Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Nghiên cứu dạy học một số kiến thức chương điện học lớp 9 trung học cơ sở theo tinh thần dạy học dự án (PBL) luận văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.39 MB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN KIM ĐÀO

NGHIÊN CỨU DẠY HỌC MỘT SỐ KIẾN THỨC
CHƯƠNG “ĐIỆN HỌC” VẬT LÝ 9 THCS THEO TINH
THẦN DẠY HỌC DỰ ÁN (PBL)

LUẬN VĂN THẠC SỸ VẬT LÝ

NGHỆ AN, 12/2012

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày nay trong thời kỳ phát triển nền kinh tế tri thức với
những bước tiến dài của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của kiến thức ngày
nay được thể hiện ở ba khía cạnh sau: giá trị thông tin không dài, số lượng
thông tin kiến thức tăng rất nhanh, nội dung thông tin tri thức rất đa dạng và
phức tạp. Do đó, với xu thế của xã hội, ngày nay dạy học không còn đơn
thuần là dạy chữ (dạy những tri thức con người đã biết) mà dạy học ngày
nay chú trọng hơn đến việc dạy học sinh có khả năng tự học, tự tìm tòi
những tri thức mới. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XI đề ra “ Đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục và đào tạo”.
Theo tinh thần đó giáo dục phổ thông của nước ta đang trong quá
trình đổi mới toàn diện như mục tiêu giáo dục, nội dung chương trình, sách
giáo khoa, phương pháp kiểm tra đánh giá, đặc biệt là đổi mới phương pháp
dạy và học đổi mới từ phương pháp dạy học truyển thống truyền thụ một


chiều người dạy là trung tâm chuyển sang người học là trung tâm bằng
phương pháp dạy học gợi mở tạo điều kiện cho người học chủ động học tập
với thái độ tích cực để chiếm lĩnh kiến thức. Trong đó đổi mới phương pháp
và hình thức dạy học là hiện thực hoá đổi mới các yếu tố khác của quá trình
dạy học.
Theo đó, các phương pháp và hình thức dạy học tiên tiến trên thế giới
được nghiên cứu và áp dụng trong đó dạy học trên dự án ( Project bassed
learning, kí hiệu PBL). Dạy học dự án định hướng hoạt động của học sinh,
định hướng thực tiễn, định hướng sản phẩm, định hướng ứng dụng công
nghệ thông tin.
Sử dụng phương pháp dạy học theo dự án thích hợp với từng đối
tượng học sinh ở bậc THCS không chỉ đơn thuần là học sinh tự chiếm lĩnh
kiến thức mà qua phương pháp này các em có nhiều kỹ năng như làm việc
nhóm, kỹ năng trình bày, giải quyết một vấn đề, ứng dụng CNTT, đưa kiến
2


thức đã chiếm lĩnh được vào thực tế cuộc sống,... Một trong những phương
pháp dạy học theo quan điểm lấy học sinh làm trung tâm, tăng cương khả
năng tự chiếm lĩnh kiến thức, phát triển tư duy bậc cao cho học sinh nhưng
người giáo viên vẫn có vai trò chủ đạo quan trọng mà ngành giáo dục đang
rất quan tâm đó là phương pháp dạy học dựa trên dự án (PBL). Phương pháp
PBL có ưu điểm chủ yếu là:
Dạy học dự án thể hiện được ưu điểm lấy người học là trung tâm,
nâng cao tính tự lực trong việc chiếm lĩnh tri thức theo mục tiêu của bài học.
Điểm thứ hai dễ thấy hơn là mỗi cá nhân người học còn có được kỹ
năng tư duy bậc cao, năng lực sáng tạo, làm việc nhóm, giải quyết được các
vấn đề trong cuộc sống.
Dạy học theo tinh thần PBL là sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành
để tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu, ứng dụng trong cuộc sống dẫn đến

sự hứng thú, yêu thích học môn Vật lý hơn.
Rèn luyện năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp, rèn luyện tính
bền bỉ, kiên nhẫn, rèn luyện năng lực cộng tác làm việc, phát triển được
năng lực đánh giá.
Một số kiến thức trong chương “ Điện học " vật lý 9 phù hợp trong
việc vận dụng phương pháp PBL vì nó có nhiều thuận lợi về nội dung và
phương tiện dạy học như có thể tổng hợp kiến thức cả chương, áp dụng
phương tiện hiện đại, tính thực tiễn cao, gần gũi với cuộc sống, hấp dẫn đối
với học sinh.
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, tôi chọn đề tài: Nghiên
cứu dạy học một số kiến thức chương "Điện học" Vật lý 9 THCS theo
tinh thần dạy học dự án (PBL).
2.

Mục đích nghiên cứu
Thiết kế kế hoạch dạy học một số kiến thức chương “Điện học” lớp 9

Trung học cơ sở theo tinh thần Dạy học dự án (PBL) nhằm hiện thực hóa
hướng dạy học tập trung vào người học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học.

3


3.

Đối tượng nghiên cứu
Lý thuyết Dạy học theo dự án
Quá trình dạy học Vật lý THCS.

4.


Phạm vi nghiên cứu
Chương “Điện học” lớp 9.

5.

Giả thuyết khoa học
Nếu tổ chức dạy học một số kiến thức của chương “ Điện học” lớp 9

Trung học cơ sở theo tinh thần Dạy học dự án thành công thì sẽ rèn luyện kỹ
năng tư duy: phân tích, tổng hợp, đánh giá, kỹ năng làm việc nhóm, kích
thích hứng thú của học sinh, ý thức vận dụng vào thực tiễn. Từ đó góp phần
nâng cao chất lượng dạy học vật lý trong trường trung học cơ sở.
6.

Nhiệm vụ nghiên cứu

6.1.

Tìm hiểu cơ sở lý luận về Dạy học dự án (PBL)

6.2.

Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến

thức kỹ năng một số kiến thức chương “Điện học” vật lí 9 THCS nhằm
tạo cơ sở để xây dựng kế hoạch dạy học theo tinh thần PBL.
6.3.

Nghiên cứu thực trạng nhận thức PBL và sử dụng PBL, vấn đề quan


tâm bồi dưỡng kỹ năng tư duy bậc cao trong dạy học Vật lý ở một số
trường THCS thuộc địa bàn quận Bình Tân, TPHCM
6.4.

Chuẩn bị điều kiện cần thiết dạy học theo tinh thần Dạy học dự án (Cơ

sở vật chất, trang thiết bị, thông tin tư liệu)
6.5.

