1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ NHUNG
LỚP TỪ XƯNG HÔ TRONG TIẾNG JRAI
(ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
VINH -2009
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ NHUNG
LỚP TỪ XƯNG HÔ TRONG TIẾNG JRAI
(ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS: Nguyễn Nhã Bản
VINH - 12 / 200
Lời nói đầu
3
Nghiên cứu Lớp từ xưng hô trong tiếng Jrai (đối chiếu với tiếng Việt) là
một vấn đề mới trong Ngôn ngữ học. Kết quả của đề tài này có ý nghĩa quan
trọng không chỉ tìm hiểu từ xưng hô trong tiếng Jrai, mà còn thấy được những
nét văn hoá của người Jrai và người Việt qua sử dụng từ xưng hô trong giao tiếp.
Giá trị của đề tài sẽ giúp cho cán bộ và nhân dân vận dụng trong học tập,
công tác và sinh hoạt, góp phần vào xây dựng tình đoàn kết dân tộc, phát triển
kinh tế, bảo tồn các giá trị văn hoá, củng cố an ninh quốc phòng trên địa bàn Tây
Nguyên.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ quý
báu của các thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy chuyên ngành Ngôn ngữ học tại
Đại học Vinh, đặc biệt là thầy giáo: GS.TS. Nguyễn Nhã Bản - người trực tiếp
hướng dẫn tôi và có được bạn bè, gia đình, người thân cùng đồng nghiệp đã
động viên, giúp đỡ để tôi thực hiện thành công đề tài luận văn này.
Bước đầu nghiên cứu nội dung về từ xưng hô của một ngôn ngữ dân tộc
thiểu số không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, kính mong quý thầy cô và
các bạn đồng nghiệp quan tâm góp ý bổ sung. Chúng tôi hi vọng đề tài sẽ được
tiếp tục mở rộng nghiên cứu ở mức độ sâu hơn.
Vinh, tháng 12 năm 2009.
Tác giả
Lê Thị Nhung
4
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu.................................................................................................... 5
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN....................................................................
1.1. Từ xưng hô......................................................................................13
1.1.1. Khái niệm từ xưng hô...................................................................13
1.1.2. Chức năng từ xưng hô...................................................................16
1.1.3. Các yếu tố chi phối cách sử dụng từ xưng hô...............................25
1.2. Một số vấn đề về lý thuyết đối chiếu ngôn ngữ............................27
1.2.1. Khái niệm và nội dung thuật ngữ..................................................27
1.2.2. Nghiên cứu đối chiếu ở Việt Nam................................................29
1.2.3. Đặc điểm cơ bản của phương pháp đối chiếu...............................30
1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.......................................32
1.3.1. Khái niệm văn hoá........................................................................32
1.3.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá........................................35
1.4. Vài nét về người Jrai và tiếng Jrai...............................................39
1.4.1. Dân tộc Jrai...................................................................................39
1.4.2. Tiếng Jrai.......................................................................................40
Tiểu kết...................................................................................................41
Chương 2: XƯNG HÔ BẰNG ĐẠI TỪ TRONG TIẾNG JRAI...........
2.1. Nhóm từ xưng hô chuyên dụng (ĐTNX)......................................43
2.1.1. Nhóm từ xưng hô chuyên dụng trong tiếng Jrai...........................43
2.1.2. Hệ thống xưng hô bằng đại từ trong tiếng Việt............................47
2.1.3. Những tương đồng và khác biệt về số lượng và ngữ nghĩa giữa hai
đại từ nhân xưng tiếng Jrai và tiếng Việt................................................49
2.2. Xưng hô bằng đại từ trong tiếng Jrai và tiếng Việt....................50
2.2.1. Đại từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai số ít......................................51
2.2.2. Đại từ ngôi thứ nhất số nhiều........................................................56
2.2.3. Đại từ ngôi thứ ba.........................................................................58
5
Tiểu kết...................................................................................................61
Chương 3: XƯNG HÔ BẰNG DANH TỪ THÂN TỘC TRONG
TIẾNG JRAI.............................................................................................
3.1. Nhóm từ xưng hô lâm thời trong tiếng Jrai và tiếng Việt..........63
3.1.1. Danh từ thân tộc............................................................................64
3.1.2. Các từ ngữ khác dùng để xưng hô.................................................70
3.2. Xưng hô bằng danh từ thân tộc....................................................73
3.2.1. Xưng hô giữa chồng và vợ............................................................73
3.2.2. Xưng hô giữa cha, mẹ và con........................................................77
3.2.3. Xưng hô giữa anh, chị và em........................................................80
3.2.4. Xưng hô giữa ông, bà và cháu......................................................82
3.2.5. Xưng hô giữa dâu, rể và các thành viên trong gia đình................83
Tiểu kết...................................................................................................85
KẾT LUẬN............................................................................................88
Tài liệu tham khảo................................................................................93
Danh mục các bảng biểu
Bảng 1.....................................................................................................34
Bảng 2.....................................................................................................46
Bảng 3.....................................................................................................48
Bảng 4.....................................................................................................50
Bảng 5.....................................................................................................58
Bảng 6.....................................................................................................60
Bảng 7………….....................................................................................68
Bảng 8………………………………………………………………………….68
6
Quy ước trình bày
Do đặc điểm của luận văn nên chúng tôi dùng font VedTime, một loại font
chữ đặc biệt để đánh và in ấn chữ các dân tộc ở Tây Nguyên. Riêng dấu ngoặc
([ ]), dấu ngoặc kép (“ ”) chúng tôi sử dụng font VnTime.
Đại từ nhân xưng viết tắt là: ĐTNX
7
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ được thực hiện trong giao tiếp ở tất
cả các cộng đồng người. Tuy nhiên, mỗi ngôn ngữ đều có hệ thống từ xưng hô
và có cách dùng chúng để một mặt thực hiện chức năng xưng gọi, mặt khác thể
hiện được những đặc điểm văn hoá giao tiếp của dân tộc đó.
Từ xưng hô từ trước tới nay đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong
nước và trên thế giới quan tâm ở hai phương diện cấu trúc và chức năng. Với sự
phát triển của ngôn ngữ học theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động
hành chức, trước hết là hành chức trong giao tiếp, vấn đề xưng hô được xem xét
trong phạm vi rộng hơn. Nó không còn là vấn đề thuần tuý trong ngôn ngữ học
cấu trúc mà còn là vấn đề của ngữ dụng học, của xã hội ngôn ngữ học, của vấn
đề ngôn ngữ học xuyên văn hoá... Hiện nay, các lý thuyết hội thoại, ngữ dụng
học, văn hoá học... đã rọi chiếu ánh sáng, từ đó định ra nhiều hướng tìm hiểu
mới cho việc nghiên cứu từ xưng hô. Rõ ràng, việc nghiên cứu ngôn ngữ không
chỉ dừng lại ở mặt cấu trúc mà còn mở hướng nghiên cứu ở các mặt chức năng,
ngữ dụng học.
