Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý cảu công ty TNHH hai thành viên trở lên thực trạng và giải pháp luận vă

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.63 KB, 78 trang )

Trờng Đại học Vinh
Khoa luật
********************

Phan thị minh thanh

Những quy định của pháp luật về địa vị
pháp lý của công ty tnhh hai thành viên
trở lên. thực trạng và giải pháp

Khóa luận tốt nghiệp đại học
Ngành cử nhân luật

Vinh, 2011
1


Trờng Đại học Vinh
Khoa luật
********************

Những quy định của pháp luật về địa vị
pháp lý của công ty tnhh hai thành viên
trở lên. thực trạng và giải pháp

Khóa luận tốt nghiệp đại học
Ngành cử nhân luật

Ngời hớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tuyết
Sinh viên thực hiện


: phan Thị Minh Thanh

Lớp

: 48b2 - luật

Vinh, 2011
2


Lời cảm ơn.
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cuối khóa, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân,
em đã nhận được sự giúp đỡ của Hội đồng khoa học Khoa Luật, các Thầy giáo, Cô giáo
trong tổ bộ môn Luật Kinh tế - Quốc tế. Đặc biệt là sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình, chu
đáo của Cô giáo – Thạc sỹ Nguyễn Thị Tuyết.
Em xin trân trọng cảm ơn cô giáo – Thạc sỹ Nguyễn Thị Tuyết – người trực tiếp
hướng dẫn khóa luận, xin chân thành cảm ơn Hội đồng khoa học Khoa Luật, các Thầy giáo,
Cô giáo trong tổ bộ môn Luật Kinh tế - Quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá
trình triển khai đề tài khóa luận.
Với năng lực và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế, đề tài sẽ không tránh khỏi thiếu
sót nhất định. Em rất mong nhận được góp ý kiến của của Hội đồng khoa học Luật, các Thầy
giáo, Cô giáo cũng như những người quan tâm đến vấn đề này.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên

PHAN THỊ MINH THANH

3



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................3
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu. ....................................................4
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu ...................................................4
6. Đóng góp của khoá luận ...................................................................................5
7. Kết cấu của đề tài .............................................................................................5
NỘI DUNG
Chương 1 : BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY TNHH HAI THÀNH VIÊN TRỞ
LÊN TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 ........................................................6
1.1. Sự ra đời và phát triển của Công ty TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam. ......6
1.2. Bản chất pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
theo luật doanh nghiệp 2005. ................................................................................9
1.3. Quy chế pháp lý về việc thành lập và chấm dứt hoạt động của công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. ................................................................12
1.4. Quyền và nghĩa vụ của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên . . .26
1.5. Quy chế thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên . ........33
1.6. Cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. ..........38
1.7. Vốn và chế độ tài chính của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
.............................................................................................................................42
Kết luận chương 1 ..............................................................................................44
Chương 2: NHỮNG TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY TNHH HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN. ...............45
2.1 Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về công ty TNHH hai thành
viên trở lên ..........................................................................................................45
2.2. Nguyên nhân của tồn tại ..............................................................................62

2.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty TNHH hai
thành viên trở lên ................................................................................................63
Kết luận chương 2 ..............................................................................................67
KẾT LUẬN ........................................................................................................68

4


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................69

5


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

CHXHCN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ĐKKD

ĐĂNG KÝ KINH DOANH

ĐKDN

ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP

TNHH

TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN


XHCN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

WTO

TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công ty TNHH hai thành viên trở lên đã xuất hiện từ lâu, đầu tiên là ở
Đức năm 1982 là kết quả của hoạt động lập pháp. Đúng như dự đoán của các
nhà làm luật, sau khi có luật công ty TNHH, ngay lập tức nó nhận được sự
hưởng ứng của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có vốn. Vì nó kết hợp
ưu điểm về chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần và ưu điểm về chế độ chịu
trách nhiệm hữu hạn của công ty đối vốn; đồng thời nó còn kết hợp được ưu
điểm về chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần và ưu điểm thành viên quen
biết nhau của công ty đối nhân. Từ khi ra đời đến nay, số lượng của công ty
TNHH hai thành viên trở lên đã phát triển nhanh chóng, qui mô, và là một trong
những loại hình công ty quan trọng trên thế giới.
Ở Việt Nam, loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên cũng rất được
các nhà đầu tư quan tâm và yêu thích. Nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên khi
tham gia công ty, Nhà nước cần có sự điều chỉnh đối với sự hoạt động của công
ty. Năm 1990, với sự ra đời của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân thì
sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mới được Chính phủ thừa
nhận. Đây là bước chuyển biến cơ bản có vị trí đặc biệt quan trọng mở đầu cho

quá trình đổi mới nền kinh tế quốc dân và đường lối phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN. Đến kỳ họp ngày 12/06/1999, Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành Luật doanh nghiệp thay thế cho Luật
công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Và đến kỳ họp 29/11/2005, Luật doanh
nghiệp 2005 đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ
8 thông qua, thay thế cho Luật doanh nghiệp 1999. Với sự ra đời của Luật doanh
nghiệp 2005, thì những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của công ty
TNHH hai thành viên trở lên đã có những bước hoàn thiện và hợp lý hơn.
Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định về quyền và nghĩa vụ của công ty
TNHH hai thành viên trở lên, cách thức thành lập, phạm vi hoạt động, điều kiện