Xây dựng hồ sơ dạy học dự án một số kiến thức chương “Điện học”

lớp 9.
6.6.

Thực nghiệm sư phạm ở trường THCS Bình Trị Đông A quận Bình

Tân, thành phố Hồ Chí Minh nhằm xác định, đánh giá mức độ phù hợp,
tính khả thi và hiệu quả của từng tiến trình đã đề xuất.
7.

Phương pháp nghiên cứu

7.1.

Phương pháp nghiên cứu lí luận

4



Đọc và tìm hiểu các tài liệu, sách, internet về những vấn đề liên quan
đến việc giải quyết các nhiệm vụ đã đề ra trong luận văn
7.2.

Phương pháp điều tra
Điều tra phiếu tìm hiểu thực trạng việc dạy và học chương “Điện học”

vật lí 9 nhằm có cái nhìn sơ bộ về thực tế dạy học chương “Điện học” ở
trường THCS.
Phỏng vấn trực tiếp.
Quan sát, dự giờ.
7.3.

Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm tại một số trường THCS tại quận Bình Tân,

TPHCM.
7.4.

Phương pháp xử lý số liệu
Từ kết quả thực nghiệm sư phạm, vận dụng thống kê toán học để xử

lý số liệu đưa ra đánh giá, nhận xét.
8. Đóng góp của đề tài
Về lý luận : Hiện thực hóa dạy học theo tinh thần (PBL) Dạy học theo
dự án trong môn vật lí ở THCS.
Về thực tiễn : Xây dựng hồ sơ dạy học theo tinh thần PBL chương
“Điện học” lớp 9. Gồm 2 dự án
Dự án 1: “ Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện năng”
Qua dự án này học sinh sẽ tự chiếm lĩnh được kiến thức bài “ Sử dụng

an toàn và tiết kiệm điện năng” của Vật lí lớp 9.
Dự án 2: “ Thành phố sử dụng năng lượng mặt trời”
Qua dự án này học sinh sẽ vận dụng kỹ năng mắc các mạch điện một
chiều trong chương trình đã học. Ngoài ra cò giáo dục cho học sinh về việc sử
dụng năng lượng tiết kiệm và năng lương sạch chống ô nhiễm môi trường.
9. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở về lý luận về dạy học dựa trên dự án (PBL)
Khái niệm chung về dạy học dựa trên dự án

5


Khái niệm về dạy học dự án (PBL).
Vai trò của PBL trong việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học Vật lý ở trường phổ
thông.
Nội dung của PBL.
Bản chất, đặc điểm của PBL.
So sánh phương pháp dạy học dựa trên dự án với các phương pháp dạy học truyền
thống (theo hướng tích cực).
Các giai đoạn của dạy học dựa trên dự án.
Hồ sơ bài dạy trong PBL.
Tình hình sử dụng PBL trong dạy học.
Trên thế giới
Ở Việt Nam
Ở TPHCM
Chương 2. Xây dựng kế hoạch dạy học một số kiến thức phần “Điện Học”
Vật lý 9 THCS theo tinh thần dạy học dự án
2.1. Ý tưởng sư phạm về vận dụng PBL cho một số kiến thức phần "Điện
học " Vật lý 9 THCS.

2.1.1. Vị trí, đặc điểm của chương.
2.1.2. Mục tiêu dạy học của chương.
2.1.3. Cấu trúc lô – gíc của chương.
2.1.4. Thiết kế ý tưởng dự án từ mục tiêu, nội dung dạy học
của chương.
2.2. Xây dựng kế hoạch dạy học một số kiến thức chương “Điện học”
theo tinh thần PBL
2.2.1. Xây dựng bộ câu hỏi định hướng.
2.2.2. Thiết kế nhóm. Giao nhiệm vụ. Triển khai kế hoạch.
2.2.3. Hồ sơ đánh giá, tự đánh giá.
2.2.4. Tài liệu.

6


2.2.5. Kế hoạch kiểm tra, hướng dẫn hỗ trợ thực hiện dự án.
2.2.6. Nghiệm thu dự án. Đánh giá và tự đánh giá. Hợp thức
hoá kiến thức kỹ năng mới.
CHƯƠNG 3. Thực nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích thực nghiệm
3.2.

Đối tương thực nghiệm

3.3.

Nhiệm vụ thực nghiệm

3.4.


Tiến hành thực nghiệm

3.5.

Nội dung thực nghiệm

3.6.

Kết quả thực nghiệm

Phần kết luận chung của luận văn
Phụ lục

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DẠY HỌC DỰ ÁN (PBL)
1.1. Khái niệm chung về dạy học dự án (PBL)
1.1.1 Khái niệm dạy học dự án [10],[25]
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá
trình dạy học và luôn là trung tâm chú ý của các nhà giáo dục các nước. Thuật ngữ
dự án, tiếng Anh là “Project”, có nguồn gổc từ tiếng La tinh và ngày nay được hiểu
theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch, trong đó nó cần
được thực hiện nhằm đạt mục đích đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng phổ biến
trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội: trong sản xuất, doanh nghiệp, trong
nghiên cứu khoa học cũng như trong quản lý xã hội,....
Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế, xã hội vào lĩnh vực giáo dục và
đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được sử
dụng như một phương pháp hay hình thức dạy học. Có nhiều quan niệm và định

nghĩa khác nhau về dạy học theo tinh thần dự án (PBL). PBL là chữ viết tắt bằng
tiếng Anh của thuật ngữ Project based learning, nghĩa là dạy học dựa trên dự án.
PBL được nhiều tác giả coi là một hình thức dạy học vì khi thực hiện một dự án,
có nhiều PPDH cụ thể được sử dụng. Tuy nhiên khi không phân biệt giữa hình
thức và PPDH, người ta cũng gọi là phương pháp dự án, khi đó cần hiểu đó là
PPDH theo nghĩa rộng, một PPDH phức hợp.
PBL là một mô hình dạy học trong đó học sinh tham gia vào việc tìm hiểu
những vấn đề hấp dẫn và cuối cùng phải tạo ra được những sản phẩm thực tế. Các
dự án cho phép tạo ra nhiều cơ hội học tập hơn, rất đa dạng về chủ đề và quy mô,
có thể được tổ chức rộng rãi ở các cấp học. Dự án được phát triển từ những vấn đề
mang tính thách thức, không thể giải quyết chỉ bằng kiến thức học vẹt. Nó đặt học
sinh vào những vai trò tích cực như người giải quyết vấn đề, ra quyết định, điều tra
viên hay người viết báo cáo. Dự án nhắm đến những mục tiêu giáo dục quan trọng
và đặc thù chứ không phải là trò giải trí hoặc bổ sung cho chương trình "thực".
Học theo dự án ( Project Learning) hay còn gọi là học dựa trên dự án
(Project based learning) là một hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho học sinh
tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng một cách sáng tạo nó vào
thực tế cuộc sống, đồng thời còn nghiên cứu vấn đề thông qua việc kết nối các
8


