Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Hình tượng ẩn sĩ trong quốc âm thi tập nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.86 KB, 58 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Lời cảm ơn

Đề tài hình tợng ẩn sĩ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
đã đợc hoàn thành ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản thân trong việc
thu thập tài liệu, tìm tòi, suy nghĩ... còn do nhận đợc sự giúp đỡ tận
tình của các thầy cô giáo, đặc biệt là sự hớng dẫn của tiến sĩ Phạm
Tuấn Vũ. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
thầy Phạm Tuấn Vũ, các thầy cô giáo trong khoa Văn và các bạn đã
giúp đỡ em hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp này. Vì đây là công
trình tập dợt nghiên cứu đầu tiên nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi
thiếu sót. Hơn nữa, dung lợng của một bản khóa luận tốt nghiệp
không cho phép tác giả thiên quá sâu rộng để làm rõ hình tợng ẩn sĩ
trong Quốc âm thi tập một cách trọn vẹn nhất. Em rất mong nhận đợc sự chỉ bảo, nhận xét của các thầy cô và các bạn. Em xin chân
thành cảm ơn!
Vinh, ngày 7/5/2005
Tác giả khoá luận:

Phạm Thị Thành

1


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Mục lục


Lời cảm ơn
Phần mở đầu

I. Lý do chọn đề tài
II. Lịch sử vấn đề
III. Mục đích yêu cầu
IV. Phơng pháp nghiên cứu
V. Cấu trúc khoá luận
Phần nội dung chính

Chơng I: Khái quát hình tợng ẩn sĩ trong văn học trung đại Việt Nam và
Trung Quốc và ý nghĩa của việc nghiên cứu hình tợng này.
1.1. Khái quát hình tợng ẩn sĩ trong văn học trung đại Việt Nam và Trung
Quốc
1.1.1. Những giới thuyết cần thiết
1.1.2. Khái quát hình tợng ẩn sĩ trong văn học trung đại Trung Quốc
1.1.3. Khái quát hình tợng ẩn sĩ trong văn học trung đại Việt Nam
1.2. ý nghĩa của việc nghiên cứu hình tợng ẩn sĩ
Chơng II: Hình thợng ẩn sĩ trong Quốc âm thi tập qua những hồi cố
2.1. Những giới thuyết cần thiết
2.2. Hình tợng ẩn sĩ qua những hồi cố
2.2.1 Quê nhà qua hồi cố của ẩn sĩ
2.2.2. Hình ảnh vua qua hồi cố của ẩn sĩ
2.2.3. Cái nhìn của ẩn sĩ về những cố nhân Trung Hoa
Chơng III: Hình tợng ẩn sĩ trong mối quan hệ với thiên nhiên
3.1. Vài nét về thiên nhiên trong thơ ẩn sĩ thời trung đại Việt Nam, Trung
Quốc
3.2. Ngời ẩn sĩ ca ngợi thiên nhiên tơi đẹp
3.3. Thiên nhiên qua tâm sự của ẩn sĩ
3.3.1. Một thiên nhiên dân dã, đời thờng

3.3.2. Một thiên nhiên
Chơng IV. Đặc sắc của nghệ thuật thể hiện hình tợng ẩn sĩ trong Quốc âm
thi tập
4.1. Sự tự biểu hiện của Nguyễn Trãi
4.2. Vai trò của h cấu nghệ thuật trong xây dựng hình tợng ẩn sĩ
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo

2


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Phần mở đầu
I. Lí do chọn đề tài:
1. ẩn sĩ là một trong những dạng tồn tại của ngời trí thức ở Việt
Nam, ở Phơng Đông và cả thế giới trung đại. Đây là một hình tợng ở văn
học Việt Nam trung đại thế kỷ nào cũng có. Tìm hiểu hình tợng ẩn sĩ góp
phần hiểu đợc sáng tác của Nguyễn Trãi, vừa hiểu đợc trình độ phát triển
cá tính của thời đại.
2. Thơ Nôm của Nguyễn Trãi phần lớn viết lúc cuối đời lúc bất nh
ý nên dù ở ẩn hay cha thì vẫn mang tâm trạng "yếm thế"(chán ghét cuộc
đời), mang những tâm trạng của ngời ẩn dật.Tuy nhiên, Nguyễn Trãi là
một ngời anh hùng dân tộc nên bên cạnh tâm trạng phổ quát của ngời ẩn
dật còn những tâm trạng riêng.Tìm hiểu hình tợng này nhằm nhận ra
những điểm chung, điểm riêng đó.
3. Hình tợng ngời ẩn dật là một loại hình tợng văn học vừa đợc xây
dựng từ chính đời sống Nguyễn Trãi, vừa đợc xây dựng bằng những chất

liệu văn học truyền thống (Việt Nam, Trung Quốc). Giải quyết đề tài
nghiên cứu này nhằm nhận thức đóng góp của Nguyễn Trãi trong việc
xây dựng loại hình tợng này.
4. Giải quyết đề tài này còn góp phần hiểu sâu, dạy tốt hơn những
bài thơ của Nguyễn Trãi trong chơng trình phổ thông.
II.Lịch sử vấn đề:
Trong một số tài liệu tìm đọc, nghiên cứu, chúng tôi đã nhận thấy
có những khía cạnh liên quan đến vấn đề xuất-xử, hành tàng của Nguyễn
Trãi nh :
- Nguyễn Trãi và Nho giáo (Trần Đình Hợu- Nho giáo và văn học
Việt Nam trung cận đại- Nxb Văn hoá thông tin, H, 1995).

3


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

- Hoài Thanh- Một vài nét về con ngời Nguyễn Trãi qua thơ Nôm (
Sáu trăm năm Nguyễn Trãi, Nxb Tác phẩm mới, H, 1980 ).
- Nhà t tởng và nghệ sĩ trong Quốc Âm Thi Tập (Trần Ngọc VơngVăn học Việt nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Giáo Dục- H,
1997).
- Mợn đá để ngồi - Hoàng Phủ Ngọc Tờng (Nhiều tác giả-Nguyễn
Trãi về tác gia và tác phẩm - Nxb Giáo dục, 1993).
-Thái độ của Nguyễn Trãi trong cuộc sống (Nguyễn Thiên ThụNguyễn Trãi , Nxb Lửa thiêng, Sài gòn, 1973).
- Trần Đình Sử - Con ngời cá nhân trong thơ nôm Nguyễn Trãi
(Nhiều tác giả-Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm - Nxb Giáo dục,
1993)
Và một số giáo trình về tác gia, tác phẩm văn học Việt Nam trung đại,

một số bài viết, tài liệu tham khảo khác...
Nhìn chung, các bài viết này đã đề cập đợc một số biểu hiện của
ngời ẩn dật. Bài Nguyễn Trãi và Nho giáo, mục III của bài viết có nói
đến quan điểm làm ngời và những day dứt quanh vấn đề xuất- xử. Tác
giả bài viết đã tìm hiểu và khẳng định trong con ngời Nguyễn Trãi có sự
đấu tranh giữa t tởng Nho gia và Lão-Tranh. Tuy vậy,cuối cùng tác giả
vẫn kết luận Nguyễn Trãi là Nho. Thật ra, đó là của con ngời Nguyễn
Trãi chứ cha phải là hình tợng ẩn sĩ trong thơ Quốc âm thi tập của ông.
Hay nh, Trần Ngọc Vơng trong bài viết Nhà t tởng và nghệ sĩ trong
Quốc âm thi tập và Trần Đình Sử ở bài viết Con ngời cá nhân trong thơ
Nôm Nguyễn Trãi đã cơ bản nêu đợc trong con ngời Nguyễn Trãi có hai
con ngời cùng song song tồn tại. Mỗi con ngời trong ấy lại phát ngôn cho
một t tởng sống triết lý sống mà mình lựa chọn. Ví dụ: Nhà t tởng phát
ngôn và hành động cho đạo Nho, Nhà nghệ sĩ mang nặng nỗi u thời mẫn
thế; nhà t tởng của triết học Lão- Trang và ngời nghệ sĩ ca tụng thú thanh