1


của thành viên công ty. Ưu điểm lớn nhất của công ty TNHH hai thành viên trở
lên là chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn. Thành viên của công ty chỉ chịu trách
nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm vi tài sản của mình. Do có chế độ
trách nhiệm hữu hạn mà nó giúp các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào bất cứ lĩnh
vực nào của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, công ty TNHH hai thành viên trở lên
cơ cấu thành viên trong công ty thường là người quen biết, có sự tin cậy nhất
định vào nhau rất phù hợp với những doanh nghiệp có qui mô trung bình và nhỏ.
Nhìn chung, sự phát triển của công ty TNHH hai thành viên trở lên diễn
ra khá nhanh.Trong một thời gian ngắn, nó đã phát huy được tác dụng tích cực
đối với việc huy động vốn, giải quyết việc làm, đáp ứng được yêu cầu của thị
trường, kích thích tính năng động sáng tạo và thức tỉnh ý thức kinh doanh tự
vươn lên hạn chế sự trông chờ ỷ lại của các công ty vào Nhà nước. Tuy nhiên,
cho đến nay, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế, đặc biệt là việc nước
ta đã chính thức gia nhập WTO, qua thực tiễn áp dụng Luật doanh nghiệp 2005
ở nước ta đã xuất hiện nhiều điểm bất cập, không phù hợp với nền kinh tế hiện
nay. Vì thế, vẫn có nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu, trao đổi thêm nhằm

giúp cho Luật doanh nghiệp 2005 thực sự phát huy tác dụng và đi vào cuộc
sống, đồng thời nhằm hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của công ty TNHH
hai thành viên trở lên, một loạt hình doanh nghiệp có nhiều điểm phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “ Những quy định của pháp luật về địa vị
pháp lý của công ty TNHH hai thành viên trở lên . Thực trạng và giải pháp.”
làm khoá luận tốt nghiệp cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề địa vị pháp lý của công ty TNHH hai thành viên trở lên có ý nghĩa
rất to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Chính vì vậy, đề tài này đã được nhiều tác
giả nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Chẳng hạn như:
PGS.TS Lê Hồng Hạnh (1997),” Cấu trúc vốn của công ty”, Đề tài cấp
cơ sở.
2


Tiến sỹ Trần Ngọc Dũng (2000), “Những vấn đề về công ty trong Luật
doanh nghiệp”, Đề tài cấp cơ sở.
PGS.TS Nguyễn Viết Tý (2002), “Phương hướng hoàn thiện pháp luật
kinh tế trong điều kiện có Bộ luật Dân sự”, Luận văn Tiến sỹ.
Thạc sỹ Nguyễn Như Hoa (2006), “Vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của
công ty TNHH”, Luận văn Thạc sỹ.
Các bài báo, tạp chí chuyên ngành:
Tiến sỹ Bùi Ngọc Cường (1995), “Nội dung cơ bản và những điểm mới
của luật Doanh nghiệp Nhà nước”, Tạp chí Luật học, Tr 25, số 4/1995.
Thạc sỹ Đồng Ngọc Ba (2005), “Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về
các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Tr 12, số 6/2005.
PGS.TS Nguyễn Viết Tý (2007), “Hai mươi năm phát triển của Luật kinh
tế nhìn dưới góc độ phương pháp luận”, Tạp chí Luật học, Tr.15; số 1/2007.
Thạc sỹ Nguyễn Thị Yến (2008), “Những “hạt sạn” trong Luật doanh

nghiệp”, Tạp chí Pháp lý, Tr 36, số 8/2008.
Tuy nhiên, các bài viết, các công trình nghiên cứu trên chỉ mới nghiên cứu
tổng quát hoặc đi sâu nghiên cứu, phân tích, luận giải một số khía cạnh nào đó
của vấn đề. Vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty TNHH hai thành viên
trở lên thì chưa có công trình, bài viết nào đề cập đến.
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý
của công ty TNHH hai thành viên trở lên . Thực trạng và giải pháp” làm công
trình nghiên cứu nhằm cung cấp một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về
việc hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty TNHH hai thành viên trở lên trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của khoá luận
Làm rõ bản chất pháp lý của công ty TNHH hai thành viên trở lên trong
pháp luật hiện hành. Qua đó, phân tích, đánh giá, nhằm đưa ra những phương

3


hướng, giải pháp nhằm góp phần làm hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty
TNHH hai thành viên trở lên trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của khoá luận
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của công ty TNHH hai thành
viên trở lên
Thu thập các tài liệu, khảo sát thực trạng của việc áp dụng các quy định
của pháp luật về địa vị pháp lý công ty TNHH hai thành viên trở lên để từ đó tìm
ra các thành tựu và những điểm còn hạn chế trong qui định của pháp luật.
Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn địa vị pháp lý của
công ty TNHH hai thành viên trở lên trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Khoá luận nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực trạng áp dụng những quy
định của pháp luật về địa vị pháp lý của công ty TNHH hai thành viên trở lên
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận phân tích, đánh giá khái quát những thành tựu và hạn chế trong
quy định của luật doanh nghiệp 2005 về địa vị pháp lý của công ty TNHH hai
thành viên trở lên để từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn địa vị pháp lý của công ty TNHH hai thành viên trở lên trong giai đoạn hiện
nay.
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở khoa học
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở khoa học là quan điểm của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và những đề tài, công trình
nghiên cứu của các tác giả về những nội dung có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện bởi việc sử dụng kết hợp các phương pháp như:
Phương pháp logic và phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp

4


khái quát hóa....trong đó phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp chủ
đạo.
6. Đóng góp của khoá luận
Khoá luận góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của công
ty TNHH hai thành viên trở lên. Cũng như quá trình áp dụng những quy định đó
trong thực tiễn. Để qua đó, tìm ra những kết quả đạt được, những hạn chế và từ
đó đề ra các giải pháp khắc phục.
Với kết quả nghiên cứu đạt được của khoá luận thì khoá luận có thể dùng
làm tư liệu tham khảo cho các doanh nghiệp, thương nhân, các cơ quan thực thi
pháp luật, sinh viên chuyên ngành Luật, Chính trị - Luật và những người có sự

quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khoá luận gồm 2 chương, 10 tiết.

5


NỘI DUNG
Chương 1
BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY TNHH HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
1.1. Sự ra đời và phát triển của Công ty TNHH hai thành viên trở lên
ở Việt Nam.
Trong xã hội, khi nền tảng hàng hoá đã phát triển ở lĩnh vực nhất định để
mở mang kinh doanh, các nhà kinh doanh cần phải có nhiều vốn để đáp ứng nhu
cầu về vốn buộc các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau trên cơ sở vốn và tin
tưởng lẫn nhau, sự liên kết theo các hình thức nhất định tạo ra mô hình tổ chức
mới là công ty.
Mặt khác, khi sản xuất hàng tiêu dùng, hàng hoá phát triển thì sự cạnh
tranh trên thị trường ngày càng khắc nghiệt hơn. Các nhà doanh nghiệp có vốn
đầu tư thấp thường ở vào vị trí bất lợi trong quá trình cạnh tranh vì vậy, các nhà
kinh doanh phải liên kết với nhau thông qua hình thức là góp vốn để thành lập
một doanh nghiệp vững chắc trên thị trường. Hơn nữa, trong kinh doanh thường
gặp rủi ro, các nhà kinh doanh phải liên kết với nhau để nếu có rủi ro xảy ra thì
nhiều người cùng gánh chịu, điều này có lợi hơn so với doanh nghiệp một chủ.
Mô hình liên kết này tỏ ra hấp dẫn, phù hợp với nền kinh tế thị trường và những
người kinh doanh.
Do vậy, công ty đã được các nhà kinh doanh tiếp thu và áp dụng. Như
vậy, sự ra đời của công ty là một quy luật khách quan trong nền kinh tế thị

trường.
Ra đời năm 1982 tại Đức, công ty TNHH hai thành viên trở lên được luật
pháp các nước Châu Âu lục địa thừa nhận và phát triển mạnh mẽ cho tới ngày
nay. Ở các nước phát triển đặc biệt là các nước tư bản chủ nghĩa, công ty TNHH
hai thành viên trở lên đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động thương mại
cũng như trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đây là loại công ty kết hợp được
6


những ưu điểm về chế độ TNHH của công ty cổ phần và ưu điểm các thành viên
quen biết nhau của công ty đối nhân. Nó khắc phục được nhược điểm về sự
phức tạp khi thành lập và quản lý của công ty cổ phần, nhược điểm không phân
chia được rủi ro của công ty đối nhân. Chính vì vậy mà hiện nay công ty TNHH
hai thành viên trở lên đã và đang thu hút được sự chú ý của thương nhân nhiều
nhất. Trong nền kinh doanh thị trường, chế độ trách nhiệm hữu hạn tạo điều kiện
cho các nhà kinh doanh hạn chế rủi ro bằng cách chia sẻ trách nhiệm cho nhiều
người, giúp cho các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực kinh tế nào
có lợi cho xã hội. Công ty đã tạo điều kiện cho bất kỳ nhà đầu tư nào cũng có
thể góp vốn của họ. Điều này đã thu hút được nhiều các nhà đầu tư cũng như
người có vốn quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì thế, có thể nói
công ty TNHH hai thành viên trở lên đã chiếm vị trí hết sức quan trọng trong
nền kinh tế thị trường. Việc thu hút đầu tư từng bước đưa nền kinh tế phát triển,
mở rộng quy mô địa bàn và đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh. Số lượng các
công ty TNHH hai thành viên trở lên ngày càng tăng và đã dần dần chứng minh
được tầm quan trọng của nó.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy các nhà đầu tư cũng rất thích thú với loại
hình kinh doanh này. Nhất là trong tình hình hiện nay nước ta đang từng bước
đổi mới nên kinh tế toàn diện trong đó có cơ cấu kinh tế hoà nhập với nền kinh
tế của các nước trên thế giới.
Trước năm 1986, nền kinh tế nước ta có đặc điểm là xây dựng nền kinh tế

