Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Nhân vật trong văn xuôi bảo ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.64 KB, 106 trang )

trờng đại học vinh
khoa ngữ văn
.....................

Lê Thị Lan Anh

Nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh

khoá luận tốt nghiệp đại học
chuyên nghành: văn học việt nam hiện đại

Vinh, 2007
trờng đại học vinh
khoa ngữ văn
.....................

Nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh

1


khoá luận tốt nghiệp đại học
chuyên nghành: văn học việt nam hiện đại

Ngời hớng dẫn: T.S. Lê Văn Dơng
Ngời thực hiện: Lê Thị Lan Anh
Lớp:

Vinh, 2007

2



44B4 - Văn


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................. 1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................. 6
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.......................................................... 6
5. Cấu trúc của luận văn.................................................................................. 7
CHƯƠNG 1. BẢO NINH TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI VĂN XUÔI
VIỆT NAM SAU 1975................................................................................... 8
1.1. Những tiền đề về chính trị - xã hội, văn hoá - văn học liên quan
chi phối văn hoc Việt Nam sau 1975.............................................................. 8
1.1.1. Những tiền đề về chính trị - xã hội..................................................... 8
1.1.2. Tiền đề văn hoá - văn học................................................................. 10
1.2. Những đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975.................................. 12
1.2.1. Đổi mới về tư duy nghệ thuật...............................................................14
1.2.2. Đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người............................. 22
1.2.3. Đổi mới về nhân vật............................................................................ 30
1.2.4. Đổi mới về bút pháp, giọng điệu, ngôn ngữ........................................ 34
1.3. Bảo Ninh - một gương mặt mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975........ 38
1.3.1. Vài nét về tiểu sử................................................................................. 38
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác............................................................................... 38
CHƯƠNG 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG VĂN XUÔI
BẢO NINH................................................................................................. 41
2.1. Nhân vật người lính............................................................................... 41 2.1.1. Người lính dưới góc nhìn con người cá
nhân.................................... 41

2.1.2. Người lính trong quan hệ với cộng đồng......................................... 62
2.2. Nhân vật phụ nữ .................................................................................... 65

3


2.3. Những nhân vật khác trong các tác phẩm viết về cuộc sống
thời hậu chiến................................................................................................ 73
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG
VĂN XUÔI BẢO NINH............................................................................. 79
3.1. Thể hiện nhân vật qua ngoại hình.......................................................... 79
3.2. Thể hiện tâm lý nhân vật qua việc sử dụng yếu tố tâm linh................... 82
3.3. Thể hiện nhân vật qua việc sử dụng ngôn ngữ....................................... 85
3.4. Thể hiện nhân vật qua việc tổ chức Không gian, thời gian.................... 91
KẾT LUẬN................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 101

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong thế hệ nhà văn sau 1975, Bảo Ninh hiện lên như một gương
mặt mới trên hành trình nhằm đổi mới văn học dân tộc. Những sáng tác văn
xuôi của Bảo Ninh, đặc biệt là cuốn "Nỗi buồn chiến tranh" đạt giải nhất về
tiểu thuyết của Hội Nhà văn 1991, góp phần khẳng định thành tựu của công
cuộc đổi mới văn học từ cuối thế kỷ XX đến nay.
1.2. Tìm hiểu thế giới nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh cho chúng ta
thấy một quan niệm nghệ thuật mới mẻ về con người của văn học sau 1975,
đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới.

1.3. Văn học là "món ăn tinh thần" không thể thiếu được trong đời sống
văn nghệ của quần chúng. Vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu thế giới nhân vật trong
văn xuôi Bảo Ninh còn góp phần giúp độc giả hiểu sâu hơn, cặn kẽ hơn hiện
tượng văn học Bảo Ninh. Đồng thời cũng định hướng cho bạn đọc đến với tác
phẩm văn học từ sau 1975 gắn liền với các tên tuổi của Nguyễn Huy Thiệp,
Quang Thiều, Lê Lựu, Ma văn Kháng…
2. Lịch sử vấn đề
Như chúng ta đã biết, văn xuôi của Bảo Ninh ra đời trong một giai đoạn
văn học đặc biệt - giai đoạn đánh dấu bước chuyển mình của văn học Việt
Nam thời chiến tranh sang thời văn học hậu chiến. Vì vậy để hiểu được một
cách sâu sắc, trung thực, toàn diện về nhiều lớp nội dung chứa đựng trong các
tác phẩm của văn xuôi Bảo Ninh, chúng ta phải đặt và xem xét nó dưới nhiều
góc độ, bối cảnh khác nhau.
2.1. Trước hết chúng ta phải xem xét vấn đề trong bối cảnh rộng của nó
- đó là bối cảnh của những cuộc tranh luận chưa ngã ngũ về đổi mới trong văn
học Việt Nam từ sau 1975, phát triển hết sức đa dạng, phong phú và phức tạp,
cũng như chưa thật định hình chắc chắn. Các hiện tượng văn học: tác giả, tác
5


phẩm ra đời, sự khen chê chưa nhất quán - người khen hết mức, người chê hết
lời, cụ thể là:
Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết "Thời kỳ văn học vừa qua và
xu thế phát triển" đã có thái độ tán thành, khen ngợi: "Thời kỳ văn học từ sau
1975 đã đặc biệt định hướng sắp tới. Đến nay đã 15 năm nhưng vẫn còn là
sớm để thấy hết chân giá trị của những tác phẩm ra đời và những tác giả xuất
hiện được chú ý ở thời kỳ này - một thời kỳ phong phú các hiện tượng văn
học" (Báo Văn nghệ, số 15, 1990). Nhà văn Bùi Hiển cũng khẳng định: "Ngay
từ đầu những năm 80, đặc biệt là trong văn xuôi, sân khấu và điện ảnh đã bắt
đầu xuất hiện những sáng tác mang nhiều sắc thái mới" (Báo Văn nghệ, số 49,