thông tin, phối họp nhiều kỹ năng nhằm xây dựng kiến thức, phát triển tư duy và
thái độ học tập suốt đời. Quá trình học theo dự án giúp học sinh cũng cổ kiển thức
và xây dựng các kỹ năng hợp tác, giao tiếp và học tập độc lập, chuẩn bị hành trang
cho các em trong sự nghiệp học tập suốt đời và đối mặt với các thử thách trong
cuộc sổng. Các chủ đề trong dạy học theo dự án chủ yếu liên quan đến việc học và
đời sống hằng ngày của học sinh, có thể nằm trong các môn học tích hợp hoặc nằm
ngoài chương trình.
Vậy dạy học dự án (PBL) là một hình thức dạy học, trong đó người học thực
hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành,

tạo ra các sản phẩm có thế giới thiệu. Nhiệm vụ này được học sinh thực hiện với
tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế
họach, đến việc thực hiện dự án, kiếm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả
thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của PBL.
l.l.2 Vai trò của PBL trong việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học Vật lý ở
trường phổ thông [13]
Dạy học theo tinh thần dạy học dự án PBL có vai trò rất quan trọng trong
việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học Vật lý ở trường phổ thông vì nó giúp phát
triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những nhiệm vụ mang tính mở,
khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hoá những kiến thức đã học trong quá
trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình, bồi dưỡng các kỹ năng
tư duy bậc cao. Chương trình dạy học dự án được xây dựng dựa trên những câu hỏi
định hướng quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung trong những bối cảnh thực
tế.
Đối với nhiêm vụ giáo dưỡng: Dạy học theo dạy học dự án (PBL) ngoài việc
HS đạt được các mục tiêu kiến thức, kỹ năng Vật lý, còn đạt được các chuẩn kiến
thức do được GV định hướng bằng bộ câu hỏi khung định hướng. Chất lượng kiến
thức các em có được không phải học vẹt mà do tự chiếm lĩnh được nên các em nhớ
rất lâu và hiểu được sâu. Ngoài những thuận lợi vừa nêu vẫn còn một số khó khăn
như phương tiện dạy học hiện đại chưa đáp ứng, trình độ ứng dụng CNTT của GV
và HS còn thấp, một số học sinh chưa có thái độ học tập đúng đắn,...
Đối với nhiệm vụ bồi dưỡng các kỹ năng tư duy bậc cao cho HS: Dạy học
theo PBL giúp phát triển kiến thức và các kỹ năng liên quan thông qua những
9


nhiệm vụ mang tính mở, khuyến khích học sinh tìm tòi, hiện thực hoá những kiến
thức đã học trong quá trình thực hiện và tạo ra những sản phẩm của chính mình.
Chương trình dạy học theo PBL được xây dựng dựa trên bộ câu hỏi định hướng
quan trọng, lồng ghép các chuẩn nội dung và tư duy bậc cao trong những bối cảnh

thực tế.
Bài học thiết kế theo PBL chứa đựng nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau, có
thể lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh không phụ thuộc vào cách học của họ.
Thông thường học sinh sẽ được làm việc với các chuyên gia và những thành viên
trong cộng đồng để giải quyết vấn đề, hiểu sâu nội dung hơn. Các phương tiện kỹ
thuật cũng được sử dụng để hỗ trợ việc học.
Trong quá trình thực hiện dự án có thể vận dụng nhiều cách đánh giá khác
nhau để giúp học sinh tạo ra những sản phẩm có chất lượng.Với các chuẩn về nội
dung và đánh giá trong quá trình dạy học, giáo viên có thể áp dụng cách tiếp cận
dự án để lôi cuốn học sinh làm việc thật sự, để phát triển những kỹ năng của thế kỷ
21 như cộng tác, giải quyết vấn đề thực tế và tư duy phê phán, kỹ năng sống. Nếu
được thiết kế tốt thì tiến trình dạy học theo PBL có thể đem lại chất lượng học tập
rất cao đối với học sinh, đồng thời giúp cho giáo viên có thêm những kinh nghiệm
bổ ích.
Vậy trong suốt quá trình thực hiện PBL, cả GV lẫn HS có những vai trò rất
quan trọng: GV là người hướng dẫn, tham vấn chứ không phải là người " cầm tay
chỉ việc" cho HS; HS tự trình bày kiến thức mà họ đã tích lũy thông qua dự án và
được đánh giá dựa trên những gì chiếm lĩnh được. HS quyết định cách tiếp cận vấn
đề và các hoạt động cần phải tiến hành để giải quyết vấn đề, là người thu thập dữ
liệu rồi tổng hợp, phân tích và tích lũy kiến thức từ quá trình làm việc của mình.
Đồng thời các vấn đề mà HS giải quyết là vấn đề có thật trong đời sống, việc giải
quyết đòi hỏi phải có kỹ năng cộng tác, diễn giải, suy luận,...
1.2. Nội dung dạy học dự án
1.2.1 Cấu trúc của PBL
Cấu trúc của PBL được mô tả theo nhiều cách khác nhau. Theo Frey [6], cấu
trúc của PBL như sau:

10



Kết thúc theo dự án

Sơ đồ 1.1
- Xác định mục tiêu dự án (xuất phát từ mục tiêu bài học).
- Thiết kế ý tưởng của dự án.
- Xây dựng bộ câu hỏi khung.
- Lập kế hoạch thực hiện dự án.
- Thực hiện dự án (Triển khai kế hoạch thực hiện đến HS, đánh giá sơ bộ tiến
trình dự án, báo cáo sản phẩm).
- Đánh giá dự án, giáo viên hợp thức hóa kiến thức và kỹ năng mới cho học
Hình thành ý tưởng dự án
sinh.
Hình thành lại ý
tưởng

1.2.2 Tiến trình thực hiện PBL [30]
Phân tích ý tưởng dự án
( Kếttheo
quả làPBL,
dự thảo
đề án)
Dựa trên cấu trúc của dạy học
người
ta có thể chia tiến trình dạy
Không khả thi
11
Lập kế hoạch dự án


