Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Phong trào yêu nước chống pháp ở thanh hoá 30 năm đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 125 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng Đại học Vinh
------------------o0o----------------Dơng Thị Thanh Hải

Phong trào yêu nớc chống pháp
ở Thanh Hoá 30 năm đầu thế kỷ XX
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 5.03.15

luận văn thạc sĩ lịch sử
Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS - TS. Nguyễn Trọng Văn
Vinh - 2002
*******


2

Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS TS Nguyễn Trọng
Văn, ngời Thầy đã tận tình hớng dẫn giúp đỡ tôi trong xuốt quá trình
nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS Hoàng Văn Lân, ngời Thầy đã giúp đỡ
tôi trong quá trình tìm dịch tài liệu nớc ngoài và góp ý cho đề tài nghiên cứu
luận văn Thạc Sĩ của tôi, và tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ
môn LSVN, khoa Lịch sử, khoa Sau Đại học, Trờng Đại Học Vinh; Ban
nghiên cứu & biên soạn lịch sử Thanh Hóa, Phòng Địa Chí Thanh Hóa, Phòng
Lịch sử Đảng Thanh Hóa, Phòng Lịch sử Đảng Nghệ An, Ông Nguyễn Diên
Niên và đông đảo các vị lão thành cách mạng tại huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa,
Thọ Xuân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình su tầm tài liệu và hoàn
thành luận văn.


Xin đợc gửi lời cảm ơn tới Bố Mẹ, những ngời thân, bạn bè luôn giúp
đỡ, động viên tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.

Vinh , ngày.. tháng.năm 2002
Tác giả.

Dơng Thị Thanh Hải

Mục lục
Trang
Mở Đầu

1

Chơng 1: Khái quát tình hình Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX

1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên.
1.1.1. Vị trí địa lý.
1.1.2. Đặc điểm tự nhiên.
1.2 Tình hình chính trị
1.3 Tình hình kinh tế.

6
6
6
8
10



3
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
1.3.4
1.3.4.
1.4.
1.5.

Nông nghiệp.
Công nghiệp.
Thủ công nghiệp.
Giao thông thơng mại.
Thơng nghiệp.
Tình hình văn hóa giáo dục xã hội.
Truyền thống yêu nớc của nhân dân Thanh Hóa.

10
11
12
13
14
16
18

Chơng 2: Phong trào yêu nớc chống pháp ở thanh hóa
từ đầu thế kỷ xx đến hết cttg thứ nhất

2.1 Phong trào Duy Tân.
2.1.1 Cuộc vận động xuất dơng ở Thanh Hóa.

2.1.2 Cuộc vận động cải cách ở Thanh Hóa.
2.2. Phong trào chống thuế ở Thanh Hóa năm 1908.

27
27
32
39

Chơng 3: Phong trào dân tộc dân chủ ở Thanh Hóa
từ sau CTTG thứ nhất đến hết năm 1930

3.1.
3.2.

Bối cảnh lịch sử mới.
Phong trào yêu nớc chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa
từ năm 1919 đến năm 1926.

3.2.1. Phong trào xuất dơng ở Thanh Hóa dới ngọn cờ cứu nớc
của Nguyễn ái Quốc.

47
53
53

3.2.2. Hoạt động văn hóa cách mạng mới ở Thanh Hóa.
3.2.3. Các phong trào đấu tranh của nhân dân Thanh Hóa từ năm 1919
đến năm1926.
3.3 Sự ra đời và hoạt động của tổ chức cách mạng mới ở Thanh Hóa.
3.3.1. Sự ra đời và hoạt động của HVNTNCM ở Thanh Hóa.

3.3.2. Sự ra đời và hoạt động của TVCMĐ ở Thanh Hóa.
3.3.3. Sự ra đời của tổ chức Cộng Sản đầu tiên ở Thanh Hóa.

59

Kết luận.

86
90

Tài liệu tham khảo.

62
66
66
73
78


4
Phô lôc.

96


5

Từ viết tắt trong luận văn
Chữ viết tắt
BCH

BNC&BSLS.
CMVS.
CMTS
CNCS
CTTG
CTQG
CN
ĐHQG
ĐCSVN
ĐKNT
HĐSBCM
HNHX
HVNTNCM
HTN
TVCMĐ
TXTH
TDP
VNQPH

nội dung
Ban chấp hành
Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử.
Cách mạng vô sản.
Cách mạng t sản.
Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Chiến tranh thế giới.
Chính trị Quốc Gia.
Chủ Nghĩa.
Đại học Quốc Gia.
Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Đông Kinh Nghĩa Thục.
Hội đọc sách báo cách mạng.
Hng Nghiệp Hội Xã.
Hội Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng
Hội Thanh Niên.
Tân Việt Cách Mạng Đảng.
Thị Xã Thanh Hóa.
Thực dân Pháp.
Việt Nam Quang Phục Hội.


6

Mở ĐầU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Thanh Hoá - một vùng đất có truyền thống yêu nớc cách mạng. Từ
lâu, vùng đất này đợc coi là vùng đất phên dậu phía Nam của đất nớc. Trong
mỗi cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc, Thanh Hoá bùng lên ngọn lửa đấu
tranh với những chiến công vang dội in đậm trên trang sử dân tộc nh:
Khởi nghĩa Lý Bí với nhân dân ái Châu.
Lê Hoàn - ngời con xứ Thanh với cuộc kháng chiến chống Tống.
Lê Lợi với cuộc chiến thắng chống quân Minh vang dội
Khi thực dân Pháp sang xâm lợc, nhân dân tỉnh Thanh đứng lên đồng
sức đồng lòng phá tan âm mu kẻ thù với phong trào Cần Vơng dới sự lãnh đạo
của Cầm Bá Thớc, Hà Văn Mao. Đến đầu thế kỷ XX, phong trào dân tộc dân
chủ trong cả nớc nổi lên mạnh mẽ, nhân dân Thanh Hoá cũng kịp thời phát
triển phong trào theo khuynh hớng cách mạng mới hòa vào dòng chảy của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, khẳng định sự phát triển về chất của lịch sử
đấu tranh của tỉnh trong phong trào chung cả nớc.