tháng 12 năm 1989).
Nhưng bên cạnh đó một số ý kiến của các nhà nghiên cứu khác lại cho
rằng đây là một bước thụt lùi của văn học Việt Nam, đặc biệt là đối với lĩnh
vực thơ ca. Trong lĩnh vực văn xuôi (truyện ngắn, tiểu thuyết), cũng có một số
ý kiến không tán thành, như một số bài phê bình đối với hiện tượng Nguyễn
Huy Thiệp, chẳng hạn đó là: "Một cây bút có tài, nhưng…" của Hồng Diệu,
hay một số bài viết của Đỗ Văn Khang in trong tác phẩm: "Đi tìm Nguyễn
Huy Thiệp" (NXB Văn hoá Thông tin, H, 2001).
Mặt khác một số nhà văn và nhà nghiên cứu còn giữ thái độ trung hoà,
chỉ dám nhận định dè dặt những đặc điểm, quy luật phát triển của văn học sau
1975, trên con đường tiếp cận, tìm hiểu và chiếm lĩnh đối tượng phức tạp này
qua các bài viết nhỏ như: Lại Nguyên Ân với "Thử nhìn lại văn xuôi mười
năm qua" (Tạp chí Văn học, số 4, 1990); Nguyễn Đăng Mạnh với "Một cuộc
nhận đường mới" (Tạp chí Văn học, số 4, 1995); Nguyễn Văn Long - "Thử
xác định đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975" (Tạp
chí Cộng sản, số 6, 2001).
Khi đặt và xem xét vấn đề trong bối cảnh rộng của nó, ta không thể
không nói đến đường lối văn nghệ của ĐCSVN qua các thời kỳ và đối với thời
6


kỳ sau 1975, được cụ thể hoá và thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VI. 1986 đánh dấu thời kỳ đổi mới, mở cửa đất nước. Đường lối văn nghệ của Đảng có
tính chất định hướng cho các văn nghệ sỹ trên con đường sáng tạo nghệ thuật
phục vụ quần chúng và các sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, văn
học dân tộc sau 1975 xuất hiện nhiều hiện tượng văn học phong phú và phức
tạp. Các hiện tượng văn học đặc biệt được chú ý nhiều gây ra những làn sóng
tranh luận mạnh mẽ nhất là hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, hiện tượng Bảo
Ninh - tác giả của cuốn tiểu thuyết chứa đựng nhiều vấn đề tranh luận.
Như vậy các tác phẩm văn xuôi Bảo Ninh, đặc biệt là cuốn tiểu thuyết
"Nỗi buồn chiến tranh" - là tác phẩm đạt giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà

văn Việt Nam năm 1991 - là năm mà công cuộc đổi mới văn học sau 1975 đã
đi được một chặng đường là 5 năm, nhưng lại là thời kỳ cao điểm của các cuộc
tranh luận và sự xuất hiện của hàng loạt các tác phẩm mới bắt đầu từ khoảng
thời gian 1989 - 1995: Tập "Ánh trăng" - được giải báo Văn nghệ 1991; tập
truyện ngắn của Võ Thị Hảo với "Người sót lại của rừng cười", "Biển cứu
rỗi"…(NXB Hội Nhà văn 1995) cùng các tác phẩm được chọn lọc in trên Báo
Văn nghệ (1987- 1995).
2.2. Nếu chỉ xem xét lịch sử vấn đề trong bối cảnh rộng của đời sống
văn học sau 1975, ta khó có thể tránh khỏi sự phiến diện trong cách nhìn nhận
đánh giá vấn đề. Vì vậy, khi tìm hiểu nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh, ta
phải đặt và xem xét nó trong bối cảnh hẹp - đó chính là các góc nhìn khác
nhau của những người nghiên cứu xuất phát trên các quan điểm khác nhau
thông qua các bài viết cụ thể, mà do đó còn có một số ưu - nhược điểm , các
mặt đúng - sai của nó.
Bảo Ninh là một trong số những nhà văn có nhiều đóng góp trên hai thể
loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Nghiên cứu về các sáng tác của Bảo Ninh đang
thu hút sự quan tâm của người cầm bút bởi những đặc trưng về thể loại và nội
dung phản ánh. Trong "Văn học Việt Nam thế kỷ XX", Bùi Việt Thắng khẳng
7


định: "Bảo Ninh là một trong những nhà văn có duyên với truyện ngắn" [5,
337]. Bích Thu trong "Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975" cũng xem
Bảo Ninh là một cây bút ấn tượng với người đọc [27, 32]. Đi vào tìm hiểu
nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Bảo Ninh tác giả cuốn sách "Bình luận
truyện ngắn" chỉ ra truyện "Khắc dấu mạn thuyền" là kiểu tình huống tượng
trưng.
Bảo Ninh còn là tác giả của cuốn tiểu thuyết rất thành công về đề tài
chống Mỹ: "Thân phận của tình yêu". Nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong
tác phẩm này trở thành mối quan tâm của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu và

người đọc. Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong "Thi pháp hiện đại" đã khẳng định:
"Trong văn học mấy chục năm nay, có thể "Thân phận của tình yêu" là quyển
tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết về tình yêu xót thương nhất. Có
thể nói Phương là nhân vật phụ nữ đẹp nhất trong tiểu thuyết hiện đại Việt
Nam" [9, 265]. Tác giả nhấn mạnh: "Nỗi buồn chiến tranh thể hiện một điểm
nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài 35 năm(…), những cảnh tả chiến tranh,
những định nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác phẩm" [9, 265]. Bên cạnh nỗi
buồn chiến tranh là nỗi buồn về tình yêu, Đỗ Đức Hiểu nhận định: "Nỗi buồn
chiến tranh và nỗi buồn tình yêu thấm vào nhau (…) tình yêu, chiến tranh, ba
nhịp đó xen kẽ, đan chéo, gây chóng mặt, bàng hoàng, nhức nhối" [9, 266].
Nghiên cứu về "Thân phận của tình yêu" ở góc độ thi pháp, tác giả Trần
Quốc Huấn trong Tạp chí Văn học, số 3 - 1991 đã quan tâm đến thiên truyện
từ điểm nhìn chiến tranh: "Toàn bộ tác phẩm là các nhìn ngoái lại, thờ thẩn,
đăm đắm của một người lính khi đã tàn cuộc. Cái nhìn dằng dặc đầy phân tán
nhưng không hề lơ đãng. Điểm nhìn có góc độ rộng, song khá tập trung" [10,
85].
Trên Tạp chí Văn học, số 6 - 1991, với bài viết "Văn xuôi gần đây và
quan niệm về con người", Bùi Việt Thắng đã đưa ra nhận định hết sức xác
đáng về quan niệm nhân cách con người trong tiểu thuyết "Thân phận của tình
8


yêu". Ông viết: "Cái phần được của Thân phận của tình yêu chính là ở chỗ tác
giả khao khát có những nhân cách như Kiên trong cuộc đời vốn còn rất hỗn
độn này. Một nhân cách như Kiên mới dám nhìn thẳng, nhìn sâu vào quá khứ,
mới dám đối diện với hiện tại, rất công bằng mà khám xét lịch sử cao hơn nữa
là đối diện với chính mình, rồi sám hối, tranh đấu và vượt lên" [25, 19].
Hoàng Ngọc Hiến cũng từng khẳng định: "Với Thân phận tình yêu" của
Bảo Ninh, cùng với sự xuất hiện của một nhà tiểu thuyết, loáng thoáng bóng
dáng của một lều triết học. Cõi chập chờn bất định là cõi đắc địa của tiểu

