Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Một số đặc trưng nghệ thuật thơ cổ phong đời đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.48 KB, 75 trang )

Lời cảm ơn
Để hoàn thành khoá luận này, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản
thân, tôi còn nhận đợc sự hớng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo Phan Thị
Nga, sự góp ý chân thành của các thầy cô trong khoa ngữ văn và sự động
viên khích lệ của gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo hớng dẫn và xin gửi đến các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp lời cảm ơn
chân thành nhất.
Vinh, tháng 5 năm 2003.

1


Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
1.1. Xa nay ngời Trung Quốc luôn tự hào: Trung Quốc là đất nớc của thi ca
(thi ca nhi chi bang). Quả vậy, chỉ riêng thơ Đờng đã là một minh chứng đầy sức
thuyết phục cho luận điểm trên. Thơ Đờng chính là đỉnh cao viên mãn của thơ ca
cổ điển Trung Hoa và cũng là một thành tựu kiệt xuất của thi ca nhân loại. Sự ảnh
hởng của thơ Đờng thật sâu đậm. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi biên giới của
đất nớc Trung Hoa mà còn có sức ảnh hởng đến nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam vốn là một nớc láng giềng gần gũi, lại đã có quá trình tiếp xúc
văn hoá lâu đời với Trung Quốc cho nên chịu sự ảnh hởng của thơ Đờng là tất yếu.
Cha ông ta đã học tập từ thơ Đờng cách cấu tạo tứ thơ, thể thơ, nghệ thuật sử dụng
ngôn từđầy sáng tạo để làm nên vẻ mặt thi ca Việt Nam không kém phần phong
phú, hoành tráng.
Chính sức hấp dẫn, mức độ ảnh hởng lâu bền của thơ Đờng đã đặt ra một
nhu cầu cấp thiết từ bao đời nay đối với việc nghiên cứu, thởng thức cái hay, cái
đẹp của nó. Song hiểu đợc thơ Đờng quả là một việc không dễ và không phải ai
cũng làm đợc, nhất là đối với con ngời hiện đại bởi thơ Đờng chính là thứ hoa thơm
quả ngọt đợc chng cất từ tinh hoa của một nền văn hoá đã thuộc về quá khứ. Nhng
cái khó bao giờ cũng hấp dẫn, luôn có sức dẫn dụ, mời gọi con ngời. Nghiên cứu


thơ Đờng ở góc độ đặc trng thể loại - thể cổ phong - trớc hết chúng tôi muốn bày tỏ
sự ham thích đối với thơ Đờng.
1.2. Tìm hiểu để chỉ ra một số đặc trng nghệ thuật của thơ cổ phong đời Đờng là một việc làm cần thiết, rất có ý nghĩa cả về phơng diện lí luận và thực tiễn.
Về lí luận: Trớc hết chúng tôi muốn góp phần làm rõ khái niệm cổ phong,
vấn đề cho đến nay còn có nhiều tranh cãi. Quan trọng hơn, việc tìm hiểu một số
đặc trng nghệ thuật thơ cổ phong đời Đờng sẽ góp phần làm giàu vốn lí luận, cung
cấp cho chúng tôi một điểm tựa để đi vào thế giới nghệ thuật của thể loại này.
Về mặt thực tiễn: So với các thể loại khác của thơ Đờng, phải khẳng định
thơ cổ phong không phải là đặc sản. Nó chỉ chiếm một số lợng nhỏ, giữ một địa
vị khiêm tốn song không có nghĩa đây là một thể loại kém giá trị. Thơ cổ phong
đặc biệt có u thế trong việc phản ánh hiện thực cuộc sống một cách đầy đủ, chi tiết
nh nó vốn có, có khả năng đáp ứng nhu cầu giãi bày, bộc lộ nội tâm ở nhiều cung
bậc phong phú. Nó thực sự là một thể loại đã gắn liền với tên tuổi của các nhà thơ
lớn đời Đờng nh Đỗ Phủ, Bạch C DịCác bài thơ cổ phong cũng chiếm số l ợng
đáng kể trong tổng số thơ Đờng đợc tuyển chọn giảng dạy ở bậc phổ thông cơ sở và
phổ thông trung học. Tính chung tổng số thơ Đờng đợc tuyển chọn giảng dạy ở hai
bậc học này là 17 bài, trong đó cổ phong có 4 bài, chiếm khoảng 23% ( Hành lộ
nan, Thạch Hào lại, Mao ốc vị thu phong sở phá ca, Tì bà hành ). Lựa chọn đề tài
2


này, chúng tôi có điều kiện để góp phần nâng cao chất lợng dạy và học các tác
phẩm thơ cổ phong có trong chơng trình.
Tìm hiểu một số đặc trng nghệ thuật thơ cổ phong đời Đờng không chỉ
nhằm thoả mãn nhu cầu cảm thụ chính nó mà còn góp phần hiểu biết sâu hơn về
văn học Việt Nam qua một số tác phẩm thơ cổ phong nh Sở kiến hành, Long
thành cầm giả ca ( Nguyễn Du )từ đó hiểu sâu sắc hơn mối quan hệ giữa văn
học Việt Nam và văn học Trung Quốc.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu thơ Đờng đợc bắt đầu từ rất sớm. ở Trung Quốc, ngay từ

đời Đờng, công việc này đã đạt đợc nhiều thành tựu với các tên tuổi lớn: Bạch C Dị,
Nguyên ChẩnCác đời kế tiếp: Tống, Nguyên, Minhthời nào cũng có những học
giả lớn nghiên cứu thơ Đờng. ở các quốc gia khác trên thế giới, việc nghiên cứu
thơ Đờng cũng rất đợc chú trọng. Các học giả chủ yếu nghiên cứu chung về thơ Đờng trên cả hai phơng diện nội dung và nghệ thuật.Thơ cổ phong vốn dĩ là một bộ
phận của thơ Đờng, mang đầy đủ các đặc trng thi pháp của nó cho nên qua các
thành tựu nghiên cứu chung về thơ Đờng, ngời đọc cũng nhận thấy hớng tiếp cận
thể loại này. Đáng chú ý hơn là việc đề cập đến thể loại cổ phong ở một số công
trình. Đây chính là những tài liệu hữu ích giúp chúng tôi giải quyết đề tài này, song
do vốn ngoại ngữ hạn hẹp, chúng tôi mới chỉ tiếp cận đợc một số tài liệu dịch.
Trong Cựu thi lợc luận, nhà nghiên cứu ngời Hoa Lơng Xuân Phơng đã
dành một phần bàn về Những thể loại, trong đó thể cổ phong đợc nhấn mạnh ở
tính chất tự do, đặc biệt quá trình hình thành, phát triển thể loại ở góc độ ngôn từ
[31].
Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc là công trình nghiên cứu của tập thể
74 học giả Trung Quốc nổi tiếng. Trên cơ sở đúc rút những điều mục chính ở Đại
bách khoa toàn th Trung Quốc phần văn học, các học giả đã trình bày khái quát
những nét chung về sự phát triển, đặc trng của văn học Trung Quốc. Công trình này
cũng đã đề cập đến sự diễn biến, phát triển thể thơ trong thơ ca đời Đ ờng, quan
tâm tới sự phát triển thơ cổ phong về mặt ngôn từ [49].
Nhà nghiên cứu ngời Pháp, Prancoicheng trong công trình: Bút pháp thơ
ca Trung Quốc sau phần khảo luận khá công phu về các cơ chế sử dụng ngôn ngữ
của thơ Đờng: phép tỉnh lợc, đảo trangđã dành một phần để bàn về thơ cổ phong
ở tính chất tự do của nó (Dẫn theo [32]).
ở Việt Nam, việc nghiên cứu thơ Đờng diễn ra khá sớm song chỉ thực sự
phát triển từ đầu thế kỉ 20 với nhiều hớng tìm tòi. Hớng nghiên cứu về thể loại phải
kể đến các công trình Việt Hán văn khảo ( Phan Kế Bính ), Quốc văn cụ thể
(Bùi Kỉ), Việt Nam văn học sử yếu(Dơng Quảng Hàm), Lợc khảo thơ Trung
Quốc (Doãn Kế Thiện).
Sau cách mạng, hớng tìm tòi nghiên cứu thể loại tiếp tục phát triển, trong đó
nổi lên một số công trình: Tìm hiểu các thể thơ ( từ cổ phong đến thơ luật) của

3


Lạc Nam Phan Văn Nhiễm, Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại (Bùi Văn
Nguyên Hà Minh Đức).
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu trớc đó, hai tác giả Bùi Văn
Nguyên- Hà Minh Đức đã nghiên cứu khá toàn diện hình thức thơ ca trong văn học
Việt Nam cùng các đặc trng thể loại của nó. Thơ cổ phong cũng đợc các tác giả chú
ý đề cập trong Chơng 3 - Các thể thơ mô phỏng thơ ca Trung Quốc[10].
Vấn đề thơ cổ phong, nhìn từ góc độ đặc trng thể loại còn đợc đề cập đến
trong các bài giới thiệu ở các tuyển tập thơ Đờng, các bài nghiên cứu đăng trên các
báo của những học giả có tên tuổi: Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Trơng Chính,
Lơng Duy Thứ và trong các giáo trình đại học.
Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu kể trên đều đã có sự chú ý đến
thơ cổ phong song vẫn cha đi sâu tìm hiểu đặc trng nghệ thuật của thể loại này một
cách toàn diện, sâu sắc. Các tác giả mới dừng lại ở việc xem xét thơ cổ phong qua
một số đặc điểm hình thức dễ nhận biết, đặt trong sự đối sánh với thơ luật, với mục
đích làm nổi bật đặc trng thể loại của thơ Đờng luật. Đặc trng nghệ thuật của thơ cổ
phong đời Đờng vẫn đang là một mảnh đất để chúng tôi có thể chiếm lĩnh, khơi sâu
ở một góc nhìn mới - góc nhìn của thi pháp học hiện đại.
3. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của chúng tôi ở đây là thơ cổ phong đời Đờng.
Phạm vi nghiên cứu đợc giới hạn chủ yếu trong Thơ Đờng (hai tập) của
nhà xuất bản văn học và Đờng thi tam bách thủ của Hành Đòng thoái sĩ và Trần
Bá Anh. Ngoài ra, để dẫn liệu thêm phong phú, chúng tôi cũng dẫn một số bài thơ
trong các tuyển thơ khác.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Xác định khái niệm thơ cổ phong.
Đây là khái niệm khá phức tạp, còn một số vấn đề cha có sự thống nhất
giữa các nhà nghiên cứu. Ngời viết luận văn này không có tham vọng xây dựng một

khái niệm hoàn chỉnh. Trên cơ sở tìm hiểu, tiếp thu có lựa chọn những yếu tố hợp lí
trong các khái niệm đã có, chúng tôi đa ra cách hiểu riêng của mình về thơ cổ
phong với mong muốn tiếp cận gần hơn bản chất của nó.
4.2. Nêu ra một số đặc trng nghệ thuật thơ cổ phong đời Đờng trên các phơng diện: lựa chọn, xử lí đề tài, phơng thức cấu tứ và sử dụng ngôn ngữ.
4.3. Vận dụng lí thuyết đã nêu ra vào tìm hiểu đặc trng nghệ thuật thơ cổ
phong của Đỗ Phủ để thấy đợc đóng góp của nhà thơ ở thể loại này.

5. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp vận dụng nhiều phơng pháp nghiên cứu: Phơng pháp khảo
sát - thống kê, phơng pháp hệ thống, phơng pháp so sánhđặc biệt là phơng pháp

4


khảo sát - thống kê và phơng pháp so sánh bởi chúng có u thế trong thao tác khái
quát hoá một số đặc trng nghệ thuật thơ cổ phong đời Đờng từ các dẫn liệu cụ thể.
6. Cấu trúc luận văn.
Tơng ứng với nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần mở đầu và kết
luận, nội dung của luận văn đợc triển khai trong ba chơng:
Chơng 1: Những vấn đề về thơ cổ phong.
Chơng 2: Một số đặc trng nghệ thuật thơ cổ phong đời Đờng.
Chơng 3: Một số đặc trng nghệ thuật thơ cổ phong Đỗ Phủ.
Sau cùng là phần tài liệu tham khảo.

Chơng 1
Những vấn đề về thơ cổ phong.
1.1. Vài nét về quá trình phát triển của thơ cổ điển Trung Quốc.
Trong văn học Trung Quốc, thơ ca là một trong những loại hình nghệ thuật
ra đời sớm nhất và cũng là thể tài đợc phát triển đầy đủ nhất.


5


Thời kì tiên Tần, vờn thơ cổ đại mới nhú lên vài mầm non song đã dồi dào
sinh lực. Có thể coi Kinh thi là cội nguồn của thơ ca Trung Quốc. Đây là tuyển
tập thơ ca dân gian và một số sáng tác của văn nhân khuyết danh, ra đời khoảng
giữa thế kỉ thứ VI trớc công nguyên. Phần lớn thơ trong Kinh thi là những câu thơ
bốn chữ với lối trùng chơng điệp cú mang đậm dấu ấn của ca vũ hội hè đã phản ánh
đầy đủ, chính xác cuộc sống vật chất và tinh thần của ngời dân lao động Trung
Quốc thời kì này.
Tiếp sau Kinh thi, nớc Sở phía nam hng khởi thể thơ mới, đó là Sở từ.
Sở từ đợc phát triển dựa trên dân ca nớc Sở nên mang đậm đà màu sắc địa phơng.
Khuất Nguyên với thiên Li tao chính là đại diện bất hủ. Ông là nhà thơ cá nhân
đầu tiên với những vần thơ trữ tình nội tâm, sáu chữ một câu với tiếng hề đệm
nhịp, thực sự đánh dấu bớc phát triển mới của thơ Trung Quốc. Kinh thi và Sở
từ chiếm địa vị quan trọng trong văn học tiên Tần, là hòn đá tảng mở đầu cho
truyền thống hiện thực và lãng mạn trong lịch sử thơ ca Trung Quốc.
Sang thời Tần Hán: Thời Tần, lịch sử quá ngắn ngủi, Tần Thuỷ Hoàng lại
thi hành chính sách đốt sách chôn nho nên thành tựu văn học không có gì. Nó
chủ yếu kết tinh ở văn học lỡng Hán. Thi đàn lỡng Hán dù lép vế trớc sự phát triển
mạnh của thể phú song nhờ sáng kiến thành lập Nhạc phủ của triều đình, cơ quan
chuyên su tầm dân ca, mà thơ ca dân gian có cơ hội phát triển. Qua bàn tay tuyển
lựa, phóng tác của văn nhân, thơ ca Nhạc phủ càng trở nên có giá trị, nhiều tác
phẩm trở nên bất tử: Mạch thợng tang, Khổng tớc đông nam phi Đặc sắc của
lối thơ này là sự cảm thụ hiện thực mãnh liệt, lời lẽ sống động, âm tiết hài hoà,
thuật tả tự do Chính những đặc điểm này- nhất là tinh thần chủ nghĩa hiện thực đã ảnh hởng rất mạnh đến sáng tác Nhạc phủ cổ đề của các nhà thơ sau, cũng nh
phong trào Tân Nhạc phủ đời Đờng. Thông qua sự phát triển của dân ca Nhạc
phủ, hình thức thơ năm chữ, bảy chữ đợc hình thành và chiếm địa vị quan trọng
trong sáng tác.
Thời kì Ngụy - Tấn, Nam - Bắc triều (còn gọi là lục triều) là thời kì có

nhiều biến động về chính trị, theo đó văn học cũng có những biến đổi, thăng trầm.
Nhng thi ca thời kì này lại có bớc phát triển quan trọng, chuẩn bị cho sự phát triển
đến đỉnh cao đời Đờng. Nền văn học Kiến An, cột trụ là Tam Tào (Tào Tháo,
Tào Phi, Tào Thực) và nhóm thất tử (Khổng Dung, Trần Lâm, Vơng Xán, Từ
Cán, Nguyễn Vũ, ứng Dơng, Lu Trinh) đã kế thừa và phát huy truyền thống thơ
Nhạc phủ, đi sâu phản ánh rộng rãi mọi mặt cuộc sống xã hội đơng thời. ở thời kì
này, thơ ngũ ngôn, thất ngôn đợc trau luyện, hoàn chỉnh. Cuối Đông Tấn, tình hình
chính trị - xã hội cực rối ren, song thi đàn lại rực sáng lên với tên tuổi Đào Uyên
Minh, ông tổ của trờng phái ẩn dật. Ông đã để lại 120 bài thơ ca ngợi quê hơng
đồng nội, kêu gọi mọi ngời rũ bỏ vinh hoa phú quý về với đồng ruộng thiên nhiên,
đặc biệt nổi tiếng là Quy khứ lai từ với vô hạn ảnh hởng về sau.

6


Thời kì Ngụy - Tấn cũng là thời kỳ Nho thuật bị phế truất địa vị độc tôn,
nhờng chỗ cho sự du nhập và hng khởi của các dòng t tởng Phật, Lão. Việc dịch
Kinh Phật kéo theo sự du nhập của Phạn âm đã tạo điều kiện để phát triển âm vận
học Trung Hoa. Lý Đăng, đời Ngụy, đã có bài Thanh loại, trên cơ sở đó, Chu
Ngung, nhà âm vận học thời Nam - Bắc triều, đã đề ra việc chia làm bốn thanh:
bình, thợng, khứ, nhập, Thẩm Ước vận dụng nó vào trong cách luật thơ văn, đề xớng thuyết tứ thanh bát bệnh, hình thành Vĩnh Minh thể. Sự kiện này đánh dấu
bớc phát triển mới của thơ cổ Trung Quốc từ cổ thể đến cận thể.
Sang đời Đờng, thơ cổ điển Trung Quốc bớc lên tột đỉnh vinh quang. Đây là
thời kì thơ ca đợc cả nền và đỉnh với 50.000 bài thơ của 2.300 thi nhân.
Thời kì sơ Đờng tuy cha xuất hiện đông đảo thi nhân nhng đã có những tác
phẩm có giá trị của Vơng Bột, Lạc Tân Vơng, Dơng Quýnh, L Chiếu Lân (Tứ kiệt
sơ Đờng)
Thịnh Đờng là thời kì không chỉ giàu có về số lợng mà còn đạt đến sự viên
mãn về chất lợng với thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ, thi phật Vơng
Duy Ngoài ra còn có những nhà thơ dù số l ợng thi phẩm không nhiều, thậm chí

chỉ một vài bài song đó thực sự là những viên ngọc quý, lấp lánh muôn đời nh trờng
hợp Thôi Hiệu với Hoàng Hạc lâu.
Bớc sang thời Trung Đờng, hiện tợng nổi bật trên thi đàn là phong trào
Tân Nhạc phủ mà nhân vật trung tâm là Bạch C Dị. Các tác giả trong phong trào
đã thể hiện sự đồng tình sâu sắc với nhân dân và phản ánh sinh động mâu thuẫn
giai cấp gay gắt thời kì này.
Vãn Đờng dù không có những đỉnh cao nh thời thịnh Đờng nhng vẫn nhiều
nhà thơ tài năng: Lý Thơng ẩn, Đỗ Mục, Bì Nhật Hu
Sang đời Tống, thơ truyền thống tiếp tục phát triển nhng do sự thống trị của
lý học (Tống Nho) nên thơ thiên về lý trí, quá tỉnh táo, rành rọt, không thể so sánh
đợc với vẻ đẹp lung linh huyền ảo của thơ Đờng. Tuy nhiên, thời kì này lại đánh
dấu sự phát triển đỉnh cao của thể loại mới - Từ. Đây là một biến thể của thơ, thứ
thơ tơng đối tự do và gắn bó chặt chẽ với âm nhạc, có u thế trong việc bộc lộ những
nỗi niềm trắc ẩn. Nhiều tác giả nổi danh với loại này: Tô Đông Pha, Lục Du, Tân
Khí Tật
Cuối thời Tống, từ mất dần khả năng hòa nhạc. Ngay khi đó nhạc Hồ
(nhạc khúc của các tộc ngời phơng Bắc) lan truyền vào Trung Nguyên, kết hợp với
lý khúc (khúc nhạc dân dã) dân gian phía Bắc phối vào ngôn ngữ thông tục, hình
thành dạng thơ ca mới - Tán khúc. Tán khúc có hai loại: tiểu lệnh và sáo khúc. Tiểu
lệnh là những bài ngắn; nhiều tiểu lệnh hợp thành sáo khúc. Điểm nổi bật của tán
khúc là mang đậm màu sắc thông tục, thị dân bởi nó thu hút một số lợng lớn tiếng
địa phơng và lời nói dân dã trong dân gian. Thể loại này sang đời Nguyên đặc biệt
phát triển và trở thành đặc sản của thời kì này.