kế hoạch hoá tập trung chủ yếu là hai thành phần quốc doanh và tập thể. Trong
thời kỳ này kinh tế tư nhân không có điều kiện phát triển do hoàn cảnh lịch sử.
Thành phần kinh tế tư nhân lại dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ và là thành phần kinh
tế không thuần nhất. Nói chung về mặt kinh tế họ đều là những sở hữu nhỏ, tiến
hành hoạt động kinh tế bằng chính lao động của mình. Nền kinh tế Việt Nam
giai đoạn này là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp chứ
không phải là nền kinh tế hàng hoá với sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Ở
đó không có sự cạnh tranh mà chỉ có hai thành phần là kinh tế quốc doanh và tập
7


thể với vai trò bao trùm của Nhà nước từ khâu sản xuất đến khâu phân phối, lưu
thông, Nhà nước không khuyến khích làm giàu, không khuyến khích tư nhân
phát triển kinh tế. Tư nhân không được phép đầu tư vào các dự án lớn, vì vậy
thời kỳ này không có cạnh tranh nên không có rủi ro. Cơ chế đó đã làm vai trò
của nền kinh tế tư nhân trong giai đoạn này không phát triển và không có vị trí
trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp ở nước ta.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 do có sự nhận thức đúng
đắn tình hình kinh tế của nước ta lúc bấy giờ nên Nhà nước ta chuyển nền kinh
tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế Việt Nam trước đây chủ yếu là tự cấp tự túc với cơ chế cấp
phát giao nộp tiền thì hiện nay nền kinh tế của Việt Nam đã chuyển đổi để phù
hợp với sự phát triển của đất nước. Nhà nước đã dần dần giảm bớt các chỉ tiêu
pháp lệnh có tính áp đặt và xoá bỏ sự không có giới hạn vào quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, chuyển dần việc điều chỉnh của
mình thông qua việc quản lý vĩ mô như thuế, pháp luật...
Các thành phần kinh tế nước ta, tập thể và tư nhân có thể thay đổi về vai
trò và cơ chế hoạt động trong đó có vai trò chủ đạo vẫn thuộc về thành phần
kinh tế quốc doanh, nghĩa là quốc doanh vẫn nắm giữ một số ngành then chốt,

thông qua kinh tế quốc doanh, Nhà nước tác động vào nền kinh tế. Mục đích của
việc giữ vai trò chủ đạo cho nền kinh tế quốc doanh là nhằm đảm bảo cho sự
phát triển ổn định và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế khác như kinh tế
tập thể, hợp tác xã cũng có những thay đổi theo hướng giảm dần sự can thiệp
của Nhà nước. Vì vậy, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam
không chỉ đơn giản là sự chuyển biến thuần tuý về mặt kinh tế mà phải gắn liền
với sự thay đổi căn bản về mặt xã hội và tạo ra sự thống nhất giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng tiến bộ xã hội.

8


Hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, các thành phần
kinh tế đều được khuyến khích phát triển. Các doanh nghiệp đều bình đẳng với
nhau trong hoạt động kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật. Trong nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, phạm vi hoạt động, lĩnh vực hoạt động của kinh tế
quốc doanh sẽ thu hẹp nhưng nó vẫn giữ vai trò chủ đạo bởi nó vẫn sẽ tồn tại và
phát triển ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Nhà nước
cần phải có những công ty TNHH hai thành viên trở lên ở những lĩnh vực khác
nhau can thiệp vào nền kinh tế thị trường. Sự tồn tại của công ty TNHH hai
thành viên trở lên trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt là ở nước ta hiện nay
là một tất yếu khách quan. Để công ty TNHH hai thành viên trở lên phát huy
được vai trò chủ đạo của mình đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách hợp lý với
công ty TNHH hai thành viên trở lên. Đó là yếu tố quan trọng chi phối qua trình
thành lập và điều chỉnh pháp lý đối với việc tổ chức và hoạt động của công ty
TNHH hai thành viên trở lên.
1.2. Bản chất pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trong luật doanh nghiệp 2005.

1.2.1. Khái niệm công ty TNHH hai thành viên trở lên
Theo Điều 38, luật doanh nghiệp 2005, khái niệm về công ty TNHH hai
thành viên là: ‘’Công ty TNHH hai thành viên trở lên là loại hình công ty gồm
không quá 50 thành viên, công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ,
các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng tài sản của mình’’.
1.2.2. Đặc điểm của công ty TNHH hai thành viên trở lên
Theo Điều 38 Luật doanh nghiệp 2005 thì công ty TNHH hai thành viên
trở lên có những đặc điểm cơ bản sau:
Công ty TNHH trong suốt quá hình hoạt động là một pháp nhân, có tài
sản độc lập, có trụ sở ổn định, có mục tiêu kinh doanh rõ ràng và có thể là
nguyên đơn, bị đơn trước pháp luật, số thành viên luôn từ hai đến năm mươi.

