyền lợi mà người lao động được hưởng khi tham gia BHXH,
BHYT đã góp phần thu hút lực lượng lao động vào sản xuất. Việc được tham gia
bảo hiểm khi đang làm việc và được hưởng lương hưu khiến ngừoi lao đông hứng
khởi trong công việc, tâm lý ổn định hơn.
BHXH là một công cụ quan trọng góp phần điều tiết thu nhập một
cách công bằng và hợp lý giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
1.4.2.2 Hệ thống trợ cấp
Hệ thống này hoàn toàn dựa vào các chế độ phúc lợi từ ngân sách nhà
nước. người nhận được các quyền lợi mà không cần phải đóng góp. Chính sách này
giúp người co công với cách mạng, những người gặp khó khăn như người già neo
Trang 9
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
đơn, bị thiệt hại do thiên tai lũ lụt … có thể cải thiện đời sống của mình, lạc quan tin
tưởng vào tương lai. Qua đó, giúp giữ vững và ổn định chính trị xã hội.
1.4.2.3 Hệ thống các chương trình xã hội khác
Đây cũng là kênh phân phối dựa vào ngân sách nhà nước, nó giúp
phân phối lại thu nhập theo từng đối tượng. Chính sách này giúp có ý nghĩa ổn định
kinh tế một cách bền vững khi cứu trợ và giúp người dân thoát nghèo.

2.Phân tích thực trạng ASXH ở Việt Nam
2.1 Thực trạng chung hiện nay
Hiện nay, khả năng tạo việc làm của nền kinh tế còn thấp, tỉ lệ thất nghiệp
của thanh niên còn cao, tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế ( BHYT) bắt buộc của lao động
làm việc ngoài nhà nước còn thấp, số lượng người được hưởng trợ cấp xã hội còn
thấp… . Đây là một số đặc điểm chính trong thực trạng ASXH ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, ASXH ở nước ta hiện nay vẫn có những thành tựu của nó. Nhìn
vào thực trạng ASXH hiện nay ta phải tìm ra cách phát huy những thành tựu, mặt tốt
của nó. Đồng thời khắc phục những bất cập, thiếu sót của ASXH hiện nay.
Hệ thống các chính sách ASXH của Việt Nam hiện nay gồm nhiều vấn đề.
Có thể chia thành 3 nhóm sau đây:
1/ Nhóm các chế độ về Bảo hiểm xã hội: gồm Bảo hiểm xã hội bắt buộc
và bảo hiểm xã hội tự nguyện trên nguyên tắc đóng thị được hưởng và cùng chia sẽ
rủi ro. Đối tượng tham gia là Lao động theo quy định, các mức đóng góp tạo thành
quỹ chung. Các thành viên được nhận Bảo hiểm khi gặp sự cố. Mọi chi phí lấy từ
nguồn quỹ chung.
2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội: bao gồm các chế độ trợ cấp cho các
đối tượng gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do gặp phải rủi ro không may trong cuộc
sống. Nguồn chi trả lấy từ Ngân sách nhà nước.
3/ Nhóm các chương trình xã hội khác: Chương trình xóa đói giảm
nghèo, chương trình y tế, gồm các loại quỹ tiết kiệm và các loại bảo hiểm khác.
Sau đây là thực trạng của các vấn đề đó hiện nay:
1/ Nhóm các chế độ bảo hiểm xã hội:
Mặc dù được tạo điểu kiện nhưng thực tế cho thấy vẫn còn một bộ
phận người lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc, đặc biệt là khu vực ngoài nhà
Trang
10
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
nước. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do công tác tổ chức