7


ở trên, chúng ta đã điểm qua tiến trình phát triển gần hai mơi thế kỷ của
thơ ca cổ điển Trung Quốc, với những cột mốc quan trọng. Đó là Kinh thi - cội
nguồn của thơ ca. Đó là Đờng thi - cao điểm huy hoàng. Đó là Từ Tống - điểm

ngoặt theo dòng chảy mới và Tán khúc - điểm chung kết [48, 24]. Đây là những
hiểu biết làm nền để chúng tôi có điều kiện đi sâu tìm hiểu thơ cổ phong - một thể
loại của thơ ca cổ điển Trung Quốc.
1.2. Khái niệm thơ cổ phong.
1.2.1. Những quan niệm.
Lịch sử nghiên cứu về thơ Đờng có rất nhiều định nghĩa về thơ cổ phong.
Các định nghĩa này toát lên sự thống nhất cha cao của các nhà nghiên cứu.
Trớc hết về tên gọi của thể thơ này, cho đến nay vẫn tồn tại một số quan
niệm khác nhau nh sau:
Cho cổ phong là một dạng nằm trong thơ cổ thể. Trong Bút pháp thơ ca
Trung Quốc, nhà nghiên cứu ngời Pháp Prancoicheng đã tiến hành phân định các
thể loại thơ ca đời Đờng:

Cổ thể thi

Nhạc phủ
Cổ phong

Thơ Đờng

Tân thể thi

Tuyệt cú
Luật thi
Trờng luật

Từ
(Dẫn theo [32, 143])
Theo bảng phân loại này, rõ ràng chúng ta thấy Prancoicheng quan niệm
cổ thể thi là khái niệm rộng hơn, bao hàm trong nó khái niệm cổ phong.

ở Việt Nam, quan niệm này chúng ta cũng bắt gặp ở một số nhà nghiên
cứu. Nguyễn Sĩ Đại trong Một số đặc trng nghệ thuật thơ tứ tuyệt đời Đờng công trình thoát thai từ luận án phó tiến sĩ của chính tác giả - đã có sự nghiên cứu
khá sâu về thơ tứ tuyệt. Trong công trình này, ở Chơng 1 vấn đề thơ tứ tuyệt, để
có sự hình dung chung về diện mạo thơ ca đời Đờng, nhất là nêu bật đợc quan niệm
về nguồn gốc và vị trí của tuyệt cú, trên cơ sở sự phân định của Francoicheng,
Nguyễn Sĩ Đại đã đa ra sơ đồ sau:

Thơ ca đời Đờng

8


Cổ thể thi

Cổ phong
(Bác học)

Cận thể thi
(Kim thể thi)

Luật thi
(Bát cú)

Nhạc phủ
(Dân gian)

Từ

Trờng luật
(Chồng các bài

bát cú)

Tuyệt cú
[9, 23]
Nh vậy ở đây, dù thơ cổ phong không phải là đối tợng nghiên cứu trực tiếp,
nhng qua đó, ta vẫn nhận rõ quan niệm của tác giả: coi cổ phong là một bộ phận
của thơ cổ thể, bộ phận có tính chất bác học, tồn tại song song với nhạc phủ, bộ
phận còn lại mang tính chất dân gian.
Quan niệm này đã nhận đợc sự tán đồng của Nguyễn Khắc Phi. Trong bài
viết Thay phần khảo luận (về thơ tứ tuyệt), nhà nghiên cứu đã nói rõ: Tôi tán
đồng với PTS Nguyễn Sĩ Đại khi anh đã cải tiến sơ đồ của Phrăngxoatrình để đa
ra sơ đồvề các thể loại thơ ca đời Đờng [33, 108].
Nguyễn Thị Bích Hải trong chuyên luận Thi pháp thơ Đờng cũng đã
khẳng định: Thơ cổ thể có hai dạng: thơ cổ phong và nhạc phủ [14, 176].
Nguợc lại, phần lớn các nhà nghiên cứu đều quan niệm cổ phong và cổ
thể thực chất chỉ là một: Thơ cổ phong còn gọi là thơ cổ thể (thể x a) để so sánh
với thơ cận thể [22, 453], [16, 376]
Truy nguyên hai khái niệm này về mặt chữ nghĩa, ta thấy: Trong cổ
phong chữ cổ có nghĩa là đời xa - xa cũ [2, 112], chữ phong có nghĩa là
phong cách, thể cách. Vậy, cổ phong là phong cách cổ, một thể cách trong phép
làm thơ, không hạn định ngũ ngôn hay thất ngôn, và cũng không hạn định âm, luật,
bằng, trắc [2, 114]. Còn trong cổ thể chữ thể có nghĩa là thể loại. Nh vậy, cổ
thể là thể xa.
Dù là thể loại cổ xa hay phong cách cổ thì chúng vẫn gần gũi nhau bởi mỗi
thể loại trong quá trình hình thành, phát triển đều xác lập cho mình phong cách
riêng để khu biệt với thể loại khác. Do đó, nói cổ thể cũng đồng nghĩa là nói tới
9


phong cách cổ (cổ phong). Vì lẽ đó, chúng tôi tán thành với quan niệm xem cổ

phong và cổ thể chỉ là một.
Việc xác định thời điểm ra đời của thể loại này cũng tồn tại nhiều ý kiến
khác nhau. Có tác giả cho thơ cổ phong ra đời trớc Đờng nh Bùi Văn Nguyên, Hà
Minh Đức: Thể cổ phong tức thể thơ phổ biến ngũ ngôn (5 từ) hay thất ngôn (7 từ)
có trớc thơ Đờng luật [26, 270]. Ngợc lại, tập thể tác giả Từ điển thuật ngữ văn
học lại cho: Thơ cổ phong (), một thuật ngữ () chỉ tất cả những bài thơ cổ đ ợc sáng tác từ đời Đờng trở về sau mà không theo luật thơ Đờng (không kể từ và
khúc) [12, 263].
Từ sự tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của thể thơ này, chúng tôi
thấy thơ cổ phong với t cách là một thể loại độc lập thực sự đã có mặt trớc đời Đờng. Tuy nhiên, tên gọi cổ phong hay cổ thể lại xuất hiện vào đời Đờng vì đợc
đặt trong sự đối sánh với kim thể hay còn gọi là cận thể. Do đó, chúng tôi thiên
về ý kiến: Thơ cổ phong () là tên gọi của ngời đời sau đối với thể thơ trớc đời
Đờng, nhng cũng đợc dùng để chỉ luôn thể của các bài thơ trong và sau đời Đờng
mà không làm theo niêm luật chặt chẽ nh thơ luật Đờng [16, 376].
Nếu nh về tên gọi và thời điểm ra đời của thơ cổ phong cha đợc các nhà
nghiên cứu thống nhất cao thì những đặc điểm cơ bản của thể loại này lại đợc họ
nêu ra khá nhất trí:
- Số câu chữ trong bài thơ cổ phong đợc xem là không hạn định. Có bài thơ
chỉ có 4 câu nh Cổ phong (nhị thủ) của Lý Thân nhng cũng có bài rất dài nh Tỳ
bà hành của Bạch C Dị đến 88 câu. Trong một câu thông thờng là 5 chữ hoặc 7
chữ nhng cũng có bài số chữ trong câu không đều nhau, gọi là tạp ngôn.
- Về cách gieo vần, có thể gieo toàn vần bằng hoặc toàn vần trắc (độc vận)
nh Tây Thi vịnh của Vơng Duy, hoặc bằng trắc xen kẽ theo kiểu vần liền hay vần
cách không nhất định (liên vận) nh Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trơng Nhựơc
H, Thạch Hào lại của Đỗ Phủ
- Về sự sắp xếp thanh âm: Thơ cổ phong không làm theo niêm luật chặt chẽ
nh thơ Đờng luật nhng phải thích ứng với quy luật âm thanh của tiếng nói để tạo sự
hài hoà, dễ đọc, dễ nghe và dễ ngâm.
Các đặc điểm trên, theo chúng tôi, mới chỉ thuộc những đặc điểm cơ bản,
dễ nhận biết về mặt hình thức bề ngoài, cha phải là các đặc điểm hình thức mang
tính nội dung, là phơng thức tồn tại và biểu đạt nội dung [37, 24]. Vì vậy cha nêu

bật đợc các đặc trng nghệ thuật của thể thơ này để có thể nhận biết về nó sâu sắc và
toàn diện hơn trong sự đối sánh với thơ luật.
1.2.2. Khái niệm thơ cổ phong.
Từ những phân tích trên đây, tóm lại, thơ cổ phong (hay còn gọi là cổ thể để
đối lập với cận thể) vốn là tên gọi của ngời đời sau đối với loại thơ tự do ra đời trớc,
trong và sau đời Đờng mà không chịu sự quy định nghiêm nhặt nh thơ Đờng luật.
Thơ cổ phong có đặc điểm u trội là không bị gò bó bởi số câu, chữ, niêm, vận, luật,
10


rất có u thế trong phản ánh hiện thực cuộc sống, giãi bày nội tâm con ngời một
cách cụ thể, phong phú.
1.3. Thơ cổ phong - quá trình hình thành và phát triển trong lịch sử
thơ ca cổ điển Trung Quốc.
Thơ cổ điển Trung Quốc tính từ Kinh thi đến tán khúc đã trải qua một
quá trình phát triển lâu dài. Trên hành trình đó, thơ cổ điển Trung Quốc đã thai
nghén và bung nở phong phú nhiều thể loại, trong đó có thể cổ phong. Đây là
thể loại đợc manh nha từ Kinh thi, Sở từ, thực sự định hình vào đời Hán, tiến
sang đời Đờng, đạt đến sự hng thịnh.
Hình thức thơ cổ phong sớm nhất về phơng diện số chữ là thơ tứ ngôn. Nhng loại này không bền, đến đời Hán chỉ còn hơi tàn.
Hình thức thơ tạp ngôn, phối hợp các câu dài ngắn trong một bài thơ, xuất
hiện ngay ở thời tiên Tần (trong Kinh thi và Sở từ) không ngừng phát triển qua
các triều đại song cũng không phải là dạng cơ bản của thơ cổ phong.
Thơ cổ phong dạng cơ bản nhất và đợc phát triển đầy đủ nhất là hình thức
thơ ngũ ngôn, thất ngôn. Cho nên, tìm hiểu quá trình hình thành của thơ cổ phong
cũng đồng nghĩa với việc tìm hiểu sự hình thành và xác lập địa vị trên văn đàn của
thơ ngũ ngôn và thất ngôn.
Thơ ngũ ngôn manh nha từ Kinh thi, Ly tao. Các tác phẩm này thảng
hoặc có những câu thơ năm chữ:
Nhất chi nhất tất phát