Không khả thi

Thực hiện dự án

thúcSau
dự án
học theo PBL làm nhiều giai đoạn nhỏKết
hơn.
đây là một cách chia tiến trình dạy

học theo PBL thành
5 giai
Không
đạt đoạn.
Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án:

Có thể phát
triển

Kết thúc theo dự án

GV và HS cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án, cần tạo
một tình huống xuất phát chứa đựng một vấn đề hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải
quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống,
cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài.
GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học sinh lựa chọn và cụ thể hoá.
Đôi khi sáng kiến về việc xác định đề tài lại xuất phát từ phía HS. Giai đoạn này
được K.Frey mô tả thành hai giai đoạn là đề xuất sáng kiến và thảo luận sáng kiến.
Xây dựng kế hoạch thực hiện:
Giai đoạn này HS với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương cũng như
kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Khi xây dựng kế hoạch cần xác định những
công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương tiện hỗ trợ, phương

pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm.
Thực hiện dự án:
Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá
nhân. Lúc này các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn, thực hành,...được bộc
lộ và được tác động xen kẽ qua lại lẫn nhau. Kiến thức lý thuyết, các phương án
giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. Trong quá trình này sản phẩm
của dự án và thông tin mới được tạo ra.
Trình bày sản phẩm dự án :
Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, luận
văn... Trong nhiều dự án các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động thực
hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng hạn
việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã
hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm học sinh, có thể
được giới thiệu trong nhà trường, hay ngoài xã hội.
Đánh giá dự án:
GV và HS đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt
được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. Kết
quả của dự án cũng có thể được đánh giá từ bên ngoài. GV lượng hoá kiến thức, kỹ
12


năng mới.
Hai giai đoạn cuối này có thể mô tả chung thành giai đoạn kết thúc dự án.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Quá trình tự
kiểm tra, điều chỉnh cần được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án.
1.2.3 Các dạng của PBL[27]
PBL có thể được phân loại theo nhiều phương diện khác nhau. Sau đây là
một số cách phân loại dạy học theo dự án
Phân loại theo chuyên môn:
Dự án trong một môn học với trọng tâm nội dung nằm trong một môn học.

Dự án liên môn thì trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau.
Dự án ngoài chuyên môn là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các
môn học như dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường.
Phân loại theo sự tham gia của người học:
Dự án cho nhóm HS, dự án cá nhân. Dự án dành cho nhóm HS là hình thức
dự án dạy học chủ yếu. Trong trường phổ thông còn có dự án toàn trường, dự án
dành cho một khối lớp, dự án cho một lớp học.
Phân loại theo sự tham gia của GV:
Như dự án dưới sự hướng dẫn của một GV, dự án với sự cộng tác hướng dẫn
của nhiêu GV.
Phân loại theo quỹ thời gian: (theo K.Frey phân chia)
Dự án nhỏ là dự án thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học.
Dự án trung hình là dự án thực hiện trong một hoặc một số ngày, tối đa là 40
giờ học.
Dự án lớn là dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn (vài tuần), tối thiểu là một
tuần.
Cách phân chia theo thời gian này thường áp dụng ở trường phổ thông
Phân loại theo nhiệm vụ:
Dự án tìm hiểu là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.
Dự án nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá
trình.
Dự án thực hành là dự án kiến tạo sản phẩm, trọng tâm là việc tạo ra các sản
phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn, nhằm thực hiện
13


những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.
Dự án hỗn hợp là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên.
Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Trong từng lĩnh vực
chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng.

1.2.4 Lập kế hoạch dự án[27]
Dạy học theo PBL đòi hỏi có sự chuẩn bị và lên kế hoạch chu đáo thì khi HS
thực hiện dự án mới đạt được mục tiêu đề ra và tạo ra sản phẩm tốt.
Để thành công giáo viên phải phác họa các dự án cụ thể trong đầu. Nếu
không bám sát vào mục tiêu dạy học, mục đích của dự án sẽ mơ hồ và kết quả học
tập mong đợi từ phía học sinh có thể bị hiểu sai lệch. Khi thiết kế dự án, điều quan
trọng là phải chắc chắn rằng việc lập kế hoạch hành động sẽ giúp cho học sinh
nhận diện được mục tiêu học tập dự kiến. Bằng việc điểm lại mục đích, mục tiêu
và chuẩn của chương trình, giáo viên sẽ lựa chọn các bài học ưu tiên trong chương
trình.
Về cơ bản, khâu lập kế hoạch dự án bao gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu học tập cụ thể bằng cách sử dụng các chuẩn nội
dung và những kĩ năng tư duy bậc cao mong muốn đạt được.
Bước 2: Xây dựng bộ câu hỏi định hướng.
Bước 3: Lập kế hoạch đánh giá.
Bước 4: Thiết kế các hoạt động.
Tiến trình 4 bước thực hiện đơn giản này có thể khiến các thầy cô nhầm lẫn nhưng
thiết kê dự án không phải là đường thẳng mà là một vòng xoáy trôn ốc để đảm bảo
đi đúng hướng. Bộ câu hỏi định hướng và kế hoạch thực hiện dự án nên được tiến
hành cùng nhau nhằm hỗ trợ cho việc đạt mục đích dạy học và những chuẩn trọng
tâm của bài học. Trong suốt tiến trình thực hiện dự án nên tạo nhiều cơ hội để HS
được đánh giá và tự đánh giá, cũng như kiểm tra sự tiến bộ của học sinh qua từng
giai đoạn.
1.3. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIẺM CỦA PBL
1.3.1 Bản chất của PBL[19,34]
PBL được xây dựng trên cơ sở các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý
và các nhà giáo dục như Lev Vygotsky, Jerome Bruner, Jean Pieget và John
Dewey.
14



