Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Một số giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đào tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường trung cấp thương mại trung ương v

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 90 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THANH MINH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
ỨNG DỤNG CÔNG NGHÊÊ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO VÀ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ở
TRƯỜNG TRUNG CẤP THƯƠNG MẠI TRUNG ƯƠNG V
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số: 60.14.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.ĐINH XUÂN KHOA

Vinh, 2010


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai (khóa VIII)
về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới đã yêu
cầu ngành giáo dục phải “đổi mới mạnh mẽ PP giáo dục đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp
dụng các PP tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy-học, đảm bảo điều
kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. Công nghệ thông tin chính là
công cụ trợ giúp đắc lực hỗ trợ đổi mới nội dung, PP giảng dạy, hỗ trợ quản lý giáo


dục nhằm nâng cao chất lượng phát triển giáo dục. Nhận thực rõ vai trò, tầm quan
trọng của việc ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học, Bộ GD&ĐT đã quyết định
chọn năm học 2008-2009 làm năm học ứng dụng CNTT nhằm thực hiện mục tiêu
nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa”.
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, PP dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý
giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá". Nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục. Hội nghị Trung ương 6, khóa IX đã đề ra 3 nhiệm vụ để tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục
đào tạo là: nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài. Trong nhiệm
vụ này, trọng tâm là đổi mới nội dung, chương trình, PP giáo dục theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin vào các cấp học, bậc học.
Xuất phát từ các văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước nhất là chỉ thị 58CT/TW của Bộ Chính Trị ngày 17 tháng 10 năm 2000 về việc đẩy mạnh ứng dụng
CNTT phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa đã chỉ rõ trọng tâm của
ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT và đẩy mạnh ứng dụng CNTT


3
trong công tác giáo dục và đào tạo, đây là nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ đã
giao cho ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 2005 thông qua quyết định số
81/2001/QĐ-TTg
Trong nhiều năm qua, vấn đề đổi mới PP giảng dạy đã được chúng ta quan tâm,
các phương tiện kỹ thuật phục vụ dạy học như máy vi tính, máy chiếu, băng, đĩa…
được các nhà trường quan tâm trang bị, nhiều giáo viên đã đầu tư cho bài giảng của
mình để nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên việc ứng dụng CNTT vẫn chưa
được thường xuyên và rộng khắp.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hoạt động giảng dạy được coi là
một trong những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Chỉ khi nào
mỗi cán bộ, giáo viên coi việc ứng dụng CNTT trong quản lý đào tạo và đổi mới
phương pháp giảng dạy như là một nhu cầu tự thân, không mang tính áp buộc từ

bên trên, tự họ tìm tòi, không ngừng đổi mới và hoàn thiện tri thức, kỹ năng áp
dụng và sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực thì việc quản lý hoạt động
giảng dạy mới thực sự sâu rộng, có hiệu quả và bền vững.
Cùng với các cơ sở giáo dục, đào tạo trên cả nước, nhiều năm qua Trường Trung
cấp Thương mại Trung ương V đã có nhiều nỗ lực trong việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý đào tạo và cải tiến phương pháp, hình thức dạy học, phù hợp
cho riêng mình. Những cố gắng ấy đã tạo ra những chuyển biến đáng kể trong
phong trào thi đua dạy tốt - học tốt của toàn trường.
Tuy nhiên, phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đào tạo và
đổi mới PP giảng dạy ở trường vẫn chưa đều khắp ở các đơn vị và ở cán bộ giáo
viên. Nó mới chỉ dừng lại ở bề nổi của hình thức mà chưa đi vào chiều sâu của chất
lượng và chưa được thường xuyên, liên tục. Nó chưa trở thành nhu cầu tự thân của
mỗi cán bộ, giáo viên.
Trong những năm gần đây, đã có những công trình khoa học đề cập đến vấn đề
ứng dụng CNTT trong quản lý đào tạo và đổi mới PP giảng dạy. Ở Trường Trung
cấp Thương mại Trung ương V hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu khoa
học nào bàn về vấn đề này. Với những lý do ở trên tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “


4
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đào tạo và đổi mới phương pháp
giảng dạy ở Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở của việc hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp
“ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO VÀ
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP THƯƠNG
MẠI TRUNG ƯƠNG V ” nhằm góp phần nâng cao chất lượng và phù hợp với tình
hình phát triển giáo dục của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu.
Công tác QL đào tạo, đổi mới PP giảng dạy qua việc ứng dụng CNTT ở Trường
Trung cấp Thương mại Trung ương V.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp QL đào tạo, đổi mới PP giảng dạy qua việc ứng dụng CNTT ở
Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V.
4. Giả thuyết khoa học
- Chất lượng đào tạo của nhà trường sẽ được nâng lên đáp ứng yêu cầu nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã
hội nếu hệ thống này được quản lý bằng một quy hoạch tổng thể mang tính khoa
học và khả thi.

5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề ứng dụng CNTT trong QL đào tạo
và đổi mới PP giảng dạy;
- Đánh giá phân tích việc ứng dụng CNTT trong QL đào tạo và đổi mới phương
pháp giảng dạy ở Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V;
- Đề ra những giải pháp cơ bản để quản lý đào tạo và đổi mới PP giảng dạy qua
việc ứng dụng CNTT tại Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V.


5
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục & đào
tạo, Bộ Công thương và các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm xây
dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp điều tra;

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm;
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
6.3.Nhóm các phương pháp thống kê Toán học
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ đặc trưng về mặt lý luận ứng dụng CNTT trong QL đào tạo
và đổi mới PP giảng dạy ở Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V, đồng thời
luận văn cũng chỉ ra những bất cập, khó khăn trong việc ứng dụng CNTT trong hoạt
động đào tạo của nhà trường.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường ứng dụng CNTT trong QL đào tạo và đổi
mới PP giảng dạy ở Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V.
8. Cấu trúc của luận văn
- Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài;
Chương 2: Thực trạng ứng dụng CNTT trong quản lý đào tạo và đổi mới phương
pháp giảng dạy ở Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V;
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý đào tạo và đổi mới phương
pháp giảng dạy qua việc ứng dụng công nghệ thông tin ở Trường Trung cấp
Thương mại Trung ương V.