Nhị chi nhật tất liệt
(Tháng một gió thông thốc,
Tháng chạp càng heo hút)
(Thất nguyệt)
Ca dao dân ca đời Hán đã thừa tiếp cái d ba đó của thi và tao ở các bài
lu hành nơi xóm làng. Thời Hán Vũ Đế có bài: Hà dĩ hiếu đệ vi là bài ca dao sáu
câu, năm chữ. Đời Hán Thành Đế lại có những bài ca dao năm chữ nh An sở cầu
tử tử, Tà kinh bại lơng điền, Thành trung hiếu cao kết Đặc biệt, dân ca Hán
Nhạc phủ còn lu giữ nhiều tác phẩm thơ năm chữ đạt trình độ nghệ thuật điêu
luyện. Tiêu biểu nhất là bài thơ tự sự trờng thiên Khổng tớc đông nam phi (Chim
công bay về nam) dài 353 câu, 1765 chữ. Thông qua bi kịch hôn nhân của một cặp
vợ chồng, tác phẩm đã tố cáo mạnh mẽ tội ác của lễ giáo phong kiến và thực sự đã
cắm một mốc báo hiệu thơ năm chữ đạt đến sự phát triển thành thục. Đây là một
khổ thơ dùng chủ yếu thanh trắc để nói lên nỗi vất vả, khó nhọc, sự tức tởi của ngời
tân phụ khi chồng vắng nhà:
Quan kí vi phủ lại,
Thủ tiết tình bất di.
Kê minh nhập cơ chức,
Dạ dạ bất đắc tức.
11


Tam nhật đoạn ngũ sất
Trợng nhân cố hiềm trì.
Phi vi chức tác trì,
Quân gia phụ nan vi
(Chồng làm phủ lại cũng hay
Giữ đờng trinh tiết thiếp nay chẳng dời
Nghe gà gáy đã dậy rồi,
Đêm đêm chẳng đợc nghỉ ngơi phiền lòng!

Ba ngày năm tấm dệt xong,
Mẹ chồng bảo chậm còn mong nỗi gì,
Nào đâu có chậm mà nghi,
Nhà chàng cay nghiệt nhiều khi khó làm) [50, 144].
Thơ ca văn nhân, có thuyết cho 19 bài cổ thi (Cổ thi thập cửu thủ) và
những bài Tô Vũ - Lý Lăng tặng đáp chính là thuỷ tổ của thơ ngũ ngôn. Thuyết này
từ lâu đã bị bác bỏ bởi những áng thơ này, các nhà nghiên cứu tồn nghi về xuất xứ:
Tác giả Thập cửu thủ khó xác định mà câu chuyện Tô - Lý cũng chỉ là chuyện
huyền(Cựu thi). Tính đến đời Hán Thành Đế, trên thi đàn vẫn cha có thơ ngũ
ngôn. Ban Cố trong Hán th - nghệ văn chí viết: 314 bài thơ của 28 nhà tập hợp
đời Hán Thành Đế không có thơ ngũ ngôn (Dẫn theo [49, 107- 108]). Lu Hiệp
trong Văn tâm điêu long cũng có ý kiến tơng tự: Thơ còn chép về đời Thành Đế
hơn 300 thiên, triều chơng, quốc nhạc đều khá đầy đủ, nhng xét về hình thức,
không hề thấy thơ ngũ ngôn [15, 38]. Phải đến đời Đông Hán, văn nhân mới có xu
thế hớng dần tới sự phát triển thơ năm chữ. Ngũ y ca là bài thơ bốn chữ thêm
thán từ. Bài Oán của Trơng Hoành rõ ràng, mẫu mực, đầy ý vị [15, 38]. Nó
chứng tỏ thơ bốn chữ cố gắng thoát khỏi tình trạng cổ xa, khó hiểu, vơn đạt đến thơ
năm chữ. Mặc dù các nhà thơ Trơng Hoành, Thái Ung, Tân Gia, Triệu Nhất với các
tác phẩm: Oán và Đồng thanh ca, Chim xanh, Thơ tặng nhau, Thơ bệnh
tà đã có công sáng tạo thể thơ năm chữ nhng họ vẫn cha đạt đến sự nhuần nhị.
Phải đợi đến Thái Diễm (con gái nhà thơ Thái Ung) đời Tam Quốc, thơ ngũ ngôn
mới đạt tới trình độ phát triển cao với tác phẩm Bi phẫn thi đặc sắc. Song song
với Thái Diễm, nền văn học Kiến An cũng góp phần đắc lực, tạo nên bớc nhảy vọt,
đa thơ bảy chữ vào thời kì toàn thịnh, trở thành hình thức chủ yếu trong sáng tác
của thi nhân.
Cũng nh thơ ngũ ngôn, thơ thất ngôn bắt nguồn từ thi và tao. Trong
Kinh thi, thỉnh thoảng ta bắt gặp câu thơ bảy chữ:
Nhị chi nhật tạc băng xung xung
Tam chi nhật nạp vu lăng âm
(Tháng chạp đục băng chan chát

Tháng giêng cho vào hầm đất)
(Thất nguyệt)
12


Đặc biệt, Ly tao của Khuất Nguyên đã thấy xen lẫn những câu thơ ngũ
ngôn, bát ngôn nhng nhiều nhất là thất ngôn. Qua khảo sát, chúng tôi thấy: câu thơ
thất ngôn trong Ly tao gồm 166 câu trên tổng số 375 câu, chiếm khoảng 44%.
Thơ thất ngôn còn đợc phát triển qua ca dao dân ca lu hành trong thôn xóm. Trong
Hán Nhạc phủ có thể dẫn ra những câu thơ thất ngôn khá hoàn chỉnh:
Thu phong tiêu tiêu thần phong phiêu
Đông phơng tu du cao tri chi.
(Hữu sở t).
Trên văn đàn của thi nhân, thơ thất ngôn tơng truyền đợc khởi thuỷ với bài
Bá lơng liên cú của Vũ Đế. Song thực ra ngời ghi danh đầu tiên là Trơng Hoành
với bài Tứ sầu thi. Bài thơ gồm bốn đoạn, mỗi đoạn bảy câu, câu mở đầu đoạn
đều có cụm ngã sở t hề. Các thi nhân của văn học Kiến An bằng tài năng của
mình cũng đã góp phần nâng cao trình độ nghệ thuật của thơ thất ngôn, trong đó
đáng chú ý là Tào Phi với bài Yên ca hành:
Thu phong tiêu sắt thiên khí lơng. Thảo mộc dao lạc lộ vi sơng. Quần yến
từ quy nhạn Nam tờng, Niệm quân khách du tứ đoạn trờng. Khiểm khiểm t quy
luyến cố hơng, Quân hà yêm lu kí tha phơng. Tiện thiếp trong cung thủ không
phòng, Ưu lai t quân bất cảm vong. Bất giác lệ hạ chiêm y thờng. Viện cầm minh
huyền phát thanh thơng, Đoản ca vi ngâm bất năng trờng. Minh nguyệt hạo hạo
chiếu ngã sàng. Tinh hán tây lu dạ vị ơng. Khiên ngu chức nữ dao tơng vọng. Nhĩ
độc hà cô hạn hà lơng [50, 191].
Nh vậy từ Kinh thi, Sở từ đến cuối đời Hán, cùng với sự hoàn chỉnh của
thơ ngũ ngôn và thất ngôn thi, thơ cổ phong đã đợc khai sinh. Sang đời Đờng, cùng
với các thể loại khác, thơ cổ phong có một môi trờng thuận lợi để phát triển toàn
thịnh.

Làm nên sự thịnh vợng đó có rất nhiều yếu tố. Đó là sự kế thừa, phát huy
tinh hoa thơ cổ điển giai đoạn trớc, sự ra đời của các ngành nghệ thuật, sự phong
phú về mặt t tởng cũng đã tạo điều kiện cho thơ ca phát triển đa dạngở đây,
chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh nguyên nhân xã hội bởi theo chúng tôi, đó chính là
nguyên nhân có tính quyết định sự phát triển đỉnh cao của thơ cổ phong đời Đờng.
Sau khi xác lập Vơng triều, các vị vua khai sáng nhà Đờng rút kinh nghiệm
từ các triều đại trớc mà nhãn tiền là triều Tuỳ, đã thực hiện các chính sách tiến bộ,
có lợi cho dân nh chế độ quân điền, thuế tô dung điệu Nhờ đó, kinh tế nhanh
chóng ổn định, phát triển, đa Trung Quốc trở thành nớc đứng đầu các dân tộc văn
minh trên thế giới. Đế quốc ấy hùng cờng nhất, văn minh nhất, thích sự tiến bộ
nhất và đợc cai trị tốt nhất thế giới. Cha bao giờ nhân loại đợc thấy một nớc khai
hoá phong tục đẹp đẽ nh vậy [53, 124]. Chính sự phát triển rực rỡ về mọi mặt:
kinh tế, chính trị, văn hóa trong khoảng một trăm ba mơi năm đầu triều Đờng đã là
sự kích thích có lợi cho sự phát triển văn học. Nó đã mở rộng chân trời kiến thức