thuyết. Bảo Ninh mới mon men bước vào cõi này, đã không ít độc giả ngỡ
ngàng đọc tác phẩm của anh. Có lẽ họ chưa quen đọc tiểu thuyết " (Tạp chí
Văn học, số 4 - 1995). Tác giả Nguyễn Khải trong "Hãy nhìn sự chuyển hoá
văn học bằng đôi mắt thưởng thức và thái độ khoan dung" lại viết: "Nỗi buồn
chiến tranh" của Bảo Ninh làm tôi chú ý không phải vì đó là cái nhìn duy nhất
mà là thêm một cái nhìn về chiến tranh. Cái nhìn này có mặt hay mặt dở.
Nhưng không nên phủ nhận hoàn toàn sự đóng góp của nó. Nếu Bảo Ninh tiếp
tục viết về đề tài này thì: Qua dư luận, qua ý kiến của công chúng - tôi tin anh
sẽ viết tốt. Văn Bảo Ninh tuy không phải tất cả là hay nhưng có những
chương viết rất quyến rũ" (Tạp chí Văn học, số 4 - 1995). Gần đây cũng trên
báo Văn nghệ trẻ, số 39 -2006, trong bài viết "Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
phong phú về lượng", khi bàn về tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả
Nguyễn Trường Lịch cho rằng tiểu thuyết Việt Nam không nằm ngoài dòng
chảy của tiểu thuyết thế giới, ông đưa ra một số tác phẩm tiêu biểu, trong đó là
tiểu thuyết "Nỗi buồn của chiến tranh". Tác giả viết: "Nỗi buồn chiến tranh"
của Bảo Ninh với độ dài của thời gian, điểm nhìn mới mẻ của chiến tranh
trong quá khứ giúp nhà văn mạnh dạn nhận rõ cuộc chiến tranh không chỉ
mang âm điệu hào hùng thắng lợi mà còn đượm nét đau thương bi tráng trong
những ngôi nhà, nơi ngõ phố vắng vẻ hoặc làng quê núi đồi quạnh hiu, qua
từng nỗi bất hạnh cô đơn của bao người con gái nhỏ hậu phương đêm đêm
9


không ánh đèn mỏi mắt chờ đợi" [12, 3]. Nguyễn Trường Lịch còn phát hiện
những mới mẻ ở cuốn tiểu thuyết này: "Điểm mới nhất trong kết cấu Thân
phận của tình yêu là ở chỗ tác giả lấy trục thời gian chi phối mọi hành động
xuyên suốt các tính cách nhân vật, trải rộng các vung không gian mênh mông
của chiến trường từ Bắc chí Nam " [12, 3].
Như vậy chưa có một công trình nào thể hiện cái nhìn tổng quát, toàn
diện, có hệ thống, chuyên sâu trong việc nghiên cứu thế giới nhân vật trong

văn xuôi Bảo Ninh. Vì thế, có một cái nhìn hệ thống về đề tài nhân vật trong
văn xuôi Bảo Ninh là một vấn đề cần thiết.
Luận văn của chúng tôi được thực hiện trên cơ sở tiếp thu thành tựu của
những người đi trước, nhìn nhận những mặt thiếu sót chưa thoả đáng của các
bài viết để đi sâu khảo sát, tìm hiểu vấn đề nhằm đưa ra một quan điểm, một
cách nhìn riêng của chúng tôi. Hy vọng rằng đề tài sẽ mang đến một ý nghĩa
khoa học và thực tiễn hữu ích.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Khảo sát toàn diện nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh.
3.2. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh
qua những truyện ngắn và tiểu thuyết cụ thể.
3.3. Qua khảo sát thế giới nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh chỉ ra
những nét mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của Bảo Ninh, nghiên
cứu những nét mới về nghệ thuật của truyện ngắn và tiểu thuyết trên góc độ lý
thuyết và thực tiễn của văn xuôi Việt Nam sau 1975.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khoá luận của chúng tôi chủ yếu khảo sát nhân vật trong truyện ngắn và
tiểu thuyết của Bảo Ninh được in trong 3 cuốn:
- "Truyện ngắn Bảo Ninh" do Nhà xuất bản Công an Nhân dân ấn hành
năm 2002.
10


- "Bảo Ninh lan man trong lúc kẹt xe những truyện ngắn hay nhất và
mới nhất" của Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2005.
- Tiểu thuyết "Nỗi buồn chiến tranh" của Nhà xuất bản Hội Nhà văn
năm 2005.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp khảo sát, thống kê - phân loại.
- Phương pháp miêu tả, phân tích.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
Ở đề tài này phương pháp so sánh, đối chiếu được chú trọng nhằm tìm
ra những cách tân của văn xuôi Bảo Ninh sau 1975 trên cả hai bình diện lý
thuyết và thực tiễn, làm rõ đặc điểm của thế giới nhân vật trong văn xuôi Bảo
Ninh so với các nhà văn trước đó và cùng thời.
5. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Bảo Ninh trong bối cảnh đổi mới văn xuôi Việt Nam sau
1975.
Chương 2: Thế giới nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh.

11


CHƯƠNG 1
BẢO NINH TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI VĂN XUÔI
VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Những tiền đề về chính trị - xã hội, văn hoá - văn học liên quan chi
phối văn hoc Việt Nam sau 1975
1.1.1. Những tiền đề về chính trị - xã hội
Văn học là một hiện tượng lịch sử xã hội, được sinh thành, phát triển
trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, văn học trở thành tấm gương phản
chiếu đời sống xã hội. Nhưng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc
thù, sự phản ánh của văn học cũng mang một nét mới. Ngoài nội dung khách
quan đời sống được phản ánh, nhà văn còn phải biểu hiện thái độ chủ quan của
mình. Nên một tác phẩm văn chương chỉ phản ánh mặt khách quan của đời

sống thì chưa đủ mà phải biểu hiện thái độ của nhà văn trước cuộc sống, thái
độ đó có thể là đồng tình, biểu dương, ca ngợi, phê phán, châm biếm…Đó
cũng là giá trị nhân đạo, là tấm lòng, là trái tim của nhà văn trước đời sống.
Trên ý nghĩa văn học là một hiện tượng lịch sử xã hội luôn được sinh
thành, phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định, thì văn học
luôn chịu sự chi phối, ảnh hưởng của nhiều yếu tố chính trị - xã hội trong bối
cảnh lịch sử đó. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói "Xã hội nào thì văn
nghệ nấy". Lịch sử xã hội luôn luôn chi phối ảnh hưởng đến văn học đó là một
quy luật. Văn học Việt Nam sau 1975 cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Với thắng lợi vĩ đại trong cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975,
cuộc kháng chiến chống Mỹ từ 1954 - 1975 hoàn toàn kết thúc thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã mở ra một kỷ nguyên
mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Chiến tranh kết thúc, đất nước được độc lập thống nhất, nhân dân bước
12