Ngôn ngữ vừa là sản phẩm của văn hoá vừa là phương tiện đặc biệt quan
trọng để lưu giữ, chuyển tải, sáng tạo nên các giá trị văn hoá. Qua ngôn ngữ có
thể thấy được tri thức văn hoá của cá nhân hay cộng đồng. Bởi vậy, ngôn ngữ
dân tộc là yếu tố xã hội, là dấu hiệu cơ bản để nhận ra dân tộc. Ý thức về tiếng
mẹ đẻ là biểu hiện đặc sắc ý thức dân tộc.
Ở Việt Nam, bên cạnh tiếng Việt - ngôn ngữ lâu đời của dân tộc Kinh còn
có nhiều ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số khác. Tiếng Việt là ngôn ngữ có số
người sử dụng đông nhất so với những ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số và có
nền văn hoá ảnh hưởng bao trùm lên lãnh thổi Việt Nam. Vì thế, tiếng Việt được
sử dụng làm ngôn ngữ giao tiếp chung cho cộng đồng các dân tộc trên đất nước
ta. Tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam cùng loại hình đơn
lập. Vì vậy, có thể coi kết quả nghiên cứu từ xưng hô trong tiếng Việt (đã hình
8
thành hệ thống lý luận khá ổn định) đã tạo cơ sở lý luận cho việc tìm hiểu từ
xưng hô trong ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở đây.
Tuy nhiên, nhìn lại việc nghiên cứu vấn đề từ xưng hô trong ngôn ngữ các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn rất ít ỏi. Nghiên cứu đặc điểm từ xưng hô trong
tiếng Jrai là một việc quan trọng và cũng hết sức cần thiết. Nó góp phần cung
cấp thêm những cơ sở dữ liệu và lý thuyết để nghiên cứu không chỉ vấn đề từ
xưng hô trong tiếng Jrai nói riêng mà còn góp phần định hướng nghiên cứu từ
xưng hô trong các ngôn ngữ Nam Đảo ở lục địa Đông Nam Á nói chung và giúp
cho việc tổng kết những đặc điểm loại hình của các ngôn ngữ đơn lập.
1.2. Từ ngày được thành lập tới nay, Đảng ta đã có những chính sách cụ thể
đối với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số (Nghị quyết TW 1941, 1955, Nghị
quyết TW VII, khoá IX...). Nhà nước và Chính phủ nước Việt Nam cũng thể hiện
sự quan tâm đến bảo tồn và phát triển chức năng, vai trò của ngôn ngữ các dân
tộc trong xã hội (Hiến pháp 1960, Quyết định 153-CP năm 1969, Quyết định
53-CP năm 1980...). Đặc biệt, trong những năm gần đây, Thủ tướng Chính phủ
đã có các Quyết định số 253/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2003 và Quyết định
số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm 2004 nhằm đưa việc học tiếng dân
tộc thiểu số trở thành nhiệm vụ thường xuyên đối với cán bộ, công chức. Ngày
09 tháng 11 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg
về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công
chức công tác ở vùng dân tộc, miền núi.
Trên cơ sở các văn bản của Đảng, Nhà nước và Chính phủ các Bộ như: Bộ
GD - ĐT, Bộ Dân tộc và Miền núi, Bộ Văn hoá và Thông tin (nay là Bộ Văn
hoá Thể thao và Du lịch)... đã có nhiều Thông tư, Quyết định, Chỉ thị, Thông
báo... hướng dẫn việc sử dụng, bảo tồn, phát triển, dạy tiếng nói và chữ viết các
dân tộc thiểu số trong vùng đồng bào dân tộc. Trong Thông tư số 01 ngày 03
tháng 02 năm 1997 của Bộ GD và ĐT có đoạn viết: “Sở Giáo dục đào tạo các
tỉnh, thành phố có đồng bào dân tộc thiểu số chịu trách nhiệm phối hợp với các
cơ quan chức năng của Bộ để cụ thể hoá, xây dựng chương trình cho phù hợp
với từng thứ tiếng và biên soạn tài liệu, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng
dân tộc”.
9
Từ các Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết... của các cơ quan có thẩm quyền,
trong hơn 20 năm qua, Sở GD - ĐT tỉnh Gia Lai đã biên soạn các loại sách giáo
khoa, tiến hành dạy tiếng Jrai cho học sinh phổ thông ở bậc tiểu học và đang thí
điểm dạy chương trình ngữ văn ở bậc trung học cơ sở tại một số trường phổ
thông dân tộc. Ít năm gần đây, UBND tỉnh Gia Lai đã và đang tổ chức dạy tiếng
Jrai cho cán bộ công chức không phải người Jrai công tác tại tỉnh. Bước đầu
công tác này đã thu được những kết quả nhất định. Trong giai đoạn hiện nay,
việc nghiên cứu tìm hiểu tiếng dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nguyên không chỉ
có ý nghĩa chính trị mà có giá trị thực tiễn sâu sắc. Đây là một hướng nghiên
cứu ngôn ngữ không chỉ tiếp cận và tìm hiểu cấu trúc và chức năng của ngôn
ngữ đó mà chính là nghiên cứu để hiểu sâu hơn nền văn hoá của các dân tộc ẩn
chứa trong ngôn ngữ và còn góp phần xây dựng tình đoàn kết giữa các dân tộc,
phát triển đời sống vật chất, tinh thần, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn
Tây Nguyên.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu Lớp từ xưng hô trong tiếng Jrai (đối chiếu với
tiếng Việt) chính được xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn ấy.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Lịch sử nghiên cứu từ xưng hô trong tiếng Jrai
Ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong nhiều công trình nghiên cứu
về các ngôn ngữ Austronesia lục địa, tiếng Jrai, Êđê, Churu... thường được gộp
chung vào tiếng Chăm, hay được coi là những phương ngữ khác nhau của tiếng
Chăm. Do sự xâm nhập ngày càng sâu của các đạo Cơ đốc trên địa bàn Tây
Nguyên, các nhà truyền giáo đã dùng các con chữ La tinh để ghi chép, phiên các
thứ tiếng dân tộc để dịch thánh kinh, lần lượt các bộ chữ cái Bana, Jrai, Êđê... ra
đời. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tiếng Jrai ở các bình diện: ngữ
âm, từ vựng, hình thái lịch sử, cùng với các bộ sách công cụ (từ điển, sách học
tiếng, sách giáo khoa cho học sinh tiểu học...). Song cho đến nay, theo sự hiểu
biết của mình, trước khi chúng tôi nghiên cứu đề tài này thì chưa có một công
trình nào đi vào nghiên cứu từ xưng hô trong tiếng Jrai. Vì vậy, đây là vùng đất
mới mà chưa được khai phá.
