BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH THẾ ĐỊNH
Nghệ An - 2013
4
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
Thầy giáo, Cô giáo Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh đã tận tình
truyền đạt những tri thức quý báu, đã dìu dắt giúp đỡ tôi hoàn thành tốt nhiệm
vụ của khoá học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Đinh Thế Định,
đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hướng dẫn, đóng
góp nhiều ý kiến quý báu cho tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Sau đại học Trường Đại học Vinh, cán
bộ và Hội viên các cấp Hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã tham gia khảo sát, tập
thể lãnh đạo, cán bộ, công chức cơ quan Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh, bạn bè,
gia đình và người thân đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành khoá học và hoàn thành tốt luận văn thạc sĩ của mình.
Mặc dù, đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện luận văn. Song,
không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót trong luận văn. Tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp và sự chỉ dẫn quý báo của Thầy, Cô và các bạn.
Hà Tĩnh, tháng 10 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Thị Việt Hà
5
MỤC LỤC
A
B
Chương 1:
1.1
1.1.1
1.1.2
1.2
1.2.1
1.2.2
1.2.3
1.3
1.3.1
1.3.2
1.3.3
Chương 2:
2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
Chương 3:
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Giáo dục pháp luật một trong những nhiệm vụ cơ bản
của Hội liên hiệp phụ nữ trong giai đoạn hiện nay
Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật
Một số khái niệm
Mục đích, chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giáo dục
pháp luật cho phụ nữ
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Vai trò của tổ chức hội phụ nữ trong việc giáo dục pháp
luật cho hội viên ở giai đoạn hiện nay
Nội dung, hình thức, và phương pháp giáo dục của Hội
liên hiệp phụ nữ
Sự cần thiết của giáo dục pháp luật cho phụ nữ trong giai
đoạn hiện nay
Vị trí, mục đích giáo dục pháp luật
Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội
Sự cần thiết về tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
pháp luật cho phụ nữ
Thực trạng công tác giáo dục pháp luật của Hội liên
hiệp phụ nữ Hà Tĩnh
Khái quát đặc điểm tình hình tỉnh Hà Tĩnh và Hội liên
hiệp phụ nữ Hà Tĩnh
Khái quát đặc điểm tình hình tỉnh Hà Tĩnh
Khái quát đặc điểm tình hình Hội LHPN tỉnh Hà Tĩnh
Trình độ, năng lực công tác của Đội ngũ cán bộ Hội liên
hiệp phụ nữ Hà Tĩnh
Thực trạng ý thức pháp luật và chấp hành pháp luật của
cán bộ, hội viên phụ nữ Hà Tĩnh
Thực trạng giáo dục pháp luật của Hội LHPN Hà Tĩnh
Những kết quả đạt được
Hạn chế, khó khăn
Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo
Trang
6
12
12
12
12
19
22
22
25
29
32
32
36
37
40
40
40
47
51
52
58
58
62
69
6
3.1
3.1.1
3.1.2
3.1.3
3.2
3.2.1
3.2.2
3.2.3
3.2.4
3.2.5
3.2.6
C
D
dục pháp luật của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh trong
giai đoạn hiện nay
Phương hướng giáo dục pháp luật của Hội liên hiệp phụ
nữ Hà Tĩnh
Xây dựng kế hoạch, chương trình giáo dục pháp luật của
Hội LHPN Hà Tĩnh phù hợp với mục đích, nhiệm vụ của
Hội, sát với tình hình địa phương
Hoàn thiện hệ thống văn bản về giáo dục pháp luật
Phối hợp với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể để tăng
cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho cán
bộ, hội viên phụ nữ
Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục
pháp luật của Hội LHPN Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay
Xây dựng đội ngủ cán bộ hội từ tuyến tỉnh xuống xã làm
công tác giáo dục pháp luật theo hướng chuyên nghiệp
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho
cán bộ, hội viên phụ nữ
Kết hợp giáo dục pháp luật với việc nâng cao trình độ mọi
mặt, đặc biệt là giáo dục phẩm chất đạo đức cho phụ nữ
Nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho cán bộ, hội
viên phụ nữ thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng
Thành lập các trung tâm tư vấn pháp luật cho phụ nữ
Thực hiện có hiệu quả chương trình cấp miễn phí các ấn
phẩm báo, tạp chí phụ nữ hàng quý
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCV
Báo cáo viên
CNTT
HĐND
LHPN
PBGDPL
TTPBGDPL
Công nghệ thông tin
Hội đồng nhân dân
Liên hiệp phụ nữ
Phổ bến giáo dục pháp luật
Tuyên truyền phổ bến giáo dục pháp luật
69
69
70
72
74
74
78
81
83
90
93
100
103
7
TW
UBND
Trung ương
Ủy ban nhân dân
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận và thực tiển đã khẳng định, trong xã hội loài người, phụ nữ là
cái nôi nối tiếp cho sự sống muôn đời, là người thầy đầu tiên của con người,
là một trong những nguồn lực chính để phát triển xã hội và đã có những đóng
góp lớn lao vào sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Cùng với biết
bao thăng trầm thịnh suy của lịch sử nhân loại, nhưng hình ảnh người phụ nữ
vẫn luôn là biểu tượng cao đẹp của con người. Vì thế, vấn đề của phụ nữ
không phải là vấn đề riêng biệt của từng quốc gia, mà trở thành vấn đề chung
của toàn nhân loại, toàn cầu.