9


Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết vào doanh nghiệp.
Phần góp vốn của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định
tại Điều 43, 44, 45 của Luật này.
Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt
quá 50.
Công ty TNHH hai thành viên trở lên không được phát hành cổ phiếu,
nhưng vẫn được phát hành trái phiếu.
Công ty TNHH hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ ngày
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Do công ty TNHH hai thành viên trở lên là loại hình công ty trung gian
giữa công ty cổ phần và công ty đối nhân với một loạt các ưu điểm của hai loại
hình công ty nên công ty TNHH hai thành viên trở lên cũng mang các đặc điểm
cần được pháp luật chú ý. Do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên việc bảo vệ chủ
nợ rất cần thiết và vì vậy, luật có những quy định đặc biệt với công ty TNHH hai

thành viên trở lên, nó được thể hiện qua các đặc điểm sau:
Thứ nhất, công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân, có các quyền về tài sản và các quyền khác, có thể là nguyên
đơn hoặc bị đơn trước cơ quan tài phán.
Thứ hai, phần vốn góp của các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay
sau khi thành lập công ty dù phần vốn góp đó là hình thức nào (tiền, hiện vật,
bản quyền sở hữu...). Là loại công ty có chế độ TNHH nên pháp luật quy định
đóng đủ ngay phần vốn góp nhằm bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba có giao
dịch với công ty. Tuy rằng ở đây có quan điểm khác so với công ty cổ phần, ở
các công ty cổ phần nếu phần góp của các thành viên công ty bằng tiền thì khi
thành lập công ty họ chỉ cần đóng góp một nửa giá trị số cổ phần nhận mua là đủ
để trở thành thành viên của công ty (tuy nhiên họ sẽ phải nộp đủ số còn lại trong
thời gian nhất định được quy định trong điều lệ). Ở đây, cần được lưu ý thời
điểm công ty được thành lập về mặt pháp lý là khi được ghi tên vào đăng ký
10


kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Từ thời điểm này,
công ty có tư cách pháp nhân và được tiến hành mọi hoạt động kinh doanh của
mình.
Thứ ba, phần vốn góp của các thành viên công ty không được thể hiện
dưới hình thức nào (giấy tờ có giá trị như cổ phiếu mà nó được ghi nhận trong
điều lệ công ty), trong điều lệ có ghi rõ phần góp vốn của các thành viên công ty
và họ được cấp một bản sao điều lệ công ty và lấy nó làm bằng chứng cho tư
cách thành viên của mình. Đặc điểm này của công ty TNHH hai thành viên trở
lên khác với công ty cổ phần.
Thứ tư, công ty không được phát hành ra bên ngoài công chúng để huy
động vốn như cổ phiếu,mà chỉ được phát hành trái phiếu và các loại chứng
khoán khác theo luật chứng khoán. Công ty chỉ có thể huy động vốn bằng việc
tăng cường vốn điều lệ, vay vốn của ngân hàng và các khoản vay tín dụng khác.

Do vậy, khả năng huy động vốn của công ty TNHH hai thành viên trở lên là hạn
chế hơn so với công ty cổ phần (công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu hoặc
trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Người mua cổ phiếu lập tức trở thành
thành viên công ty, còn người mua trái phiếu là chủ nợ của công ty. Cổ phiếu và
trái phiếu được tự do chuyển nhượng nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho những
người sở hữu).
Thứ năm, việc chuyển nhượng phần vốn góp của công ty bị hạn chế. Điều
44 Luật doanh nghiệp 2005 quy định“thành viên muốn chuyển nhượng vốn phải
chào bán phần vốn góp đó cho tất cả thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với
phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện. Chỉ được chuyển nhượng
cho người không phải là thành viên công ty nếu các thành viên còn lại của công
ty không mua hoặc không mua hết”. Đây là điểm khác so với công ty cổ phần,
phần vốn góp của cổ đông được thể hiện bằng cổ phiếu mà cổ phiếu được tự do
chuyển nhượng trừ các cổ phiếu có ghi tên. Đặc điểm này của công ty làm cho
người ta nghĩ tới việc nó vẫn mang một số đặc điểm của công ty đối nhân. Trong
các công ty đối nhân, việc thay đổi thành viên có thể là lý do để giải thể công ty.
11


Các thành viên có mối quan hệ tương đối chặt chẽ nên phải xem xét tới nhân
thân của người muốn vào công ty và phải xem họ có đủ tin cậy, uy tín để vào
công ty hay không.
Thứ sáu, các bảng hiệu, hoá đơn, quảng cáo và các tài liệu, giấy tờ giao
dịch khác đều phải ghi tên của công ty kèm theo chữ “trách nhiệm hữu hạn”.
Đây là biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho người giao dịch với công ty và cũng là
thông báo cho họ biết về sự chịu trách nhiệm của công ty về các khoản nợ của
mình. Theo pháp luật của một số nước, nếu như công ty vi phạm nghĩa vụ này
thi sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với công chứng giao dịch với mình, bởi
vì, những vi phạm sẽ được coi là lừa dối trong kinh doanh. Tuy nhiên, pháp luật
Việt Nam chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.