6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Một số nước trên thế giới
Ở một số nước phát triển trên thế giới đã sớm chú trọng tới việc ứng dụng
CNTT. Những nước này có nhiều chương trình quốc gia về CNTT, nhằm ứng dụng
nó vào mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có GD&ĐT. Những thành tựu phát
triển kinh tế đạt được hiện nay có phần đóng góp hết sức to lớn của chương trình

quốc gia này. Có thể thấy ở một số quốc gia điển hình như:
- Nhật Bản: “Kế hoạch về một xã hội thông tin, mục tiêu quốc gia tới năm 2000
đã được công bố từ năm 1972”.
- Hàn Quốc: Xác định mục tiêu chiến lược của chính sách đẩy mạnh tin học hóa
là xây dựng một xã hội thông tin phát triển vào năm 2000.
- Singapo: Năm 1981, nước này đã thông qua một đạo luật về tin học quốc gia,
quy định ba nhiệm vụ; một là, thực hiện việc tin học hóa mọi công việc hành chính
và hoạt động của chính phủ; hai là, phối hợp giáo dục và đào tạo tin học; ba là, phát
triển và thúc đẩy công nghiệp dịch vụ tin học ở Singapo. Một ủy ban máy tính quốc
gia được thành lập để quản lý công tác đó.
- Tại Mỹ và các nước Châu âu, những nghiên cứu về quản lý ứng dụng CNTT
trong giáo dục không còn là vấn đề mới mẻ, chính vì thế ứng dụng CNTT trong
quản lý GD đã được sự ủng hộ từ các chính sách trợ giúp của chính phủ ngay từ
cuối những thập niên 90.
- Ứng dụng CNTT trong giáo dục tại Anh quốc:
+ Cấp Trung học trung bình được đầu tư 198 máy tính PC và 53 máy tính xách
tay/trường;
+ Tỉ lệ nối mạng ở tiểu học là 96%, trung học là 99,8%;


7
+ CNTT được ứng dụng trong tất cả các môn học chứ không phải là một môn
riêng biệt; không dạy học sinh phổ thông lập trình phần mềm, đây là công việc của
các chuyên gia hoặc các trường trung học chuyên nghiệp;
+ Máy chiếu có ở mọi phòng học;
+ Các trường phổ thông kể cả tiểu học đều có phòng đa phương tiện
(Multimedia) [23].
Khi nghiên cứu vấn đề thúc đẩy phát triển ứng dụng CNTT trong GD&ĐT giáo
sư David Mousund, bộ phận quản lý và chính sách trường đại học Oregon Autralia
đã đưa ra các luận điểm:

- Lĩnh vực ICT (Information Communication Technology) đang thay đổi nhanh
chóng đến mức nó vượt khả năng cập nhật của đa số các nhà lãnh đạo khiến họ
ngần ngại;
- Những tư tưởng chủ đạo cơ bản về việc sử dụng ICT trong giáo dục tuy đã thay
đổi nhưng thay đổi rất chậm.
Trong luận điểm của mình giáo sư David Mousund, bộ phận quản lý và chính
sách trường Đại học Oregon Autralia đã chỉ ra vấn đề là cần phải thay đổi tư tưởng
của nhà quản lý. Ông đã chỉ ra mâu thuẫn giữa ICT và tư tưởng của nhà quản lý.
Khi đến với hội thảo tại ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với chủ đề “Các
giải pháp công nghệ và quản lý ứng dụng CNTT trong giáo dục” (Hãng Microsoft
tài trợ) các tác giả:
- Giáo sư Vương Thanh Sơn, UBC (Viện đại học British Columbia, Canada) Tác
động của CNTT trong GD&ĐT;
- Tiến sỹ Patrick Tantribeau, Futuru Com International Holdings, Ltd, Van
couver, Canada “Những thay đổi quản lý trong thời đại thông tin”.
Những nhà khoa học này đã mang đến hội thảo các đề tài với cùng quan niệm
chung là thúc đẩy ứng dụng CNTT trong giáo dục. Các tác giả đã đề cập một cách
sâu rộng tác động của CNTT, tầm quan trọng của CNTT, cách sử dụng website
trong GD&ĐT, đặc biệt là đòi hỏi phải thay đổi quản lý trong thời đại thông tin.
1.1.2 Ở Việt Nam


8
Do ý nghĩa, tầm quan trọng của CNTT đối với phát triển kinh tế-xã hội đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên Đảng
và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách hết sức quan trọng để đẩy mạnh
việc ứng dụng, phát triển CNTT.
- Chỉ thị số 58/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 17/10/2000 về đẩy mạnh và ứng
dụng CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nêu rõ: “Đẩy mạnh
ứng dụng CNTT trong công tác GD&ĐT ở các cấp học, bậc học, ngành học; phát

triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc
biệt tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối
Internet tới tất cả các cơ sở GD&ĐT” [6].
- Luật CNTT đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006.
- Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan
nhà nước.
- Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 về tăng cường giảng
dạy đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001-2005.
- Công văn 9584/BGD&ĐT-CNTT, ngày 07 tháng 9 năm 2007 hướng dẫn thực
hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về ứng dụng CNTT.
- Chủ đề của năm học 2008-2009 mà Bộ GD&ĐT chọn và công bố ngày 31
tháng 7 năm 2008 tại Hải Phòng nhân dịp Bộ GD&ĐT tổ chức hội nghị tổng kết
năm học 2007-2008, triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm học 2008-2009 là
“Năm học ứng dụng CNTT để nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới cơ chế
quản lý tài chính trong ngành”.
- Công văn số 273/CNTT, ngày 12/8/2008, của Cục CNTT (Bộ GD&ĐT) về
việc kết nối cáp quang Internet đến các trường trong cả nước [12].
Việc nghiên cứu ứng dụng CNTT vào quản lý GD đặc biệt là trong quản lý nhà
trường đã được một số luận văn thạc sỹ, công trình khoa học nghiên cứu đề cập đến
chẳng hạn như:


9
“Một số biện pháp chỉ đạo việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác quản
lý dạy học tại các trường THPT” của tác giả Nguyễn Văn Tuấn (Đại học Sư phạm
Hà Nội, 2006); “Một số biện pháp nhằm phát triển ứng dụng CNTT trong quản lý
GD ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Văn Khiêm (Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2006); Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Nghiên cứu tổ chức và quản lý
việc ứng dụng CNTT&TT trong quản lý trường THCS” do TS. Trương Đình Mậu

làm chủ nhiệm; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Một số giải pháp ứng dụng CNTT trong
quản lý đào tạo ở trường Đại học Vinh” do PGS.TS Nguyễn Đình Huân làm chủ
nhiệm,...
Những công trình nghiên cứu và luận văn thạc sỹ trên đã đề cập đến việc ứng
dụng CNTT vào trong QL ở nhà trường, khẳng định ý nghĩa tầm quan trọng của
ứng dụng CNTT trong QL và các tác giả cũng đề xuất được một số giải pháp cần
thiết, khả thi nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT trong QL. Tuy nhiên, mới chỉ
dừng ở một phạm vi, một trường, một số khía cạnh nào đó. Chưa có công trình
nghiên cứu khoa học nào đề cập đến việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong QL đào
tạo và đổi mới PP giảng dạy ở Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V. Vì
thế tác giả đi sâu nghiên cứu đề tài này mong muốn đề xuất được những giải pháp
tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý đào tạo và đổi mới PP giảng dạy ở
Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V , góp phần nâng cao chất lượng QL
và đào tạo của nhà trường.
1.2 Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1 Giáo viên
Trong xã hội ngày nay, người thầy được xã hội tôn vinh và được coi là “kỹ sư
tâm hồn” giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Trong từ điển tiếng Việt: “Giáo viên là
người dạy bậc phổ thông hoặc tương đương”.
Luật Giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 61 nêu: Nhà
giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở
giáo dục khác [32]. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau:
- Có phẩm chất đạo đức tốt;


10
- Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ;
- Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
- Lý lịch bản thân rõ ràng.
Tùy cách đề cập, định nghĩa về giáo viên nêu trên theo nghĩa rộng, hẹp khác

nhau nhưng đều thống nhất ở bản chất của người giáo viên. Đó là người làm nhiệm
vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở đào tạo khác nhằm thực
hiện mục tiêu của giáo dục là xây dựng và hình thành kỹ năng, nhân cách cho người
học đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội.
1.2.2 Đội ngũ giáo viên
Khi nói đến đội ngũ, các nhà Khoa học đều cho rằng “Đội ngũ là số đông người
cùng chức năng, nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng”.
Trong các tổ chức xã hội đội ngũ được dùng như: “Đội ngũ tri thức, đội ngũ
công nhân viên chức, đội ngũ giảng dạy,..” đều có gốc xuất phát từ đội ngũ theo
thuật ngữ dùng trong quân đội. Đó là một khối đông người được tổ chức thành một
lực lượng chiến đấu hoặc bảo vệ.
Từ đó chúng ta có thể hiểu: “Đội ngũ giáo viên là một tập thể người có cùng
chức năng, nghề nghiệp (nghề dạy học) cấu thành một tổ chức và là nguồn nhân lực
của tổ chức đó; cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện một mục tiêu giáo dục-đào
tạo đã đề ra cho tập thể đó; họ làm việc theo kế hoạch đồng thời chịu sự ràng buộc
của những quy tắc hành chính của ngành và theo quy định của pháp luật.
1.2.3 Ứng dụng công nghệ thông tin
1.2.3.1 Khái niệm thông tin (Information)
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin, nhưng phần lớn đều hiểu thông tin
là tất cả những gì có thể cung cấp cho con người những hiểu biết về đối tượng được
quan tâm trong tự nhiên và xã hội, về những sự kiện diễn ra trong không gian và
thời gian, về những vấn đề chủ quan và khách quan…nhằm giúp con người trên cơ
sở đó có thể đưa ra được những quyết định đúng đắn, kịp thời, có hiệu quả và có ý
nghĩa. Thông tin bao hàm tất cả những thu thập có tính ghi chép, thống kê, tổng kết,
những nhận định, dự báo, những dự kiến, kế hoạch, chương trình,…Thông tin là


11
thuộc tính của sự vật, đặc trưng cho độ bất định của sự vật đó. Thông tin là những
gì có thể giúp cho con người hiểu đúng về đối tượng mà họ quan tâm.

Với quan điểm tiếp cận hệ thống và điều khiển học, thông tin có thể hiểu là
những nội dung trao đổi giữa hệ thống và môi trường được sử dụng nhằm mục đích
điều khiển hoạt động của hệ thống đó [19, Tr.31].
Dữ liệu (Data) có thể hiểu vật liệu thô mang thông tin. Dữ liệu sau khi được tập
hợp lại và xử lý cho ta thông tin. Nói cách khác, dữ liệu là nguồn gốc, là vật mang
thông tin, là vật liệu sản xuất ra tin [19, Tr.36].
Hệ thống thông tin (Information System) là một hệ thống tiếp cận các nguồn dữ
liệu như các phần tử và chúng được xử lý thành các sản phẩm thông tin là các phần
tử ra [19,Tr.41].
Sơ đồ 1.1: Hệ thống thông tin
Xử lý
(Processing)

Dữ liệu
(Data)
Nhập
(Input)

Xuất
(Output)

Thông tin
(Information)

1.2.3.2 Công nghệ thông tin
Theo bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Công nghệ thông tin viết tắt IT
(Information Technology) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin,
là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ,
xử lý, truyền và thu thập thông tin [59].
Tại Việt Nam, khái niệm CNTT trong nghị quyết số 49/NQ-CP, nghị quyết về

phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90, chính phủ ký ngày 04 tháng 8 năm
1993 đã định nghĩa như sau: “Công nghệ thông tin là tập hợp các PP khoa học, các
phương tiện và công cụ hiện đại-chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông-nhằm
tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong
phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
Theo điều 4, Luật CNTT số 67/2006/QH11, ngày 29/6/2006 thì; “Công nghệ
thông tin là tập hợp các PP khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản
xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”.