8
Ở nước ta, ngay sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã đặt
vấn đề giải phóng phụ nữ thành một nhiệm vụ quan trọng, là một trong những
mục tiêu của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự
phát triển của đất nước. Trong Luận cương chính trị của Đảng đã chỉ rõ: “Đảng
cần tổ chức ra đoàn thể phụ nữ, phụ nữ hiệp hội, mục đích là mưu quyền lợi
cho phụ nữ, làm cho phụ nữ triệt để giải phóng” [22; 34].
Ngày nay, xã hội đang trên đà phát triển, tư tưởng ngày càng tiến bộ và
pháp luật đang tự hoàn thiện mình, phụ nữ được quyền tham gia mọi hoạt
động xã hội, họ có quyền bình đẳng. Quyền bình đẳng của phụ nữ được khẳng
định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992:
“Công dân Việt Nam có quyền ngang nhau về mặt chính trị, kinh tế, xã hội...
Nhà nước tạo mọi điều kiện để phụ nữ nâng cao mọi mặt, không ngừng phát
huy vai trò của mình trong xã hội” [23; 98]. Vì vậy, phụ nữ cần phải được
trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về chính trị, pháp luật để đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới cũng như để bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam luôn hoạt động với mục tiêu vì sự phát triển, bình đẳng
của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của phụ
nữ. Để làm được điều đó, đòi hỏi tổ chức Hội liên hiệp phụ nữ phải đẩy mạnh
công tác giáo dục pháp luật, nâng cao kiến thức pháp luật nhằm làm cho phụ
nữ hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
Hà Tĩnh, sau hơn 20 năm tái lập, với xuất phát điểm thấp là một tỉnh
tách từ tỉnh Nghệ Tĩnh, cuộc sống của mỗi người dân đã được cải thiện về
mọi mặt. Song bên cạnh đó, trình độ nói chung và trình độ pháp lý của người
dân nói riêng còn rất hạn chế đặc biệt là nhóm phụ nữ, phụ nữ nghèo và đối
tượng chính sách. Tỷ lệ phụ nữ, đặc biệt trẻ em gái vị thành niên vi phạm
9
pháp luật do không hiểu biết pháp luật có xu hướng tăng; các vụ khiếu kiện,
khiếu nại do thiếu kiến thức và hiểu biết pháp luật còn xẩy ra.
Công tác giáo dục pháp luật của Hội LHPN Hà Tĩnh trong thời gian qua
đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần vào yêu cầu quản lý Nhà nước
bằng pháp luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho phụ nữ đảm bảo mục
tiêu: “Mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Tuy nhiên,
trong thực tế công tác giáo dục pháp luật của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh
cho phụ nữ có lúc có nơi chưa được đặt ngang tầm với yêu cầu quản lý xã hội,
quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, hệ thống
pháp luật ngày càng được hoàn chỉnh, nhưng việc giáo dục pháp luật chưa đáp
ứng với yêu cầu mới. Đội ngũ cán bộ Hôi phụ nữ thực hiện công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật còn nhiều yếu kém và bất cập, phương pháp
chuyển tải các kiến thức pháp luật đến với hội viên còn nhiều hạn chế...