Là ngời con sinh ra và lớn lên ở vùng đất truyền thống cách mạng, tôi
muốn góp phần tìm hiểu cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân tỉnh nhà
trong giai đoạn 30 năm đầu thế kỷ XX - giai đoạn cha có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống.
1.2. Nghiên cứu lịch sử địa phơng luôn có một vị trí, ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với lịch sử dân tộc. Nghiên cứu lịch sử địa phơng sẽ thấy rõ
mối quan hệ giữa lịch sử địa phơng với lịch sử dân tộc, nét độc đáo đặc thù,
của lịch sử địa phơng trong sự vận động theo quy luật chung của lịch sử dân
tộc. Với đề tài nghiên cứu Phong trào yêu nớc chống Pháp ở Thanh Hóa 30
năm đầu thế kỷ XX, tôi mong muốn sẽ góp phần bổ sung vào kết quả nghiên
cứu lịch sử dân tộc, làm rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa lịch sử Thanh Hóa với
lịch sử dân tộc và khu vực, từ đó rút ra tính chất, đặc điểm của phong trào, xác


7

định vị trí và đóng góp của nhân dân Thanh Hóa trong cuộc đấu tranh chống
thực dân.
Ngoài ra nghiên cứu vấn đề này còn góp phần bổ sung nguồn t liệu cho
việc nghiên cứu lịch sử địa phơng, góp phần giáo dục truyền thống yêu nớc,
lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hơng cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế
hệ trẻ.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, tôi đã chọn Phong trào yêu nớc
chống Pháp ở Thanh Hóa 30 năm đầu thế kỷ XX làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học Lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phong trào yêu nớc chống Pháp ở Thanh Hóa trong giai đoạn từ 1900
1930 đã đợc nhiều tác giả đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau nh:
Trong cuốn Phan Bội Châu con ngời và sự nghiệp xuất bản 1982.
Nguyễn Văn Thành với bài viết Phong trào tân th ở Thanh Hoá dới ảnh hởng của Phan Bội Châu. Tác giả đã nêu lên những sách báo mới đợc du nhập

vào Thanh Hoá, thanh niên trí thức nho học trong tỉnh bắt đầu có sự tiếp nhận
t tởng mới cùng với hoạt động hởng ứng theo ảnh hởng của Phan Bội Châu.
Địa chí Thanh Hoá viết về địa lý - lịch sử Thanh Hoá, song trong giai
đoạn lịch sử từ 1900 - 1930 chỉ đợc nêu lên một cách khái quát về phong trào
chống Pháp, điểm qua một số sự kiện tiêu biểu.
Tác giả Đinh Xuân Lâm - Lê Đức Nghi với Lịch sử thành phố Thanh
Hoá đã nêu lên tình hình thành phố Thanh Hoá từ 1804 - 1945. Nhng trong
giai đoạn từ 1900 - 1930 tác giả mới sơ lợc một số sự kiện tiêu biểu của nhân
dân thành phố trong cuộc đấu tranh chống Pháp, đồng thời tác giả cũng đa ra
một số nhận xét về phong trào đấu tranh của nhân dân thành phốThanh Hóa.
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá 1930 - 1954 và một số cuốn lịch sử
Đảng bộ địa phơng trong tỉnh viết về quá trình thành lập Đảng bộ trong tỉnh
và ở các huyện, nhng lịch sử quá trình hình thành chỉ đợc giới thiệu một cách
sơ lợc.


8

Trong Lịch sử Thanh Hoá, tập V, xuất bản 1996, Ban nghiên cứu và
biên soạn lịch sử Thanh Hoá cũng dành một chơng để nói tới phong trào đấu
tranh chống Pháp và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Thanh Hoá.
Về cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Thanh Hoá từ 1900 đến 1930
có nhiều bài báo viết về cuộc đời sự nghiệp của Đinh Chơng Dơng - ngời mở đầu
cho hoạt động xuất dơng ở Thanh Hoá. Ngoài ra, còn có một số tài liệu viết về
ngời cộng sản đầu tiên ở Thanh Hoá - Lê Hữu Lập, nh cuốn Hậu Lộc dới lá cờ
vẻ vang của Đảng, Tuổi trẻ Lê Hữu Lập.v.v..
Một số tác giả nớc ngoài nh Robequain, Le Brôtông viết về lịch sử và địa
lý Thanh Hóa vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Những bài viết này có tính
chất tổng kết tình hình lịch sử Thanh Hóa trong giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập tới nhiều khía

cạnh của đề tài do chúng tôi lựa chọn, song cha có một công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống, nhiều vấn đề vẫn cha đợc sáng tỏ trong giai đoạn lịch
sử Thanh Hóa từ 1900 1930 đó là:
- Tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để dẫn tới cuộc đấu tranh
chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa.
- Hoạt động xuất dơng và hoạt động của trờng Nghĩa Thục Thanh Hóa
- Các khuynh hớng chính trị với sự chuyển biến từ phong trào yêu nớc
mang tính tự động sang phong trào đấu tranh theo khuynh hớng mới phù hợp
với xu thế thời đại.
- Đặc điểm, ý nghĩa, vị trí, đóng góp của phong trào đấu tranh chống
Pháp của nhân dân Thanh Hóa với lịch sử dân tộc trong giai đoạn từ 1900 đến
1930.
Tuy nhiên, những bài viết đợc đề cập trên sẽ là cơ sở ban đầu vô vùng
quý giá cho tác giả khi nghiên cứu, sẽ là nguồn t liệu bổ sung cho tác giả hoàn
thành đề tài nghiên cứu Khoa học Lịch sử với một số vấn đề làm sáng tỏ.
3. Nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu


9

3.1. Nhiệm vụ: Luận văn nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
- Khôi phục lại bức tranh lịch sử Thanh Hoá từ 1900 - 1930 một cách có
hệ thống theo thời gian, sự kiện.
- Làm rõ cuộc đấu tranh của nhân dân Thanh Hoá trong phong trào
chống Pháp theo hớng cứu nớc của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
- Sự chuyển biến trong phong trào đấu tranh của nhân dân Thanh Hoá
theo khuynh hớng vô sản - con đờng cứu nớc của Nguyễn ái Quốc, kết quả và
sự thành lập Đảng bộ Thanh Hoá.
- Đặc điểm,vị trí, đóng góp và ý nghĩa của phong trào yêu nớc chống Pháp
ở Thanh Hoá từ 1900 - 1930 trong tiến trình lịch sử dân tộc và khu vực.

3.2. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tợng và phạm vi nghiên cứu đề tài là phong trào yêu nớc chống
pháp tại tỉnh Thanh Hoá đợc biểu hiện trên các mặt:
- Về thời gian: Luận văn chủ yếu trình bày phong trào đấu tranh chống
Pháp của nhân dân trong toàn tỉnh từ 1900 - 1930 ở 2 thời kỳ:
+ Từ 1900 - 1919
+ Từ 1919 - 1930.
- Về không gian: Luận văn trình bày phong trào đấu tranh chống Pháp
trong phạm vi toàn tỉnh Thanh Hoá với những mối liên hệ với lịch sử dân tộc,
khu vực và các địa phơng khác.
4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn t liệu
- Những tác phẩm của Hồ Chí Minh, các văn kiện Đảng. Các tác phẩm
của các vị lãnh đạo Đảng Nhà nớc Việt Nam.
- Sách Địa lý - Lịch sử Thanh Hoá đợc viết bằng tiếng Pháp, tiếng Hán
lu trữ tại Phòng địa chí Thanh Hoá.
- Tài liệu lu trữ tại các trung tâm lu trữ, th viện Quốc gia, th viện tỉnh
Thanh Hoá.


10

- Các công trình nghiên cứu của giới sử học trong và ngoài nớc. Lời kể
của lão thành cách mạng trong tỉnh, hồi ký cách mạng của những ngời trực
tiếp tham gia phong trào chống Pháp trong giai đoạn 1900 - 1930.
- T liệu điền dã su tầm trực tiếp ở các địa phơng có liên quan đến đề tài.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
ở đề tài này chúng tôi sử dụng phơng pháp nghiên cứu truyền thống,
đặc biệt quan trọng là phơng pháp lịch sử, phơng pháp logíc.