thực hiện các chế độ của BHXH còn nhiều bất cập dẫn đến việc thực thi các qui
định của Luật bảo hiểm còn nhiều hạn chế.
Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành gồm 03 loại bảo hiểm, gồm BHXH bắt
buộc, BHXH tự nguyện, và bảo hiểm thất nghiệp đã tạo cơ hội cho người lao động
tham gia bảo hiểm.
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ.
Từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên 9,4 triệu người năm 2009, chiếm 18% tổng số
lực lượng lao động. Nguồn thu quỹ BHXH bắt buộc tăng nhanh từ 6348 tỷ đồng vào
năm 2001 lên 36,8 nghìn tỷ đồng năm 2009. Tổng chi BHXH bắt buộc cũng tăng
nhanh, từ 1856 tỷ đồng năm 2001 lên 54,9 nghìn tỷ đồng năm 2009 ( trong đó chi từ
ngân sách Nhà nước là 26,8 nghìn tỷ).
Sau một năm triển khai thực hiện BHXH tự nguyện, số người tham gia
đạt gần 50000 người. Nguồn thu quỹ BHXH tự nguyện ước tính đạt 69,5 tỷ đồng và
chi khoảng 10,9 tỷ đồng năm 2009.
Năm 2009, có khoảng 9% dân số từ 50 tuổi trở lên sống bằng lương hưu.
Công tác quản lý ngày càng đi vào nề nếp, công tác giám sát ngày càng
tăng cường, mạng lưới thu chi ngày càng mở rộng.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận chưa tham gia BHXH bắt buộc, Nói về
bảo hiểm thất nghiệp, luật chỉ cho phép đơn vị sử dụng lao động có sử dụng từ 10
lao động trở lên mới được tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Điều này làm hạn chế
khả năng tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người lao động làm cho doanh nghiệp
nhỏ.
Một bộ phận lớn người lao động không có khả năng tham gia BHXH tự
nguyện do không có cơ hội được hưởng lương hưu khi đến tuổi về hưu vì điều kiện
phải có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội.
2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội:
Cứu trợ xã hội đối với những người nghèo, người không may bị rủi ro
trong cuộc sống gồm chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp: cách xác
định tai nạn lao động như hiện nay là chưa rõ ràng. Có khả năng phát sinh tiêu cực
trong thực hiện trợ cấp này.

Trợ cấp ưu đãi người có công đã đạt hiệu quả tích cực. Đã chi trả chế độ
trợ cấp 1 lần cho khoảng 3,5 triệu người hoạt động kháng chiến được nhà nước khen
tặng Huy chương. Hoàn thành trợ cấp ưu đãi một lần cho khoảng 4 triệu người và
Trang
11
Bài tiểu luận: Tài Chính Công
khoảng 1,7 triệu thương binh, thân nhân liệt sỹ, lão thành cách mạng, bà mẹ Việt
Nam anh hùng … tiếp tục hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng.
Ngoài chế độ trợ cấp thường xuyên, người có công được ưu đãi nhiều
mặt của đời sống xã hội. Một số chế độ ưu đãi được hướng dẫn và thực hiện như
BHYT, giáo dục đào tạo và một phần của chế độ ưu đãi nhà, đất.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế như người nhận trợ cấp chậm được
nhận tiền gây khó khăn cho cuộc sống của họ, các cán bộ xã phường có tình trạng
tham nhũng của công, hoặc sử dụng sai mục đích.
Đặc biệt, nghị định 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về sửa đổi bổ sung
một số điều của nghị định 67/2007NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp
các đối tượng bảo trợ xã hội đã mở rộng đến các đối tượng tàn tật nặng không có
khả năng lao động không chỉ ở các hộ nghèo.
Theo ước tính số đối tượng bảo trợ xã hội năm 2010 sẽ tăng lên 1,6 triệu.
Cuộc sống các đối tượng được cải thiện do mức chuẩn tính trợ cấp tăng.
3/ Nhóm các chương trình xã hội khác:
Xóa đói giảm nghèo: Các chính sách, chương trình giảm nghèo trong thời
gian qua đã đóng góp vai trò quan trọng trong bảo đảm ASXH cho người nghèo, hộ
nghèo, địa bàn nghèo. Hệ thống chính sách giảm nghèo tương đối toàn diện , tập
trung vào các vùng đặc thù, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, miền núi.
Giảm nghèo được thực hiện đồng thời trên 3 phương diện: Tăng cường
tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề.. – Hỗ trợ chính sách phát triển thông
qua các chính sách tín dụng ưu đãi.. – Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho xã đặc
biệt khó khăn.
Kết quả tỉ lệ nghèo đã giảm nhanh, từ 29% năm 2002 giảm xuống còn

15,9% năm 2006, và 11,3 % vào cuối năm 2009. Hộ nghèo được tăng cường tiếp
cận chính sách. Trong 3 năm 2006-2008, gần 4,2 triệu hộ được vay vốn; gần 2,1
triệu lượt người nghèo được hướng dẫn làm ăn, chuyển đổi kỷ thuật. 60 nghìn người
nghèo được miễn giãm học phí nghề; mỗi năm hỗ trợ được 30nghìn người học
nghề; khoảng 7,8 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí và các khoản
đóng góp cho trường; 99,54% người nghèo được cấp BHYT năm 2008; 340 nghìn
hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm. Hệ thống cơ sở hạ tầng ở những địa bàn khó
khăn đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, một số hộ nghèo vẫn không được hưởng các chính sách do bị hạn
chế điều kiện tham gia.Các chính sách thiên về hỗ trợ bằng tiền và hiện vật hơn là
Trang
12

×