PBL là một loại phương pháp đặc biệt xoay quanh một vấn đề. Nhiệm vụ
không chỉ là giải quyết hoặc lựa chọn vấn đề, mà còn chỉ ra được những khả năng
có thể liên quan cơ bản nhất đến vấn đề được đưa ra trong đời thực. Mỗi dự án đều
mang tính độc đáo và liên tục, vì các vấn đề không phải trừu tượng mà chúng xuất
phát từ thực tế.
PBL dựa trên sự tham gia tích cực của người học trong việc giải quyết vấn
đề và tư duy có phê phán về những hoạt động học tập có liên quan. Yêu cầu ban
đầu đặt ra là người học phải kiểm soát được việc học của mình và tìm ra những
thông tin có ý nghĩa từ những nguồn kiến thức phong phú.
Thông qua PBL, HS có thể học cách tư duy thông qua hoạt động tư duy,
tranh luận và bằng cách giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tế. Quá trình này
cho phép lớp học trở thành môi trường, trong đó HS là trung tâm. Điều quan trọng
của PBL là kinh nghiệm thu được trong quá trình thực hiện, chứ không phải là kết
quả cuối cùng.
Về mặt tư duy HS tự chiếm lĩnh kiến thức một cách sáng tạo bằng nhiều con
đường.
Mối quan hệ giữa dạy và học (thầy và trò) là mối quan hệ hai chiều có tính
phản hồi cao. GV là người tham vấn, hướng dẫn còn HS là trung tâm của quá trình
dạy học, có quyền quyết định kế hoạch thực hiện, được quyền tự đánh giá và đánh
giá lẫn nhau cũng như có quyền góp ý và đề nghị đối với GV hướng dẫn.
Tạo mối quan hệ mật thiết giữa lý thuyết và thực hành, nhà trường và xã hội,
tăng tính đoàn kết trong hợp tác nhóm vì quá trình dạy học theo PBL có tính liên
môn. Đồng thời sản phẩm tạo ra rất phong phú.
Các phương tiện dạy học hiện đại là điều kiện không thể thiếu trong quá trình
thực hiện dự án nhằm hỗ trợ rất nhiều cho việc tìm kiếm thông tin và tạo sản phẩm
học tập.
1.3.2 Mục tiêu của PBL
Hướng tới các vấn đề của thực tiễn, gắn kết nội dung học với cuộc sổng
thực.

Phát triển cho HS kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề ; kĩ năng tư duy
bậc cao (phân tích, tổng họp, đánh giá).
Rèn luyện nhiều kĩ năng (tổ chức kiến thức, kĩ năng sống, kĩ làm việc theo
15


nhóm, giao tiếp...).
Cho phép HS làm việc một cách độc lập để hình thành kiến thức và cho ra
những kết quả thực tế, làm cho nhiệm vụ học tập đến với mọi HS.
Tạo cơ hội phát huy nhiều phong cách học tập, phát triển tính đa dạng của
nhân cách ở HS.
Nâng cao kĩ năng sử dụng CNTT vào quá trình học tập và tạo ra sản phẩm
1.3.3 Đặc điểm của PBL[28]
Có nhiều đặc điểm về PBL được đưa ra trong các tài liệu khác nhau. Đầu
thế kỷ 20 khi xác lập cơ sở lý thuyết cho PBL, các nhà sư phạm Mỹ (Woodward;
Richard; J.Dewey; W.Kilpatrick) đã nêu ra 3 đặc điểm cốt lõi của PBL là: định
hướng HS, định hướng thực tiễn và định hướng sản phẩm. Trong giai đoạn hiện
nay, có thể cụ thể hoá các đặc điểm của PBL thành tám đặc điểm như sau:
Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống
của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm
vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của
người học.
Có nghĩa thực tiễn xã hội: Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội,
góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong
những trường hợp lý tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác
động xã hội tích cực.
Mang tính phức hợp, liên môn: PBL yêu cầu HS sử dụng thông tin, kết hợp
tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề
mang tính phức hợp.
Định hướng học sinh (tập trung vào HS)

Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung
học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của HS
cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
Định hướng hành động HS: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp
giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dung lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn,
thực hành. Thông qua đó kiểm tra, củng cố và mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng
như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
Tính tự lực của người học: Trong PBL, HS tham gia tích cực và tự lực vào
16


các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó đã thể hiện tính trách nhiệm, sự sáng
tạo của HS. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên mức
độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của HS và mức độ khó khăn của
nhiệm vụ.
HS làm việc nhóm: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm,
trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên
trong nhóm. PBL đòi hỏi và phải rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng công tác làm
việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã
hội khác cùng tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang
tính xã hội.
Định hướng sản phẩm:
Trong quá trình thực hiện dự án sản phẩm được tạo ra. Sản phẩm của dự án
không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết mà còn là sản phẩm vật chất từ
hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thê sử dụng, công bố,
giới thiệu.
Định hướng sử dụng CNTT:
HS sử dụng máy vi tính mạng internet để thu thập thông tin, xử lý thông tin
và tạo ra các sản phẩm lý thuyết có thể trình chiếu, in ấn và trao đổi.
Mặc dù CNTT không phải là vấn đề cốt yếu đối với các hoạt động dự án

nhưng nó có thể nâng cao kinh nghiệm học tập và đem lại cho HS cơ hội để hòa
nhập với thế giới bên ngoài. Thông qua CNTT, HS tìm thấy các nguồn tài nguyên
và tạo ra sản phẩmỗ Các kĩ năng sử dụng CNTT ở HS được hình thành và phát
triển từ chính quá trình triển khai thực hiện các dự án.
1.3.4 Các đặc điểm của bài học thiết kế theo PBL có hiệu quả[28]
Một dự án được coi là hiệu quả khi nó đạt được sự cân bằng giữa khả năng
thực hiện của học sinh với ý đồ thiết kế của giáo viên, chỉ rõ những công việc học
sinh cần làm. Những đặc điểm dưới đây sẽ giúp nhận diện rõ thế nào là bài học
theo PBL hiệu quả.
Học sinh là trung tâm của quá trình dạy học
Bài học theo dự án được thiết kế cẩn thận, lôi cuốn HS vào những nhiệm vụ
mở và có tính thực tiễn cao. Các nhiệm vụ của dự án kích thích khả năng ra quyết
định, niềm cảm hứng, say mê của HS trong quá trình thực hiện và tạo ra sản phẩm
17


cuối cùng. HS lĩnh hội kiến thức bài học thông qua việc tìm hiểu và tự quyết định
mức độ hoàn thành các nhiệm vụ của dự án. GV giữ vai trò người hỗ trợ hay
hướng dẫn. HS hợp tác làm việc với nhau trong các nhóm, phát huy tối đa năng
lực cá nhân khi đảm nhận những vai trò khác nhau.
Dự án tập trung vào những mục tiêu học tập quan trọng gắn với các chuẩn
Những dự án tốt được phát triển dựa trên những nội dung cốt lõi của
chương trình đáp ứng các chuẩn quốc gia và địa phương. Dự án có các mục tiêu rõ
ràng gắn với các chuẩn và tập trung vào những hiểu biết của HS sau quá trình học.
Từ việc định hướng vào mục tiêu, GV sẽ chọn lựa hình thức dạy học phù hợp, lập
kế hoạch đánh giá và tổ chức các hoạt động dạy và học. Kết quả của dự án được
thể hiện kết tinh trong sản phẩm của HS và quá trình thực hiện nhiệm vụ, ví dụ
phần thuyết trình đầy thuyết phục hay ấn phẩm thông tin thể hiện sự lĩnh hội các
chuẩn nội dung và mục tiêu dạy học.
Dự án được định hướng theo bộ câu hỏi khung chương trình.