12
Công nghệ thông tin, thuật ngữ chỉ chung cho tập hợp các ngành khoa học và
công nghệ liên quan đến khái niệm thông tin và các quá trình xử lý thông tin. Theo
nghĩa đó CNTT cung cấp cho chúng ta các quan điểm, PP khoa học, các phương
tiện, công cụ và giải pháp kỹ thuật hiện đại chủ yếu là các máy tính và phương tiện
truyền thông nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa của con người [31].
Theo nghĩa hẹp thì CNTT bao gồm các thiết bị phần cứng dùng để kết nối các
máy tính, các thiết bị điện tử nhờ có môi trường truyền thông (đường dây điện
thoại, đường truyền cáp, ăng ten, trạm vệ tinh, bộ định hướng, bộ chuyển tiếp và các
thiết bị khác dùng để kiểm soát đường truyền dữ liệu), các phần mềm được dùng để
gửi, nhận và quản lý các tín hiệu được truyền dẫn, các phương tiện kết nối phần
cứng với phần mềm.
Dù hiểu về CNTT ở góc độ nào thì những công nghệ, phương tiện kỹ thuật nói trên
đều hỗ trợ cho việc thu nhận, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin.
1.2.3.3 Ứng dụng CNTT trong quản lý
Công nghệ thông tin có thể được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong quản lý nhà trường chúng ta có thể chia những khả năng ứng dụng của CNTT
làm hai phạm trù:
- Công nghệ thông tin là một hệ thống trợ giúp. Trong công tác hành chính

CNTT sẽ đơn giản hóa những nhiệm vụ như: Lập kế hoạch, làm báo cáo và quản lý
hành chính nhà trường;
Với công tác hành chính thì CNTT thường xuyên đem đến những sự trợ giúp to
lớn. Những công việc hành chính phức tạp và tốn nhiều thời gian có thể được đơn
giản hóa và vi tính hóa. Ví dụ như lập kế hoạch, quản lý hệ thống, làm báo cáo, kế
toán, hành chính;
- Lồng ghép sử dụng CNTT
Khi nhà quản lý thực sự sử dụng CNTT trong các hoạt động quản lý, khi đó gọi
là sử dụng lồng ghép. Vấn đề sử dụng CNTT trong quản lý như thế nào có thể được
phân ra làm nhiều cách. Ở đây, chúng ta chỉ phân loại giữa việc ứng dụng CNTT


13
như là một đối tượng học tập, một công cụ quản lý, là một người hướng dẫn, một
phương tiện mở với việc sử dụng CNTT như là một phương tiện truyền thông.
1.2.4 Quản lý, quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
1.2.4.1 Quản lý
“Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt
động của con người” [22,Tr.11].
* Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn:
Quản lý là quá trình tác động của chủ thể QL đến khách thể quản lý thông qua
các công cụ, phương tiện để đạt được mục tiêu QL.
Giáo dục và QLGD là sự tồn tại song hành, Nếu nói GD là hiện tượng xã hội tồn
tại lâu dài cùng với xã hội loài người thì cũng có thể nói như thế về QLGD
[48,Tr.11].
* Tác giả Trần Quốc Thành có trình bày về quản lý:
- Quản lý là quá trình tác động có ý thức vào một bộ máy bằng cách vạch ra mục
tiêu cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động vào bộ máy để đạt được mục
đích.
- Quản lý có 3 thành phần:

+ Chủ thể quản lý;
+ Đối tượng quản lý;
+ Mục đích quản lý.
- Theo góc độc chính trị - xã hội; quản lý là quá trình kết hợp giữa tri thức và lao
động. Sự phát triển là tổng hợp tri thức - sức lao động - quản lý, cần có cơ chế quản
lý phù hợp.
- Theo góc độ hành động; quản lý là quá trình điều khiển. Chủ thể điều khiển
người dưới quyền và các đối tượng khác để đạt được mục đích.
- Quan điểm hiện nay; quản lý được hiểu là những hoạt động có phối hợp nhằm
định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu.
- QL là hoạt động phối hợp nhiều người, nhiều yếu tố;
- Định hướng các hoạt động đó theo một mục tiêu nhất định;
- Kiểm soát được tiến trình đạt tới mục tiêu [28].


14
Với cách hiểu quản lý là quản lý tổ chức của con người, hoạt động của con
người, có thể định nghĩa khái niệm quản lý như sau: “Quản lý là quá trình tiến hành
những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác
động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động và phù hợp với quy luật khách
quan để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý nhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo ra
hiệu quả cần thiết vì sự tồn tại (duy trì), ổn định và phát triển của tổ chức trong một
môi trường luôn biến động” [25,Tr.8].
1.2.4.2 Quản lý giáo dục
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: QLGD là tổ chức các hoạt động dạy học, thực
hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quản
lý được GD, tức là cụ thể hóa GD của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực,
đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước [16,Tr.17].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng “QLGD nói chung là thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành

tiến tới mục tiêu đào tạo theo nguyên lý giáo dục” [1,Tr.94].
Theo tác giả Trần Kiểm, khái niệm “Quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ, ít nhất
có hai cấp độ chủ yếu; cấp vĩ mô và cấp vi mô.
- Đối với cấp vĩ mô
QLGD được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể QL đến tất cả các mắt xích của hệ
thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở GD là nhà trường) nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển GD, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho
ngành GD;
QLGD là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể QL lên hệ
thống GD nhằm tạo ra tính trồi của hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm
năng, các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất
trong điều kiện đảm bảo sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn biến động;
Cũng có thể định nghĩa QLGD là hoạt động tự giác của chủ thể QL nhằm huy
động, tổ chức, điều phối, điều chình, giám sát một cách có hiệu quả các nguồn lực