13


cho văn nghệ sĩ, tạo điều kiện vật chất cho họ yên tâm học tập sáng tạo, đồng thời
nuôi dỡng nguồn cảm hứng cho họ.
Nhng triều Đờng cũng không nằm ngoài quy luật cùng tắc biến, cực tắc
phản. Vua Đờng Huyền Tông có công làm nên thời thịnh Đờng nhng cũng là ngời
đã dẫn dắt nhà Đờng đến suy yếu. Loạn An - Sử kéo dài chín năm đã tàn phá
nghiêm trọng mọi mặt của đất nớc Trung Quốc: Theo số thống kê hộ khẩu của
triều đình, dân số Trung Quốc sau sự biến này chỉ còn dới hai mơi triệu [7, 134].
Chính cuộc chiến tranh này đã cuốn các thi nhân vào vòng xoáy của lịch sử. Bản
thân họ nếm trải biết bao gió bụi phong trần, thấu hiểu những nỗi khổ cực của quần
chúng nhân dân, từ đó đặt ra cho họ một nhu cầu cấp bách phải phản ánh đợc đầy
đủ cảnh sống cơ cực của quần chúng, giãi bày đợc mọi cung bậc tình cảm hết sức
phong phú của bản thân trớc hiện thực cuộc sống. Hơn bất kì một thể loại nào khác,

thơ cổ phong với tính chất tự do đã đáp ứng đợc đầy đủ và xuất sắc nhất nhu cầu
ấy. Thơ ca đời Đờng chuyển từ thi phái lãng mạn sang hiện thực, từ sự phát triển bề
rộng đi đến chiều sâu, riêng thơ cổ phong có đợc một mùa hoa trái bội thu.
Thơ cổ phong đời Đờng, so với các tác phẩm cùng thể loại trớc và sau, bên
cạnh sự lặp lại có quy luật các yếu tố của tác phẩm [22, 340] cũng đã có sự biến
đổi thích ứng với thời đại. Bởi thể loại văn học xét theo bản chất của nó là sự
phản ánh các khuynh hớng vững bền, vĩnh viễn hơn cả của sự phát triển văn học.
Thể loại bao giờ cũng giữ gìn các yếu tố cổ xa, không mai một. Cái cổ xa ấy chỉ đợc giữ lại trong thể loại nhờ sự đổi mới của chính nó hay nh ngời ta nói, nhờ sự
hiện đại của nó. Thể loại bao giờ cũng thế, bao giờ cũng đồng thời vừa cũ vừa mới.
Thể loại đợc tái sinh và đổi mới trong từng giai đoạn của sự phát triển văn học và
trong từng tác phẩm, cá biệt của thể loại đó [4, 115]. Vì lẽ đó, thơ cổ phong đời
Đờng có một số nét riêng biệt mang đậm dấu ấn thời đại.
Trớc hết, đó là sự xoá mờ ranh giới giữa thơ cổ phong và thơ ca nhạc phủ
đời Đờng.
Thơ ca nhạc phủ đợc khởi nguồn từ đời Hán, sau việc Hán Vũ Đế cho thành
lập Nhạc phủ và cử Lý Diên Niên làm hiệp luật đô uý. Nó gồm ba bộ phận chính:
những bài ca từ đã có, đem phổ nhạc nh Đại phong ca của Lu Bang, Cai Hạ ca
của Hạng Vũ; những bài do văn nhân sáng tác (còn gọi là tân thanh khúc); những
bài ca dao dân ca - bộ phận có giá trị nhất. ở các triều đại trớc, thơ nhạc phủ tồn tại
song song với thơ cổ phong trong t cách là một thể loại độc lập bởi những đặc trng
riêng - gắn bó chặt chẽ với âm nhạc, mang đậm tính chất của thơ ca dân gian. Sang
đời Đờng, cùng với việc cá nhân hoá sáng tác, các thi nhân từ chỗ sáng tạo ca từ
cho mục đích phổ nhạc dần quên hẳn mục đích này mà chú ý dùng nó làm phơng
tiện bày tỏ tình cảm t tởng và phản ánh hiện thực dù vẫn dùng các đề mục cũ. Sau
này, nó lại tiến thêm một bớc, thi nhân tự tạo ra Tân Nhạc phủ không cần nơng
dựa vào đề mục, âm điệu cũ nữa nh trờng hợp Binh xa hành, Lệ nhân hành của
Đỗ Phủ. Những tác phẩm này tuy vẫn mang danh nhạc phủ song thực tế không thể
14



nào đem nhập nhạc đợc, thực chất nó là một bộ phận của thơ cổ phong. Với lý do
đó, ở đây chúng tôi xem nhạc phủ là một bộ phận của thơ cổ phong đời Đờng để
tiện việc khảo sát và khái quát hoá một số đăc trng nghệ thuật của thể loại.
Nếu ở các triều đại trớc, thơ cổ phong chiếm số lợng lớn trong toàn bộ thi
phẩm thì sang đời Đờng, loại này có số lợng không nhiều. Khảo sát trong Đờng
thi tam bách thủ của Hành Đờng thoái sĩ và Trần Bá Anh cũng nh trong Thơ Đờng (hai tập) của nhà xuất bản văn học, thơ cổ phong chỉ chiếm khoảng 20% trên
tổng số thơ tuyển. Con số này tơng đối phù hợp với thống kê của tác giả chuyên
luận Thi pháp thơ Đờng: Về phơng diện thể thơ() thơ kim thể chiếm tỷ lệ cao
hơn rất nhiều so với thơ cổ thể. Chúng tôi đã thử thống kê, so sánh ở một số tuyển
tập, tỷ lệ này xấp xỉ 4/1 (tức thơ kim thể chiếm 80%, cổ thể chiếm20%) [14, 191].
Dù vậy, thơ cổ phong vẫn là một bộ phận giá trị góp phần đa thơ Đờng lên tuyệt
đỉnh vinh quang với những bài thơ tự sự nổi tiếng.
Tồn tại và phát triển trong đời Đờng khi thơ luật (gồm bát cú, tứ tuyệt, bài
luật) trở thành đặc sản của thời đại, thơ cổ phong đã có sự biến đổi theo hai chiều
hớng:
Một hớng đi theo con đờng phản thơ luật, lấy việc tránh nhập luật làm
nguyên tắc nên vẫn giữ đợc màu sắc tự do, phóng khoáng tự nhiên, gần với thơ cổ
phong Hán - Ngụy, nh thơ của Vơng Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Lý Bạch, Vi ứng
Vật
Hớng còn lại các nhà thơ khi sáng tạo thơ cổ phong có ít hoặc nhiều, có ý
thức hoặc không có ý thức, đều chịu sự tác động, chi phối của thơ Đờng luật, tạo
nên hiện tợng cổ phong nhập luật. Hớng này tiêu biểu nhất là Đỗ Phủ.
Chính những đặc điểm cơ bản trên đây đã tạo nên diện mạo độc đáo của thơ
cổ phong đời Đờng trên hành trình tồn tại và phát triển của thể loại.
Nh vậy, trong chơng một, nhiệm vụ trung tâm là xác định một cách hiểu về
thơ cổ phong khả dĩ có thể chấp nhận đợc và có khả năng ứng dụng trong thực tiễn.
Nh đã nói, do có nhiều khó khăn nên chúng tôi không mong xây dựng đợc một
khái niệm hoàn chỉnh về thơ cổ phong nhng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc yếu tố
hợp lí của ngời đi trớc, đặt trong lịch sử phát triển của thơ cổ điển Trung Quốc và
thể loại cổ phong, chúng tôi đã mạnh dạn đa ra cách hiểu về khái niệm này. ở đó,

việc đồng nhất làm một hai khái niệm cổ phong và cổ thể, nhất là xem thơ nhạc
phủ đời Đờng là một bộ phận của thơ cổ phong sẽ giúp chúng tôi tránh đợc sự nhập
nhằng trong việc phân loại, tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu một số đặc trng
nghệ thuật thơ cổ phong đời Đờng trong chơng sau.

15


Chơng 2
Một số đặc trng nghệ thuật thơ cổ phong đời Đờng
2.1.Đề tài và cách xử lí
2.1.1.Đề tài
Nói đến đề tài là nói đến phạm vi hiện thực đợc chiếm lĩnh, đợc phản ánh
trong tác phẩm, trở thành phơng diện nội dung của tác phẩm. Quan trọng hơn,

16


thông qua việc miêu tả trực tiếp hiện thực ấy, tác phẩm nhằm đi đến khái quát một
phạm vi hiện thực đời sống có ý nghĩa sâu rộng hơn.
Trong thơ Đờng nhìn chung đề tài rất phong phú: Lớn có thể nói sự suy di
của thế vận, sự biến thiên của gò núi, nhỏ có thể nói đến con sâu, cái cỏ (Cựu
thi). Xét riêng từng thể loại của thơ Đờng, dù là thơ luật hay cổ phong, loại nào
cũng rất đa dạng về đề tài.
Có sự đa dạng ấy bởi văn học chính là tấm gơng phản ánh hiện thực cuộc
sống mà cuộc sống xã hội đời Đờng lại vô cùng phong phú, nhiều biến động. Có
thời kì thịnh vợng khoảng một trăm ba mơi năm đầu (thời kì Sơ - Thịnh Đờng). Lại
có thời kì suy sụp với biến loạn An- Sử, với ách áp bức bóc lột tàn bạo của giai cấp
thống trị. Hiện thực ấy đã đợc phản ánh vào trong văn học. Thơ Đờng, có thể nói, là
cuốn sử kí về những biến động xã hội, là tiếng nói bất bình và khát vọng sống