Câu hỏi khung chương trình sẽ giúp các dự án tập trung vào những hoạt
động dạy học trọng tâm. HS được giới thiệu về dự án thông qua các câu hỏi gợi
mở những ý tưởng lớn, xuyên suốt và có tính liên môn. HS sẽ buộc phải tư duy
sâu hơn về các vấn đề nội dung của môn học theo các chuẩn và mục tiêu.
Dự án đòi hỏi các hình thức đánh giá đa dạng và thường xuyên
Ngay từ khi triển khai dự án, các kết quả dự kiến cần phải được làm rõ và
phải luôn được rà soát nhiều lần để kiểm chúng mức độ lĩnh hội bằng các phương
pháp đánh giá khác nhau. HS sẽ được xem mẫu và hướng dẫn trước để thực hiện
công việc có chất lượng nhất, và phải biết rõ điều gì đang chờ đợi ngay từ khi bắt
đầu dự án. Cần phải tạo cơ hội để rà soát, phản hồi hay điều chỉnh trong suốt quá
trình thực hiện dự án.
Dự án có liên hệ với thực tế, thực tiễn cuộc sống
Dự án phải gắn với đời sống thực tế của HS, có thể mời các chuyên gia
ngoài cùng tham gia để tạo ra những tình huống dạy học. HS có thể thể hiện việc
học của mình trước những đối tượng thực tế, liên hệ với các nguồn lực cộng đồng,
tham khảo các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu, hoặc trao đổi thông qua
công nghệ hiện đại.

18


Học sinh thể hiện sự hiểu biết của mình thông qua sản phẩm hoặc quá trình
thực hiện
Thông thường các dự án được kết thúc với việc HS thể hiện thành quả học
tập của mình thông qua các bài thuyết trình, các văn bản tài liệu, các mô hình dàn
dựng, các đề án hoặc thậm chí là các sự kiện mô phỏng như một hội thảo giả.
Những sản phẩm cuối cùng này giúp HS thể hiện khả năng diễn đạt và làm chủ
quá trình học tập.
Công nghệ hiện đại hỗ trợ và thúc đẩy việc học của học sinh
HS được tiếp cận với nhiều công nghệ khác nhau giúp hỗ trợ phát triển kỹ

năng tư duy, cho ý kiến đánh giá về nội dung và hỗ trợ tạo ra sản phẩm cuối. Với
sự trợ giúp của công nghệ, HS tự chủ hơn với kết quả cuối cùng, có cơ hội “cá
nhân hóa sản phẩm”. HS có thể vươn ra khỏi 4 bức tường lớp học bắng cách cộng
tác với các lớp học từ xa qua email và các trang web tự tạo, hoặc trình bày việc
học của mình qua các chương trình đa phương tiện.
Kỹ năng tư duy là không thể thiếu trong PBL
Làm việc theo dự án sẽ hỗ trợ phát triển cả kỹ năng tư duy nhận thức như
hợp tác, tự giám sát, phân tích dữ liệu, và đánh giá thông tin. Trong suốt quá trình
thực hiện dự án, các câu hỏi khung chương trình sẽ kích thích HS tư duy và liên
hệ với các khái niệm mang ý nghĩa thực tiễn cao.
Chiến lược dạy học đa dạng hỗ trợ cho HS một phong cách học tập đa dạng
Các chiến lược dạy học sẽ tạo ra một môi trường học tập đa dạng hơn, thúc
đẩy tư duy bậc cao hơn. Những chiến lược dạy học sẽ giúp đảm bảo cho HS được
tiếp cận với toàn bộ học liệu của :chương trình, tạo cơ hội thành công cho mỗi HS.
Trong giảng dạy có thể kết hợp các kỹ thuật dạy học hợp tác, làm việc nhóm,
phân nhánh tố chức, nhận xét phản hồi từ GV hoặc từ bạn học.
1.4. Các ưu điểm và khó khăn của PBL
1.4.1 Ưu điểm[28]
Các đặc điểm của PBL đã thể hiện những ưu điểm của phương pháp dạy học
này, cụ thể là
Gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
Kích thích động cơ, gây hứng thú học tập cho người học và phát huy tính tự

19


lực, tính trách nhiệm.
Phát triển khả năng sáng tạo, năng lực đánh giá. Rèn luyện kỹ năng giải
quyết những vấn đề phức hợp, tính bền bỉ, kiên nhẫn, năng lực cộng tác làm việc,...
Ngoài ra, PBL còn mang lại rất nhiều lợi ích cho cả giáo viên lẫn học sinh.

Ngày càng nhiều các nghiên cứu lí luận ủng hộ việc áp dụng PBL trong trường học
để khuyến khích học sinh, giảm thiểu hiện tượng bỏ học, thúc đẩy các kỹ năng học
tập hợp tác và nâng cao hiệu quả học tập (Quỹ Giáo dục George Lucas, 2001).
Đối với hoc sinh: những ích lợi từ PBL là tăng tính chuyên cần, nâng cao
tính tự lực và thái độ học tập (Thomas, 2000). Kiến thức thu được tương đương
hoặc nhiều hơn so với những mô hình dạy học khác do khi được tham gia vào dự
án học sinh sẽ có trách nhiệm hơn trong học tập so với các hoạt động truyền thống
khác trong lớp học (Boaler, 1997; SRI 2000). Có cơ hội phát triển những kỹ năng
phức hợp như tư duy bậc cao, giải quyết vấn đề, hợp tác và giao tiếp (SRI, 2000).
Đồng thời- có được cơ hội rộng mở hơn trong lớp học, tạo ra chiến lược thu hút
những học sinh thuộc các nền văn hóa khác nhau (Railsback, 2002). Với nhiều học
sinh, tính hấp dẫn của hình thức học này xuất phát từ tính thực tiễn của kinh
nghiệm.
Đối với giáo viên: Việc nâng cao tính chuyên nghiệp và sự hợp tác với đông
nghiệp, cơ hội xây dựng các mối quan hệ với học sinh (Thomas, 2000). Đa số giáo
viên cảm thấy hài lòng với việc tìm ra được một mô hình triển khai, cho phép hỗ
trợ các đối tượng học sinh đa dạng bằng việc tạo ra nhiều cơ hội học tập hơn trong
lớp học.
Với giáo viên cũng nhận thấy rằng họ là người được hưởng lợi nhiều nhất từ
PBL vì có sự phản hồi từ phía HS, đồng nghiệp và xã hội. Rõ ràng PBL đã đáp ứng
yêu cầu về đào tạo nhân lực trong thời kỳ hội nhập là học sinh sẽ năng động, tích
cực tự lực trong việc chiếm lĩnh tri thức, ứng dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống
với niềm đam mê hứng thú, đồng thời nâng cao khả năng ứng dụng CNTT cho
giáo viên lẫn học sinh.
1.4.2 Khó khăn khi dạy học theo PBL[27]
PBL không phù hợp trong việc chiếm lĩnh kiến thức lý thuyết có tính trừu
tượng cao cũng như rèn luyện hệ thống kỹ năng cơ bản.
PBL đòi hỏi phải có nhiều thời gian, không thể áp dụng tràn lan. Vì vậy nó
20