10
2.2. Lịch sử nghiên cứu từ xưng hô trong tiếng Việt
Vấn đề xưng hô trong tiếng Việt không phải là vấn đề mới. Nó được các
nhà ngôn ngữ học quan tâm từ rất sớm. Ngay từ năm 1651 khi biên soạn cuốn
Từ điển Bồ Đào Nha - La tinh Alexandre De Rhes đã dừng lại khá lâu để miêu
tả các từ xưng hô của tiếng Việt. Ông viết: “chữ tôi dùng để bề dưới xưng hô bề
trên có nghĩa như bầy tôi tớ”. Nhiều danh từ thân tộc có chức năng xưng hô như
danh từ: chú, bác, cậu, dì... cũng được A. de Rhes miêu tả kỹ. Những miêu tả
của ông hoàn toàn đúng với cách xưng hô của người Việt ở thế kỷ XVII.
Theo Nguyễn Phú Phong thì người đưa ra bảng ĐTNX sớm nhất và đầy đủ
nhất là Trương Vĩnh Kí. Tiếp tục công trình nghiên cứu của mình đến năm 1884
trong cuốn “Grammare de Langueannamite”, Trương Vĩnh Kí đã dành ba mươi
trang để nói về các đại từ, trong đó có ĐTNX mà sau này đến năm 1940, Trần
Trọng Kim trong cuốn Việt Nam văn phạm đã gọi lớp từ này là đại danh từ.
Năm 1951, M.B.Emeneau trong công trình “Studies inVietnames Grammar”
đã dành nhiều trang viết về đại từ, đặc biệt là tập trung bàn về đại từ xưng hô và
chú ý đến nhóm từ xưng hô lâm thời có nguồn gốc thân tộc. Ở đây chúng ta thấy
ông đã chỉ ra những hạn chế của đại danh từ nhân xưng đích thực trong tiếng
Việt. Ông gọi các danh từ được dùng làm từ xưng hô là các “đại danh từ cương
vị” và theo thống kê của M.B.Emeneau thì có 13 đại danh từ nhân xưng cương
vị trùng với các danh từ chỉ bà con thân tộc như: ông, bà, cha mẹ, anh, chị...
Nếu Emeneau chú ý đến sự mô tả hệ thống cấu trúc của từ xưng hô tiếng
Việt thì L. C. Thompson lại chú ý tới mức độ, tức là sắc thái biểu cảm của các
ĐTNX
Nhiều nhà ngôn ngữ học đã có nhiều công trình nghiên cứu đến ĐTNX và
rộng hơn là từ xưng hô bao gồm các tác giả: Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang
Ban, Bùi Minh Yến, Nguyễn Minh Thuyết, Hồ Lê...
Nguyễn Tài Cẩn trong cuốn “Từ loại danh từ tiếng Việt hiện đại” đã quan
tâm đến khả năng: đại từ để thay thế cho đại từ ở cả ba ngôi của các danh từ chỉ
quan hệ thân tộc và danh từ chỉ chức vụ nghề nghiệp.
11
Đỗ Hữu Châu lại chú ý đến chức năng chiếu vật của các từ xưng hô trong
hội thoại (trong các công trình viết năm 1981, 1986, 1987).
Nguyễn Văn Chiến qua các công trình nghiên cứu của mình đã xác nhận:
Từ xưng hô tiếng Việt được nghiên cứu bằng phương pháp tiếp cận hệ thống, tất
cả các từ xưng hô tiếng Việt được nghiên cứu như một chỉnh thể nguyên vẹn, đó
là hệ thống cấu trúc các yếu tố trỏ người trong sinh hoạt giao tiếp, đối thoại.
Bùi Minh Yến với một số bài viết trên tạp chí ngôn ngữ như: “Xưng hô
giữa vợ, chồng trong gia đình người Việt”; “Xưng hô giữa anh chị và em trong
gia đình người Việt”; “Xưng hô giữa ông, bà và cháu trong gia đình người
Việt”... tác giả đã khảo sát đầy đủ những phương tiện ngôn ngữ mà các cặp giao
tiếp có thể sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau.
Hay tác giả Trương Thị Diễm “Từ xưng hô có nguồn gốc thân tộc” đã khảo
sát, miêu tả phân tích một cách công phu hoạt động của dân tộc, thân tộc trong
xưng hô, giao tiếp của người Việt khá đầy đủ, toàn diện... những kết quả nghiên
cứu về từ xưng hô của các tác giả đi trước đã đem lại những gợi mở bổ ích, đặt
cơ sở cả về lý thuyết và thực tiễn cho đề tài của chúng tôi.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn miêu tả hệ thống từ xưng hô tiếng Jrai bao gồm: ĐTNX và danh
từ thân tộc. Qua đó, nhận thấy đặc điểm ngôn ngữ và bản sắc văn hoá của người
Jrai. Trên cơ sở đó, luận văn hướng tới đối chiếu lớp từ xưng hô trong tiếng Jrai
với tiếng Việt để thấy rõ hơn nét văn hoá của tộc người Jrai trong việc sử dụng
lớp từ này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Miêu tả hệ thống từ xưng hô trong tiếng Jrai không chỉ trên bình diện cấu
trúc mà cả trong ngữ dụng học góp phần làm rõ thêm về lý thuyết và thực tiễn từ
xưng hô cũng như phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học đối chiếu. Qua đó
khảo sát, lý giải từ xưng hô bằng ĐTNX và cách xưng hô bằng danh từ thân tộc
trong tiếng Jrai để đưa ra những kết luận khoa học về đặc điểm lớp từ xưng hô
12
về phương diện cấu trúc và chức năng cũng như đặc trưng văn hoá qua sử dụng
từ xưng hô trong giao tiếp của người Jrai và người Việt.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lớp từ xưng hô trong tiếng Jrai (đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc) là đối
tượng nghiên cứu chính của luận văn này. Hơn nữa luận văn còn đi sâu phân
tích, miêu tả, lý giải những đặc điểm về ngữ nghĩa, phạm vi sử dụng và sắc thái
biểu cảm. Trong khi nghiên cứu, luận văn còn đối chiếu lớp từ xưng hô trong
tiếng Jrai với lớp từ xưng hô trong tiếng Việt. Luận văn chủ yếu vẫn sử dụng
kết quả của những người đi trước và chỉ bổ sung thêm những sự tìm tòi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Jrai trên
bình diện đồng đại. Bên cạnh đó còn chỉ ra một số đặc trưng văn hoá tộc người
qua cách dùng từ xưng hô trong tiếng Jrai.
5. TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Tư liệu
Tư liệu dùng cho luận văn này được thu thập trên cơ sở: tiếng Jrai được sử
dụng rộng rãi trên địa bàn sinh sống của người Jrai ở Gia Lai - Tây Nguyên. Tại
đây chúng tôi quan sát, trò chuyện, phỏng vấn và ghi chép các cuộc đối thoại của
người Jrai. Từ đó thống kê từ xưng hô mà người Jrai sử dụng trong giao tiếp
hàng ngày. Chúng tôi mở rộng đối tượng quan sát và phỏng vấn: từ các cháu
thiếu nhi, các em trường dân tộc nội trú, các cụ già trong bản. Đặc biệt quan tâm
đến các già làng, trưởng bản họ am hiểu phong tục tập quán của dân tộc mình.
Đặc biệt người thực hiện đề tài này may mắn đang được sinh sống ở đất
Gia Lai - Tây Nguyên, có điều kiện tìm hiểu về những nét tương đồng, khác
biệt, những truyền thống đặc sắc của dân tộc mình và có những hiểu biết về
ngôn ngữ cũng như văn hoá của người Jrai. Điều này là điều kiện thuận lợi cho
chúng tôi thực hiện đề tài luận văn này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
13
Vận dụng phương pháp hệ thống để nghiên cứu từ xưng hô, chúng tôi tiến
hành miêu tả, phân tích cách dùng từ xưng hô theo hệ thống ĐTNX, danh từ
thân tộc được dùng làm từ xưng hô.
Phương pháp so sánh, đối chiếu được chúng tôi sử dụng nhằm phát hiện
những nét giống và khác nhau chủ yếu của từ xưng hô, cách xưng hô trong tiếng
Jrai và tiếng Việt. Chúng tôi chọn tiếng Jrai làm ngôn ngữ cần phân tích, cần
làm sáng tỏ và tiếng Việt là ngôn ngữ đối chiếu, là điều kiện làm sáng tỏ đặc
điểm từ xưng hô tiếng Jrai. Về mặt hoạt động, làm sáng rõ các hoạt động hành
chức, sự chuyển đổi, khẳ năng diễn đạt trong từng hoàn cảnh, từng đối tượng
giao tiếp.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp: quy nạp, diễn dịch, tổng
hợp... từ đó rút ra những kết luận có ý nghĩa thực tiễn về lớp từ xưng hô trong
tiếng Jrai.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Qua việc nghiên cứu đề tài Lớp từ xưng hô trong tiếng Jrai (đối chiếu với
tiếng Việt) làm tăng thêm sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc anh em trong
“đại gia đình các dân tộc Việt Nam” qua sự hiểu biết, tiếp xúc và giao lưu ngôn
ngữ.
Góp phần giữ gìn kỷ cương, luân lí qua cách xưng hô, giao tiếp cộng đồng
dân tộc Jrai. Từ một phương diện khác, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần
chứng minh rõ vấn đề “ngôn ngữ là địa chỉ văn hoá” và đồng thời ngôn ngữ là
một thành tố của văn hoá - thành tố quan trọng nhất. Qua cách xưng hô của
người Jrai, chúng ta nhận biết rõ hơn bản sắc của con người Tây Nguyên trong
sự tiếp xúc văn hoá đa chiều.
Đề tài chỉ bó hẹp trong địa bàn nhỏ nhưng có giá trị nhất định trong việc
tìm hiểu về ngôn ngữ dân tộc Jrai nói chung.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
14
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Xưng hô bằng đại từ trong tiếng Jrai
Chương 3: Xưng hô bằng danh từ thân tộc trong tiếng Jrai
15
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ chỉ diễn ra trong hội thoại. Trên cơ sở lí
thuyết hội thoại và tổng hợp các quan điểm về lớp từ xưng hô của các nhà
nghiên cứu đi trước chúng tôi tổng hợp và lí giải ý kiến của mình về khái niệm,
chức năng và các yếu tố chi phối cách sử dụng từ xưng hô, từ đó làm cơ sở lí
luận giải quyết mục đích, nhiệm vụ của đề tài
1.1. TỪ XƯNG HÔ
1.1.1. Khái niệm từ xưng hô
Từ xưng hô tiếng Việt không còn là vấn đề mới mẻ nữa. Nó đã trở thành đề
tài nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học từ xưa đến nay. Trải qua một quá
trình nghiên cứu lâu dài hơn ba trăm năm mươi năm việc tìm hiểu từ xưng hô
trong tiếng Việt đã đạt được những thành tựu nhất định.
Trong giao tiếp xã hội, xưng hô trước hết là một hoạt động thể hiện lối ứng
xử văn hoá của con người trong cộng đồng nói năng nhất định. Hoạt động giao
tiếp ấy được thực hiện hoá qua các dạng thức ngôn ngữ xưng hô. Trong giao tiếp
“xưng” có nghĩa là tự gọi tên mình khi nói với người khác, hiển thị tính chất và
bản chất của mối quan hệ xã hội; “hô” là hành vi giao tiếp bằng ngôn ngữ hướng
đến người khác cùng tham gia vào quá trình giao tiếp thể hiện tính chất, bản chất
của mối quan hệ xã hội giữa người ấy với mình.
Theo Từ điển tiếng Việt [43] thì xưng hô là “tự xưng mình và người khác là
gì đó khi nói với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau”. Xưng hô
là một bộ phận của lời nói nó được biểu thị qua giao tiếp giữa con người với con
người trong xã hội.
Đặc điểm của xưng hô là phải có sự hiện diện của người nói và người nghe.
Cần phân biệt xưng hô và xưng gọi. Nếu xưng gọi là một phát ngôn của người
nói (thường là chỉ một phần trong hội thoại) hướng vào người nghe để người
nghe biết được người hô gọi muốn thực hiện cuộc hội thoại với người khác thì
16
xưng hô là một hoạt động ngôn từ diễn ra thường xuyên, liên tục, trong cuộc
thoại nó được diễn tiến qua ngôn ngữ của các nhân vật tham gia hội thoại.