Bên cạnh đó là phơng pháp đối chứng, so sánh, phơng pháp thống kê,
tổng hợp các t liệu khác nhau để xem xét mức độ phát triển về quy mô, lực lợng, đặc điểm của phong trào yêu nớc tại tỉnh Thanh Hoá
5. Đóng góp của luận văn

- Trớc hết luận văn dựng lại bức tranh lịch sử Thanh Hoá từ 1900 - 1930.
- Luận văn làm rõ đặc điểm của phong trào đấu tranh chống Pháp ở
Thanh Hóa với vai trò, vị trí của phong trào đấu tranh toàn tỉnh trong bối cảnh
phong trào đấu tranh cả nớc mà những công trình trớc đây cha có điều kiện
làm rõ một cách đầy đủ.
- Luận văn còn góp phần bổ sung nguồn t liệu cho việc nghiên cứu lịch
sử địa phơng Thanh Hoá và lịch sử dân tộc trong giai đoạn 1900 - 1930. Phục
vụ đắc lực cho công tác giảng dạy, học tập nghiên cứu lịch sử Thanh Hoá.
6. Bố cục luận văn:

Luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Khái quát tình hình Thanh Hoá cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX.
Chơng 2 : Phong trào yêu nớc chống Pháp ở Thanh Hoá từ đầu thế
kỷ XX đến hết chiến tranh thế giới thứ Nhất.
Chơng 3: Phong trào dân tộc dân chủ ở Thanh Hóa từ sau chiến
tranh thế giới thứ Nhất đến năm 1930.

Chơng 1
KháI quát tình hình thanh hóa cuối thế kỷ XIX


11

đầu thế kỷ XX
1.1 Vị trí địa Lý, đặc đIểm tự nhiên


1.1.1.Vị trí địa lý
Thanh Hóa- vùng đất nối liền Bắc bộ và Bắc Trung bộ, có vĩ độ Bắc 19 0,
30- 200,30. Kinh độ Đông là 1040-1060,30. Diện tích tự nhiên 11.168 km2 và
18.760 km vùng thềm lục địa.
Phía Bắc Thanh Hóa giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình.
Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An.
Phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nớc CHND Lào).
Phía Đông là biển Thái Bình Dơng.
Là tỉnh địa đầu Bắc Trung kỳ nên Thanh Hóa giữ vị trí đầu mối giao
thông vô cùng thuận lợi. Việc giao lu với các tỉnh trong nớc rất dễ dàng. Tỉnh
lị Thanh Hóa đợc đặt ngay trên trục đờng chính, thế kỷ XIX mang tên Hạc
Thành, đây là con đờng nối liền Bắc Nam đợc mang tên con đờng thiên lý,
từ sớm đã có vai trò quan trọng trong việc đi lại của dân c, các chí sĩ từ Bắc
vào Nam, từ Nam ra Bắc, cùng với việc vận chuyển hàng hóa vào thời bình và
quân hơng mỗi khi có chiến sự.
Với vị trí thuận lợi, Thanh Hóa đã phát huy hết khả năng của mình
trong cuộc chiến, tạo nên những nét riêng trong phong trào yêu nớc chống
Pháp xâm lợc.
1.1.2. Đặc điểm tự nhiên
Có ngời nhận xét Thanh Hóa là nớc Việt Nam thu nhỏ. Qủa đúng nh
vậy bởi nơi đây có đủ các vùng: Trung du, miền núi, đồng bằng, ven biển và
thềm lục địa.
Trung du và miền núi có diện tích tự nhiên chiếm 2/3 diện tích tự nhiên
của toàn tỉnh. Ba mặt giáp: Bắc- Tây- Nam núi rừng trùng điệp, hiểm yếu.
Phía Bắc và phía Nam núi rừng xuyên thẳng ra biển. Trung du là những dãy
đòi liền kề, xen kẽ với miền núi. Đồi núi chiếm diện tích lớn tạo điều kiện cho


12


Thanh Hóa có lợng sản phẩm lâm sản dồi dào với tài nguyên khoáng sản
phong phú. Trong vị thế chiến lợc chung của tỉnh, trung du miền núi Thanh
Hóa còn là khu vực trọng yếu về quốc phòng an ninh.
Đồng bằng tỉnh Thanh rộng 2900 km là đồng bằng rộng nhất trong các
tỉnh miền Trung, rộng thứ ba trong cả nớc[27, tr26]. Đồng bằng ở đây đợc
bồi đắp bởi phù sa của các con sông: sông Chu, sông Mã, sông Yên, sông
Hoạttạo nên một vùng châu thổ rộng lớn, phục vụ đắc lực cho việc sản xuất
của c dân. Tuy nhiên giới hạn giữa miền đồi núi và đồng bằng Thanh Hóa rất
quanh co, khúc khuỷu, hầu hết ở khắp nơi, đồi núi và đồng bằng cài răng lợc
vào nhau, nơi thì đồng bằng ăn lan xa miền đồi núi, nơi thì ăn sâu xuống
đồng bằng[27,tr26] gây khó khăn cho cuộc sống c dân trong vùng. Từ rất
sớm nhân dân Thanh Hóa đã đoàn kết cùng nhau, chung lng đấu cật tạo nên
hệ thống đê điều nhằm chế ngự thiên tai bão lụt Vì vậy, trải qua lao động
khó khăn, vất vả, sản xuất lại phụ thuộc vào thiên nhiên, con ngời xứ Thanh
vật lộn với cuộc sống, chế ngự thiên tai, bão lụtlàm hun đúc nên tinh thần lao
động cần cù, ý chí quyết tâm chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lợc.
Khí hậu Thanh Hóa có nét giống miền Bắc nhng cũng có nét giống
miền Trung và cả đặc thù Thanh Hóa: mùa đông lạnh, mùa hè nóng với cả hai
mùa gió thịnh hành: gió bắc và gió đông bắc vào mùa đông, gió tây nam vào
mùa hè Địa hình phức tạp và đa dạng nên Thanh Hóa cũng có những vùng
tiểu khí hậu riêng biệt.
Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên ở Thanh Hóa bên cạnh những nét chung
còn có những nét riêng tạo nên tính cách con ngời xứ Thanh. Nơi đây đợc
mệnh danh là điểm nút giao lu hai vùng trong cuộc chiến đấu chống xâm lợc.
1.2. Tình hình chính trị

Khi thực dân Pháp đặt chân lên nớc Việt Nam, chúng thực hiện ngay quá
trình xâm lợc và bình định Việt Nam, kế hoạch khai thác lần thứ nhất t bản
Pháp đặt Việt Nam dới quyền thống trị của chúng và chia đất nớc thành ba kỳ