Là một công chức làm việc tại Hội LHPN tỉnh, tôi mong muốn đóng
góp một phần công sức giúp tổ chức Hội nâng cao chất lượng, thực hiện tốt
công tác giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ nhận thức cho phụ nữ về pháp
lý. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng giáo dục
pháp luật của Hội LHPN Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” làm luật văn
Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Vấn đề giáo dục pháp luật đã có nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước
ban hành: Chỉ thị số 02/1998 CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng chính
phủ “Về tăng cường công tác phổ biến pháp luật”; Quyết định số: 03/1998
ngày 19/6/1998 của Bộ tư pháp hướng dẫn các ngành, chính quyền địa
phương các cấp về “Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho
nhân dân”; Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khoá IX) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
10
nhân dân”; Thông báo số 74-TB/TW, ngày 11/5/2007 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khoá X) về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 2160/2010/QĐ-TTg, ngày 26/11/2010
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Tăng cường công tác phổ biến
giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho Thanh thiếu niên giai
đoạn 2011 – 2015; Chỉ thị số 17/2010/CT-UBND ngày 12/10/2010 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về việc tăng cường công tác phổ biến giáo dục
pháp luật trên địa bàn tỉnh; Luật phổ biến giáo dục pháp luật số
14/2012/QH13 của Quốc Hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 20/6/2012.
Như vậy, công tác giáo dục pháp luật đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Đặc biệt việc ban hành các văn bản đã đề cập khá cụ
thể các nội dung, đặc trưng, yêu cầu và giải pháp đẩy mạnh công tác giáo dục
pháp luật trong mỗi giai đoạn, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong việc tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật.
- Việc nghiên cứu nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật được nhiều
nhà nghiên cứu lý luận, các nhà quản lý, lãnh đạo quan tâm trong các thời kỳ,
dưới những góc độ khác nhau. Trong đó tiêu biểu như: Luận án Phó tiến sĩ
năm 1996; Đinh Xuân Thảo: “Giáo dục pháp luật trong các trường Trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay”; Luận án Phó Tiến sĩ
(1997); Nguyễn Đình Lộc: “Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt
Nam”; Luận án Phó Tiến sĩ (1998); Trần Ngọc Đường: “Giáo dục ý thức pháp
luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”; Luận văn Thạc sĩ luật
học (2002); Đỗ Văn Dương: “Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp
xã ở tỉnh Đăk Lắk hiện nay”; Luận văn Thạc sĩ luật học (2004); Hoàng Trung
Thành: “Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện
11
nay”; Luận văn Thạc sĩ luật học (2008); Bùi Xuân Thập: “Giáo dục pháp luật
cho cán bộ công nhân viên chức ngành TDTT Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện
nay”…
Các công trình nghiên cứu đã cho ta có được cái nhìn tổng quát về công
tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đến đại bộ phận quần chúng nhân dân với
những thành phần khác nhau trong xã hội.
Tuy nhiên, nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của Hội liên hiệp
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn đề
này và chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và
có hệ thống về nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của Hội liên hiệp phụ
nữ Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện,
đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm tìm ra phương hướng,
giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của Hội liên hiệp phụ nữ
trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn này được nghiên cứu, xây dựng từ những vấn đề thực tiễn đặt
ra trong môi trường công tác của bản thân tác giả, qua khảo sát kết quả công
tác giáo dục pháp luật cho phụ nữ của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh và không
trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của tổ chức Hội cho phụ nữ,
góp phần xây dựng ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý cho cán bộ, hội viên
phụ nữ, từng bước đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu ra trên đây, luận văn tập trung
giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
12
- Làm rõ cơ sở lý luận và tầm quan trọng của công tác giáo dục pháp
luật của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về công tác giáo dục pháp
luật của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh và ý thức chấp hành pháp luật của phụ
nữ.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục pháp luật của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giáo dục pháp luật
của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh làm cơ sở đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của tổ chức Hội trong thời gian tới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về công tác
giáo dục pháp luật của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh và ý thức pháp luật, chấp
hành pháp luật của cán bộ, hội viên phụ nữ trong những năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác giáo dục pháp luật.