vào thời kỳ hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cảc nước. Cuộc
sống của dân tộc và của mỗi gia đình dần dần trở lại với những quy luật bình
thường của nó, con người trở lại với muôn mặt đời thường. Bên cạnh những
thuận lợi cơ bản, đất nước, xã hội, con người Việt Nam đang phải đối phó với
những khó khăn chồng chất và không ít thử thách hiểm nghèo của thời kỳ hậu
chiến, của nền kinh tế thị trường để đứng vững và hơn thế nữa để tạo được
những biến đổi to lớn, toàn diện sâu sắc nhất là từ khi công cuộc đổi mới được
mở ra cho đến nay. Nền văn học như một tấm gương tinh thần của cuộc sống,
có chung vận mệnh và đồng hành cùng dân tộc qua những thăng trầm của lịch
sử. Từ sau 1975 nền văn học cũng phải đứng trước những khó khăn, thách
thức gay gắt và đã có những biến đổi sâu rộng trên mọi mặt của quá trình văn
học.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc đã mở ra một cuộc cách mạng

mới - cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, yêu cầu đổi mới về
mọi mặt của đất nước được đặt ra và trở thành vấn đề bức thiết. Đại hội Đảng
lần thứ VI (1986) là Đại hội đánh dấu sự đổi mới toàn diện của Đảng ta.
Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện mọi mặt: Kinh tế, văn hoá,
chính trị, ngoại giao…Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại đánh
dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời
kỳ mới cho cách mạng Việt Nam. Đại hội VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước,
đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Viêt Nam.
Với Đại hội này, Đảng ta kêu gọi toàn Đảng, toàn dân đổi mới tư duy
nhìn thẳng vào hiện thực đất nước và đời sống nhân dân để đề ra đương lối
đúng đắn. Đây là thời kỳ chúng ta xác định đúng đắn hướng đi của đất nước,
mở đầu một thời kỳ đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đây cũng là thời kỳ mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
13


xã hội chủ nghĩa , xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp. Có thể nói nhờ công cuộc
đổi mới mà Đảng ta đã tiến hành hơn 20 năm qua nên mọi mặt của đất nước đã
được thay đổi: Chính trị ổn định, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được
nâng lên khá cơ bản, văn hoá xã hội cũng vì thế có được sự phát triển mạnh
mẽ và đổi mới sâu sắc.
1.1.2. Tiền đề văn hoá - văn học
Đường lối đổi mới toàn diện mà Đại hội VI đã đề ra đã mở đường cho
sự đổi mới trong văn học. Đặc biệt trong hai ngày 6 - 10 và 7 - 10 - 1987 ông
Nguyễn Văn Linh nguyên Tổng Bí thư của Đảng tuy rất bận rộn với những
công việc cần làm ngay của Đảng và Nhà nước, nhưng đã chăm chú lắng nghe
phát biểu của văn nghệ sĩ tiêu biểu của cả nước. Sau khi nghe những lời tâm
sự, những băn khoăn thắc mắc của giới văn nghệ sĩ, ông đã có những ý kiến

phát biểu nhằm khuyến khích các văn nghệ sĩ cần phải đổi mới tư duy nghệ
thuật nhìn thẳng vào hiện thực cuộc sống, có quyền nói thẳng, nói thật các vấn
đề miễn là nhà văn phải đứng trên lập trường quan điểm của toàn Đảng, toàn
dân khi phản ánh vấn đề với hiện thực. Vậy nên Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh đã thay mặt Đảng kêu gọi văn nghệ sĩ phải thay đổi cách viết cho phù
hợp với hoàn cảnh dân tộc, bởi hiện thực cuộc sống luôn thay đổi mà " Văn
học vốn là tấm gương phản chiếu thời đại", còn nhà văn là "Người thư kí trung
thành của thời đại" (Banzack).
Mặt khác hiện thực cuộc sống thay đổi đã dẫn đến nhu cầu thẩm mỹ,
nhu cầu thưởng thức văn của công chúng cũng thay đổi. Trong hoàn cảnh đất
nước hoà bình, công chúng hôm nay không dễ gì bằng lòng với những tác
phẩm văn học dễ giãi một chiều, mà đòi hỏi nhà văn viết về tác phẩm toàn
diện hơn. Cuộc sống hiện thực bây giờ không chỉ là chiến đấu và lao động như
trong văn học 1945 - 1975 nữa mà là mọi vấn đề bề bộn, đa dạng, phức tạp của
cuộc sống xã hội. Chính vì vậy bạn đọc của chúng ta muốn hiểu thực tại không
chỉ có thế mà người đọc muốn hiểu toàn bộ hiện thực cuộc sống với bộ mặt đa
14


diện, đa chiều của nó, cũng như con người trong mối quan hệ nhiều chiều,
phức tạp chứ không phải theo lối miêu tả xuôi chiều đơn giản.
Văn học vẫn tiếp tục viết về chiến tranh nhưng người đọc muốn hiểu
mọi vấn đề về cuộc chiến kể cả mặt trái của nó, buộc nhà văn không thể viết
theo lối cũ nữa - nghĩa là viết thiên về chiến thắng, về cái anh hùng vĩ đại của
dân tộc. Những tác phẩm vẫn viết theo lối tư duy cũ không còn sức hấp dẫn
đối với độc giả vì hoàn cảnh xã hội đã thay đổi và tâm lí bạn đọc cũng vậy. Lý
luận văn học Macxit đã khẳng định: "Người đọc như một yếu tố bên trong của
quá trình sáng tác văn học". Đối với nhà văn, người đọc bao giờ cũng là hiện
thân của nhu cầu xã hội. Trong mọi trường hợp mỗi khi nói đến người đọc nhà
văn đều cảm thấy họ: "yêu cầu", "đòi hỏi", "tin cậy", "hứng thú", "hồi hộp",