13

với ba chế độ chính trị khác nhau: Liên Bang Đông Dơng do toàn quyền đứng
đầu. Nam kì do Thống đốc đứng đầu. Bắc kì do Thống Sứ đứng đầu. Trung kỳ
(cả Cao Miên, Ai Lao) do Khâm Sứ đứng đầu. Triều Nguyễn trên danh nghĩa
trị vì Trung kỳ, nhng thực quyền lại nằm trong tay Khâm sứ ngời Pháp.
Tỉnh Thanh vốn là đất quý hơng của nhà Nguyễn, nay trở thành một
trong mời hai tỉnh thuộc xứ Trung kỳ do TDP cai trị. Thời các chúa Nguyễn trớc đây, Thanh Hóa là một tỉnh lớn ở miền Bắc Trung kỳ với địa thế quan
trọng. Đến thời Pháp thuộc Thanh Hoá đợc chia thành năm phủ: Hòa TrungThuận Hóa- Quảng Hóa- Thọ Xuân Tĩnh Gia trong đó gồm mời sáu huyện:
Tống Sơn, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Mỹ Hóa, Thụy Nguyên, Đông Sơn,
Yên Định, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Quảng Lê, Cẩm Thủy, Lôi Dơng, Ngọc
Sơn, Quảng Xơng và ba châu là: Quan Hóa, Thờng Xuân, Lang
Chánh[27,tr505].
Quan cai trị lớn nhất Thanh Hóa là Tổng đốc, tơng đơng với chức quan
Thợng th ở triều đình, dới Tổng đốc là các viên quan Bố Chánh , án Sát, Đề
Đốc hoặc Lãnh binh, mỗi ngời một bộ phận, một công việc trong tỉnh. Tuy
nhiên, dới chế độ cai trị của TDP ở Việt Nam thì từ trung ơng đến các tỉnh
đều có quan chức ngời Pháp phụ trách, Thanh Hóa cũng nằm trong tình trạng :
nhiệm vụ, quyền hành của quan lớn trong lúc này không còn vai trò thực tế
mà chỉ có vai trò thừa hành và thực thi trong công việc.
So với các tỉnh trong nớc, Thanh Hóa là tỉnh TDP đặt chân lên khá muộn.
Cuối tháng 11/1885, sau sự biến tháng 7 tại kinh thành Huế quân Pháp mới
kéo vào Thanh Hóa. Binh đoàn Trung kỳ đợc thành lập ngoài Bắc do thiếu tá
Mignot (Minho) chỉ huy, đợc lệnh rời Ninh Bình ngày 22/11/1885 trên đờng
vào Huế dừng chân tại Thanh Hóa [58,tr31]. Công việc mở đầu chúng thi hành
tại đây là gấp rút tiến hành xây dựng một hệ thống các trụ sở cho cơ quan
hành chính và quân sự cấp tỉnh đóng trên địa bàn tỉnh lị.
Tòa công sứ do ngời Pháp nắm quyền quyết định , bên cạnh là bộ máy cai

trị của nhà Nguyễn gồm: Tổng đốc, án Sát, Bố Chính, Lãnh Binh. Dới Huyện,


14

Phủ, Châu là sự cai trị của viên Tri huyện, Tri phủ, Tri châu, Thị Xã mới đợc
thành lập đặt trực tiếp dới quyền Công sứ Pháp và một số viên giúp việc. ở
cấp chính quyền cơ sở làng xã đứng đầu là Lý trởng, Phó lý, Trởng bạHình
thức chế độ chính trị ở Thanh Hóa cho chúng ta thấy một mặt chịu sự cai trị
của nhà Nguyễn, một mặt chịu sự cai trị của thực dân Pháp hay nói cách khác
danh nghĩa bộ máy cai trị của chính quyền thực dân phong kiến ở Thanh Hóa
mang tính chất lỡng hệ [13,tr27]. Nhng thực chất quyền hành đều tập trung
vào tay TDP mà đại diện là Tòa công sứ, chính quyền phong kiến do TDP dựng
lên duy trì chẳng qua để dễ bề cai trị, lừa bịp nhân dân mà thôi.
Vào những năm đầu thế kỷ XX TDP nhanh chóng tiến hành xây dựng hệ
thống các trụ sở cho các cơ quan hành chính và quân sự cấp tỉnh đóng trên địa
bàn Thanh Hóa. Quan lại cuả triều Nguyễn trớc đây đóng trên địa phận tổng
Thọ Hạc, nay cơ quan của nhà nớc bảo hộ đều đợc đặt ngoài thành tỉnh
thuộc địa phận tổng Bố Đức gồm các làng Cẩm Bào Nội, Cốc Hạ, Phú Cốc,
Đức Thọ Vạn.
TDP thông qua Khâm sứ Trung Kỳ thành lập một đơn vị hành chính
nhằm thống nhất quản lý tỉnh lị Thanh Hóa một cách toàn diện. Chúng dùng
áp lực buộc Vua Thành Thái kí đạo dụ thành lập Thị xã Thanh Hóa do Công
sứ Pháp trực tiếp nắm. Ngày 19/3/1901 đạo dụ đợc Khâm sứ Trung Kỳ phê
chuẩn từ đây quan lại Nam triều không còn quyền hành tại khu vực thị xã
nữa[13,tr41]. Bên cạnh đó TDP còn xây dựng một lực lợng quân sự ở tất cả
các khu vực trọng yếu trong tỉnh nh: Bỉm Sơn, Sầm Sơn, Yên Lợc, thị xã
Thanh HóaMỗi huyện thị đều có đồn lính khố xanh do ngời Pháp chỉ huy để
dễ bề cai trị.
Dới chính quyền cấp tỉnh là chính quyền cấp phủ, huyện, châu do các

viên Tri phủ, Tri huyện ngời Việt nắm quyền cai trị với nhiệm vụ vừa cai trị
vừa xét xử hình án, thu thuế đinh điền, bắt phu phen tạp dịch, giữ gìn trật tự trị
an trong hạt[27,tr55]. Bộ máy chính quyền cấp cơ sở là tổng, làng , xã, có
Cai tổng hoặc chánh Phó tổng cai quản, nhiệm vụ của họ là truyền đạt, đôn


15

đốc chính quyền cấp xã thực thi nhiệm vụ cấp tỉnh, huyện giao phó. Tại các
làng xã có các chức danh Lý trởng, Phó lý, Trởng bạ, Trơng tuần làm nhiệm
vụ thay mặt chính quyền địa phơng cấp Phủ huyện.
Với bộ máy hành chính tỉnh Thanh Hóa, TDP đã củng cố thi hành chính
quyền tay sai từ tỉnh xuống huyện, làng xã với chức Tổng đốc, Tri phủ, Tri
châu cực kỳ tàn bạo. Nhân dân trong vùng rơi vào cảnh gông cùm, áp bức
gấp đôi bởi sự kìm kẹp của chính quyền thực dân và chính quyền phong kiến.
1.3. Tình hình kinh tế