Thứ bảy, cơ cấu quản lý thường gọn nhẹ và phụ thuộc vào số lượng thành
viên. Cụ thể, số lượng thành viên dưới 11 người thì việc thành lập, quản lý công
ty được tiến hành theo những quy định hết sức đơn giản, họ sẽ họp toàn thể
thành viên phân công nhau đảm nhiệm chức trách quản lý, khảo sát công ty, cử
hoặc thuê giám đốc. Nếu công ty có 11 thành viên trở lên thì phải tiến hành đại
hội, bầu hội đồng quản trị, bầu chủ tịch, giám đốc công ty và kiểm soát viên.
1.3. Quy chế pháp lý về việc thành lập và chấm dứt hoạt động của
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
1.3.1. Quy chế thành lập công ty.
Nhiều nước trên thế giới, những người muốn thành lập công ty để tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ cần làm thủ tục đăng ký kinh doanh
tại toà án thương mại hoặc toà án kinh tế là có quyền kinh doanh hợp pháp.
Do hoạt động quản lý kinh doanh ở nước ta trong giai đoạn đầu của nền
kinh tế còn non yếu, các công cụ để quản lý như pháp luật, các cơ quan quản lý
kinh doanh còn thiếu đồng bộ. Việc đưa ra quy định về xin phép và cấp phép
thành lập công ty là hết sức cần thiết nhằm hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra
cho xã hội như việc sản xuất hàng giả, hàng hoá kém phẩm chất so với tiêu

12


chuẩn đã đăng ký, trốn thuế, lừa đảo, lừa khách huy động vốn quá lớn so với khả
năng kinh doanh, khả năng thanh toán dẫn đến phá sản.
Để thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên pháp luật phải quy
định một cách chặt chẽ ai là người có đủ điều kiện để tham gia thành lập, góp
vốn vào công ty.
1.3.1.1. Điều kiện chủ thể thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Theo khoản 1, Điều 13 luật doanh nghiệp 2005 quy định:” tổ chức, cá
nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý
doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của luật này, trừ trường hợp quy định

tại khoản 2 Điều này”.
Khoản 2, Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005 quy định nghiêm cấm cơ
quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản của Nhà
nước và công quỹ để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp
thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình. Ngoài ra, pháp luật còn quy định người
chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự
không đủ khả năng tự đem tài sản góp vào công ty hay bảo vệ lợi ích chính đáng
của họ thì cũng không được thành lập công ty. Vì vậy, việc pháp luật quy định
cấm đối với người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc mất năng
lực hành vi dân sự là dựa trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của chính người đó, để tạo
cho công ty hoạt động có hiệu quả. Hạn chế đối với người đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hay người đang chấp hành phạt tù hoặc bị toà án tước quyền hành
nghề nếu để họ thành lập công ty có thể gây ra nhiều tiêu cực nên quy định này
có giá trị ngăn ngừa trước.
Đối với một số ngành nghề kinh doanh đặc biệt như in, khắc con dấu, sao
chụp, nghề kinh doanh có sử dụng chất nổ, chất độc mạnh, chất phóng xạ....
Những người không được làm các nghề kinh doanh đặc biệt này bao gồm:
Những người đang bị quản chế, cải tạo không giam giữ, bị án tù nhưng
cho hưởng án treo.

13


Người có tiền án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc có tội khác quan
hệ trực tiếp tới nghề kinh doanh đặc biệt mà họ phải xin phép kinh doanh, người
có tiền án mà họ đã lợi dụng hoạt động kinh doanh ngành nghề đặc biệt để hoạt
động phạm tội.
Những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc đang có liên quan trực tiếp
đến các vụ án hình sự mà cơ quan thẩm quyền đang tiến hành điều tra.
Các quy định trên đây nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, giữ trật tự an toán

xã hội, ngắn ngừa việc lợi dụng kinh doanh để hoạt động phi pháp.
Nhà nước ta thừa nhận quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật
đồng thời cũng quy định chặt chẽ việc thực hiện quyền đó để bảo vệ lợi ích của
người tiêu dùng, các tổ chức kinh tế khác, của toàn xã hội. Pháp luật quy định:
Người quản lý điều hành hoạt động kinh doanh phải có trình độ chuyên môn tư
vấn mà pháp luật đòi hỏi đối với một ngành nghề. Vì trong thực tế, không ít lĩnh
vực người ta không quản lý, điều hành công ty nếu họ không nắm vững chuyên
môn ngành nghề kinh doanh, chạy theo lợi nhuận cũng có thể gây ra thiệt hại
không thể lường trước được cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội (như kinh
doanh dịch vụ khám chữa bệnh, kinh doanh dược phẩm, kinh doanh dịch vụ
kiểm toán, kinh doanh thiết bị công trình...)
1.3.1.2. Điều kiện về trụ sở giao dịch.
Địa điểm làm việc chính thức của công ty là trụ sở giao dịch, ở đây có bộ
máy quản lý điều hành và tiến hành các hoạt động giao dịch trong mọi quan hệ.
Đối với xã hội, cần phân biệt trụ sở giao dịch chính của công ty với các phân
xưởng sản xuất, cửa hàng đại lý bán lẻ sản phẩm của công ty ở trong và ngoài
tỉnh. Về sở hữu trụ sở của công ty có thể là tài sản riêng của công ty hoặc do
công ty thuê mướn. Đơn xin phép thành lập công ty phải xuất trình các văn
bằng, chứng chỉ, hợp đồng thuê mướn được cơ quan công chứng chứng thực
trong trường hợp thuê mướn của người khác. Có thể có nhiều trụ sở giao dịch ở
nhiều địa bàn khác nhau trong một công ty song đều đảm nhận là đầu mối giao
dịch và tiến hành các hoạt động kinh doanh. Nước ta hiện nay do hoạt động kinh
14


doanh còn có quy mô hạn chế thông thường trụ sở giao dịch được đặt tại các cửa
hàng dịch vụ buôn bán sản phẩm hàng hoá của công ty. Việc quy định công ty
có trụ sở giao dịch là cần thiết nhằm đảm bảo tính chính thức, tính công khai
được mọi người thừa nhận.
1.3.1.3. Điều kiện về vốn