15
GD (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển GD đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội.
- Đối với cấp vi mô
QLGD được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có
kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể QL đến tập thể GV, công nhân
viên, tập thể HS, cha mẹ HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường
nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường [24,
Tr.37].
* Tóm lại: Theo các tác giả thì QLGD đều chứa đựng các nhân tố đặc trưng bản
chất như phải có chủ thể QLGD, ở tầm vĩ mô là QL của nhà nước mà cơ quan QL
trực tiếp là Bộ, Sở, Phòng GD, còn ở tầm vi mô là QL của hiệu trưởng nhà trường.
Phải có hệ thống tác động QL theo nội dung, chương trình, kế hoạch thống nhất từ

trung ương tới địa phương nhằm thực hiện mục đích GD trong mỗi giai đoạn cụ thể
của xã hội. Phải có một lực lượng đông đảo của XH những người làm công tác GD
cùng với hệ thống CSVC kỹ thuật tương ứng.
QLGD có tính xã hội cao do đó cần tập trung giải quyết các vấn đề về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng phục vụ cho công tác GD. Nhà
trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của QLGD, trong đó GV và HS là hai
đối tượng đặc biệt quan trọng.
Như vậy, quản lý giáo dục về thực chất là quản lý nhà trường và quản lý các hoạt
động diễn ra trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác.
1.2.4.3 Quản lý nhà trường
Quản lý GD là quản lý một hoạt động còn quản lý nhà trường là quản lý một
thiết chế của hệ thống GD.
Quản lý nhà trường có thể hiểu là một chuỗi tác động hợp lý (có mục đích, tự
giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức-sư phạm của chủ thể quản lý đến tập
thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
nhằm huy động họ cùng công tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của nhà
trường nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu để đạt được những mục tiêu dự
kiến [39,Tr.7].


16
Trong phạm vi nhà trường, hoạt động quản lý bao gồm nhiều loại như: Quản lý
hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp); hoạt động xã hội; hoạt
động văn thể; hoạt động lao động, hoạt động ngoại khóa; hoạt động giáo dục hướng
nghiệp, vv.. Quản lý các đối tượng khác nhau: Quản lý giáo viên; học sinh; tài
chính; quản lý cơ sở vật chất vv…
Trên cơ sở đó, chúng ta hiểu quản lý nhà trường là hệ thống những tác động có
hướng đích của Hiệu trưởng đến con người (giáo viên, cán bộ nhân viên, học sinh),
đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin…) hợp quy luật nhằm đạt
mục tiêu giáo dục.

Quản lý nhà trường là hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi
những tác động có ý thức, có kế hoạch, có hướng đích của chủ thể quản lý lên tất cả
các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo vận hành tối ưu xã hội - kinh tế và tổ
chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ trẻ. Quản lý nhà trường
cũng tập trung nhiều sức lực vào quản lý hoạt động dạy học bởi “Hoạt động (quá
trình) dạy học là quá trình mà trong đó dưới sự tổ chức, điều khiển, lãnh đạo của
người giáo viên làm cho người học tự giác, tích cực, chủ động tổ chức tự điều khiển
hoạt động nhận thức-học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học”
[39, Tr.7].
Mặt khác, quản lý nhà trường về bản chất là quản lý con người, quản lý quá trình
GD theo nghĩa rộng (quá trình sư phạm tổng thể - quá trình dạy học và quá trình
giáo dục theo nghĩa hẹp) [40, Tr.29]. Điều đó tạo cho các chủ thể (người dạy và
người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt chẽ. Trong nhà trường GV và HS
vừa là đối tượng, vừa là chủ thể quản lý. Cho nên, quản lý nhà trường không chỉ là
trách nhiệm của người hiệu trưởng, mà là trách nhiệm chung của tất cả các thành
viên trong nhà trường.
Nói cách khác, quản lý con người trong nhà trường là tổ chức một cách hợp lý
lao động của giáo viên và học sinh, là tác động đến họ sao cho hành vi, hoạt động
của họ đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người.
“Nhà trường là một thiết chế xã hội, là đơn vị cấu trúc cơ bản của hệ thống giáo dục
quốc dân”.


17
Quản lý nhà trường là sự cụ thể hóa công tác QLGD. Nhà trường là tế bào
chủ chốt của của bất cứ hệ thống GD nào từ trung ương đến địa phương.
1.2.5 Phương pháp dạy học
1.2.5.1 Phương pháp
Phương pháp là “ý thức” về hình thức của sự tự vận động bên trong của nội
dung [40, Tr.28].