Kinh tế Thanh Hóa có sự thay đổi mạnh mẽ bởi chính sách cai trị và khai
thác thuộc địa của t bản Pháp.
1.3.1. Nông nghiệp.
Là vùng đất đợc tạo nên bởi phù sa của các con sông: sông Mã, sông
Chu tạo điều kiện thuận lợi cho c dân khai thác thành những cánh đồng phì
nhiêu, xóm làng trù phú. Việc cấy hái diễn ra quanh năm mỗi năm một mùa,
cấy vào tháng t, tháng năm, mùa thu thì gặt đó là ruộng ở gần núi, gần biển .
ở đồng bằng mỗi năm hai mùa: ruộng cao cấy vào tháng sáu, gặt vào tháng
mời [27,tr213]. Chứng tỏ tình hình lao động sản xuất nông nghiệp ở đây
tiến triển khá tốt.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, Thanh Hóa có 14.500 hecta(ha) ruộng
đất , trong đó ruộng đất một vụ là 8.700 ha tập trung ở vùng tam giác sông
Mã, sông Chu nh huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa, Yên Định. Ngoài ra còn có

4.200 ha ruộng đất công dần dần rơi vào tay bọn địa chủ kì hào, tay sai của
chính quyền thực dân. Chúng chiếm cứ toàn bộ ruộng đất đẩy nông dân tới
chỗ bần cùng. Thực trạng đợc thể hiện rõ hơn trong cảnh: cha con Nguyễn
Hữu Ngọc- địa chủ kiêm t sản đã chiếm tới 1000 mẫu ruộng, lập thành 7 ấp
trại rộng lớn ở các huyện: Đông Sơn, Nông Cống, Quảng Xơng, Yên Định.
Nguyễn Hữu Hợp ở Đông Sơn, Nguyễn Văn Ngoạn ở Vĩnh Lộcmỗi lần
chiếm tới vài trăm mẫu ruộng. Một làng nhỏ nh làng Phúc Địa (Thọ Xuân)


16

có 165 mẫu ruộng thì có tới 2/3 ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, 1/3 số hộ
không một tấc đất cắm rùi, quanh năm làm thuê [24,tr20].
Bên cạnh địa chủ cờng hào, t bản Pháp kết hợp tay sai trong vùng cớp
đất đai của nông dân lập nên các đồn điền, các công trình quân sự. Nếu toàn
bộ ruộng đất t bản Pháp chiếm đoạt của xứ Trung kỳ là 168.000 ha thì riêng ở
Thanh Hóa chúng chiếm tới 27.700 ha, ruộng đất này tập trung vào các đồn
điền Vạn Lại, Phúc Do, Mĩ Lam, Yên Mỹ Và hàng trăm hecta dùng xây
dựng sân bay Nổ Giáp (Tĩnh Gia)[24,tr11].
Ruộng đất hoa màu tơi tốt của nông dân đã bị chiếm đoạt, cuộc sống rơi
vào khó khăn cùng cực. Họ đã tìm đến mảnh đất mới để khai hoang nhng
nông cụ thô sơ lạc hậu, đất đai lại khô cằn, năng suất thu đợc rất thấp trung
bình mỗi sào thu hoạch đợc 80-90 kg thóc[27,tr492] lại bị su cao thuế nặng,
hạn hán bão lụt liên miên, thêm vào đó nạn tham quan ô lại khiến đời sống
nông dân vô cùng cực khổ, họ phải bỏ làng đi ăn xin, chết vì đói nh Thiệu
hóa vốn là huyện đất đai phì nhiêu mà có tới 300 ngời chết [27,tr492].
Để tăng nhanh tốc độ khai thác nông nghiệp trong tỉnh, TDP đã chú ý tới
vấn đề thủy lợi, chúng đầu t xây dựng hệ thống nông giang sông Chu (1896
-1925 ) nhng thời gian này mới chỉ là bớc đầu đề ra kế hoạch, nông dân vẫn
chìm đắm trong cảnh khổ cực đói rét.

1.3.2 Công nghiệp
Là mục tiêu khai thác cơ bản của t bản Pháp tại Thanh Hóa trong đó chủ
yếu khai thác tài nguyên khoáng sản. Đây là vùng đất có khối lợng tài nguyên
phong phú vào bậc nhất Bắc Trung kỳ, từ năm 1900 kỹ s địa chất của trờng
Viễn Đông Bác Cổ và một số tên thực dân nh Gianggôchiê Vinroa đã có mặt
tại Thanh Hóa, chúng độc chiếm và khai thác 35 mỏ. Đến năm 1909 chúng
khai thác kẽm ở Quan Hóa, Nh Xuân, sản lợng thu đợc hàng năm tới 2 vạn tấn
[13,tr29] và các mỏ phốt phát crôm ở Cổ Định (Nông Cống), Đông Sơn, Tĩnh
Giavới quy mô lớn. TDP còn lập nên một số công ty lớn tại địa bàn tỉnh nh :
Công ty Phốt Phát Bắc kỳ, Công ty Nông lâm nghiệp Đông Dơng (viết tắt


17

SAFT) nhằm gấp rút khai thác phốt phát và gỗ quý [24,tr14]. Từ năm 1901
theo nghị định thành lập sở lâm nghiệp ở Đông Dơng, tại Thanh Hóa suất hiện
tổ chức kiểm lâm nhằm kiểm soát rừng và khai thác gỗ do ngời Pháp cầm đầu,
lợc lợng khai thác chủ yếu là nông dân nghèo không mảnh đất cắm rùi, họ
phải làm với đồng lơng rẻ mạt.
Đầu thế kỷ XX, TDP còn đặt nhà máy chế biến ngay tại tỉnh nhằm phục
phụ triệt để nguồn nguyên liệu dồi dào, nhân công rẻ mạt Năm 1905 công ty
ca xẻ và chế biến diêm Thanh Hóa ra đời, trụ sở đặt tại Nam Định nhng nhà
máy sản xuất laị đặt tại phía Bắc cầu Hàm Rồng Thanh Hóa . Trong năm
1905 công ty đa 500 công nhân cùng với máy móc vào hoạt động bình quân
mỗi ngày sản xuất đợc 20-30 vạn bao diêm, hàng tháng chủ t bản Pháp thu đợc từ 12-18 vạn đồng[13,tr30].
Từ khi đặt chân lên tỉnh Thanh, t bản Pháp thực hiện khai thác triệt để
sức ngời, sức của của nhân dân. Ngành công nghiệp trong tỉnh ra đời nhng
không phải phục vụ cho cuộc sống c dân trong vùng mà mục đích làm giàu cho
t bản Pháp.
1.3.3. Thủ công nghiệp

Vốn là ngành kinh tế hỗ trợ cho nông nghiệp trong tỉnh, là nghề phụ
của c dân Thanh Hóa, nông dân tranh thủ lúc nông nhàn, tận dụng nguyên liệu
sẵn có để sản xuất. Làng xã trong các phủ huyện đều có hoạt động sản xuất
thủ công tiêu biểu. Cuối thế kỷ XIX, nghề đẽo đá ở Nhuệ Thôn nổi tiếng sản
xuất đá xanh để dùng làm chiêng, khánh, sản phẩm không chỉ nổi tiếng trong
tỉnh mà còn nổi tiếng trong cả nớc với những mặt hàng độc đáo. Nghề rèn,
đúc cũng nổi tiếng ở Đông Sơn với những sản phẩm xoong, mâm, đồ tế lễ là
nguồn sản phẩm cung cấp khắp thị trờng Bắc kỳ[27,tr522].
Nghề làm nồi đất ở làng Vồm (Thiệu Hóa) độc quyền sản xuất đồ dùng
gia đình, taị đây họ dùng đất để sản xuất các vật dụng, phục vụ đắc lực cho