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với những phương pháp nghiên cứu khoa
học cụ thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học, v.v. để làm sáng
tỏ mục tiêu luận văn đặt ra.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của
Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh có cơ sở khoa học và có tính khả thi, sẽ góp
13
phần nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng kiến thức luật pháp của tổ chức
Hội và ý thức chấp hành pháp luật của phụ nữ
7. Đóng góp của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể tham khảo vận dụng để xây dựng
kế hoạch, chương trình hành động, tổ chức các hoạt động bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho phụ nữ ở các cấp Hội.
- Tài liệu tham khảo cho các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện,
Hội liên hiệp phụ nữ các cấp và các ban nữ công trong việc bồi dưỡng kiến
thức pháp luật cho cán bộ, hội viên phụ nữ.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài được cấu trúc
thành 3 chương:
Chương I: Giáo dục pháp luật- một trong những nhiệm vụ cơ bản của
Hội liên hiệp phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
Chương II: Thực trạng công tác giáo dục pháp luật của Hội liên hiệp
phụ nữ Hà Tĩnh.
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
pháp luật của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
14
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT - MỘT TRONG NHỮNG NHIỆM VỤ CƠ
BẢN CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm pháp luật
Theo từ điển tiếng việt của nhà xuất bản Thanh niên, pháp luật được
hiểu: “Pháp luật là quy tắc, hành vi của công dân do Nhà nước quy định, ban
hành buộc phải tuân theo, không được trái phạm” [14; 268].
Theo tài liệu pháp luật trên hệ thống thư viện điện tử, pháp luật được
định nghĩa như sau: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều
chỉnh các quan hệ xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp
cầm quyền và được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước”.
Theo tài liệu cẩm nang nghiệp vụ công tác phụ nữ thời kỳ hội nhập
WTO của nhà xuất bản Văn hóa thông tin, pháp luật được định nghĩa như sau:
“Pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
thể hiện ý chí của nhà nước, được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện
pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế; có tính bắt buộc chung và
được thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội” [3; 21].
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một hệ
thống pháp luật tương ứng. Lịch sử xã hội loài người đã có các hệ thống
pháp luật: pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật hoàn toàn không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản
tính tự nhiên phi giai cấp của con người như học thuyết pháp luật tự nhiên quan
niệm. Pháp luật, như C.Mác, Ănghen phân tích, chỉ phát sinh, tồn tại và phát
triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước; bản chất của pháp luật thể hiện ở tính
15
giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng mang tính xã hội, bởi vì ở mức
độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm những yêu cầu chung của xã hội về
văn hóa, phúc lợi, môi trường sống… Về mặt này, pháp luật xã hội chủ nghĩa có
sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội.
Pháp luật là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng xã hội.
Nó do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ
tầng. Nếu pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển
của xã hội, nhất là các quy luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác động tích cực
đối với phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, pháp luật sẽ kìm hãm sự phát
triển đó.
Trong lịch sử, bất cứ giai cấp cầm quyền nào cũng dựa vào pháp luật để
thể hiện và thực hiện chính trị của giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình
thức thể hiện tập trung, trực tiếp chính trị của giai cấp cầm quyền, là một công
cụ sắc bén thể hiện quyền lực của Nhà nước thực hiện những yêu cầu, mục
đích, nội dung chính trị của nó. Do đó, Nhà nước nào pháp luật ấy. Những
thuộc tính cơ bản của pháp luật là tính quy phạm, tính cưỡng chế, tính khách
quan, tính Nhà nước, tính hệ thống và tương đối ổn định.
Như vậy, Pháp luật được hiểu một cách cụ thể nhất là hệ thống các quy
tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội do Nhà nước ban hành, thể
hiện ý chí của giai cấp cầm quyền có tính bắt buộc chung và được thực hiện
lâu dài nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ óc con người, ý thức
có kết cấu phức tạp bao gồm các yếu tố cơ bản như: cảm xúc, nhu cầu, ý chí,
tri thức... trong đó tri thức là quan trọng nhất và là phương thức tồn tại của ý
thức. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống... nảy sinh từ tồn tại
16
xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng đời sống tinh thần xã hội hình
thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn
gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong
đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời
đại nào đó cũng không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại
ấy. C.Mác viết:... “Không thể nhận định được về một thời đại đảo lộn như thế
căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những
mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng xung đột hiện có giữa các lực lượng sản
xuất xã hội và những quan hệ xã hội” [21; 15]. Luận điểm đã chỉ rõ rằng, tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội,
phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất
biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật... sớm muộn sẽ biến đổi theo.
Vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận,
quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau
của đời sống vật chất quyết định.
Song, ý thức xã hội cũng tác động trở lại tồn tại xã hội, bởi ý thức xã
hội mang tính độc lập tương đối, Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính
trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... đều dựa trên cơ sở sự
phát triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến
cơ sở kinh tế” [21; 127]. Như vậy, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự
phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất
của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng đối với các nhu cầu phát
triển xã hội; vào mức độ rộng của tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản
tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.
Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau: ý thức chính trị; ý
thức triết học, ý thức đạo đức; ý thức tôn giáo; ý thức pháp luật … Ở góc độ
17
nghiên cứu của đề tài này, hình thái ý thức xã hội được đề cập đến là ý thức pháp
luật (pháp quyền).
Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp
về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, các tổ
chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con
người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong việc
thực thi pháp luật của Nhà nước. Ý thức pháp quyền ra đời cùng với Nhà nước;
nó phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ
sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật.
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ. Do
đó, mỗi chế độ xã hội, mỗi Nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai
cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp
khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của
giai cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức
mạnh cưỡng chế của Nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và
tâm lý pháp luật của xã hội.
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, về cấu trúc bao gồm
hai bộ phận: Tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật. Tâm lý pháp luật hình
thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng, cảm xúc đối với các
hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội. Tư tưởng pháp luật là tổng
hợp các quan điểm, quan niệm có tính lý luận, phản ánh các hiện tượng pháp
luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa
học. Ý thức pháp luật của một người có vai trò rất quan trọng trong việc thực
hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, nâng cao ý thức pháp luật là trách
nhiệm của mỗi công dân.
Ý thức pháp luật là nhận thức của con người về hành vi pháp luật. Đặc
điểm cơ bản của ý thức pháp luật là có hành vi tích cực: đó là sự hiểu biết và
tôn trọng pháp luật, tôn trọng hiến pháp; hành vi tiêu cực: là tất cả những hành
18
vi do vô tình hay cố ý xem thường pháp luật. Vấn đề xây dựng ý thức pháp
luật ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm và trở thành một trong những cơ
sở quan trọng của công tác tuyên truyền pháp luật.
1.1.1.3. Khái niệm giáo dục pháp luật
Sự phát triển của lý luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, đặc
biệt là trong những năm đổi mới đã đi đến khẳng định giáo dục pháp luật là
một dạng giáo dục có tính độc lập tương đối trong hệ thống giáo dục nói
chung. Điều này cho phép nghiên cứu giáo dục pháp luật trên các nội dung
chủ yếu về khái niệm, mục đích, chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật
một cách khoa học và toàn diện.
Để hiểu khái niệm giáo dục pháp luật đúng đắn phải dựa trên cơ sở
quan điểm lý luận về giáo dục Mác xít, trong đó khái niệm giáo dục pháp luật
thường xuất phát từ khái niệm của khoa học sư phạm. Trong khoa học sư
phạm, khái niệm giáo dục được hiểu theo hai phương diện sau:
Theo nghĩa rộng: Giáo dục đó là quá trình ảnh hưởng của những điều
kiện khách quan (chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống...)
và những tác động của nhân tố chủ quan (tác động tự giác, định hướng của
nhân tố con người).
Theo nghĩa hẹp: Giáo dục đó là quá trình tác động định hướng của nhân
tố chủ quan lên khách thể giáo dục (hay đối tượng) nhằm đạt mục đích nhất
định.
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các nhân tố khách quan
là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, nhưng các nhà lý
luận, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh các yếu tố tác động hàng đầu
cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan
trong giáo dục pháp luật. Vì thế khái niệm giáo dục pháp luật thường được
xây dựng theo nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm,
được xác định trong các yếu tố sau:
19
Thứ nhất: Mặc dù sự hình thành ý thức của con người là quá trình ảnh
hưởng tác động thống nhất của các điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan
nhưng nhân tố chủ quan bao giờ cũng là yếu tố tích cực, quyết định. Về các
điều kiện khách quan, quản điểm lý luận Mác – Lênin cho rằng: “Trong quá
trình giáo dục người lao động không được tách rời những điều kiện tồn tại của
xã hội như chế độ kinh tế, chính trị với những giai đoạn cụ thể của sự phát
triển xã hội ấy” [21; 158]. Sự thay đổi của điều kiện đó sẽ tạo khả năng phát
triển đời sống tinh thần của quần chúng và do đó ảnh hưởng của giáo dục
cũng khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của các điều kiện khách quan
tác động lên việc hình thành ý thức con người đã được các nhà giáo dục quan
tâm trước khi tiến hành hoạt động giáo dục.
Tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối
với việc hình thành ý thức con người nhưng các nhà kinh điển lại nhấn mạnh
tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng của nhân tố chủ quan, mà trước hết là
hoạt động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan
Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội. C.Mác đã viết: Con người chính là sản
phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Do đó con người thay đổi vẫn là sản phẩm
của hoàn cảnh, giáo dục đã thay đổi. V.I.Lênin cũng đã nhấn mạnh ý thức
chính trị, ý thức pháp luật được hình thành trong quá trình giáo dục của con
người. Ông cho rằng giáo dục là phương pháp hoạt động chính của các tổ
chức Đảng và các cơ quan Nhà nước.
Trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã xác định rõ vấn đề giáo
dục con người, Người viết: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện; tỉnh dậy phân ra
kẻ dữ - hiền; hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”
[22; 107]. Người cũng đã nhiều lần nhấn mạnh: Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã
hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Như vậy sự hình thành ý thức cá nhân con người là sản phẩm của một
quá trình phức tạp, trong đó có nhiều yếu tố cùng ảnh hưởng và tác động.
20
Trong đó điều kiện khách quan là nhân tố ảnh hưởng còn nhân tố chủ quan là
nhân tố tác động. Nhân tố ảnh hưởng (khách quan) có thể tự phát theo chiều
này hoặc chiều khác, còn nhân tố tác động (chủ quan) bao giờ cũng là tự giác,
có ý thức, có chủ định theo một hướng xác định.
Thứ hai: Xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp của
giáo dục có ý nghĩa trong việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với
phạm trù hình thành ý thức pháp luật.
Hai phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không phải là
đồng nhất. Ở đây hoạt động giáo dục pháp luật đó chính là sự tác động của
nhân tố chủ quan mà trước hết đó là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ
định thành một hệ thống của nhiều chủ thể, còn sự hình thành ý thức pháp luật
là sản phẩm của các ảnh hưởng mà điều kiện khách quan lẫn sự tác động định
hướng của nhân tố chủ quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa trong
việc phân định rõ về nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục
pháp luật cho phù hợp.
Thực tiễn chỉ ra rằng, kết quả của giáo dục chỉ đạt được khi xác định
đúng đắn nội dung, hình thức, phương tiện giáo dục đồng thời có nghệ thuật
khéo léo định hướng các yếu tố phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ và
đối với từng khách thể giáo dục khác nhau thì kết quả giáo dục mới đạt kết
quả cao. Ngược lại nếu buông trôi, thả lỏng các điều kiện và các yêu cầu nêu
trên thì các ảnh hưởng tiêu cực khách quan sẽ có điều kiện lan rộng và phát
triển.
Thứ ba: Xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học
sư phạm để xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật. Ở mối quan hệ này theo
triết học Mác - Lênin giáo dục pháp luật là cái riêng còn giáo dục là cái
chung. Cái chung bao hàm cái riêng, cái riêng sâu sắc hơn cái chung. Chính từ
mối quan hệ này cho phép chúng ta rút ra vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận
hết sức quan trọng trong công tác giáo dục pháp luật .Giáo dục pháp luật vừa
21
phải thể hiện những nét chung của quá trình giáo dục, vừa chứng tỏ mình có
những nét riêng đặc thù.
Nét đặc thù của giáo dục pháp luật khác tương đối so với các dạng giáo
dục khác ở những điểm sau:
Một là: Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt
động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ, có ý thức pháp luật
cao, góp phần tăng cường hiệu quả của pháp luật.
Hai là: Giáo dục pháp luật có nội dung riêng. Đó là sự tác động có định
hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải từ tri thức về Nhà nước và pháp luật
mà trong đó pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận cơ bản
quan trọng nhất.