"trông chờ"…còn nhà văn thì : "đáp ứng", "lý giải", "tác động", "lôi cuốn",
"thuyết phục", "giúp đỡ", "truyền đạt", "phơi bày", "cho thấy"…Đó chính là
mối quan hệ giữa người đọc và nhà văn mà nó có ảnh hưởng trực tiếp đến các
giai đoạn sáng tác văn học. Văn học sau 1975 cũng không nằm ngoài ảnh
hưởng đó. Nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét: "Sau 1975 bỗng dưng xuất hiện
một tình trạng rất lạ: sự lạnh nhạt hẳn đi trong công chúng và sáng tác. Người
đọc mới hôm qua còn mặn mà là thế, bỗng dưng quay lưng lại với anh, họ
không thèm đọc anh nữa. Sách anh viết ra hăm hở dày cộm, nằm mốc meo
trên các quầy sách. Người ta bỏ anh, người ta đi đọc sách Tây và đọc Nguyễn
Du" [17, 9]. Còn Chế Lan Viên thì cho rằng: "Sách thì nhiều mà không có tác
phẩm". Nguyễn Tuân lại khẳng định : Văn học giai đoạn này hình như có một
khoảng "chân không văn học ".
Tất cả những điều kiện trên buộc nhà văn - người nghệ sĩ cầm bút phải
thay đổi cách viết, cách xây dựng hình tượng nhân vật, đặc biệt là quan niệm
nghệ thuật về con người…Điều này lí giải tại sao trong văn học dân tộc sau
1975 lại xuất hiện các hiện tượng "lạ" như: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Khắc
Trường, Dương Hướng, Bảo Ninh…Nền văn xuôi sau 1975 vì vậy cần quan
15


tâm đến con người một cách toàn diện hơn, không chỉ đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc trong lao động và công tác mà cả trong cuộc sống bình
thường hàng ngày; không chỉ con người xã hội mà cả con người riêng tư, con
người tự nhiên; không chỉ tư tưởng, quan niệm mà cả tình cảm, tâm lí; không
chỉ đời sống hữu thức mà cả những cái thoáng qua bất chợt, mơ hồ trong đời
sống vô thức…
Văn xuôi đang bước vào một chặng đường mới với những thành tựu
đáng phấn khởi. Nó tập trung giải quyết hàng loạt những vấn đề mới của chủ
nghĩa xã hội trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ, đồng thời trang
trải món nợ tinh thần đối với hai cuộc chiến tranh dân tộc. Văn xuôi cũng đang

có những tìm tòi, khám phá đáng khích lệ, những đóng góp mới về mặt thể
loại và phong cách thể hiện. Trong bước đường đi lên phía trước không khỏi
có những hạn chế và thử nghiệm chưa thành công.
1.2. Những đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975
Năm 1975 trở thành mốc chấm dứt một giai đoạn lịch sử của dân tộc để
chuyển sang một vận hội mới. Đối với văn học, bối cảnh mới tạo nên những
chấn động sâu xa trong ý thức nghệ thuật. Từ một nền văn học đấu tranh của
chiến tranh, của những yêu cầu nghiêm ngặt của chính trị, tư tưởng toàn bộ
nền văn học với những kinh nghiệm tích luỹ được không phải chỉ là 40 năm
cách mạng mà trên cả chặng đường dài lịch sử văn học dân tộc, đang có những
nhu cầu mới - nhu cầu trở lại với sự sáng tạo trong dân chủ - nhu cầu sống
trong mọi vấn đề của đời sống con người để tìm kiếm và thiết lập những giá trị
phong phú của tinh thần con người.
Nhưng những nhu cầu và cả những tiền đề của đổi mới văn học sẽ khó
trở thành hiện thực hoặc nếu có trở thành hiện thực thì cũng không có được
diện mạo và tư thế như ta đang thấy. Nó cần có một yếu tố thúc đẩy mang tính
quyết định. Đó là sự dân chủ hoá về mặt chính trị - xã hội, cho nên không phải
ngẫu nhiên mà trong chẳng đường nối tiếp của nền văn học 1945 - 1975, cái
16


mốc của đổi mới văn học được tính từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986.
Tính từ đó văn học mang một màu sắc khác, một tinh thần khác để có thể nói:
"Bắt đầu một giai đoạn khác". Giai đoạn mới này không cắt lìa mà vẫn tiếp nối
nhưng cũng không phải là sự tiếp nối tự nhiên bình thường mà là sự tiếp nối
vừa mang tính kế thừa, vừa có sự phủ định biện chứng. Trên tinh thần biện
chứng ấy của đổi mới, văn học sẽ được nhìn nhận khách quan hơn, đồng thời
tranh cãi về chuyện "phủ định hay không phủ định" cũng có thể có lời giải đáp
hợp lí. Chính Ăngghen đã từng nhấn mạnh sự phủ định biện chứng như một
chân lí tuyệt đối, khách quan. "Đối với triết học biện chứng thì không có gì là

tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra tính chất quá độ của mọi sự
vật và đối với nó không có gì có thể đứng vững được ngoài quá trình không
ngừng của sự sinh thành và tiêu vong, của sự tiến triển vô tận từ thấp đến
cao…Tính chất cách mạng của nó là tuyệt đối - đó là cái tuyệt đối duy nhất
được triết học biện chứng thừa nhận".
Đổi mới văn học được khởi đầu từ 1986 là sự tự ý thức của văn học trên
chặng đường mới của lịch sử và của chính nó. Văn học Việt Nam sau 1975 đã
có sự đổi mới rõ rệt, người ta đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh
hoạ và yêu cầu văn nghệ phải được cởi trói, đổi mới, đổi khác. Hành trình của
đổi mới văn xuôi gắn liền với tiến trình vận động của đổi mới văn học dân tộc.
Theo các nhà nghiên cứu, văn học Việt Nam 30 năm qua đã trải qua 3 chặng
đường, có sự nối tiếp không đứt đoạn: từ 1975 - 1985 là giai đoạn chuyển tiếp
từ văn học sử thi thời chiến tranh sang nền nền văn học thời hậu chiến; từ
1986 đến đầu thập kỷ 90 là thời kỳ văn học đổi mới sôi nổi, mạnh mẽ gắn liền
với chặng đường đầu của công cuộc đổi mới đất nước; từ 1993 đến nay văn
học trở lại với quy luật bình thường và hướng sự quan tâm nhiều hơn đến sự
cách tân nghệ thuật.
Nhìn vào chặng đường đổi mới của văn học dân tộc có thể thấy sự đổi
mới của văn xuôi nghệ thuật thể hiện trên các phương diện sau:
17