không thay thế cho phương pháp thuyết trình và luyện tập mà chỉ là hình thức dạy
học bổ sung cần thiết cho các PPDH truyền thống.
PBL đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp.
Giáo viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng để triển khai dạy học theo PBL, do
đó giáo viên chưa có các biện pháp ứng dụng linh hoạt tùy theo thực tiễn và cơ sở
vật chất ở từng nơi. Đa số giáo viên chưa ứng dụng CNTT tốt để hỗ trợ cho PBL.
Giáo viên nếu muốn đưa PBL vào lớp học có thể phải áp dụng những chiến
lược dạy học mới để đạt được thành công.
Người giáo viên có thể nhận thấy mình cũng đang học cùng với học sinh khi
dự án mở ra. Những thử thách cụ thể giáo viên sẽ gặp phải là nhận diện các tình
huống để đem lại sự thành công cho dự án. cấu trúc các vấn đề thành những cơ hội
học tập và hợp tác cùng đồng nghiệp để phát triển các dự án liên môn. Vấn đề quản
lý tiến trình thực hiện dự án, tích hợp công nghệ hợp lý và phát triển các phương
pháp đánh giá thực tế.
Tóm lại PBL là một hình thức dạy học quan trọng đế thực hiện quan điểm
dạy học hiện đại như định hướng vào người học, định hướng hành động, tích hợp.
PBL góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy với hành động, nhà trường với
xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, sáng tạo, năng
lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác
làm việc của người học.
1.5 So sánh PBL với các phương pháp dạy học truyền thông ( theo hướng tích
cực)[13]
Bảng 1.1 BẢNG SO SÁNH PBL VỚI CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TRUYỀN THỐNG
Dạy học truyền thống
Học là quá trình tiêp thu và lĩnh

Dạy học tích cực
Học là quá trình kiên tạo;


hội, qua đó hình thành kiến thức, HS tìm tòi khám phá, phát
Quan niệm

kĩ năng, tư tưởng, tình cảm,...

hiện, luyện tập, khai thác và
xử lý thông tin,... tự hình
thành hiểu biết, năng lực và

21


phẩm chất.
Truyền thụ tri thức, truyền thụ và
Bản chất

chúng minh chân lí của GV.

Tổ chức hoạt động nhận
thức cho HS. Hướng dẫn HS
cách tìm ra chân lý.

Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ

Chú trọng hình thành các

năng, kĩ xảo. Học để đối phó với năng lực (sáng tạo, hợp tác,..),
thi cử. Sau khi thi xong những kĩ năng tư duy bậc cao, dạy
điều đã học thường bị bỏ quên phương pháp và kỹ thuật lao

động khoa học, dạy cách học.

hoặc ít dùng đến.

Học để đáp ứng các yêu cầu
Mục tiêu

của cuộc sống hiện tại và
tương lai. Những điều đã học
cần thiết, bổ ít cho bản thân
HS và cho sự phát triển của
xã hội.
Người phân xử, người nói, Người huấn luyện, người

Giáo viên

hướng dẫn, chuyên gia, người

chuyên gia.

học.
Thụ động lắng nghe, người
mô phỏng.
Học sinh

Người tham gia tích cực,
xây dựng.

HS thụ động tiếp thu kiến


Học thực hiện với tính tự

thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn lực cao trong quá trình học
tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít tập, từ việc xác định mục
chú ý đến kỹ năng thực hành của đích, lập kế hoạch, đến việc
người học; do đó kỹ năng hành thực hiện dự án, kiểm tra,
dụng vào đời sống thực tế bị hạn điều chỉnh, đánh giá quá trình
chế.

và kết quả thực hiện.

Bị động trong việc ra quyết

Chủ động trong việc ra

định trong khuôn khổ chương quyết định trong khuôn khổ
trình, không biết thiết kế quá chương trình, biết thiết kế quá
trình tìm kiếm giải pháp.

22

trình tìm kiếm giải pháp.


Là những vấn đề (nếu có) nảy Là những vấn đề bắt nguồn từ
“Vẩn đề” bài sinh từ chương trình học, nhiều cuộc sống thực vì thế hấp
khi không hấp dẫn, không thiết dẫn, thiết thực với HS.

học


thực với HS.
Nội dung

Kiến thức riêng của từng môn Kiến thức liên ngành, thực tế.
học, trừu tượng, toàn diện.

Hoạt động

Hoạt động cá nhân.

Hoạt động nhóm.

học tập
Đánh gía

Đánh gía tuyển chọn. Đánh giá Thăm dò, dựa trên dạng bài
một chiều từ phía GV.

tập “thực hiện dự án”. '

Môi trường

Các bước lớn, ít tương tác, ít Các bước nhỏ, nhiều tương

học

nguồn thông tin, nhiều chỉ dẫn.

tác, nhiều thông tin, nhiều chỉ
dẫn.