Ba là: Xét về yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương
pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra nét đặc thù riêng của giáo dục pháp luật.
Chẳng hạn như so với các dạng giáo dục thì giáo dục pháp luật là quá trình tác
động thường xuyên, liên tục, lâu dài hơn chứ không phải là sự tác động một
lần như là đối tượng giáo dục. Vì thế giáo dục pháp luật trở thành hoạt động
thường xuyên trong các gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các tổ chức
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội.
1.1.2. Mục đích, chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật
- Mục đích của giáo dục pháp luật
Mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên cấu
trúc bên trong của giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng đắn các mục đích
cần đạt được trong quá trình giáo dục pháp luật đóng vai trò quan trọng trong
lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay
giáo dục pháp luật được xác định có những mục đích cơ bản sau:
+ Thứ nhất: trang bị kiến thức.
22
Nâng cao dân trí nói chung, trình độ văn hóa pháp lý nói riêng, hình
thành sâu sắc và từng bước mở rộng tri thức pháp luật cho công dân. Thông
qua việc giáo dục pháp luật mà cung cấp, trang bị cho con người tri thức cơ
bản về pháp luật (bản chất vai trò về các hình thức thể hiện giá trị xã hội của
pháp luật) về các giá trị văn hóa pháp lý trong đời sống của con người và xã
hội.
+ Thứ hai: xây dựng tình cảm, tạo niềm tin, sự kính trọng đối với pháp
luật.
Luật pháp muốn có hiệu lực, hiệu quả thì ngoài sức mạnh của công
quyền, bằng cưỡng chế thì còn cần huy động cả sức mạnh của tư tưởng và của
tinh thần, pháp luật phải được con người nhận thức như là cái cần thiết và có
cơ sở, phải tạo niềm tin và sự kính trọng đối với pháp luật. Giáo dục pháp luật
hình thành và nâng cao lòng tin vào pháp luật, từ đó đảm bảo cho pháp luật
được thi hành triệt để trên cơ sở sự hiểu biết và có sự tôn trọng, tin tưởng có
căn cứ, trở thành vào giá trị của pháp luật và sự cần thiết của hành vi hợp
pháp trong xã hội đối với cuộc sống của mỗi người. Tôn trọng pháp luật cần
được hiểu như tôn trọng các giá trị cuộc sống của bản thân mình và của mọi
người.
+ Thứ ba: xây dựng thái độ đúng đắn và hành vi hợp pháp.
Hành vi hợp pháp là hành vi được thực hiện trên cơ sở ý thức về các
yêu cầu của pháp luật, yêu cầu của đạo đức, là sự biểu hiện văn hoá và kinh
nghiệm cuộc sống của con người. Giáo dục pháp luật nhằm hình thành động
cơ và hành vi tích cực của pháp luật. Pháp luật được ban hành nhằm điều
chỉnh hành vi phù hợp yêu cầu quản lý xã hội. Nhưng mục đích điều chỉnh
của pháp luật được thực hiện thông qua hành vi xử sự cụ thể của con người và
hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, trong đó xử sự tự
giác của công dân theo yêu cầu của pháp luật là vấn đề quan trọng nhất để
đảm bảo cho pháp luật phát huy được hiệu lực. Việc cung cấp tri thức pháp
23
luật, giáo dục lòng tin sâu sắc để từ đó tạo ra sự tự nguyện tuân thủ pháp luật
là hết sức quan trọng, nhằm hình thành thói quen và động cơ đúng đắn cho
các hành vi hợp pháp trong tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng
pháp luật.
- Chủ thể của giáo dục pháp luật
Như đã nêu ở trên giáo dục pháp luật về cơ bản là sự tác động có mục
đích và định hướng của chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục. Do vậy, tất
cả những cá nhân, tổ chức đã tham gia góp phần vào thực hiện các mục tiêu
giáo dục pháp luật được gọi là chủ thể của giáo dục pháp luật. Chủ thể giáo
dục pháp luật được phân ra làm hai loại: Chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể
không chuyên nghiệp.