Theo quy định tại khoản 1, điều 6, nghị định 102/2010/NĐ-CP thì :”Vốn
điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là tổng giá trị các
phần vốn góp do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn cụ
thể và đã được ghi vào Điều lệ công ty”.
Thời hạn mà thành viên, chủ sở hữu công ty phải góp đủ số vốn đã
cam kết vào vốn điều lệ quy định tại các khoản 1, Điều 6 của nghị định này
không quá 36 tháng, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký bổ sung, thay đổi thành viên.
Tại điều 10, Nghị định 102/2010/NĐ-CP cũng quy định rõ vấn đề kinh
doanh phải có vốn pháp định như sau:
“1. Ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định, mức vốn pháp định
cụ thể, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về vốn pháp định, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định, hồ sơ, điều kiện và cách thức xác
nhận vốn pháp định áp dụng theo các quy định của pháp luật chuyên ngành.
2. Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc
(Tổng giám đốc) đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, Chủ tịch Hội đồng quản
trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) đối với công ty cổ phần, tất cả các thành viên
hợp danh đối với công ty hợp danh và chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân đối với
doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của
vốn được xác nhận là vốn pháp định khi thành lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp
có nghĩa vụ bảo đảm mức vốn điều lệ thực tế không thấp hơn mức vốn pháp
định đã được xác nhận trong cả quá trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.

15


3. Đối với đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp kinh doanh ngành,
nghề phải có vốn pháp định, trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phải có thêm xác
nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định. Người trực

tiếp xác nhận vốn pháp định cùng liên đới chịu trách nhiệm về tính chính xác,
trung thực của số vốn tại thời điểm xác nhận.
4. Đối với doanh nghiệp đăng ký bổ sung ngành, nghề phải có vốn pháp
định thì không yêu cầu phải có thêm xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền xác nhận vốn pháp định nếu vốn chủ sở hữu được ghi trong bảng tổng kết
tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm không quá 03 tháng, kể từ ngày nộp hồ
sơ, lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định theo quy định.”
Theo quy định của pháp luật hiên hành thì những nghành nghề kinh
doanh đòi hỏi phải có vốn pháp định đó là:
“1. Tổ chức tín dụng
a. Ngân hàng thương mại cổ phần: 1000 tỷ đồng
b. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 15 triệu USD
2. Quỹ tín dụng nhân dân
a. Quỹ tín dụng nhân dân trung ương: 1000 tỷ đồng
b. Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở: 0.1 tỷ đồng
3. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
a. Công ty tài chính: 300 tỷ đồng
b. Công ty cho thuê tài chính: 100 tỷ đồng
4. Kinh doanh bất động sản: 6 tỷ đồng
5. Dịch vụ đòi nợ: 2 tỷ đồng
6. Dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: 5 tỷ đồng
7. Sản xuất phim: 1 tỷ đồng
8. Kinh doanh cảng hàng không:
a. Kinh doanh cảng hàng không nội địa: 30 tỷ đồng
b. Kinh doanh cảng hàng không quốc tế: 100 tỷ đồng

16


9. Cung cấp dịch vụ hàng không tại cảng hàng không (không phải là

doanh nghiệp cảng hàng không):
a. Kinh doanh tại cảng hàng không nội địa: 10 tỷ đồng
b. Kinh doanh tại cảng hàng không quốc tế: 30 tỷ đồng
10. Kinh doanh vận chuyển hàng không:
a. Vận chuyển hàng không quốc tế:
Khai thác từ 1 đến 10 tàu bay: 500 tỷ đồng
Khai thác từ 11 đến 30 tàu bay: 800 tỷ đồng
Khai thác trên 30 tàu bay: 1000 tỷ đồng
b. Vận chuyển hàng không nội địa:
Khai thác từ 1 đến 10 tàu bay: 200 tỷ đồng Khai thác từ 11 đến 30 tàu
bay: 400 tỷ đồng
Khai thác trên 30 tàu bay: 500 tỷ đồng
11. Kinh doanh hàng không chung: 50 tỷ đồng”
1.3.1.4. Điều kiện về ngành nghề kinh doanh
Theo quy định tại điều 7, luật doanh nghiệp 2005 và hướng dẫn chi tiết tại
nghị định số 102/2010-CP đã quy định rõ về điều kiện ngành nghề kinh doanh.
Về cơ bản pháp luật quy định có các nhóm nghành nghề sau:
Một là, Nhóm ngành nghề kinh doanh tự do, chẳng hạn như: buôn bán
hàng tạp hóa, buôn thúng bán mẹt,...
Hai là, Nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện (phải có chứng chỉ
hành nghề, chứng chỉ hành nghề nghiệp là văn bản mà cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp được Nhà nước ủy quyền
cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một
ngành, nghề nhất định). Theo các quy định hiện hành, những ngành nghề sau
đây cần có chứng chỉ hành nghề trước khi đăng ký kinh doanh: Kinh doanh dịch
vụ pháp lý; Kinh doanh dịch vụ khám, chữa bệnh và kinh doanh dược phẩm;
Kinh doanh dịch vụ thú y và kinh doanh thuốc thú y; Kinh doanh dịch vụ thiết
kế quy hoạch xây dựng, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình, giám
17