1.2.1. Đổi mới về tư duy nghệ thuật
Tư duy nghệ thuật là "dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng tới
sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật…Bản chất của nó do phương thức
thực tiễn tinh thần của hoạt động chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng quy
định. Sự chuyển hoá tư duy này tạo nên đặc trưng nghệ thuật và tiềm năng
nhận thức của nó. Tư duy nghệ thuật là một bộ phận của hoạt động nghệ thuật
nhằm khái quát hiện thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mĩ. Phương tiện của nó
là các biểu tượng ,tượng trưng có thể trực quan được. Cơ sở của nó là tình

cảm. Dấu hiệu của tư duy nghệ thuật là ngoài tính giả định, tính ước lệ nó
hướng tới việc nắm bắt những sự thật ngoài đời sống cụ thể cảm tính mang nội
dung khả nhiên, có thể cảm thấy theo xác suất, khả năng và tất yếu" [6, 381].
Trong nền văn học Việt Nam 1945 - 1975, tư duy nghệ thuật chiếm ưu
thế là tư duy sử thi. Tư duy này chi phối đặc điểm văn học trên các phương
diện: đề tài, con người, nhà văn, giọng điệu …Nhưng sau 1975, trong nền văn
học việt Nam bắt đầu có hiện tượng: tư duy sử thi đang đần dần chuyển sang
tư duy tiểu thuyết và đến nay tư duy tiểu thuyết đã khẳng định được vị trí của
mình trong loại hình nghệ thuật ngôn từ này.
Trước hết ở phương diện đề tài. Nếu như tư duy sử thi nền văn học 1945
- 1975 hướng ngòi bút của nhà văn nghiêng về phản ánh những sự kiện trọng
đại của dân tộc, gắn liền với số phận và vận mệnh dân tộc cộng đồng, đại diện
cho mơ ước của tập thể thời đại (nhân vật Núp, Tnú trong "Đất nước đứng lên
" của Nguyên Ngọc, Chị Út Tịch trong "Người mẹ cầm súng" của Nguyễn Thi,
Chị Sứ trong "Hòn Đất" của Anh Đức… ). Thì ngược lại tư duy tiểu thuyết lại
hướng ngòi bút của nhà văn nghiêng về phản ánh các vấn đề đời tư, đời
thường, thế sự đạo đức…Nghĩa là phản ánh các vấn đề của từng số phận cá
nhân con người với những khía cạnh phức tạp của nó. Từ đó mà văn học sau
1975 thực sự muốn nêu lên những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh rộng lớn.
Không chỉ dừng lại những vấn đề chiến đấu, xây dựng như trong văn học 1945
18


- 1975, tất nhiên đề tài chiến đấu, xây dựng thì văn học sau 1975 vẫn đề cập,
nhưng nhà văn khi đề cập đến vấn đề này cũng viết khác đi - nó không còn là
đề tài chính của văn học sau 1975 nữa và nếu có viết thì nó cũng được viết
khác đi theo sự nhận thức lại cuộc kháng chiến, cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa của dân tộc ta trong những năm tháng đã qua. Tác phẩm "Thiên đường
mù" của Dương Thu Hương là một ví dụ. Nguyên Ngọc đã có nhận xét xác
đáng: "Có một điều thú vị, hành trình văn học của ta mấy năm qua từ cố gắng

rút ra khỏi đề tài số phận chung của cộng đồng, đồng nhất để đi đến hiện thực
xã hội ngổn ngang với nhiều tính chất hiện thực vồn vã rồi tiếp tục đi sâu vào
thế giới bên trong, thế giới riêng của từng thế giới con người - hành trình ấy
không phải là một hành trình thu hẹp dần phạm vi quan tâm của văn học.
Ngược lại đó là hành trình mở ra ngày càng rộng hơn, phong phú đa dạng hơn
của văn học" [17, 13]. Tất cả những điều đó làm cho văn học đời hơn, thực
hơn và mỗi con người là một tiểu vũ trụ để nhà văn thoả sức khám phá, tìm
hiểu và thể hiện thành những tác phẩm đặc sắc. "Nỗi buồn chiến tranh" của
Bảo Ninh cũng là một minh chứng cho điều này.
Ai cũng biết văn học 1945 -1975 được viết theo khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn. Nó đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử giao phó là
tìm hiểu, khám phá ngợi ca những nét đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, của nhân dân trong chiến đấu và xây dựng. Riêng mảng đề tài về chiến
tranh cách mạng của văn học 1945 - 1975 thì nó đã đứng vào hàng tiên
phong của văn học nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay. Văn
học phát triển trong 30 năm đất nước có chiến tranh, với hoàn cảnh ấy thì
việc phản ánh cuộc sống và thể hiện con người lúc này chưa thật toàn diện.
Do yêu cầu của cách mạng - nhiệm vụ cổ vũ, động viên nhân dân đến với
chiến trường, đến với công trường, nông trường cho nên nhiều mặt của cuộc
sống và có những sự thật còn phải đề cập tới một cách dè dặt. Văn học sau
1975 đã bổ cứu những mặt khuyết điểm của văn học 1945 -1975. Bên cạnh
19


biểu dương, ca ngợi những mặt anh hùng của cách mạng, các tác phẩm còn
đề cập đến các mặt khác như: tiêu cực nội bộ, những tổn thất trong chiến
tranh; những cái buồn cái bi trong cuộc sống, những chuyện đời tư, đời
thường, chuyện tình yêu, tình dục…Những tâm tư, nguyện vọng số phận của
các nhân. Hay nói cách khác, với tư duy tiểu thuyết thì mọi vấn đề của cuộc
sống đều là đề tài của văn học. Văn học giai đoạn này nở rộ các tác phẩm,

đặc biệt là những tác phẩm viết về đề tài đời tư, đời thường, về số phận cá
nhân như: Cô thợ nhuộm trong "Thợ nhuộm tóc", người tàn tật hát rong trong
"Người đàn ông duy nhất'', người thầy giáo trong "Ông giáo trường", hay
"Tướng về hưu" của Nguyễn Huy Thiệp - từ vinh quang trận mạc trở về với
đời thường không dễ gì tìm thấy chỗ đứng trong cuộc sống xô bồ vụn vặt với
những quan niệm và giá trị hoàn toàn khác, thấm thía một "Nỗi buồn chiến
tranh" của Bảo Ninh, đào sâu một số phận một dòng họ ("Mảnh đất lắm
người nhiều ma", "Chuyện làng tôi", "Lời nguyền 200 năm" …).
Nếu nhìn vào hành trình đổi mới văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 đến
nay qua những chặng đường và thành tựu của nó ta sẽ thấy rõ sự thay đổi về
tư duy nghệ thuật(chủ yếu qua truyện ngắn và tiểu thuyết).
Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã đứng trước nhu cầu" đổi mới
tư duy tiểu thuyết". Tiểu thuyết Việt Nam những năm tiền đổi mới (1975 1985) vẫn theo đà quay "quán tính" nghiêng về sự kiện, về sự bao quát hiện
thực trong một diện rộng, cảm hứng sử thi vẫn chiếm vị trí đáng kể trong tư
duy nghệ thuật của nhà văn như: "Họ đã sống như thế"(Nguyễn Trí Huân),
"Miền cháy "(Nguyễn Minh Châu), "Trong cơn lốc" (Khuất Quang Thụy),
"Đồng bạc trắng hoa xoè" (Ma Văn kháng)…Chỉ khi bước vào thời kỳ đổi
mới trong không khí dân chủ của đời sống văn học, văn xuôi Việt Nam mới
thực sự đổi mới tư duy nghệ thuật. Từ sau 1986 đó là sự khởi sắc của văn
xuôi trong đó tiểu thuyết vẫn là thể loại chủ đạo, bộc lộ ưu thế của mình
trong cách "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói đúng sự thật";
20