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã định nghĩa: “phạm trù xưng hô hay phạm trù ngôi
bao gồm những phương tiện chiếu vật nhờ vào đó người nói tự quy chiếu tức tự
đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao tiếp với mình (đối xưng)
vào diễn ngôn. Như thế, phạm trù ngôi thuộc quan hệ vai giao tiếp ngay trong
cuộc giao tiếp đang diễn ra với điểm gốc là người nói” [8, tr.73]
Tác giả Diệp Quang Ban khi định nghĩa về ĐTNX ông viết: “Đại từ nhân
xưng là những từ dùng để chỉ ra người hay vật tham gia quá trình giao tiếp”. [3,
tr.125]
Một số tác giả (Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Văn
Chiến) gọi tất cả các từ ngữ được dùng để xưng hô là ĐTNX và chia nó thành
hai nhóm:
- Đại từ xưng hô chuyên dụng
- Đại từ xưng hô lâm thời (gồm các danh từ chỉ quan hệ thân tộc, họ và
tên riêng, danh từ chỉ nghề nghệp, chức vụ…). “Đó là kết quả của giai đoạn
nghiên cứu cấu trúc luận, các tác giả chưa lí giải rõ vấn đề từ xưng hô và hiện
tượng xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ” [21, tr.19]. Việc các tác giả dùng thuật
ngữ ĐTNX để chỉ toàn bộ lớp từ xưng hô có lẽ chưa thực sự thoả đáng vì khái
niệm ngôi ngữ pháp học của hai nhóm đại từ xưng hô tiếng Việt nêu trên không
xác định như các ĐTNX của tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga…bởi ngôi của các
từ này chỉ xác định trong ngữ cảnh.
Hiện nay, nhiều nhà Việt ngữ đã dùng thuật ngữ từ xưng hô gồm nhiều từ
loại khác nhau để chỉ các từ, ngữ cấu trúc ngôn ngữ dùng để trỏ người trong
hoạt động giao tiếp ngôn ngữ ở dạng nói và viết. Với quan điểm này hệ thống từ
xưng hô trong tiếng Việt được chia làm hai nhóm: “1. Nhóm từ xưng hô chuyên
dụng (các đại từ nhân xưng); 2. Nhóm từ ngữ xưng hô không chuyên dụng (từ
ngữ thuộc các từ loại khác nhau được lâm thời dùng để xưng hô)” [41, tr.21].
Như vậy, khái niệm từ xưng hô có ngoại diên rộng hơn ĐTNX. Trong hệ
thống từ xưng hô, ngoài các ĐTNX chuyên dụng còn có lớp từ xưng hô lâm thời
17
phong phú và đa dạng để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của con người và biểu hiện
rõ đặc trưng trong văn hoá ứng xử cộng đồng dân tộc.
Qua khảo sát chúng ta có thể quy thành một số kiểu xưng hô thường gặp
trong giao tiếp như sau:
a) Xưng hô bằnh các từ dùng để xưng hô, gồm:
1. Các đại từ nhân xưng
2. Các từ thân tộc dùng làm từ xưng hô
3. Các từ khác được dùng làm từ xưng hô
b) Xưng hô bằng các chức danh, gồm:
4. Gọi bằng một trong các chức danh
5. Gọi bằng nhiều hoặc tất cả các chức danh
c) Xưng hô bằng họ và tên, gồm:
6. Xưng hô bằng tên
7. Xưng hô bằng họ
8. Xưng hô bằng tên đệm + tên
9. Xưng hô bằng họ + tên
10. Xưng hô bằng họ + tên đệm + tên
d) Xưng hô bằng tên của những người thân như tên của chồng, vợ, con
(cách gọi thay), gồm:
11. Gọi bằng tên của người thân thuộc (chồng, vợ, con)
e) Xưng hô bằng sự kết hợp: tên đệm, tên, gồm:
12. Gọi bằng các kết hợp khác nhau (ví dụ: chức danh + tên; chức danh +
họ tên; từ xưng hô + tên / họ tên…)
f) Xưng hô bằng sự khuyết vắng từ xưng hô, gồm:
13. Không xưng hô từ xưng hô trong giao tiếp.
Các mối quan hệ về xưng hô trong giao tiếp phụ thuộc vào từng bối cảnh
giao tiếp cụ thể. Qua khảo sát, các tác giả đưa ra một nhận định chung là: giữa
bạn bè với nhau thường gọi bằng tên, giữa người xa lạ hoặc chỉ biết nhau thì gọi
bằng chức danh hoặc họ. Tuy nhiên, ranh giới này không rõ ràng. Chẳng hạn,
trong giao tiếp chỉ cần tìm thấy một mối quan hệ nhỏ nào đó thì sau năm phút
18
người ta có thể chuyển từ cách gọi chức danh, họ sang gọi bằng tên. Người ít
tuổi gọi người lớn tuổi hơn bằng chức danh, họ và ngược lại, người lớn tuổi gọi
người ít tuổi hơn bằng tên. Cũng như vậy, người có địa vị thấp gọi người có địa
vị cao bằng chức danh, họ / tên và ngược lại người có địa vị cao gọi người có
địa vị thấp bằng tên. Nhưng khi tuổi tác, địa vị, nghề nghiệp có sự mâu thuẫn thì
địa vị, nghề nghiệp được coi là nhân tố đặt lên hàng đầu.
1.1.2. Chức năng từ xưng hô
Chức năng chủ yếu của từ xưng hô là thiết lập quan hệ tiếp xúc giữa người
đối thoại và duy trì cuộc thoại giữa các bên tham gia. Ngoài chức năng thiết lập
quan hệ tiếp xúc (chức năng mở đầu cuộc thoại), từ xưng hô còn có chức năng
biểu lộ thái độ tình cảm cũng như vị thế của các nhân vật hội thoại. Nói cách
khác, từ xưng hô là một vấn đề đặc biệt, đa chức năng. Ở luận văn này chúng tôi
chỉ đề cập đến ba chức năng cơ bản là: chức năng định vị, chức năng chiếu vật
và chức năng thể hiện quan hệ liên cá nhân .
1.1.2.1. Chức năng định vị
Chức năng định vị là chức năng thể hiện sự quy chiếu của người nói và
người nghe về vai trò giao tiếp của mình đối với các đối tượng, sự vật, hành
động, tính chất của chúng trong hoàn cảnh không gian, thời gian cụ thể. Theo
tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học thì: “Phạm trù xưng
hô hay phạm trù ngôi bao gồm những phương tiện chiếu vật nhờ vào đó người
nói tự quy chiếu, tức tự đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao
tiếp với mình (đối xưng) vào diễn ngôn. Như thế, phạm trù ngôi thuộc quan hệ
vai giao tiếp ngay trong cuộc giao tiếp đang diễn ra với điểm gốc là người nói”
[8, tr.73]. Trong công trình 2002 ông viết: “Khác với các định ngữ miêu tả, các
từ chỉ suất (bao gồm cả các đại từ nhân xưng) thực hiện chức năng chiếu vật
không thông qua chức năng miêu tả mà thông qua chức năng định vị. Định vị có
nghĩa là xác định vị trí của vật được nói đến, phân biệt vật được nói đến với các
vật khác về không gian, thời gian và các quan hệ khác” [10, tr.234].