18

đời sống nhân dân toàn tỉnh. Nổi tiếng nhất vẫn là khu Lò Chum (thị xã Thanh
Hóa), nơi đây sản xuất các loại chum vại nổi tiếng là cơ sở sản xuất lớn ở
Đông Dơng [27,tr522].
Nhng từ khi có sự xâm nhập của t bản Pháp nền kinh tế Thanh Hóa có
sự thay đổi, nhất là nghành thủ công nghiệp trong tỉnh. Nghề thủ công truyền
thống không cạnh tranh đợc với sức sản xuất của các ngành sản xuất mới. Thủ
công nghiệp bị chèn ép dẫn đến suy giảm. Tuy nhiên nghề gốm ở Lò Chum
(thị xã Thanh Hóa) hình thành tơng đối muộn nên bớt đi đợc nhiều yếu tố làng
xã trong nghề, thêm vào đó là những yếu tố mới của nền kinh tế t bản đó là:
phơng thức sản xuất với công nhân thuê, khoán sản phẩm, chủ thầu khoán và
bao mua. Đây là điểm mới trong ngành thủ công nghiệp tại Thanh Hóa nhng
ngời thợ thủ công cha có ý thức tách khỏi lũy tre làng.
Trong khi đó chế độ thực dân phong kiến chỉ quan tâm đến thủ công
nghiệp bằng những chính sách thuế khóa, hoạt động của ngời thợ thủ công thì
buông trôi. Vì vậy đời sống của họ hết sức khó khăn.
1.3.4 Giao thông thơng mại.

Sau khi thiết lập chính quyền đô hộ trên đất Thanh Hóa, thực hiện chính
sách khai thác tài nguyên thiên nhiên trong tỉnh. Thực dân Pháp chú ý ngay tới
việc xây dựng và phát triển giao thông vận tải trong vùng, từ những năm 18851886, Thanh Hóa còn dới chế độ quân quản bọn t bản Pháp đã quan tâm tới
đờng sá vì mục tiêu chiến lợc kinh tế. Ch.Rbequain đã mô tả việc mở đờng
của t bản Pháp với mục tiêu vừa chiến thụât quân sự, vừa kinh tế [79,tr248].
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào sửa chữa, xây dựng và mở
mang thêm nhiều tuyến đờng giao thông. Năm 1901 chúng bắt đầu tiến hành
bắc cầu Hàm Rồng, nối liền hai bên bờ sông Mã, thông suốt con đờng Bắc
Nam. Cầu do hai kỹ s ngời Pháp thiết kế và thi công tên là Dayde và Pille. Vì
địa thế quá phức tạp nên phải bắc cầu treo không xây đợc trụ cầu đến năm


19

1904 cây cầu treo đã đợc khánh thành nối liền đôi bờ sông Mã, giữ vai trò
huyết mạch trong giao thông đờng sắt, đờng bộ từ Bắc vào Nam[24,tr13]. Để
có đựơc kết quả này, hàng trăm công nhân Thanh Hóa đã phải ngã xuống vì
điều kiện bảo hộ không đợc đảm bảo, đời sống cực khổ dới chế độ thực dân.
Nhằm vận chuyển hàng hóa thông suốt Bắc Nam, t bản Pháp đã cho xây
dựng các tuyến giao thông nối liền Thanh Hóa với các tỉnh. Ngày 20/12/1904
bắt đầu khai thác đoạn Ninh Bình đi Hàm Rồng- Vinh Bến Thủy dài 155 km.
Việc mở rộng huyết mạch giao thông đợc thấy rõ vào tháng 6/1906 đờng Bắc
Nam đi lại đợc, nhng hai xe kéo không tránh nhau đợc. Vậy mà năm năm sau
ô tô đã đi lại từ Hà Nội đến tận cửa sông Bạng[79,tr248]. Tuyến đờng sắt t
bản Pháp sử dụng một cách triệt để, chúng xây dựng nhà ga tại các huyện:
Yên Bái, Nghiã Trang để nhằm tập kết hàng hóa, đem lại cho thực dân
nguồn lợi lớn.
Bên cạnh đó, đờng bộ, đờng thủy vẫn giữ một vị trí quan trọng của c dân.
Việc hoàn thiện mạnh lới giao thông Thanh Hóa của t bản Pháp chỉ phục vụ riêng
cho mục đích khai thác vận chuyển hàng hóa của Pháp. Đối với nền kinh tế trong

tỉnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn còn yếu kém về mọi mặt.
1.3.5. Thơng nghiệp
Thơng nghiệp ở Thanh Hóa có sự thay đổi từ khi công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải có sự thay đổi. Trớc đây, hoạt động buôn bán trong
tỉnh chủ yếu là trao đổi các sản phẩm nông, lâm, ng nghiệp giữa các miền
xuôi , ngợc, miền đồng bằng và ven biển, việc buôn bán đa số là tiểu thơng
mua đi bán lại, hoặc cố định chợ làngTuy nhiên chợ tỉnh cùng với việc mở
mang lị sở đã kéo theo mạng lới giao thông mở rộng nối liền các huyện trong
tỉnh với tỉnh bạn. Thị xã Thanh Hóa lập nên sớm tạo cho mình dáng dấp của
một thành thị, riêng về mặt thơng nghiệp Thị xã Thanh Hóa là trung tâm
buôn bán lớn nhất trong tỉnh[27,tr525]. Lúc này đã xuất hiện thơng nhân


20
chuyên nghiệp gồm ngời Hoa và một số ngời ấn Độ, thơng gia ngời Việt buôn
bán trong tỉnh, nhng chỉ với một số mặt hàng tiêu biểu nh: gốm, sứ, gỗ, đồ
đồng Tham gia buôn bán nhỏ chủ yếu là ngời nông dân, thợ thủ công trong
gia đình, họ chỉ mua bán những nhu yếu phẩm mà họ không tự cung cấp đợc.
Việc buôn bán ở Thanh Hóa chỉ giới hạn giữa huyện này và huyện kia,
họ trao đổi những mặt hàng huyện mình không có. Chợ huyện là nơi buôn bán
chủ yếu của c dân nông nghiệp, mỗi huyện trong tỉnh đều có chợ mà đến nay
vẫn còn lu giữ tên xa nh : huyện Vĩnh Lộc có chợ Bồng, huyện Đông Sơn có
chợ Dơng xá song lớn nhất vẫn là chợ tỉnh. Chợ tỉnh không chỉ là nơi trao
đổi hàng hóa trong tỉnh mà cả với các tỉnh khác: đó là chợ Vờn hoa (chợ đợc
họp gần Vờn hoa công viên nên đợc gọi là chợ Vờn hoa). Từ khi giao thông
vận tải đợc mở rộng, việc buôn bán tại chợ tỉnh cũng đợc phát triển hơn nh
năm 1910 đã có khoảng 15 nghìn-20 nghìn trâu bò xuất ra ngoài tỉnh
[79,tr525]. Thuế má là điều đáng lo ngại cho thơng nhân buôn bán trong chợ
những ngời địa phơng buôn bán tại đây cũng phải chịu thuế rất cao theo luồng
quy định của ngời Pháp.