bao quát được những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và số phận con
người trong vận động và phát triển, đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của công
chúng đương đại: "Thời xa vắng" (Lê Lựu); "Thiên sứ" (Phạm Thị Hoài);
"Mưa mùa hạ", "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng ); "Thời gian của
người", "Một cõi nhân gian bé tí" (Nguyễn Khải); "Đất trắng" (Nguyễn
Trọng Oánh); "Cõi người rung chuông tận thế" (Hồ Anh Thái); "Đi tìm nhân

vật", "Thiên thần sám hối" ( Tạ Duy Anh).
Từ sau 1975 - 1980 là chặng đường chuyển tiếp từ nền văn học cách
mạng trong chiến tranh sang nền văn học của thời kỳ hậu chiến. Tính chất
chuyển tiếp này thể hiển rõ cả đề tài, cảm hứng và cả các phương thức nghệ
thuật, cả quy luật vận động của văn học. Ở nửa cuối thập kỷ 70, nền văn học
về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật với những cảm hứng
chủ đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Khuynh hướng sử thi
vẫn được tiếp tục nhưng mờ nhạt dần với một loạt tiểu thuyết, kí sự, hồi kí về
chiến tranh. Có thể kể một số tác phẩm tiêu biểu như: "Năm 75 họ đã sống
như thế" (Nguyễn Trí Huân); "Họ cùng thời với những ai" (Thái Bá Lợi);
"Tháng 3 Tây Nguyên '' (Nguyễn Khải); "Đất trắng" (Nguyễn Trọng Oánh);
"Miền cháy" (Nguyễn Minh Châu)…Cố nhiên văn xuôi sử thi ra đời sau
1975 cũng có những nét khác biệt nhất định so với loại hình ấy ở giai đoạn
trước. Bên cạnh nhu cầu tái hiện lịch sử, nhà văn có điều kiện tập trung vào
xây dựng tính cách nhân vật, phân tích và lí giải về các sự kiện biến cố. Từ
đỉnh cao của chiến thắng trọn vẹn, nhìn lại và tái hiện những khó khăn, tổn
thất thậm chí cả những thất bại tạm thời của ta trong chiến tranh cũng chính
là cách khẳng định những giá trị lớn lao của sự hy sinh và ý nghĩa vĩ đại của
sự chiến thắng. Bên cạnh đó một số cây bút đã đề cập kịp thời những vấn đề
mới nảy sinh trong bối cảnh giao thời từ chiến tranh sang hoà bình, mà cuộc
sống ở mọi nơi hiện lên không chỉ có niềm vui của hoà bình - chiến thắng đoàn tụ mà còn có bao sự phức tạp, khó khăn nảy sinh (tiểu thuyết "Những
21


khoảng cách còn lại" của Nguyễn Mạnh Tuấn, "Miền cháy" của Nguyễn
Minh Châu). Bước vào những năm đầu của thập kỷ 80, tình hình kinh tế - xã
hội của đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất và rơi vào khủng hoảng
trầm trọng, nên văn học cũng chững lại và cũng không ít nhà văn lâm vào bối
rối, không tìm ra phương hướng sáng tác. Ý thức nghệ thuật của số đông
người viết và công chúng chưa kịp chuyển biến kịp thời với thực tiễn xã hội,

những quan niệm và cách tiếp cận vốn quen thuộc trong thời kỳ trước đã tỏ ra
bất cập trước hiện thực mới và đòi hỏi của người đọc. Đây là khoảng thời
gian mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi là: "khoảng chân không " trong văn học.
Nhưng cũng chính trong những năm này đã diễn ra sự vận động ở chiều sâu
của đời sống văn học, với những trăn trở, tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt ở
một số nhà văn có mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống và có ý thức trách
nhiệm cao về ngòi bút của mình. Những tìm tòi bước đầu ấy đã mở ra cho
văn học những hướng tiếp cận mới về hiện thực nhiều mặt, đặc biệt là cái
hiện thực đời thường với những vấn đề đạo đức - thế sự, đang tồn tại nổi cộm
đòi hỏi văn học phải nhận thức, khám phá.
Từ 1986 đến đầu những năm 90, là giai đoạn văn học đổi mới thực sự,
tập trung vào mô tả hiện thực với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Văn xuôi
viết về con người và cuộc sống với tất cả những mặt tôt, xấu của nó. Có thể
kể các tác phẩm như: "Bến không chồng" (Dương Hướng); "Đám cưới
không có giấy giá thú", "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng); "Cỏ
lau", "Mùa trái cóc ở miền Nam" (Nguyễn Minh châu); "Thân phận tình
yêu" (Bảo Ninh)…Các cây bút này đã đi vào thể hiện các khía cạnh của đời
sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan xen nên cuộc sống đời thường
phức tạp. So với trước đây, nhiệt tình phê phán của văn học giai đoạn này dữ
dội hơn rất nhiều. Đặc điểm nổi bật trong văn học là khuynh hướng đấu tranh
phê phán xã hội, duyệt lại những sai làm của quá khứ - cái mà người ta nói là
khuynh hướng văn học phơi bày tố cáo. Cố nhiên cảm hứng phê phán cũng
22


có lúc đẩy tới cực đoan, lệch lạc và người viết bộc lộ một cái nhìn ảm đạm
hoài nghi thiên lệch.
Quả thật, sự xuất hiện của cảm hứng sự thật khi viết về con người cuộc
sống là một tất yếu, đồng thời là điều tất yếu mà văn học cần phải vượt qua
để tìm đến những chiều sâu mới. Sự phơi bày, kể lể, ngợi ca con người đã