Khái niệm định vị được J. Lyons phát biểu: “Định vị được hiểu là sự xác
định và sự đồng nhất người, quá trình, sự kiện của người ta nói đến và quy
19
chúng với một ngữ cảnh không gian - thời gian nào đó được tạo nên và được
duy trì bởi hành động phát ngôn và bởi sự tham gia của một người nói duy nhất
và ít ra là với một người nghe” (Dẫn theo Phạm Ngọc Thưởng [63, tr.16] ).
Từ định nghĩa của J. Lyons phát biểu như sau: Định vị trong lời nói phải
được thực hiện bởi các nhân vật hội thoại - người nói, người nghe.
Ba phạm trù định vị đã được ngữ pháp hoá và đã được nghiên cứu trong
ngữ pháp cổ điển và phạm trù ngôi (nhân xưng) địa điểm và thời gian. Ở luận
văn này, chúng tôi chỉ tìm hiểu phạm trù định vị của ngôi. Chúng ta đều biết,
con người luôn ở vào thế giao tiếp với nhiều lớp người, loại người khác nhau về
địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn… Và giao tiếp cũng diễn ra ở
những hoàn cảnh rộng hẹp khác nhau cũng như tính chất quy thức hay bất quy
thức của cuộc giao tiếp. Vì vậy, các nhân vật hội thoại luôn luôn phải lựa chọn
và sử dụng các từ xưng hô sao cho phù hợp với từng quan hệ, hoàn cảnh giao
tiếp. Có nghĩa là tuỳ vào mối quan hệ của tôi với người đối thoại mà tôi có thể
xưng em ở vị trí 1, nhưng cũng có thể xưng chị ở vị trí 2 hoặc xưng mẹ ở vị trí
3. Việc thay đổi này được thực hiện nhờ vào điểm gốc quy định chỗ đứng của
tôi. Nói rõ hơn, tôi có thể thay đổi từ xưng hô khi vị trí của tôi không còn giữ
nguyên vị trí ban đầu. Điều này chứng tỏ vị thế của nhân vật giao tiếp là tương
đối.
Trong giao tiếp, chúng ta thường có một bộ tiêu chí để định vị vị trí của
mình và vị thế của người đối thoại như tuổi tác, quan hệ gia đình, quan hệ xã
hội, vị trí giao tiếp…Nói từ xưng hô có chức năng định vị trong quá trình hội
thoại điều ấy có nghĩa là từ xưng hô có tác dụng bộc lộ vị thế của người nói và
người nghe. Người nói tự xác định và “ý thức” về vị trí của người đối thoại so
với bản thân mình mà sử dụng các từ xưng hô tương ứng. Đồng thời, qua các từ
xưng hô người nghe cũng nhận biết được thái độ, tình cảm của người nói đối với
mình.
Từ xưng hô có thể giúp cho người ngoài cuộc cũng có những hiểu biết nhất
định về quan hệ các nhân vật hội thoại. Chẳng hạn, một người được gọi là “chú”
hay tự xưng mình là “chú” tất hẳn ẩn dấu quan hệ đã được xác định qua từ xưng
20
hô đó. Tuỳ điểm gốc và vật chuẩn đưa ra ta mới có thể kết luận được quan hệ
của các nhân vật hội thoại. Nếu yếu tố định vị ở đây là quan hệ xã hội đơn thuần
thì được gọi hay xưng là “chú” thường là người có độ tuổi chênh lệch so với
người đối thoại khoảng một thế hệ (từ 15 - 20 tuổi) và ở đây chúng ta đã đoán
được mối quan hệ giữa hai nhân vật hội thoại trên là quan hệ tuổi tác. Nếu yếu
tố định vị là quan hệ trong gia đình thì nhân vật được gọi là “chú” thường là em
trai ruột (hay em họ) của bố lấy thế hệ con làm trung tâm.
Giáo sư Đỗ Hữu Châu khi nói về sự định vị xã hội đã chỉ rõ “trong tiếng
Việt ngoài một số từ như “ngài”, “bệ hạ”… Các từ định vị xã hội đều dựa vào sự
định vị trong gia đình, họ hàng như: “ông”, “bà”, “anh”, “chị”…làm cơ sở” [10,
tr.237]. Sự định vị này khiến cho các mối quan hệ ngoài xã hội trở nên thân thiết
hơn.
Như vậy, gọi một người nào đó là “em” hay “anh” hoặc bất luận một từ nào
khác trong hệ thống từ xưng hô là phụ thuộc vào sự định vị vị thế của người nói.
Trong hoạt động giao tiếp, tuỳ vào hoàn cảnh, đối tượng cụ thể mà các
nhân vật hội thoại có thể lựa chọn các nguyên tắc định vị khác nhau. Hai nguyên
tắc định vị thường được sử dụng trong giao tiếp là nguyên tắc tự ngã trung tâm
và nguyên tắc lấy người khác làm trung tâm. Sử dụng nguyên tắc tự ngã trung
tâm tức là người nói lấy bản thân mình, lấy cái tôi của mình mà giao tiếp với
nhân vật khác. Nguyên tắc tự ngã trung tâm không những là cách định vai giao
tiếp, vai người nói (ngôi I) và vai người nghe (ngôi II) mà còn là cách thể hiện vị
thế, thể hiện quan hệ liên cá nhân của nhân vật hội thoại. Trong nguyên tắc tự
ngã trung tâm vị thế của nhân vật ngôi thứ hai là một trong những yếu tố để
nhân vật ngôi I lựa chọn từ xưng hô trong giao tiếp. Chẳng hạn, nhân vật ngôi II
nhiều tuổi hơn nhân vật ngôi I do đó vị thế cao hơn, trong trường hợp này nhân
vật ngôi I có thể tự xưng là em, cháu, tôi…tuỳ vào mối quan hệ liên cá nhân
giữa nhân vật ngôi I và ngôi II.
Nguyên tắc lấy người khác làm tâm hay còn gọi là nguyên tắc gọi thay
ngôi: “Là một vế đặc biệt của sự xưng hô mà người gọi lại giữ một “vai” khác
21
trong mối quan hệ xã hội với người khác thay vì đang xưng hô với mình” [16,
tr.60-66]
Nguyên tắc gọi thay ngôi được các nhân vật hội thoại sử dụng hết sức linh
hoạt, phong phú và đa dạng. Nhờ nguyên tắc gọi thay ngôi mà các nhân vật giao
tiếp có thể vượt qua được những “mâu thuẫn”, những băn khoăn khi phải lựa
chọn từ xưng hô, chẳng hạn: trong gia tộc A là anh của B nhưng B có địa vị xã
hội cao hơn A, nếu A dùng cặp xưng hô anh - em thì có sự “mâu thuẫn” giữa
quan hệ gia tộc và địa vị xã hội. Do đó, trường hợp gặp người đối thoại có thứ
bậc cao hơn mình nhưng đã lớn, đã có địa vị trong xã hội là phải đổi lại cách
xưng hô bằng cách thay vào đó cách xưng hô của bậc con, cháu mình, vị giáo sư
có thể nói: “Xin phép cô tôi đón cháu về”. Xét về tuổi tác, vị giáo sư hơn tuổi cô
giáo của cháu mình. Xét về cương vị xã hội, giáo sư cũng có cương vị cao hơn
nhưng vẫn gọi người đối thoại bằng “cô” thay cho cháu mình. Việc thay đổi
ngôi ở đây thể hiện thái độ tôn trọng của vị giáo sư đối với cô giáo của cháu
mình.