sát thi công xây dựng; Kinh doanh dịch vụ kiểm toán; Sản xuất, gia công, sang
chai, đóng gói, mua bán thuốc bảo vệ thực vật; Kinh doanh dịch vụ xông hơi
khử trùng; Kinh doanh dịch vụ thiết kế phương tiện vận tải; Mua bán di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia; Kinh doanh dịch vụ kế toán; Dịch vụ môi giới bất động
sản; dịch vụ định giá bất động sản; dịch vụ sàn giao dịch bất động sản.
Ba là, Nhóm ngành nghề khuyến khích kinh doanh, đó là những ngành
nghề truyền thống như: dệt may, đan lát đồ mỹ nghệ, thủ công,..
Bốn là, Nhóm ngành nghề kinh doanh bị cấm như: Kinh doanh vũ khí
quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dùng quân sự,
công an; quân trang (bao gồm cả phù hiệu, cấp hiệu, quân hiệu của quân đội,
công an), quân dụng cho lực lượng vũ trang; linh kiện, bộ phận, phụ tùng, vật tư
và trang thiết bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng; Kinh doanh
chất ma túy các loại; Kinh doanh hóa chất bảng 1 (theo Công ước quốc tế); Kinh
doanh các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới
giáo dục thẩm mỹ, nhân cách; Kinh doanh các loại pháo; Kinh doanh các loại đồ
chơi, trò chơi nguy hiểm, đồ chơi, trò chơi có hại tới giáo dục nhân cách và sức
khỏe của trẻ em hoặc tới an ninh, trật tự an toàn xã hội; Kinh doanh các loại
thực vật, động vật hoang dã, gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được
chế biến, thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định
và các loại thực vật, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm khai thác, sử dụng;
Kinh doanh mại dâm, tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em; Kinh doanh
dịch vụ tổ chức đánh bạc, gá bạc dưới mọi hình thức; Kinh doanh dịch vụ điều
tra bí mật xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân;.....
Như vậy, nhà đầu tư có thể lựa chọn bất cứ ngành nghề nào nằm ngoài
nhóm ngành nghề bị cấm kinh doanh đặc biệt đối với ngành nghề kinh doanh có
điều kiện thì việc chọn nghành nghề được coi là hợp pháp khi nhà đầu tư đáp
ứng được đầy đủ các yêu cầu của pháp luật liên quan đến ngành nghề đó.
1.3.1.5. Điều kiện về tên doanh nghiệp

18


Với điều kiện về tên doanh nghiệp thì tại khoản 1, khoản 2, điều 31 luật
doanh nghiệp 2005 đã quy định rất rõ.Theo đó, tên doanh nghiệp phải được viết
bằng tiếng việt và có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được và có ít
nhất hai thành tố: loại hình doanh nghiệp và tên riêng. Như vậy, với quy định
này, tên của tất cả các công ty TNHH hai thành viên trở lên phải kèm theo cụm
từ “TNHH”. Ngoài ra, pháp luật còn nêu ra một sổ trường họp cấm trong khi lựa
chọn tên cho công ty như: không được đặt tên trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên
của công ty đã đăng ký, không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực
lượng vũ trang nhân dân tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội để
làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của công ty trừ trường hợp có sự chấp
thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó; không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu
vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân
tộc để đặt tên riêng cho công ty. Ngoài ra, pháp luật cũng cho phép các công ty
được dịch tên công ty sang tên tiếng nước ngoài hoặc viết tắt, tuy nhiên trong
mọi trường hợp vẫn phải thể hiện đầy đủ tên công ty bằng tiếng việt trên biển
hiệu của công ty.
1.3.1.6. Thủ tục thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Người muốn thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên phải nộp đủ
hồ sơ kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 tại cơ quan đăng ký
kinh doanh thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi
doanh nghiệp đặt trụ sở chính, phải tự chịu trách nhiệm về tính xác thực trung
thực của hồ sơ kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền yêu
cầu người thành lập doanh nghiệp trình các giấy tờ, hồ sơ khác ngoài hồ sơ mà
Luật doanh nghiệp 2005 quy định đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng
ký kinh doanh.
Trong quá trình thành lập, thành viên sáng lập hoặc người đại diện theo

uỷ quyền của nhóm thành viên sáng lập ký kết hợp đồng phục vụ cho việc thành
lập công ty. Hợp đồng này được doanh nghiệp tiếp nhận quyền và nghĩa vụ
19


×