1.2.5.2 Phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của thầy và trò trong
quá trình dạy học, dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học
[40, Tr.29].
PPDH là hệ thống các hoạt động của người dạy và người học có mục đích, có bài
bản, được thiết kế theo kiểu "thầy tổ chức - trò hành động" hoặc theo Hêghen “ PP
dạy học là sự vận động của nội dung dạy học”.
1.2.6 Đổi mới phương pháp
Từ nhu cầu đổi mới PPDH, các nhà khoa học như: Thái Duy Tuyên [47]; Trần
Kiều [26]; Nguyễn Hữu Châu [8],...đã khẳng định định hướng đổi mới PPDH trong
giai đoạn hiện nay là: “ PP dạy học cần hướng vào việc tổ chức cho học sinh học
tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo, được thực hiện
độc lập hoặc trong hoạt động”.
1.3 Vai trò của tin học, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có tác động rất mạnh
đến việc ứng dụng CNTT trong QL. Các chính sách trong từng lĩnh vực có tác động
mạnh hay yếu khác nhau. Những năm vừa qua, Đảng và Chính phủ đã có sự chỉ đạo
sát sao nhằm phát triển ứng dụng CNTT trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội.
- Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 17/10/2000 về đẩy mạnh ứng dụng và
phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đã chỉ rõ: “… Đặc biệt tập


18
trung phát triển mạng máy tính phục vụ giáo dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất
cả các cơ sở giáo dục và đào tạo…” [6];
- Luật CNTT đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006;
- Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan
nhà nước;

Hiện nay, giáo dục đang đứng trước thách thức đó là sự đổi mới, đặc biệt là sự
gia tăng về số lượng, quy mô và mạng lưới trường lớp học. Để đáp ứng nhu cầu
người học, đáp ứng đòi hỏi của xã hội về nâng cao chất lượng dạy học thì việc ứng
dụng CNTT trong quản lý ở các nhà trường được xác định là một trong những việc
làm hiệu quả.
Những biện pháp thích hợp tăng cường ứng dụng CNTT vào quản lý ở các nhà
trường được áp dụng tốt, chúng ta sẽ tạo được chuyển biến mới tích cực trong công
tác quản lý giáo dục, góp phần hết sức quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực có
chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế.
Nhiệm vụ trọng tâm của ngành GD là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT và đẩy
mạnh ứng dụng CNTT trong công tác GD&ĐT. Đây cũng là nhiệm vụ mà Thủ
tướng Chính phủ đã giao cho ngành GD giai đoạn 2001-2005 qua Quyết định số
81/2001/QĐ-TTg.
Cụ thể hơn quan điểm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ còn có một số văn bản khác
như:
- Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt đề án Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 20012005;
- Ngày 06/4/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 331/QĐTTg, phê duyệt chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam giai
đoạn 2001-2010;
- Quyết định 146/2005/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển CNTT và
truyền thông Việt Nam đến năm 2010;


19
- Năm 2007 Chính phủ ban hành Nghị định số 64/NĐ-CP về việc ứng dụng
CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước.
Một số chủ trương, nghị định, quyết định nói trên cũng đã chứng tỏ rằng Đảng,
Nhà nước rất quan tâm đến việc ứng dụng CNTT trong quản lý.
1.4 Vai trò của tin học, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong sự

nghiệp đổi mới giáo dục và quản lý đào tạo
Sự phát triển nhanh chóng của CNTT có tác động lớn đến hệ thống GD&ĐT của
mỗi quốc gia. CNTT đang làm nên một cuộc đổi mới mạnh mẽ trong GD&ĐT. Nó
làm thay đổi nội dung, PP dạy và học cũng như cách thức điều hành và quản lý giáo
dục.
Các nhà quản lý cho rằng, CNTT tác động đến GD&ĐT theo các lĩnh vực: mục
tiêu ứng dụng; PP dạy và học; môi trường đào tạo và công tác quản lý giáo dục.
Trong đó, PP dạy và học chịu tác động nhiều nhất, máy tính, mạng máy tính sẽ góp
phần tạo ra môi trường lý tưởng cho hoạt động của người dạy và người học trong
việc mô phỏng các quá trình hay kiểm tra năng lực của người học.
Đối với GD&ĐT, Tin học được sử dụng như “người phụ giảng” tham gia trong
các quá trình đào tạo và giáo dục. Tin học đang phát huy vai trò quan trọng của
mình trong sự nghiệp đào tạo con người thông qua những sản phẩm thông minh về
lao động tư duy. Tin học đang trở thành người bạn đồng hành hữu ích và không thể
thiếu được đối với cuộc sống con người.
Có thể thấy rằng, sự phát triển của CNTT đang là một thách thức đối với
GD&ĐT, nhất là đào tạo ở các trường ĐH, CĐ, TCCN phải đưa quá trình giảng dạy
trở thành việc khám phá hướng tới nghiên cứu cho HSSV. Các siêu xa lộ thông tin
cùng với CNTT sẽ có tác động tới sự phát triển nguồn nhân lực nói chung và sự
nghiệp GD&ĐT nói riêng. Một mặt, GD&ĐT sẽ có môi trường và các phương tiện
thích hợp, hiệu quả hơn. Mặc khác, nhờ CNTT mà GD&ĐT tạo ra được những “sản
phẩm” con người có chất lượng hơn nhiều.
Chúng ta cần thấy rõ vai trò quan trọng của CNTT trong GD&ĐT để tạo ra bước
chuyển biến cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, PP giảng dạy,


20
học tập bộ môn, tạo ra sự đổi mới trong quá trình quản lý giáo dục ở nhà trường.
Các trường CĐ, ĐH muốn phát huy và ứng dụng hết những tài nguyên do Tin học
và CNTT mang lại cần phải có những giải pháp đột phá về quản lý, đặc biệt là quản