đến lúc người đọc đòi hỏi một chiều khác hơn, người ta chờ ở nhà văn qua sự
vận động xã hội phức tạp đó đưa đến cho người ta những tổng kết nhân văn
sâu sắc và lâu dài qua hình tượng nghệ thuật.
Từ cuối những năm 90 đến nay, trong xu thế đi tới sự ổn định xã hội,
văn học về cơ bản cũng trở lại với những quy luật mang tính bình thường
nhưng không xa rời những định hướng tư duy đã hình thành từ những năm
80. Nếu như trước đó động lực thúc đẩy văn học đổi mới là do nhu cầu đổi
mới xã hội và khát vọng dân chủ - đó cũng chính là nội dung cốt lõi của văn
học trong chặng đường đầu thời kỳ đổi mới, thì khoảng 10 năm trở lại đây,
văn học quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới của chính nó mặc dù vẫn không
đi lệch khỏi xu hướng dân chủ hoá. Đây là lúc văn học cũng như văn xuôi
trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng thời có ý thức và nhu cầu
tự đổi mới về hình thức nghệ thuật, phương thức thể hiện cũng như tư duy
nghệ thuật. Có thể tìm thấy những thể nghiệm mạnh bạo để cách tân tiểu
thuyết trong hàng loạt các tiểu thuyết gần đây như: "Thiên sứ" (Phạm Thị
Hoài); "Hồ Quý Ly" (Nguyễn Xuân Khánh); "Cơ hội của chúa" (Nguyễn
Việt Hà); "Giàn thiêu" (Võ Thị Hảo); "Cõi người rung chuông tận thế" (Hồ
Anh Thái); "Mảnh đất lắm người nhiều ma" (Nguyễn Khắc Trường); "Nỗi
buồn chiến tranh " (Bảo Ninh)….
Sự chuyển biến trong tư duy tiểu thuyết đã xoá bỏ sự ám ảnh của chủ
nghĩa đề tài. Hiện thực chỉ là cái nền cho sự diễn biến những việc đời, những
số phận, những trạng thái tinh thần. Tiểu thuyết đi sâu khấm phá con người,
truy tìm cái ẩn mật của bản ngã. Tiểu thuyết đang ngày càng khẳng định vị
23


thế "cột sống" của nền văn học, có vai trò quyết định diện mạo văn học, bởi
nó như nhà văn Nguyên Ngọc đã nói: "Tiểu thuyết không chỉ là một thể loại
văn học, hơn thế rất nhiều, đó là một bước phát triển quan trọng và cơ bản
trong tư duy con người về thế giới, là thời đại mới trong tư duy con người.

Có thể kể những đặc điểm của tư duy ấy là tính không tất định của cuộc sống,
phi tuyến tính, thoát khỏi tư duy cơ giới vốn coi những điều hợp lý như một
cỗ máy, biết nguyên nhân thì rõ hậu quả, cái trước cái sau" [17, 9].
Bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn cũng có những cách tân lớn trong tư
duy và đạt được nhiều thành tựu. Vì vậy có thể nói, văn học sau 1975 là "thời
của tiểu thuyết", "thời của truyện ngắn". Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đã
đạt được những thành tựu rực rỡ, với sự bổ sung của những cây bút trẻ - thế
hệ nhà văn có duyên với truyện ngắn: Ngyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Bảo
Ninh, Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh, Võ Thị Hảo…Bên cạnh đó là sự "hồi xuân", "tái xuất" của những
cây bút thế hệ trên lục tuần như: Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn
Kiên, Xuân Thiều, Lê Tri Kỷ …họ không bị xơ cứng theo tuổi tác trái lại
càng hăm hở viết, viết bằng sự lựa chọn câu chữ chặt chẽ, viết bằng cảm xúc
sâu lắng.
Bước đột phá đầu tiên của truyện ngắn sau 1975 là tác phẩm gây nhiều
tranh luận của nhà văn quân đội: Thái Bá Lợi, "Hai người trở lại trung đoàn"
(1976) đã từ bỏ lối viết đơn giản, một chiều về cuộc sống và con người, tác
giả đã mạnh dạn trình bày tính chất ngày càng trở nên phức tạp của cuộc
sống và con người thời đại được thử thách qua ngọn lửa chiến tranh và chuẩn
bị nhân cách để bước vào đời sống bình thường, hoà bình. Giờ đây con người
được phát hiện, thể hiện trên bình diện đạo đức, trong tiến trình hình thành
nhân cách mới với những thử thách thầm lặng nhưng không kém phần gay go
phức tạp. Dựa vào đặc trưng của thể loại truyện ngắn là "cưa lấy một khúc
của đời sống'', tìm ra những "tình huống tiêu biểu" tác giả đã chú trọng khai
24


thác cái thời khắc thử thách của con người khi nhân vật Thanh bị hiểu lầm,
mất tình cảm và niềm tin đối với Mây và phải im lặng. Trong chiến tranh
cuộc sống bị dồn nén, tập trung vào một hành động vì mục đích cao cả vì thế

khó có thể biện bạch thanh minh những chuyện tế nhị về danh dự, tình yêu.
Con người công dân nghĩa vụ là cao cả nhất, sau này khi Trí "lộ mặt" phản
bội tình yêu đối với Mây, sự tỉnh ngộ của nhân vật nữ, sự trở lại đàng hoàng
và cao thượng của Thanh, hồi kết của câu chuyện vẫn còn vị đắng chát của
nhân tình thế thái, nhưng vẫn đậm chất nhân văn của con người Việt Nam:
Trọng chữ tín, chữ nghĩa. Khi truyện ngắn in ra không phải không có ý kiến
phê phán tác giả là đã chú trọng vào phần khiếm khuyết của con nguời (nhân
vật Trí) trong khi bản thân Trí là một người anh hùng trong chiến tranh.
Đúng là như vậy: người ta có thể là anh hùng trong lửa đạn nhưng lại có thể
là kẻ hèn nhát trong tình yêu, tình bạn, tình đồng chí. Cũng như không ít kẻ
giờ đây đứng trước vành móng ngựa, rơi vào vòng lao lí, khi trước đó trong
chiến tranh giải phóng là những người cán bộ đảng viên mẫu mực, cuộc sống
có nhiều cách sàng lọc, thử thách phẩm giá con người.
Truyện ngắn sau 1975 còn chú trọng nghiên cứu thực trạng tinh thần xã
hội sau chiến tranh - đó là một hiện thực phức tạp đa dạng đan xen mặt sáng,
tối trong đời sống cũng như những đổi thay tất nhiên trong nhận thức, tình
cảm của con người. Truyện ngắn "Lời cuối trong kịch bản" (1980) của Lê
Hoàng được viết theo xu hướng này: Một cô gái là một diễn viên nghệ thuật
không chuyên, trong chiến tranh đã gặp một chàng trai (người lính). Họ đã
hứa hẹn: "Em sẽ chờ anh cho đến khi hết chiến tranh". Hoà bình 20 năm cô
gái vẫn chờ người yêu mình nhưng chàng trai đã không trở về (bị mất tích).
Cô được chọn đóng vai một cô gái tiễn người yêu ra trận chống quân xâm
lược, bộ phim được kết thúc bằng lời thoại như cô gái đã nói với người yêu
mình năm xưa, nhưng cô gái đã từ chối nói lời cuối cùng đó vì lí do riêng tư,
thầm kín ấy. Ông đạo diễn và nhiều người khác không hiểu được hành động
25


×