Tóm lại, với những từ xưng hô nhất định, nhân vật giao tiếp có thể bộc lộ
nhận thức của mình đối với đối tượng giao tiếp. Mặt khác, từ xưng hô cũng xác
định rõ hơn quan hệ giữa người nói và người nghe qua chức năng định vị của
mình.
1.1.2.2. Chức năng chiếu vật
Ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm là hai khái niệm của ngữ nghĩa học.
Sự vật, hiện tượng, đặc điểm…ngoài ngôn ngữ được từ biểu thị tạo nên ý nghĩa
biểu vật của từ. Đỗ Hữu Châu đã phân biệt giữa nghĩa biểu vật và nghĩa chiếu
vật: “ý nghĩa biểu vật (trong hệ thống) sẽ được chuyển thành ý nghĩa chiếu vật
(trong lời nói)” [7, tr.149]. Nghĩa chiếu vật lại được phân định: chiếu vật cá thể,
chiếu vật loại (chiếu loại) và chiếu vật bộ phận (chiếu một số bộ phận trong
loại). Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán thì: “Trong ngôn ngữ những
ĐTNX ngôi thứ nhất, thứ hai cũng có tính chất chỉ hiệu vì mỗi khi chúng được
dùng, chúng đều quy chiếu với người nói, người nghe đang có mặt trong giao
tiếp” [8, tr.233].
22
Nói tới vai trò chiếu vật các từ xưng hô trong hội thoại thứ nhất là sự cụ thể
hoá vai trò định vị và vai trò biểu thái của từ xưng hô. Dựa vào chức năng chiếu
vật của từ xưng hô, các nhân vật hội thoại có thể lựa chọn một từ xưng hô bất kì
để tự quy chiếu nhân vật đang hội thoại cùng mình.
Nếu vai trò định vị và vai trò biểu thái là vấn đề chung cho từ xưng hô thì
nghĩa chiếu vật lại chỉ có riêng khi từ xưng hô đã được cá thể hoá và đi vào hoạt
động. Việc lựa chọn từ nào để xưng hô là phụ thuộc vào vị trí người nói vào vật
chuẩn mối quan hệ của các nhân vật giao tiếp.
Từ những vấn đề trên chúng ta thấy: một từ có ý nghĩa chiếu vật có thể có
rất nhiều từ có ý nghĩa chiếu vật xung quanh. Vai trò chiếu vật của từ xưng hô
trong hội thoại suy cho cùng chính là sự thể hiện mối quan hệ và thái độ, tình
cảm của nhân vật giao tiếp. Trong thực tế sử dụng, khi hành chức một từ xưng
hô có ý nghĩa chiếu vật khác nhau nếu như từ xưng hô đó được các nhân vật hội
thoại dùng để quy chiếu với các nhân vật khác. Vì vậy, từ xưng hô quy chiếu
vào nhân vật tuy có vỏ âm thanh giống nhau nhưng về ý nghĩa quan hệ lại khác
nhau. Thông thường trong hội thoại khi gặp một phát ngôn có sử dụng từ xưng
hô, người ta có thể đoán biết mối quan hệ nhất định và thái độ tình cảm của các
nhân vật hội thoại, mặc dù vậy, không bao giờ từ xưng hô bộc lộ chính xác, đích
thực quan hệ của các nhân vật hội thoại. Ở nhiều trường hợp, từ xưng hô có độ
lệch tương đối so với quan hệ thực của người nói và người nghe.
Quan hệ trong hội thoại là sự gắn kết một mặt nào đó giữa con người với
nhau làm biến đổi trạng thái tinh thần hay tình cảm ở các nhân vật giao tiếp.
Điều này thể hiện rõ và trước hết ở người nói khi sử dụng từ để xưng, tự bộc lộ
nhận thức về quan hệ của mình đối với người nghe. Trong nhiều trường hợp
người nói lấn lướt người nghe và sử dụng chiến lược áp đảo buộc người nghe
phải theo mình vào một khung quan hệ và khung hành vi ở lời xưng hô nhất
định.
Việc lựa chọn từ xưng hô sẽ dễ dàng nếu như các nhân vật hội thoại đã có
những quan hệ rõ ràng. Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp các nhân vật giao
tiếp phải băn khoăn lựa chọn từ xưng hô để đạt hiệu quả trong giao tiếp. Vì thế,
23
mỗi từ xưng hô cụ thể trong một phát ngôn nhất định đều hàm ẩn một mối quan
hệ nhất định cho phép người nói thể hiện nhận thức của mình trong việc sử dụng
nó. Khi gắn một từ xưng hô nào đó đang đối thoại cùng mình có nghĩa người nói
chấp nhận khả năng bộc lộ quan hệ do từ xưng hô đó đảm nhận, đồng thời họ
thể hiện nhận thức của mình không chỉ vì quan hệ mà còn cả thái độ của mình
đối với người nghe.
Nếu việc sử dụng từ xưng hô ở người nói có khả năng quy chiếu quan hệ
và thái độ có nghĩa là ở người nghe cũng có sự phản xạ trở lại. Dựa vào mô hình
xưng hô ban đầu do người nói tạo lập, căn cứ vào việc thực hiện nó mà người
nghe xác định được quan hệ của người nói đối với mình.
Vì vậy, ngay từ đầu, người chủ động để đối thoại phải lựa chọn từ xưng hô
cho phù hợp tức là phải biết tìm hiểu đối tượng, mối quan hệ của mình đối với
đối tượng. Cho nên, lối xưng hô của người nói có tác động trực tiếp đến người
nghe, buộc họ phải xem xét mối quan hệ của mình đối với người nói và thấy rõ
thái độ của người nói đối với mình từ đó có cách xưng hô đúng (và biết cách lựa
chọn từ xưng hô) thể hiện đúng mối quan hệ được thiết lập giữa hai người. Có
không ít trường hợp đối thoại với nhau qua điện thoại một thời gian, người nói
mới phát hiện dùng từ xưng hô chưa phù hợp đành ngượng ngùng, đổi lại cách
xưng hô. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp. Tuy có những trường
hợp phải thay đổi từ xưng hô do sự biến đổi của tình cảm.