mãnh liệt của quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên trong thơ Đờng, bản thân mỗi thể loại xuất phát từ đặc trng của
nó đã lựa chọn cho mình những đề tài thích ứng. Vì vậy nảy sinh hiện tợng: nhiều
đề tài là u trội ở thể loại này nhng sang thể loại khác lại bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Ta có thể thấy điều này khá rõ ở thơ cổ phong đời Đờng qua sự đối sánh với thơ
cận thể.
Thống kê 138 bài cổ phong trong Thơ Đờng ( hai tập) của nhà xuất bản
văn học, chúng tôi thấy đề tài đợc phân bố nh sau:
- Chiến tranh và số phận con ngời, số phận đất nớc: 51 bài, chiếm 37%
(Tòng quân hành( Dơng Quýnh); Yên ca hành; Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan
quy kinh; Tẩu mã xuyên hành, phụng tống Phong đại phu xuất s tây chinh; Tòng
quân hành ( Vơng Xơng Linh); Tái hạ khúc (Vơng Xơng Linh); Binh xa hành; Bần
phụ từ; Thuỷ phu dao; Chức phụ từ ( Mạnh Dao); Cổ phong ( nhị thủ); Bộ ng dao;
Tợng uẩn thán; Vịnh điền gia; Quan san nguyệt; Tái hạ khúc (Lí Bạch); Chiến
thành nam; Phụng tặng vi tả thừa trợng thập nhị vận; Tự kinh phó Phụng Tiên
huyện vịnh hoài ngũ bách tự; Ai vơng tôn; Ai giang đầu; Khơng thôn; Bắc chinh;
Bành nha hành; Tẩy binh mã; Chùm Tam lại, Tam biệt; Mao ốc vị thu phong sở phá
ca; Bách u tập hành; Kí đề giang ngoại thảo đờng; Hí vũ; Đan thanh dẫn tặng Tào tớng quân bá; Thảo đờng; Thái tử Trơng xá nhân di chức thành nhục đoạn; Vơng
lãng châu diên phụng thủ thập nhất cửu tích biệt chi tác; Tráng du; Tàm cốc hành;
Khinh, phì; Thái địa hoàng dã; Đỗ Lăng tẩu; Tân Phong chiết tí ông; Ca vũ; Mại
thán ông; Quan nghệ mạch; Mãi hoa; Trọng thú; Phọc trung nhân).
- Tuổi xuân, tình yêu và thân phận ngời phụ nữ: 30 bài, chiếm 21,7% (Tây
Thi vịnh; Xuân tứ; Điện tiền khúc; Trờng can hành (nhị thủ- Thôi Hiệu); Lệ nhân
hành; Tiết phụ ngâm; Vọng phu thạch; Chức phụ từ (Nguyên Chẩn); Tì bà hành;
Hữu sở t; Kí viễn; Vơng Chiêu Quân; Song yến ly; Trờng tơng t (nhị thủ); Đảo y
thiên; Bạch đầu ngâm; Trờng can hành (nhị thủ Lí Bạch); Tử dạ ngô ca; ô dạ đề;
Thanh bình điệu (tam thủ); Giai nhân; Phụ tân hành; Thợng Dơng nhân; Văn dạ
châm; Trờng hận ca)
17



- Vấn đề vạn cổ nh sống - chết, vô cùng - hữu hạn, biến - bất biến : 2 bài,
chiếm 1,4% ( Đăng U Châu đài ca; Văn khốc giả).
- Tình bằng hữu, quê hơng: 15 bài, chiếm 10,8% (Nhật hạ nam đình hoài
Tân Đại; Tây Sơn tầm Tân Ngạc; Tống biệt; Há Chung Nam sơn, qúa Hộc t sơn
nhân túc trí tửu; Nhân nhật kí Đỗ nhị thập di; Hồ trung đối tửu tác; Mộng Lí Bạch
(nhị thủ); Tặng Vệ Bát xử sĩ; Tống Vi Phúng thợng Lãng Châu lục sự tham quân;
Kim Lăng tửu tứ lu biệt; Tống hữu nhân nhập Thục; Tống Khổng Sào Phủ tạ bệnh
quy du Giang Đông kiêm trình Lí Bạch; Kí Vi Chi; Tự Giang Lăng chi Từ Châu lộ
thợng kí huynh đệ).
- Thiên nhiên: 3 bài, chiếm 2,1% ( Xuân giang hoa nguyệt dạ; Thục đạo
nam; Tùng thanh).
- Cảm khái, kí hứng: 31 bài, chiếm 22,4% (Tỏ chí; Bạch Đế hoài cổ; Kinh
Hạ Bì dĩ kiều hoài Trơng Tử Phòng; Bá tửu vấn nguyệt; Đông bình lộ tác; Tuý thì
ca; Du tử ngâm; Sơn giá cô; Thôn c khổ hàn; Tân chế bố cừu; Nguyệt hạ độc chớc;
Độc bất kiến; Xuân nhật tuý khởi ngôn chí; Trào Lỗ nho; Đinh đô hộ ca; Hành lộ
nan; Mộng du Thiên Mụ ngâm lu biệt; Tơng tiến tửu; Tuyên Châu Tạ Diểu lâu tiễn
biệt hiệu th Thúc Vân; Thiên dục phiêu đồ ca; Chu trung dạ vũ; Hung trạch; Lụy
tuấn; Hắc long đàm; Vấn hữu; Túc Huỳnh Dơng; Lập bi; Sinh li biệt; Phóng lữ
nhạn; Hữu mộc; Khách trung nguyệt).
- ẩn dật, điền viên và thú nhàn tản: 6 bài, chiếm 4,3% (Giang thợng ngâm;
Tống Dơng Sơn nhân quy tung sơn; Khê c; Mục đồng từ; Thu sơn; Túc Vơng Xơng
Linh ẩn c).
Thống kê theo Đờng thi tam bách thủ của Hành Đờng thoái sĩ và Trần Bá
Anh, chúng tôi cũng thấy tình hình nh vậy.
Cần phải nói thêm rằng việc sắp xếp các bài thơ vào các đề tài nh trên chỉ
mang tính chất tơng đối bởi trên thực tế, trong một tác phẩm có thể có sự đan xen,
hoà trộn nhiều đề tài. Nguyệt hạ độc chớc của Lí Bạch không chỉ đơn thuần giãi
bày tâm trạng cô đơn của thi nhân:
Hoa gian nhất hồ tửu,

Độc chớc vô tơng thân.
(Có rợu không có bạn, Một mình chuốc dới hoa.)
Chúng ta còn bắt gặp hình ảnh vầng trăng nh một sinh thể sống động bầu
bạn cùng tác giả. Vì thế, từ một góc độ khác, có thể xem Nguyệt hạ độc chớc nh
một bài thơ về đề tài thiên nhiên.
Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trơng Nhợc H cũng là một trờng hợp tơng
tự. Đây là một bài thơ tả cảnh nổi tiếng đã làm rạng danh tác giả. Với ngôn ngữ tự
nhiên, thanh nhã, tác giả vừa miêu tả sinh động cảnh đẹp của đêm trăng trên sông
xuân, lại vừa diễn tả nỗi lòng triền miên, xa xôi do cảnh đẹp khêu gợi, một nỗi
buồn về cuộc đời mỏng manh và thế sự vô thờng. Do đó cũng có thể xếp bài thơ
vào loại cảm khái, kí hứng.
18


Chính sự phối kết nhiều đề tài trong cùng một bài thơ đã tạo nên vẻ đẹp đa
diện và sức hấp dẫn kì lạ đối với ngời đọc của thơ Đờng.
So sánh kết quả thống kê trên với thơ Đờng luật, chúng ta sẽ thấy có sự thay
đổi khá căn bản. Thống kê về mặt đề tài trong 237 bài thơ Đờng luật theo cuốn
Thơ Đờng (2 tập) của nhà xuất bản văn học ta có:
- Chiến tranh và số phận con ngời, số phận đất nớc: 19 bài, chiếm 8%
- Tuổi xuân, tình yêu và thân phận ngời phụ nữ: 30 bài, chiếm 12,6%
- Vấn đề vạn cổ nh sống- chết, vô cùng hữu hạn, biến bất biến:31
bài, chiếm 13%
- Tình bằng hữu, quê hơng:41 bài, chiếm 17,2%
- Thiên nhiên: 58 bài, chiếm 24,4%
- Cảm khái, kí hứng: 23 bài, chiếm 9,7%
- ẩn dật, điền viên và thú nhàn tản: 9 bài, chiếm 3,7 %
Ngoài ra còn một số bài viết về đề tài du tiên
Có thể thấy rõ hơn sự thay đổi về mặt đề tài giữa thơ cổ phong và thơ luật
qua bảng thống kê sau:

Tình yêu, Tình
Đề tài Vấn đề Chiến
muôn
tranh, số tuổi xuân bằng
T.loại
Thuở
phận
hữu
Tỉ lệ(%)
Cổ phong
Đờng
luật

1.4
13

37
8

21.7
12.6

10.8
17.2

Thiên
ẩn dật, Cảm
nhàn tản, khái, kí nhiên
hứng


4.3
3.7

22.4
9.7

2.1
24.4

Qua kết quả khảo sát và so sánh trên, ta có thể rút ra kết luận: Thơ luật Đờng thiên về loại đề tài có tính chất triết lí nh về các vấn đề vạn cổ: sống - chết, vô
cùng - hữu hạn, biến - bất biến, đề tài về thiên nhiên. Thơ cổ phong lại nghiêng
về phản ánh hiện thực (chiến tranh, số phận con ngời) và giãi bày tâm trạng
( cảm khái, kí hứng).
Có thể giải thích lí do tạo nên sự khác biệt đó từ góc độ đặc trng mỗi thể
loại.
Thơ luật là thể loại thơ đợc tạo dựng từ các mối quan hệ, có tính hàm súc.
Phần đợc thể hiện trên bề mặt câu chữ nhiều khi chỉ là cái cớ để chuyên chở lớp
nghĩa đích thực tuôn chảy bên trong nên đòi hỏi độc giả phải tham gia vào quá
trình sáng tạo để phát hiện cái tiềm ẩn của bài thơ (ý tại ngôn ngoại). Tính chất này
làm cho thể loại Đờng luật (cận thể) đặc biệt thích hợp với loại đề tài mang đậm
tính chất triết lí. Tìm hiểu bài Mang sơn của Thẩm Thuyên Kì chúng ta sẽ thấy
rất rõ:
Bắc Mang sơn hạ liệt phần oanh
Vạn cổ thiên thu đối Lạc thành
19


Thành trung nhật tịch ca chung khởi
Thử sơn duy văn tùng bách thanh
(Dới núi Bắc Mang la liệt những mồ mả. Nghìn vạn năm đối diện với thành