Phương pháp Tam giác sư phạm: GV, HS và Đa giác sư phạm: GV, bạn
sư phạm

học, nhiệm vụ, phương tiện

nội dung.

truyền thông và kỷ luật và
môi trường.
Hình thức tồ Cố định: giới hạn trong 4 bức Cơ động, linh hoạt: học ở lớp,
chức

tường của lớp học, GV đối diện ở phòng thí nghiệm, ở hiện
trường, trong thực tế ; học cá

với cả lớp.

nhân, học theo nhóm ; cả lớp
đối diện với GV.
1.6. Hồ sơ bài học trong PBL
1.6.1. Bộ câu hỏi định hướng (Bộ câu hỏi khung)[24],[29]
Bộ câu hỏi định hướng là bộ câu hỏi khung định hướng cho dạy học một
nhóm kiến thức thuộc một số bài học. Vai trò chức năng của bộ câu hỏi định
hướng là định hướng HS đạt mục tiêu dự án nhưng có sự hứng thú, làm tăng tính
hấp dẫn và thuyết phục đối với HS đồng thời hướng học sinh đến kỹ năng tổ chức
kiến thức, tự chiếm lĩnh tri thức, tư duy ở mức độ cao như so sánh, tổng hợp, hợp
tác nhóm, ứng dụng kiến thức vào thực tế, đánh giá và tự đánh giá,...

23



1.6.1.1. Cấu trúc bộ câu hỏi định hưóng
Bộ câu hỏi khung chương trình gồm câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học, câu
hỏi nội dung được thiết kế lồng ghép vào nhau. Câu hỏi nội dung hỗ trợ cho câu
hỏi bài học và cho cả câu hỏi khái quát. Câu hỏi khái quát thường hấp dẫn hơn và
được đưa ra trước (mang tính thách thức cao). Các loại câu hỏi này có mối Ịịên hệ
chặt chẽ với nhau.
Câu hỏi khái quát
Là câu hỏi mang tính liên môn, không có câu trả lời chính xác, là loại câu
hỏi mở. Nó là một mục tiêu để HS nghiên cứu suốt dự án, suốt cấp học hay nghiên
cứu suốt đời, là câu hỏi định hướng cho hướng phát triển trong tương lai, là mục
đích, là hoài bảo mà học sinh cần nghiên cứu lâu dài mới trả lời được. Là câu hỏi
khó nhất đối với GV vì nó gần với ý tưởng, khơi gợi niềm đam mê, tính tò mò của
HS.
Câu hỏi khái quát
Có đặc điểm là giới thiệu khái quát đầy đủ những ý tưởng xuyên suốt dự án.
Câu hỏi khái quát là cầu nối giữa các bài, phạm vi môn học, thậm chí cả khóa học
trong một năm. Nó đưa ra nhiều câu trả lời. Đối với câu hỏi loại này, câu trả lời
thường không có trong sách. Chúng thường là những câu hỏi khái quát trong thực
tế thu hút được sự quan tâm của học sinh với yêu cầu tư duy bậc cao. Câu hỏi khái
quát buộc học sinh phải phân tích tư duy, áp dụng những giá trị tri thức và giải
thích bằng những kinh nghiệm của mình.
Câu hỏi bài học (gần giống với câu hỏi giới thiệu vào bài)
Là những câu hỏi được định hình từ việc tổng hợp các nội dung bài học,
nghĩa là từ câu hỏi nội dung ta phát triển thành câu hỏi bài học để các em có thể
hiểu rộng hơn, có khả năng tư duy, suy luận cao để giải quyết một số vấn đề từ
kiến thức có được ở các câu hỏi nội dung.
Đặc điểm của câu hỏi loại này là có đáp án "mở" nhưng độ mở nhỏ hơn câu
hỏi khái quát, lôi cuốn các em vào việc khám phá những ý tưởng cụ thể đối với

từng chủ đề, môn học hoặc bài học. Các nhóm giáo viên ở các môn khác nhau có
thể dùng một câu hỏi bài học của nhóm cho một vấn đề chung, việc thống nhất câu
hỏi khái quát thông qua nhóm; Đưa ra những vấn đề hoặc kích thích thảo luận
nhằm bổ trợ cho câu hỏi khái quát; Khuyến khích khám phá, duy trì hứng thú và
24


cho phép học sinh trả lời theo cách tiêp cận sáng tạo, độc đáo. Các câu hỏi loại này
kích thích học sinh tự kiến giải các sự kiện.
Ví dụ:
Câu hỏi nội dung (gần giống với câu hỏi truyền thống)
Là các câu hỏi của sách giáo khoa nhằm đảm bảo kiến thức theo khung
chương trình của Bộ Giáo dục mà học sinh cần phải chiếm lĩnh được.
Đặc điểm của câu hỏi loại này là câu trả lời phải rõ ràng, phải đúng hay cụ
thể, thường được xếp vào loại các câu hỏi “đóng”; sắp xếp theo những tiêu chuẩn
về nội dung, mục tiêu dạy học, hỗ trợ cho các câu hỏi khái quát cũng như câu hỏi
bài học. Kiểm tra khả năng ghi nhớ của học sinh dựa trên các thông tin, thường yêu
cầu học sinh phải xác định: ai, cái gì, ở đâu, và khi nào. Nó đòi hỏi các yêu cầu về
kiến thức và kĩ năng đọc hiểu để trả lời.
Ví dụ
Tóm lại, Xây dựng được bộ câu hỏi định hướng có chất lượng sẽ giúp HS
chuyển từ học thụ động sang học tích cực. Nếu Câu hỏi khái quát và Câu hỏi bài
học được tích hợp trong các hoạt động của dự án, học sinh cần phải phát triển và
áp dụng một quan điểm mới về cách hiểu bài. Theo ấn phẩm của Bộ giáo dục bang
Maryland có tựa đề “Tư duy và học tập tốt hơn” (1991), những giáo viên biết đặt
các câu hỏi yêu cầu cao sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh trong quá
trình học tập. Bởi câu trả lời cho những câu hỏi khái quát không tìm được trong
sách, học sinh phải áp dụng các kĩ năng tư duy bậc cao như so sánh, phán đoán và
suy diễn. Với những câu hỏi mở, hấp dẫn học sinh sẽ chuyển từ học bị động sang
học tích cực, gắn với những công việc đang thực hiện và hiểu được khái niệm, ý

tưởng bài học.
1.6.1.2 Yêu cầu của câu hỏi trong dạy học PBL[29]
Gồm 5 yêu cầu cho bộ câu hỏi định hướng
Câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học phải là câu hỏi mở (câu hỏi phân kì). Những
câu hỏi mở phải hấp dẫn, học sinh thật sự bị lôi cuốn vào việc tìm kiếm câu trả lời
cho các câu hỏi, câu hỏi phải có ý nghĩa thực tế.
Câu hỏi khái quát phải bao hàm được câu hỏi bài học (câu trả lời cho câu hỏi
bài học là một nội dung trong câu trả lời cho câu hỏi khái quát). Câu hỏi khái quát
và câu hỏi bài học đưa ra lí do căn bản của việc học, giúp học sinh nhận thức được
25


×