+ Chủ thể chuyên nghiệp: Là những người mà nhiệm vụ chủ yếu, trực
tiếp thường xuyên thực hiện giáo dục pháp luật như các báo cáo viên, tuyên
truyền viên về pháp luật ở hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã
hội các cấp, các phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên của các cơ quan
thông tin đại chúng (báo, đài phát thanh truyền hình, tạp chí về chuyên mục
pháp luật và các nội dung liên quan đến pháp luật), các giảng viên dạy pháp
luật ở các trường, cán bộ và chuyên gia nghiên cứu và chỉ đạo giáo dục pháp
luật tại các cơ quan Nhà nước, tổ chức nghề nghiệp ngành luật, các tổ chức xã
hội. Đây là lực lượng nòng cốt của các chủ thể giáo dục pháp luật.
+ Chủ thể không chuyên nghiệp: Là những người làm việc ở nhiều lĩnh
vực với mục tiêu khác nhau, nhưng trong đó có nhiệm vụ thực hiện các mục
tiêu giáo dục pháp luật như: Đại biểu Quốc hội, Đại biểu HĐND các cấp, cán
bộ các cơ quan hành pháp, cán bộ là thành viên của các tổ chức chính trị xã
hội, Đảng và đoàn thể, các Luật gia, Luật sư đang hành nghề dịch vụ, tư vấn
pháp luật, cán bộ nhân viên các ngành kinh tế, quản lý Nhà nước, công dân.
Như vậy, Hội liên hiệp phụ nữ cũng là một chủ thể của giáo dục pháp
luật - chủ thể không chuyên nghiệp.
24
- Đối tượng của giáo dục pháp luật
Đối tượng của giáo dục pháp luật là các cá nhân, công dân, những
nhóm cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận tác động của các hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật. Trong đó ý thức pháp luật, thói quen nếp sống ứng xử hợp
pháp của công dân, của các nhóm cộng đồng toàn xã hội, thể hiện trình độ
nhất định của nền văn hóa pháp lý là khách thể của giáo dục pháp luật.
Ở nước ta hiện nay các đối tượng giáo dục pháp luật cần được quan tâm
là cán bộ công chức Nhà nước, các doanh nghiệp, phụ nữ, thanh thiếu niên
nhất là phụ nữ đơn thân, phụ nữ nghèo, các đối tượng thuộc diện được Nhà
nước đặc biệt quan tâm và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ như trẻ em,
đồng bào dân tộc ít người, đồng bảo vùng sâu, vùng xa...
1.2. Hội liên hiệp phụ nữ trong việc giáo dục pháp luật cho phụ nữ
1.2.1. Hội liên hiệp phụ nữ
- Khái niệm Hội liên hiệp phụ nữ
Theo Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Khóa XI định nghĩa:
“Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi
các tầng lớp phụ nữ, Hội là thành viên của Mặt trận tổ quốc, là thành viên
Liên đoàn phụ nữ dân chủ Quốc tế và là thành viên của Liên đoàn các tổ chức
phụ nữ ASEAN [15; 3]
Hội liên hiệp phụ nữ là tổ chức chính trị quần chúng, đặt dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng. Từ khi được thành lập, Hội đã kiên cường đấu tranh
phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng phụ
nữ. Hội phụ nữ là một bộ phận trong hệ thống chính trị, cùng với đoàn thể
khác, đại diện quyền làm chủ của nhân dân lao động, tham gia quản lý nhà
nước; đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho phụ nữ và trẻ em. Đồng thời,
Hội tham gia nghiên cứu các đề án về công tác phụ nữ và công tác vận động
phụ nữ.
25
Hội phụ nữ là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, thu hút, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ thành lực lượng mạnh mẽ thực hiện hai
chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước
đang đứng trước những thời cơ và thách thức, nền kinh tế thị trường, sự phân
hóa giàu nghèo, vấn đề việc làm, đặc biệt sự thiếu hiểu biết về pháp luật của
các tầng lớp phụ nữ ... đang là vấn đề đặt ra cho tổ chức Hội phụ nữ trong thời
gian tới.
- Chức năng của Hội liên hiệp phụ nữ
Chức năng của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là: Đại diện, chăm lo,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia
xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước. Đoàn kết, vận động phụ nữ thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
vận động xã hội thực hiện Bình đẳng giới.
- Nhiệm vụ của Hội liên hiệp phụ nữ
1. Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng,
phẩm chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước;
2. Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận
động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh
phúc; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ;
3. Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát
việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia
đình và trẻ em;
4. Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;