Lạc Dơng. Trong thành ngày đêm rộn rã tiếng ca không lúc nào dứt. ở núi này chỉ
nghe tiếng tùng bách reo) [44, 220].
Núi Bắc Mang thuộc huyện Lạc Dơng, tỉnh Hà Nam cách kinh đô Lạc Dơng mời một dặm, là nơi chôn cất vua chúa, quan lại, danh nhân từ đời Hán đến đời
Đờng. Đặt Bắc Mang trong mối quan hệ với Lạc Dơng đồng nghĩa với việc tác giả
đem hai phạm trù đối lập đặt cạnh nhau: sống - chết. Cõi sống ( Lạc Dơng) luôn tng bừng náo nhiệt Thành trung nhật tịch ca chung khởi, cõi chết chỉ là tiếng reo
vi vu của tùng bách Thử sơn duy văn tùng bách thanh. Từ sự đối lập đó mà bật
lên ý nghĩa triết lí về sự sống - chết. Sống chỉ là khoảng khắc h ảo, chết mới là vĩnh
viễn yên bình.
Đặc trng trên cũng cho phép ta lí giải hiện tợng thơ về đề tài thiên nhiên
chiếm tỉ lệ cao trong thơ luật. Trong thơ Đờng, thiên nhiên luôn chiếm một địa vị
danh dự( Đặng Thai Mai). ở đâu ta cũng thấy hình ảnh thiên nhiên dù bài thơ viết
về đề tài gì. Điều này là một tất yếu bởi quan niệm thiên nhân tơng dữ luôn ngự
trị trong đời sống tinh thần của ngời Trung Quốc. Nhng để miêu tả trực tiếp về
thiên nhiên, tạo nên những bức tranh phong cảnh trong thơ, cận thể tỏ ra đắc dụng
hơn cổ thể. Điều này có cội nguồn từ quan niệm hội họa của ngời Trung Quốc:
không tả cụ thể, tỉ mỉ mà chỉ nắm bắt và thể hiện cái hồn của cảnh qua một vài nét
chấm phá. Chính hạn chế của thơ luật về dung lợng câu chữ đã buộc nó khi tả cảnh
không sa vào tỉ mỉ mà chỉ đặc tả chi tiết quan trọng nhất (điều này rất tơng hợp với
quan niệm hội họa trên kia). Nhng cái hay của thơ luật trên bình diện này là dù
miêu tả, trình bày các hình ảnh thiên nhiên theo trình tự thời gian song dung lợng
ngắn nên cho phép đọc liền một mạch để đa tới một hệ quả là ngời đọc có ảo
giác các chi tiết của cảnh đợc đồng hiện. Khi đó, những chi tiết, hình ảnh điển
hình nhất của thiên nhiên đợc đặt trong các mối quan hệ và cho ta một bức tranh
hoàn chỉnh. Tuyệt cú của Đỗ Phủ bốn câu vẽ ra trớc mắt ngời đọc bốn cảnh
khác nhau, tạo nên một bộ tứ bình khá hoàn hảo [30, 222]. Câu một, tác giả
miêu tả đôi chim oanh đậu trên cành liễu xanh, (Lỡng cá hoàng li minh thuý liễu).
Câu hai là hình ảnh một đàn cò trắng bay vút trên nền trời xanh (Nhất hàng bạch lộ
hớng thanh thiên). Câu tiếp theo tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi non, không nói cái cao
của núi mà nó vẫn toát lên từ sự miêu tả màu trắng của tuyết ngàn năm ( Song hàm
Tây Lĩnh thiên thu tuyết). Cuối cùng là cảnh bến đỗ của những con thuyền Đông

Ngô từ muôn dặm đến (Môn bạc Đông Ngô vạn lí thuyền). Nếu tách riêng, mỗi bức
tranh có vẻ đẹp tự thân nhng đặt cạnh lại trở thành bức tranh tuyệt diệu với bố cục
hợp lí, cân đối cùng thể hiện cảnh thanh bình thịnh trị của đất nớc.

20


Mặc dù có u thế trong miêu tả thiên nhiên, thể hiện các vấn đề mang tính
triết lí nhng trớc yêu cầu phản ánh đời sống và tâm trạng, thơ luật lùi nhờng cho thể
loại cổ phong.
Với đặc điểm khá tự do về câu, chữ, niêm, vận, luật, thơ cổ phong có khả
năng bám sát hiện thực cuộc sống và hiện thực tâm trạng để do thân mà may áo,
tuỳ nội dung hiện thực cần phản ánh mà hinh thức co duỗi linh hoạt tơng ứng.
Cùng là tỏ bày tâm trạng nhng trong Cảm ngộ, tâm trạng Trơng Cửu Linh
chỉ đơn giản là sự bày tỏ ý chí. Nó không có những khúc quanh mà theo một đ ờng
thẳng nên có thể diễn tả trong dung lợng câu chữ vừa phải (mời câu ngũ ngôn), qua
lối gián tiếp từ sự miêu tả giống Đan Quất- Giang Nam :
Giang Nam hữu Đan Quất
Kinh đông do lục lâm
Khởi y địa khí noãn
Tự hữu tuế hàn tâm
Khả dĩ tiến gia khách
Nai hà trở trọng thâm
Vận mệnh duy sở ngộ
Tuần hoàn bất khả tầm
Đồ ngôn thụ đào lí
Thử mộc khởi vô âm [11, 32]
Đến Lí Bạch, trong Mộng du Thiên Mụ ngâm l u biệt, tâm trạng của ông
là cả một thế giới đầy mâu thuẫn với những biến thái quanh co, phức tạp (Nỗi riêng
lớp lớp sóng dồi) không thể lờng hết đợc. Đó là tâm trạng chán ghét thực tại, muốn

truy cầu cuộc sống tự do, phóng khoáng đợc thể hiện qua giấc mơ. Khát vọng ấy
không thực hiện đợc, giấc mơ tan biến ném trả thi nhân về với thực tại. Lúc này,
nỗi uất ức, chán ghét càng gia tăng để đa đến một thái độ phủ nhận thực tại quyết
liệt. Thế giới nội tâm phức tạp và đầy biến động ấy tất phải đợc thể hiện qua một
hình thức thơ cổ phong trờng thiên (bốn lăm câu) hết sức tự do, phóng khoáng về
chữ, vần, luậtCó lúc cô đúc với câu thơ bốn chữ:
Liệt khuyết tích lịch
Khâu lan băng tồi
Động thiên thạch phi
Hoằng nhiên trung kha
Có lúc lại nứt bung bằng những câu thơ chín chữ với âm điệu miên man,
bất tận:
-Vân chi quân hề phân phân nhi lai há
-An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quý
Ta cũng thấy tình hình tơng tự với mảng thơ phản ánh hiện thực đời sống.
Rõ ràng không thể đem hiện thực đời sống với ngổn ngang chi tiết, tâm trạng với

21


những biến thái tinh vi, phức tạp dồn nén vào thơ luật Đờng mà tất phải diễn tả nó
qua thơ cổ phong.
2.1.2. Xử lí đề tài
Việc lựa chọn đề tài là rất quan trọng bởi nó phải tơng hợp với đặc trng thể
loại, tuỳ thuộc vào sở trờng của ngời sáng tạo. Thế nhng, đó mới là công việc bên
ngoài. Điều quan trọng hơn là đề tài đó đợc xử lí nh thế nào? Đây mới là công việc
bên trong, bộc lộ rõ đặc trng thể loại.
Thơ cổ phong đời Đờng có các biện pháp chủ yếu sau trong cách xử lí đề
tài:
2.1.2.1. Lu giữ những chi tiết cụ thể, sinh động.

ở thơ luật Đờng, do hạn chế về số câu, chữ, niêm, vận, luật nên không có
chỗ dung chứa các chi tiết cụ thể. Để phản ánh hiện thực cuộc sống và giãi bày tâm
trạng con ngời, thơ luật đẩy cái cụ thể xuống hàng thứ yếu. Có chăng một vài chi
tiết đợc giữ lại cũng đã trải qua sự sàng lọc nghiệt ngã, mang tính điển hình cao cho
loại sự vật đợc phản ánh và cũng tiêu biểu nhất, mang tính bản chất nhất của đối tợng đợc phản ánh.
Khác với thơ luật, thơ cổ phong do khá tự do, phóng khoáng trong dụng câu
chữnên có khả năng lu giữ các chi tiết cụ thể, sinh động, đậm đà màu sắc của
cuộc sống. Chính nhờ các chi tiết ấy mà bức tranh cuộc sống và tâm trạng đợc kết
dệt nên rất phong phú, xác thực đến tỉ mỉ nh bản thân nó vốn tồn tại.
Cùng tả tài đàn siêu tuyệt và sự tri âm giữa ngời đánh đàn - ngời thởng đàn
nhng Minh tranh của Lí Đoan khác Tì Bà Hành của Bạch C Dị.
Trong Minh tranh, Lí Đoan viết:
Minh tranh kim túc trụ
Tế thủ ngọc phòng tiền
Dục đắc Chu lang cố
Thời thời ngộ phất huyền
(Đàn gẩy phím kim túc, Mĩ nhân dạo trớc phòng. Muốn Chu lang ngoảnh
lại, Cố ý nắn sai cung) [44, 706].
Cả bài thơ tác giả chỉ chọn hai chi tiết: ngời gẩy đàn nắn sai dây và Chu
lang ngoảnh lại nhng đã lột tả đợc hết tài đàn của ngời con gái và sự tri âm, nhạc
cảm xuất sắc của vị đô đốc Đông Ngô. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài tứ
tuyệt, tiếng đàn cũng nh quá trình diễn tấu không dợc miêu tả cụ thể.
Ta chỉ có thể tìm đợc sự miêu tả tỉ mỉ quá trình diễn tấu, từ đó bật lên nét
tài hoa của ngời chơi đàn cũng nh tấm long tri kỉ của ngời nghe - Bạch C Dị -trong
Tì bà hành. ở đây, ngòi gẩy đàn tì bà có đủ thời gian xuất hiện vặn trục dạo đàn,
cúi mày rồi mới gẩy hết khúc Nghê thờng đến khúc Lục yêu, thậm chí âm
thanh của từng dây một cũng đợc miêu tả cụ thể:
Đại huyền tao tao nh cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết nh t ngữ
22