Trong thực tế, với chức năng chiếu vật, từ xưng hô có thể cho chúng ta
những nhận biết rộng hơn về các nhân vật hội thoại như giới tính, lứa tuổi, chức
vụ, nghề nghiệp. Các chức năng của từ xưng hô chỉ được bộc lộ trong sự hành
chức qua sử dụng trong giao tiếp. Song trong quá trình hành chức, từ xưng hô
còn bị lệ thuộc bởi nhiều nhân tố khác như tính quy thức và bất quy thức của
ngữ cảnh giao tiếp, tính quyền uy của nhân vật giao tiếp. Vì vậy, tuỳ vào ngữ
cảnh giao tiếp, tuỳ vào vị trí của bản thân mình cũng như vị thế của người đối
thoại mà nhân vật chủ động giao tiếp có thể tự xưng là gì và gọi người đối thoại
là ai.
24
Nhân vật hội thoại muốn sử dụng từ xưng hô để định vị bản thân, định vị
người đối thoại, cũng như dùng từ xưng hô để tự quy chiếu và quy chiếu đến
người đối thoại một cách chuẩn mực thì phải tính đến quan hệ giữa mình và
người đối thoại quan hệ liên cá nhân chi phối mạnh mẽ chức năng định vị và
chức năng chiếu vật của từ xưng hô trong hoạt động giao tiếp.
1.1.2.3. Chức năng thể hiện quan hệ liên cá nhân
Con người sống trong xã hội luôn có mối quan hệ đan xen phức tạp như:
quan hệ hàng xóm, quan hệ cấp bậc, quan hệ thân tộc, quan hệ xã hội…tạo nên
những quan hệ liên nhân đan chéo phức tạp. Tính chất phức tạp này một phần
thể hiện qua việc sử dụng từ xưng hô, quan hệ giữa các nhân vật hội thoại là
quan hệ liên cá nhân.
Theo Đỗ Hữu Châu thì: “Quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp
có thể xem xét trên hai trục: trục tung là trục vị thế xã hội còn gọi là trục quyền
uy, trục hoành là trục của khoảng cách còn gọi trục thân cận. Trong xã hội con
người khác nhau về địa vị xã hội. Cái gọi là địa vị xã hội có thể cho chức quyền,
tuổi tác, nghề nghiệp mà có” [10, tr.17]
Dấu hiệu quan hệ ngang là những nhân vật hội thoại có thể gần hay xa cách
nhau, quan hệ này có nhiều cung đoạn một mặt hướng đến sự xa cách, một mặt
hướng đến sự thân thuộc, thân cận, tâm tình, quan hệ ngang về hoàn cảnh là đối
xứng. Tuy nhiên, không hiếm thấy trường hợp phi đối xứng người này muốn
gần, người kia muốn giữ nguyên hoặc xa cách.
Quan hệ ngang biểu thị khoảng cách xã hội của nhân vật giao tiếp. Về bản
chất quan hệ là đối xứng các từ xưng hô thể hiện quan hệ ngang như cậu - tớ,
tao - mày, anh - em (quan hệ vợ chồng) ông - tôi, tôi - đồng chí (quan hệ xã hội)
trong Tiếng Việt. Quan hệ dọc về bản chất là phi đối xứng. Khác với quan hệ
ngang, dấu hiệu của quan hệ dọc về bản chất là phi đối xứng. Trong một số kiểu
không tương tác, không bình đẳng, sự không bình đẳng trước hết là vấn đề của
ngữ cảnh, tuổi tác, giới tính, địa vị, vai trò hội thoại. Sự làm chủ ngôn ngữ, kể cả
về thể lực. Nó biểu thị quan hệ quyền uy của nhân vật giao tiếp. Các từ xưng hô
biểu thị cho quan hệ dọc là thuộc thế hệ sau (như con, cháu trong tiếng Việt) có
25
vị thế thấp so với những người thuộc thế hệ trước (chẳng hạn như bố, ông trong
tiếng Việt) có vị thế cao hơn, em (vị thế thấp) so với anh, chị (vị thế cao), hoặc
các từ chỉ chức vụ được dùng để biểu thị cho vị thế cao. Quan hệ dọc là quan hệ
quyền lực, tuy nhiên không phải lúc nào các mối quan hệ ở trục dọc cũng là xa
cách. Trong nhiều trường hợp nhân vật hội thoại thay đổi trục dọc thể hiện ý
định tăng thêm khoảng cách. Có thể xác định, từ xưng hô là một trong những
dấu hiệu ngôn ngữ thể hiện quan hệ liên cá nhân của nhân vật giao tiếp qua quan
hệ ngang và quan hệ dọc. Các nhân vật giao tiếp sử dụng từ xưng hô ở trục quan
hệ nào để giao tiếp với nhau phụ thuộc quan hệ giữa mình với người đối thoại,
hoàn cảnh giao tiếp, đề tài giao tiếp, mục đích và chiến lược giao tiếp.
Quan hệ liên cá nhân là quan hệ động, nghĩa là các nhân vật hội thoại khi
giao tiếp với nhau, trên trục ngang, khi giao tiếp trên trục dọc. Việc xác định
trục giao tiếp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Xét trong phạm vi sử dụng từ xưng hô
khi hai người cùng quan hệ bình đẳng trên tình bạn bè thì đó là quan hệ ngang,
khoảng cách quan hệ càng ngắn thì mức độ thân tình càng cao.
Từ xưng hô không chỉ bộc lộ vị thế của nhân vật giao tiếp qua hai trục:
quan hệ dọc, quan hệ ngang mà còn có tác dụng bộc lộ thái độ tình cảm của
nhân vật hội thoại. Chức năng định khung quan hệ của xưng hô chính là quan hệ
của liên cá nhân.
Chức năng của từ xưng hô, không chỉ nói rõ những quan hệ giữa người nói
và người nghe mà người ngoài cuộc cũng có thể nhận biết được mối quan hệ của
các nhân vật hội thoại qua các từ xưng hô. Quan hệ được nói đến ở đây, trước
hết là quan hệ về thái độ, tình cảm, ứng xử của các nhân vật hội thoại, những
quan hệ này được thể hiện qua các cung bậc tình cảm: thân mật hay lạnh nhạt,
tôn trọng hay khinh bỉ hay trung hoà về sắc thái biểu cảm. Điều này phụ thuộc
vào nhiều yếu tố trong đó có sự đóng góp của từ xưng hô.
Trong quá trình hành chức từ xưng hô thường thường đi thành từng cặp
(xưng và hô) tương ứng với nhau. Đồng thời, cũng qua việc lựa chọn và sử dụng
từ xưng hô, người nói có thể bộc lộ thái độ, tình cảm của mình trước người
nghe. Nhiều khi nhờ từ xưng hô mà khoảng cách của các nhân vật giao tiếp