Nh vậy, nền kinh tế Thanh Hóa dới chế độ cai trị của t bản Pháp ngày
càng nghèo nàn , lạc hậu. Sự bòn rút trong ngành nông nghiệp, công nghiệp,
thủ công nghiệp khiến cho kinh tế trong vùng sơ xác, đời sống c dân bần
cùng, cơ cực. Nhân dân xứ Thanh đã bứt phá khỏi sự đè nén của thực dân xâm
lợc bằng phong trào đấu tranh chung trong cả nớc đầu thế kỷ XX.
1.4. Tình hình văn hóa- giáo dục- xã hội

Để phục vụ hơn nữa cuộc khai thác bóc lột kinh tế thuộc địa, Pháp tiến
hành chính sách văn hóa giáo dục mang tính chất thực dân[41,tr51], làm
thay đổi đời sống xã hội của nhân dân Thanh Hóa.
Trớc đây đời sống nhân dân Thanh Hóa luôn giữ gìn bản sắc văn hóa
truyền thống dân tộc bên mình nh: thờ cúng tổ tiên, thờ Thành Hoàng, hội


21

làng học hành thi cử luôn đợc chú ý. Vào những năm cuối thế kỷ XIX Thanh
Hóa vẫn tồn tại nền giáo dục nho học chính thống, nhiều kỳ thi đợc mở ra để
chọn ngời hiền tài trong tỉnh đều đặn mỗi khóa. Cho đến khi chủ nghĩa thực
dân xâm nhập vào trong vùng thì giáo dục, văn hóa, xã hội ở Thanh Hoá có sự
thay đổi.
Giáo dục trong tỉnh thể hiện sự thay đổi rõ rệt nhất, bởi đầu thế kỷ XIX
ảnh hởng của sĩ phu yêu nớc chống Pháp, đặc biệt hoạt động của phong trào
Cần Vơng ở Thanh Hóa với các lãnh tụ phần lớn xuất thân từ khoa bảng nên
TDP thấy cần phải nhanh chóng xóa bỏ giáo dục khoa cử ở Thanh Hóa, để
thay thế nền giáo dục thực dân, giáo dục Pháp -Việt. Chúng đa chữ quốc ngữ
và một phần sơ đẳng của chữ Pháp vào các trờng của tỉnh, phủ, huyện. Học
sinh vào huyện các trờng của huấn đạo, giáo thụ phải qua một kỳ thi tuyển với
chữ quốc ngữ bắt buộc, chữ nho chữ Pháp không bắt buộc. Trờng loại này đợc
thiết lập vào năm 1903 theo dụ của nhà vua, thống trị của bộ trởng bộ giáo

dục và chỉ thị của Khâm sứ Trung kỳ kí ngày 4/6/1914. Đây là thời kỳ tồn
tại của một nền giáo dục hỗn hợp (mixte)[27,tr527].
Tuy nhiên, Thanh Hóa vẫn chỉ có một trờng trung học và một số trờng
tiểu học, tổng số học sinh trong toàn tỉnh chỉ có 7 nghìn ngời, trong đó đa số
con em quan lại giàu có. Tại các làng quê, trờng làng hoạt động lay lắt bởi cơ
sở vật chất thiếu thốn, nghèo nàn, TDP chỉ chăm lo tới nền giáo dục mới, phục
vụ cho mục đích của chủ nghĩa thực dân mà thôi.
Trong lúc đó TDP khuyến khích nhân dân dùng rợu cồn, thuốc phiện
nhằm làm suy kiệt ý chí, tha hóa về đạo đức và băng hoại về tinh thần của
nhân dân. Lúc ấy trong một trăm làng thì có đến 1500 cửa hiệu bán hàng rợu
và thuốc phiện[27,tr23]. Tại thị xã Thanh Hóa các đại lý, cửa hiệu đua nhau
mọc lên với những lá cờ của nớc Pháp mang chữ RA (chỉ nơi đại lý bán rợu),


22

RO (chỉ đại lý bán thuốc phiện). Hàng năm Pháp thu đợc một khoản lợi nhuận
lớn tại các cửa hiệu này.
Chúng còn phá hoại thuần phong mỹ tục của nhân dân ta bằng cách phá
hoại truyền thống văn hóa Việt Nam thông qua dung dỡng và phát triển cờ
bạc, mại dâmNhững sòng bạc, nhà chứa, nhà hát cô đầu mọc lên khắp nơi
trong thị xã, lan sang cả các phủ huyện xa xôi. TDP còn ru ngủ nhân dân trong
tỉnh bằng việc đẩy mạnh tuyên truyền các tôn giáo, khuyến khích việc tế lễ,
cúng bái, bói toán Tại thị xã, chúng cho xây dựng một nhà thờ lớn với các
khu nhà Chung, nhà Xứ và cả các huyện xa nh : Nga Sơn, Tĩnh Gia, Cẩm
Thủy hàng trăm nhà thờ đợc dựng lên nhằm gieo rắc lòng tin của giáo dân
vào đấng tối cao, kích động mâu thuẫn lơng, giáo để nhân dân không còn cơ
hội nhận đợc cuộc sống hiện tại. Chùa chiền cũng đợc dựng lên khắp nơi trong
tỉnh nhằm gây tiêu tốn sức ngời, sức của của nhân dân.
Nói chung, chính sách văn hóa giáo dục của TDP áp dụng với nhân dân

Thanh Hóa với mục đích xóa nhòa truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc
nói chung, của nhân dân Thanh Hóa nói riêng và làm lung lạc tinh thần đấu
tranh chống ngoại xâm của nhân dân.
Từ chính sách kinh tế, khai thác thuộc địa của Pháp, xã hội Thanh Hóa
có sự biến động rõ rệt: giai cấp trong xã hội phong kiến cũ bị phân hóa (địa
chủ- nông dân) làm nảy sinh những lực lợng xã hội mới (giai cấp công nhân,
tầng lớp t sản và tiểu t sản). Bộ mặt nông thôn không thay đổi, vẫn chìm đắm
trong trật tự phong kiến với sự bần cùng hóa nhanh chóng của giai cấp nông
dân, họ là đối tợng bóc lột chính của đế quốc thực dân và phong kiến địa chủ.
Họ phải vất vả, khốn khổ vì nạn thuế khóa, phu phen, tạp dịchDo đó họ có
mối thù sâu sắc với đế quốc, phong kiến, có tinh thần đấu tranh, là lực lợng
cách mạng to lớn.