lý việc ứng dụng CNTT trong nhà trường một cách cụ thể và thiết thực hơn.
Bộ GD&ĐT đã ban hành Chỉ thị số 29/2001/BGD&ĐT về tăng cường giảng
dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giai đoạn 2001-2005. Chỉ thị có ghi:
“Đến năm 2005, 100% các Sở Giáo dục và Đào tạo xây dựng được mạng nội bộ,
từng bước kết nối các trường phổ thông và khai thác Internet, 70% trường trung học
phổ thông được nối mạng Internet. Hình thành mạng giáo dục (EduNet) phục vụ
cho các hoạt động học tập, giảng dạy, quản lý của cơ sở và của chung toàn ngành.
Tăng cường các thông tin về giáo dục và đào tạo trên mạng thông qua các trang
thông tin (Website) của Bộ và của các Sở. Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lý giáo dục và đào tạo. Mỗi cơ sở giáo dục và đào tạo phải có trang thông
tin (Website) phản ánh các hoạt động của đơn vị mình và kết nối chung vào mạng
giáo dục” [5].
Gần đây, Bộ GD&ĐT có công văn 9584/BGD&ĐT-CNTT, ngày 07 tháng 9 năm
2007 về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về ứng dụng CNTT và
lấy năm học 2008-2009 là năm học ứng dụng CNTT.
Để cụ thể hóa chủ trương, chính sách và thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Chính
phủ, của Bộ GD&ĐT nhiều đề án, dự án đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong quản lý
và dạy học ở các nhà trường được thực hiện. Chẳng hạn như: Dự án Srem, Partners
in learning; Tập đoàn Intel có chương trình “Dạy học của Intel” trước đây gọi là
“Intel teach to the Future - Dạy học cho tương lai”.
Tại Thanh Hóa, nơi Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V đóng đang
triển khai thực hiện chương trình dự án quản lý hệ thống thông tin nhà trường
VNPT school. Chương trình dự án này do Sở GD&ĐT phối hợp với Viễn thông
tỉnh tổ chức.
Với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, đặc biệt là sự gia tăng về số lượng, quy
mô và nhu cầu được giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng. Việc ứng dụng


21
CNTT trong quản lý ở các nhà trường được xác định là một trong những biện pháp

hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
1.5 Vai trò, mục tiêu của tin học trong trường Trung cấp Chuyên nghiệp nói
chung và Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V nói riêng
Thế kỉ XXI, thế kỉ của khoa học - công nghệ và nền kinh tế tri thức, tri thức đã
thật sự trở thành một yếu tố có sức sống quan trọng nhất trong các yếu tố sản xuất,
là hạt nhân kết nối và thúc đẩy các yếu tố sản xuất khác phát triển.
Giáo dục đi vào thế kỉ XXI đã chỉ rõ “Các nước muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu thì phải tiếp nhận công nghệ mới, trước nhất là CNTT và phải đưa công nghệ
đó vào lĩnh vực của sản xuất và đời sống” [17].
Muốn làm được điều đó thì vai trò của GD&ĐT có ý nghĩa quan trọng, trong đó
có vai trò của các trường ĐH,CĐ,TCCN. Vì thế, một trong những nhiệm vụ quan
trọng cơ bản của trường TCCN mà Chương trình khung đào tạo trường TCCN đã
qui định là “Mục tiêu giáo dục trung cấp chuyên nghiệp là đào tạo người lao động
có kiến thức và kỹ năng thực hành nghề nghiệp ở trình độ trung cấp, có đạo đức,
lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm
tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. ” [33].
Muốn có nguồn nhân lực với đầy đủ các yếu tố trên thì trường TCCN cần phải
thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Quá trình dạy học ở trường TCCN cần trang bị cho HSSV hệ thống những kiến
thức cơ bản của chuyên ngành. Các trường TCCN cần rèn luyện cho HSSV hệ
thống những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ lao động có
tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, năng động và sáng tạo;
- Trong quá trình dạy học ở trường TCCN, dưới vai trò tổ chức, điều khiển của
giáo viên, HSSV phát huy cao độ tính tích cực nhận thức, tự rèn luyện thao tác trí
tuệ, dần dần hình thành và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ;


22

- Quá trình dạy học ở trường TCCN phải nhằm hình thành thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan, kỹ năng thực hành và những phẩm chất tốt đẹp của người cán
bộ Trung cấp.
Trong bối cảnh đó, nhiều người khi nói tới hiện đại hoá giáo dục thường chỉ nghĩ
đến việc vận dụng các phương tiện kĩ thuật, công nghệ hiện đại, đặc biệt là CNTT
trong quản lý, giảng dạy và học tập. Điều này đương nhiên quan trọng, song cái
chính chưa phải ở đó. Cái chính là nhà trường phải làm sao đưa ra được các giải
pháp quản lý hoạt động GD một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn. Muốn vậy
trước hết nhà trường cần thay đổi tư duy giáo dục, xác định lại mục tiêu, yêu cầu
đào tạo của nhà trường, từ đó thay đổi cách dạy, cách học, thay đổi phưong pháp,
nội dung, tổ chức và đặc biệt là phải thay đổi cách quản íý giáo dục, nhằm xây
dựng một nền giáo dục phù hợp hơn với yêu cầu của xã hội và cuộc sống trong kỷ
nguyên nền kinh tế tri thức. Do đó, việc giáo dục trong nhà trường TCCN cần lưu ý
đến giai đoạn “học”, giai đoạn này là hết sức quan trọng để trang bị cho người học
một vốn kiến thức cơ bản và cần thiết trong suốt quá trình học tập và làm việc sau
này. Song song với nó là quá trình quản lý hoạt động GD của người thầy ở các
trường TCCN để tạo ra những “sản phẩm” con người phát triển toàn diện phục vụ
công cuộc đổi mới đất nước.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, các trường TCCN phải tăng cường công tác
quản lý, phải cải tiến công tác quản lý, đặc biệt phải đề ra các giải pháp quản lý hoạt
động GD một cách hiệu quả và tích cực hơn.
Về lĩnh vực Tin học, Chỉ thị Số: 55/2008/CT- BGDĐT ngày 30 tháng 9 năm
2008: “Về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012” đã chỉ rõ : Nâng cao nhận thức về vai trò, vị
trí của CNTT và triển khai có kết quả cao yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong
năm học 2008-2009 là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lý tài
chính và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; Đẩy mạnh một cách
hợp lý việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới PP dạy và học ở
từng cấp học; Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong điều hành và quản lý giáo dục”.