(Dây to nhờng đổ ma rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng).
Tiếp đó là giãi bày tâm sự của ngòi ca nữ, sự đồng cảm của tác giả:
Toạ trung khấp hạ thùy tối đa?
Giang Châu t mã thanh tham thấp!
Lệ ai chan chứa hơn ngời
Giang Châu T Mã đợm mùi áo xanh
Cùng viết về nỗi nhớ chồng của ngời phụ nữ, có thể so sánh Tự quân chi
xuất hĩ (Trơng Cửu Linh) và Trờng can hành (Lí Bạch) để rõ thêm đặc trng lu
giữ những chi tiết cụ thể của thơ cổ phong. Nỗi nhớ trong Tự quân chi xuất hĩ đợc gói gọn qua việc so sánh với ánh sáng hao gầy của vầng trăng. Nỗi nhớ ở trong
Trờng can hành lại đợc miêu tả thật cụ thể. Nhớ từ vết giầy in rêu trớc cửa, một
chiếc lá rụng, một đôi bớm bay trên thảm cỏ xanh cũng đủ sức đánh động, lay thức
trong lòng cô gái bao kỉ niệm đẹp về những tháng ngày hạnh phúc, tô đậm nỗi đau
đang tấy lên trong lòng nàng:
Môn tiền trì hành tích,
Nhất nhất sinh lục đài.
Đài thâm bất năng tảo,
Lạc diệp thu phong tảo.
Bát nguyệt hồ điệp hoàng,
Song phi tây viên thảo.
Cảm thử thơng thiếp tâm,
Tọa sầu hồng nhan lão.
(Vết giày in trớc cửa, Xanh xanh rêu mọc đầy. Rêu nhiều không thể quét, Lá
rụng gió thu lay. Tháng tám bơm bớm vàng, Bay đôi trên áng cỏ. Xúc cảm em đau
lòng, Héo già thơng má đỏ.)
Nhấn mạnh đặc điểm u trội của thơ cổ phong trong việc xử lí đề tài không
có nghĩa là hạ thấp thơ luật ở phơng diện này. Mỗi loại có u thế riêng trong cách
tiếp cận, chiếm lĩnh đời sống. Thơ cổ phong thiên về tính cụ thể, thơ luật lại đậm

tính khái quát giống nh hai bức tranh của Ngô Đạo Tử và Lí T Huấn vẽ phong cảnh
xứ Thục. Khi lánh nạn An Lộc Sơn về đất Thục, cảm vẻ đẹp hùng vĩ của xứ này,
vua Đờng Huyền Tông đã sai hai họa sĩ vẽ tranh phong cảnh. Một thời gian sau, hai
bức tranh hoàn thành và đợc dâng lên. Vua Đờng hết sức khen ngợi bởi chúng đã
tái hiện rất đạt cái hồn của sông núi dù hai bức hoàn toàn khác nhau. Tranh Lí T
Huấn vẽ tỉ mỉ từng gợn sóng, ngọn cỏ, từng vị trí của gốc cây, tảng đá. Ngợc lại,
tranh Ngô Đạo Tử tái hiện cảnh vật miền Giang Lăng trong ba trăm dặm chỉ qua
vài ba nét phác hoạ. Thơ cổ phong giống tranh Lí T Huấn, thơ luật giống tranh Ngô
Đạo Từ, dù khác nhau về phơng thức chiếm lĩnh đời sống nhng căn bản cả hai đều
đã nắm bắt và diễn tả đọc cái hồn của cuộc sống, do đó góp phần tạo nên giá trị bất
tử của thơ Đờng.
23


2.1.2.2.Lựa chọn những chi tiết mang tính điển hình cao
ở trên, chúng tôi đã phân tích, chứng minh khả năng lu giữ các chi tiết cụ
thể của thơ cổ phong đời Đờng trên phơng diện xử lí đề tài. Nhng nếu dừng tại đó,
bức tranh đời sống và tâm trạng trong thơ cổ phong cha thực sự đáp ứng đợc đầy đủ
yêu cầu của một tác phẩm văn học. Bởi lẽ thành phần cái xác định cụ thể trong
thơ là rất quan trọng nhng không mang ý nghĩa đơn độc, tự thân mà luôn đợc liên
kết, gắn bó với lí tởng chung, với nội dung khái quát và ý nghĩa xã hội của bài thơ.
Khuynh hớng tái hiện tự nhiên chủ nghĩa, lối khắc họa chạm trổ cần cù một đối tợng cụ thể nào đó đều không thích hợp với tinh thần sáng tạo của thơ. Thơ chống
lại sự chụp ảnh máy móc, chống lại việc chạy theo cái cụ thể mà không nâng hình
tợng lên khái quát, bay bổng [10, 206]. Đáp ứng yêu cầu đó, thơ cổ phong bên
cạnh việc lu giữ các chi tiết cụ thể còn chọn lựa các hình ảnh có tính điển hình cao.
Chính vì vậy, cái đợc phản ánh trong thơ cổ phong vừa cụ thể xác thực lại vừa
mang tính khái quát điển hình, tạo nên thế mạnh toàn diện so với thơ luật.
Trong Tự kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài ngũ bách tự, để phản ánh
mâu thuẫn gay gắt tiềm ẩn trong xã hội thịnh Đờng, Đỗ Phủ đã chọn các hình ảnh
rất tiêu biểu:

- Đồng đình sở phân bạch
Bản tự hàn nữ xuất
Tiên thát kì phu gia
Tụ liễm cống thành khuyết
(Lụa phân phát trớc sân rồng; Đều do tay những ngời con gái không áo dệt
ra cả; Roi vọt quất lên thân chồng con họ; Nạo khoét lấy để dâng vào cung vua).
-Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt
(Nơi cửa son rợu thịt sặc mùi; Ngoài đờng trơ đống xơng ngời chết rét)
Các hình ảnh này đủ sức nặng lột trần bản chất bức tranh xã hội thời thịnh
Đờng. Bên trong vẻ thanh bình, no ấm là biết bao nghịch cảnh: nhà giàu rợu thịt để
ôi trong khi dân lành lâm cảnh chết đói. Tình cảnh khốn khó của ngời dân chính là
hệ quả tất yếu của quá trình bòn rút vô hạn định của giai cấp thống trị. Chính máu
thịt, sức lao động của ngời dân chuyển hoá thành rợu thịt để ôi trên bàn tiệc bọn
nhà giàu. Chính tấm áo, mảnh lụa do tay ngời phụ nữ cơ hàn làm nên tuôn chảy vào
cung cấm, thành vật phẩm vua ban tặng cho các sủng thần, đẩy họ vào cảnh không
áo.
Trong Tân hôn biệt, Đỗ Phủ lại chọn chi tiết:
Thiếp phận vị phân minh
Hà dĩ bái cô chơng?
(Nhng thân phận em cha đợc phân minh, Biết lạy chào cha mẹ chồng nh
thế nào cho phải?)

24


để diễn tả nỗi bất hạnh của ngời vợ mới cới do chính sách vét lính của triều đình.
Theo tục lệ của Trung Quốc đơng thời, sau khi cới ba ngày, cô dâu phải làm đủ các
thủ tục- lễ nhà thờ họ, đi tảo mộ, lạy cha mẹ chồng- mới đợc xem là con dâu chính
thức. Thế mà ở đây, giai cấp thống trị nhà Đờng bất chấp thủ tục tuyển lính thông

thờng, bất chấp phong tục truyền thống khiến cho đôi trẻ lâm vào tình cảnh:
Tịch bất noãn quân sàng,
Mộ hôn thần cáo biệt.
(Giờng của anh em nằm cha ấm chiếu, Chập tối đa dâu, sáng mai từ biệt)
Cô gái làm gì có thời gian hoàn tất các thủ tục. Có nghĩa cô đã rơi vào tình
cảnh oái oăm của một cô dâu dự bị và biết đâu sẽ chẳng bao giờ có ngày thành cô
dâu chính thức.
Viết về cái xác xơ, cạn kiệt sự sống của làng xóm, trong bài Vô gia biệt,
Đỗ Phủ đã mô tả tỉ mỉ song nhức nhối, ám ảnh nhất là những hình ảnh cụ thể mà
giàu sức khái quát:
Đán đối hồ dữ li
Thụ mao nộ ngã đề
Tứ lân hà sở hữu
Nhất nhị lão quả thê
(Trớc mắt chỉ những cáo cùng cầy, Xù lông nhìn ta gầm gừ giận dữ. Bốn bề
làng xóm chẳng còn gì, Chỉ một vài bà già goá bụa).
Cáo cầy - những con vật - lẽ ra phải sợ ngời thế nhng ở đây trình tự lại đảo
ngợc: xù lông gầm gừ giận dữ đe dọa con ngời. Cái điều tởng nh nghịch lí ấy lại
cha đựng cái lí bởi sau năm Thiên Bảo, làng xóm tiêu điều, vắng bóng con ngời nên
cầy cáo mặc sức hoành hành. Hình ảnh một vài bà già goá cũng đầy sức nặng.
Nó là chi tiết cụ thể về sự hoang tàn của một làng quê nhng cũng là bức tranh khái
quát về sự hoang tàn của đất nớc Trung Hoa sau loạn An Sử.
Nh vậy về phơng diện xử lí đề tài với hai biện pháp chủ yếu trên, thơ cổ
phong đã thừa tiếp điểm dừng của thơ luật, tạo nên thế mạnh toàn diện trong phản
ánh bức tranh tâm trạng và hiện thực cuộc sống.
2.2. Phơng thức cấu tứ.
ở trên chúng tôi đã nói đến việc lựa chọn và xử lí đề tài song thực chất công
việc này mới dừng ở việc chọn lựa những hình ảnh cụ thể rời rạc.Việc xử lí đề tài
chỉ thực sự đợc tiến hành khi việc chọn lọc đi đôi với sự tổ chức liên kết các chi
tiết, các hình ảnh mang tính chất cá biệt cụ thể của hiện thực khách quan đã đợc

nhận thức, nội cảm hoá, thành một bức tranh hoàn chỉnh, sinh động thể hiện rõ cái
nhìn nghệ thuật về cuộc đời cũng nh thế giới tinh thần phong phú của nhà văn
thông qua một kiểu tổ chức văn bản nhất định [8, 25]. Tức là chúng ta đi xem xét
cấp độ kết cấu hình tợng của thơ cổ phong. ở đây ngời viết không có tham vọng đi
sâu các vấn đề của kết cấu mà chỉ giới hạn ở việc xem xét phơng thức cấu tứ của
25


×