23

Giai cấp địa chủ Thanh Hóa chiếm tỷ lệ không nhiều, nhng chiếm tới
25% diện tích ruộng đất trong tỉnh. Sự xâm lợc của t bản Pháp khiến địa chủ
phân hóa làm hai bộ phận: bộ phận địa chủ giàu có lên nhờ vào Pháp, làm tay
sai đắc lực cho Pháp. Bộ phận trung và tiểu địa chủ bị đế quốc chèn ép, đụng
chạm tới quyền lợi nên ít nhiều có tinh thần chống đế quốc.
Giai cấp công nhân là giai cấp mới xuất hiện trong cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất. Công nhân Thanh Hóa tập trung chủ yếu ở xởng nấu rợu,
khuôn vác ở bến cảng, chợ búa, làm đờng, đồn điền, nhng trong thời gian này
số lợng công nhân không nhiều lắm. Đây là lớp công nhân đầu tiên ở Thanh
Hóa, ra đời trong sự áp đặt có tính chất cỡng bức từ bên ngoài, từng trải qua
sự bần cùng trong đời sống nông dân nên công nhân và nông dân có quan hệ
khăng khít với nhau, nhanh chóng liên minh cùng nhau, tạo thành một khối
vững chắc trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp tại Thanh Hóa làm xuất

hiện tầng lớp t sản, họ là những ngời trung gian làm thầu khoán, đại lý tiêu
thụ, cung cấp nguyên vật liệuBên cạnh đó tầng lớp tiểu t sản trong tỉnh cũng
xuất hiện chủ yếu là: nhà giáo, viên chức làm việc trong các công sở, nhà báo,
học sinhgóp phần không nhỏ trong cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lợc của
nhân dân Thanh Hóa những năm đầu thế kỷ XX.
1.5. Truyền thống yêu nớc của nhân dân Thanh Hóa.

Thanh Hóa vốn là chiếc nôi hình thành dân tộc Việt Nam, vùng đất có bề
dày lịch sử đã tạo nên những anh hùng kiên trung bất khuất mà lịch sử dân tộc
còn mãi lu danh. Viết về vùng dất này, một học giả ngời Pháp đã nhận xét:
Đối với đất Trung kỳ thì Thanh Hóa hơn Hà Nội ở chỗ: trong những giờ phút
tổ quốc lâm nguy đây là nơi thiêng liêng nhất để bảo vệ lòng tin của dân tộc.
Chính nơi đất thánh này đã bảo tồn những di hài của các vị vua chúa, là nơi sản
sinh ra những đấng anh hùng dũng cảm và oanh liệt nhất cho đất nớc[81,tr3].


24

Từ cuộc đấu tranh chống ách nô dịch ngoại bang, nhân dân Cửu Chân (tên
gọi đầu tiên ở Thanh Hóa dới thời Hồng Bàng) đã tham gia khởi nghĩa hai Bà
Trng (năm 40-43) chiếm thành T Phố và giải phóng các thành khác ở các
huyện trong quận. Đây là thắng lợi mở đầu sau hơn 200 năm mất nớc, độc lập
dân tộc đợc phục hồi có sự đóng góp đáng kể của nhân dân Cửu Chân. Từ đây
sự nghiệp anh hùng của ngời An Nam nhng Thanh Hóa là chốn vũ đài trong
suốt thời kỳ đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Năm 248 Triệu Thị Trinh- ngời con gái xứ Thanh lấy căn cứ tỉnh nhà-núi
Na (Nông Cống) làm vị trí chiến lợc quân sự quan trọng trong cuộc chiến
chống ách ngoại bang. Không khí hào hùng của chiến thắng đã vang dội khắp
miền, làm chấn động cả triều đình nhà Ngô. Nhân dân Thanh Hóa vẫn còn
ghi lại bài ca dao phản ánh không khí đầu quân sôi nổi:

Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nớc rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà triệu tớng cỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiến cho chồng ra quân[23,tr55]
Đến cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Nam Hán (930-931) tại làng
Ràng (huyện Đông Sơn) đã hình thành một trung tâm của cả nớc do Dơng
Đình Nghệ đứng đầu, ông đã chiêu mộ trai tráng luyện tập võ nghệ chuẩn bị
cho cuộc chiến. Sự nghiệp vẻ vang này đợc ghi lại qua đôi câu đối tại đền thờ
Dơng Đình Nghệ:
Dỡng tam thiên sĩ từ dĩ phục thù hằng hằng kinh khí
Chớng bát vạn hùng s nhi xuất chiến lẫm lẫm uy thanh
tạm dịch:
Nuôi ba nghìn con nuôi khí mạnh khôn cùng
Cầm tám vạn quan mạnh mà ra trận oai thanh lừng lẫy[23,tr58]


25

Ngay từ buổi đầu đấu tranh khôi phụ quyền tự chủ, nhân dân Thanh Hóa
đảm đơng sứ mệnh lớn lao giành lại quyền độc lập cho dân tộc. Nơi đây đã
sản sinh ra một lực lợng hùng hậu với những đấng anh hùng dũng cảm bậc
nhất trong cả nớc, là cơ sở vững chắc cho mỗi cuộc chiến chống xâm lợc. Nhng điều đáng nói nhất vẫn là ý chí quyết tâm, kiên cờng bất khuất của ngời
dân xứ Thanh, họ đã không chịu sự áp bức của ngoại bang mà đoàn kết cùng
nhau chống lại chính quyền đô hộ. Yếu tố đó tạo thành truyền thống đấu
tranh chống xâm lợc của nhân dân xứ Thanh.
Bớc vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt, nhân dân Thanh
Hóa vẫn không ngừng củng cố xây dựng và đóng góp cho quốc gia hùng
mạnh. Thế kỷ X tụ điểm dân c và trung tâm kinh tế lớn đã có mặt ở vùng quan

trọng của Châu ái, tiêu biểu là lị sở T Phố ở làng Ràng (Đông Sơn). Trong
cuộc đấu tranh suốt 33 năm chống quân Nam Hán, chiến thắng Bạch Đằng
vang dội cùng với nhân dân cả nớc nhân dân Thanh Hóa đã tập hợp chung
quanh Ngô Quyền làm nên trận thủy chiến đầu tiên trong lịch sử chống ngoại
xâm của nhân dân ta mà d âm còn vang vọng đến ngàn thu[23,tr93].
Năm 968 triều Đinh đợc thành lập trong khung cảnh đất nớc cơ bản đợc
thống nhất, nhng vận mệnh dân tộc luôn bị đe dọa bởi nguy cơ xâm lợc của
nhà Tống. Trong kế sách Tiền Nam Hậu Bắc Đại Cồ Việt trở thành đối tợng
trinh phục của nhà Tống. Nền độc lập mới giành đợc đã bị đe dọa. Lê Hoàn
với t cách là Nhiếp Chính Phó Vơng đợc các tớng sĩ tôn lên ngôi Hoàng đế,
nhanh chóng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Tống của nhân dân Châu ái
dành thắng lợi. Tên tuổi vị anh hùng xứ Thanh còn vang mãi với việc sáng lập
ra triều Tiền Lê.
Thời Lý- Trần, Châu ái đợc đổi thành phủ Thanh Hóa kinh đô đợc rời từ
Hoa L ra Thăng Long. Thanh Hóa không còn là vùng trung tâm nữa song
trong quá trình giữ nớc và dựng nớc Thanh Hóa luôn đợc sự quan tâm, chú ý
của các vua Lý Trần bởi đây là vùng đất tiềm ẩn sức mạnh của con ngời đợc


×