23
Đối với HSSV, việc học tập và sử dụng Tin học được xem là một nhu cầu quan
trọng và rất cần thiết cho họ ở tất cả các khoa, ngành. Với sự trợ giúp của Tin học,
trình độ chuyên môn, khả năng tư duy sáng tạo và khả năng tự học của HSSV sẽ
không ngừng được nâng cao, phát triển. Do vậy ứng dụng CNTT trong nhà trường
cần phải được quản lý bởi các giải pháp tích cực hơn, hiệu quả hơn.
Đối với cán bộ, GV nhà trường tổ chức bồi dưỡng, giảng dạy Tin học cho GV, từ
đó đa số cán bộ, GV của trường biết sử dụng CNTT vào trong công việc và giảng
dạy.
Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V đã thể hiện vai trò của mình trong
việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới GD&ĐT. Nhà
trường đã từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
sử dụng Tin học trong quản lý, giảng dạy, khai thác tối ưu các hệ thống thiết bị máy
tính, các phương tiện thông tin hiện đại, luôn lấy nhiệm vụ đào tạo nhân lực chuyên
môn làm trọng tâm, phát huy đầy đủ tài năng và trí tuệ của GV và HSSV.
Để nâng cao hiệu quả của Tin học trong nhà trường, sử dụng tốt đội ngũ cán bộ
Tin học hiện có, khai thác hết công suất, tính năng, tác dụng của hệ thống thiết bị
máy tính trong nhà trường vào giảng dạy và nghiên cứu khoa học, nhà trường cần
cải tiến phương thức đào tạo, đề ra các giải pháp quản lý trong việc tổ chức ứng
dụng CNTT một cách cụ thể, đáp ứng được yêu cầu của Chiến lược phát triển giáo
dục trong thời gian tới đó là: “Phổ cập kiến thức Tin học cơ sở trong nhà trường,
đặc biệt chú trọng khả năng truy cập và xử lí thông tin trên mạng”, từ đó “Đảm
bảo cho HSSV sau khi tốt nghiệp sử dụng tốt máy tính để thu thập và xử lí thông
tin, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế”.

Kết luận chương 1
Phần trên đã làm sáng tỏ những khái niệm, những vấn đề lý luận liên quan tới
QL đào tạo, đổi mới PP giảng dạy và ứng dụng CNTT trong QL nói chung, ứng
dụng CNTT trong QL nhà trường nói riêng. Nó là căn cứ quan trọng để xem xét,

phân tích và đánh giá thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường, đề xuất giải


24
phát tăng cường ứng dụng CNTT. Mục đích chính là nâng cao chất lượng đào tạo
trong nhà trường.
Để việc ứng dụng CNTT vào quản lý nhà trường được tốt cần quan tâm chú ý tới
các hoạt động; lựa chọn, khai thác sử dụng phần mềm quản lý; xây dựng mạng cục
bộ, kết nối Internet; xây dựng các cơ sở dữ liệu; xây dựng hệ thống thông tin quản
lý với cơ chế vận hành phù hợp.
Việc ứng dụng CNTT trong QL nhà trường thành công còn có các yếu tố đảm
bảo như cơ sở vật chất kỹ thuật tin học; nguồn nhân lực; nhận thức vấn đề nội dung
QL có ứng dụng CNTT; sự vận động sáng tạo của nhà QL.
Ứng dụng CNTT phải phù hợp với điều kiện hiện tại, đầu tư có chọn lọc hợp với
quy trình QL trường TCCN đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc và quy trình
ứng dụng CNTT. Với những giải pháp tăng cường ứng dụng CNTT thích hợp nhà
QL sẽ nâng cao được chất lượng, hiệu quả QL.


25
Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐÀO TẠO VÀ ĐỔI MỚI PP GIẢNG DẠY Ở
TRƯỜNG TRUNG CẤP THƯƠNG MẠI TRUNG ƯƠNG V
2.1 Khái quát về tình hình giáo dục chuyên nghiệp khu vực Trường đóng
Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V - trực thuộc Bộ Công Thương,
hiện đóng trên địa bàn phường Đông Vệ, Thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá,
được thành lập từ năm 1962 . Hiện nay lưu lượng học sinh đào tạo tại cơ sở chính
của trường là gần 3000 học sinh/năm và dự kiến đến năm 2015 là 4000 học
sinh/năm. Với bề dày 48 năm kinh nghiệm, nhà trường đã được nhân dân trong khu

vực đánh giá cao sự đóng góp của Trường trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho
ngành và xã hội.
Thanh Hóa là một trong những tỉnh lớn của cả nước với diện tích tự nhiên:
11.106km2 và dân số gần 3,8tr người. Toàn tỉnh có 1 Thành phố, 2 Thị xã và 24
huyện.
Về giáo dục chuyên nghiệp: trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện có:
- 2 Trường Đại học: Đại học Hồng Đức và Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí
Minh (Cơ sở tại Thanh Hóa);
- 4 Trường Cao đẳng: Cao đẳng Y tế; Cao đẳng Thể dục thể thao; Cao đẳng
Văn hóa nghệ thuật; Cao đẳng Tài nguyên và môi trường miền Trung;
- 10 Trường TC chuyên nghiệp: Trung cấp Thương mại Trung ương V; Trung
cấp Thủy sản; Trung cấp Nông lâm; Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa; Trung cấp
Văn hiến; Trung cấp Xây dựng; Trung cấp Bách Nghệ; Trung cấp Đức Thiện;
Trung cấp Vitsco; Trung cấp Y dược Hợp Lực; Trung cấp tư thục Lam Sơn.

2.2 Thực trạng của Trường Trung cấp Thương mại Trung ương V
2.2.1 Chức năng, nhiệm vụ của trường hiện nay
Căn cứ Quyết định số: 97 NT/QĐ1 của Bộ Nội thương, ngày 29 tháng 08 năm
1978 và Quyết định số: 1101 TN/QĐ1 ngày 24 tháng 11 năm 1990 của Bộ Thương


×