4


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

nhàn, hoà mình vào tạo vật. Qua đó ta biết bên trong con ngời Nguyễn
Trãi là sự đấu tranh giằng co giữa xuất và xử. Tuy nhiên các bài này cũng
mới chỉ làm rõ những lý do vì sao phải xuất, vì sao phải xử chứ ch a phải
đi sâu nghiên cứu về ngời ẩn sĩ trong thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi. Còn ở bài viết Mợn đá để ngồi của Hoàng Phủ Ngọc Tờng thì chủ
yếu tác giả đi tìm một cách nhìn về vai trò của thiên nhiên đối với đời
sống nội tâm của Nguyễn Trãi. Đây là bài viết có liên quan đến ngời ẩn

dật khi đã lui về Côn Sơn và ngợi ca thiên nhiên Côn Sơn trong cả thơ
chữ Hán và chữ Nôm. Bài viết cũng lý giải tính chất Thiền, Đạo trong thơ
Nguyễn Trãi. Tuy vậy, tác giả cũng đi đến khẳng định Nguyễn Trãi
không về Côn Sơn với mục đích lánh đời, ở ẩn hoàn toàn mà tất cả chỉ có
tính chất tạm thời thôi. Hay nh bài Thái độ của Nguyễn Trãi trong cuộc
sống lại thiên về phân tích hoàn cảnh, tâm sự của Nguyễn Trãi dẫn đến
những thái độ sống khác nhau của ngời treo ấn từ quan, song vẫn không
thoát đợc nỗi lo nớc cứu đời.
Mặc dù các tài liệu đó đã đề cập đến một số biểu hiện của ngời ẩn
dật nhng còn cha đầy đủ. Phần lớn đề cập đến loại hình ẩn sĩ ở cả quá
trình văn học trung đại Việt Nam, ở nhiều Nho sĩ chứ không riêng gì
Nguyễn Trãi. Họ xem xét về ngời ẩn dật trong thơ Nôm Nguyễn Trãi còn
sơ sài, cha thấu đáo. Họ mới chỉ đề cập đến phần biên của vấn đề, còn
hình tợng ẩn sĩ thì cha đợc đi sâu nghiên cứu nh một vấn đề trọng tâm,
chuyên biệt.Vì vậy mà trong khoá luận này, với ý định làm rõ, nổi bật
hình tợng ẩn sĩ trong Quốc âm thi tập, chúng tôi sẽ cố gắng luận giải để
thấy đợc hình tợng này có ý nghĩa khái quát rộng hơn nhiều sự tự biểu
hiện của bản thân Nguyễn Trãi. Đây là một hình tợng văn học mà nhà
thơ Nguyễn Trãi đã xây dựng và gửi gắm trong đó những tâm sự u buồn
của ông khi ông trở về sống ẩn dật tại Côn Sơn quê nhà. Trong quá trình
giải quyết đề tài, chúng tôi có vận dụng, kế thừa những nội dung liên
quan mà các nhà nghiên cứu đã nêu lên nhằm làm phong phú và sáng rõ
5


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

hình tợng ẩn sĩ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Rõ ràng hình tợng ẩn sĩ là

hình tợng mang nhiều ý nghĩa, nhiều giá trị tiềm tàng bên trong. Tìm
hiểu hình tợng này trong tập thơ Quốc âm thi tập chúng ta sẽ hiểu hơn về
loại hình nhân vật ẩn sĩ trong thơ Việt Nam trung đại và đồng thời cũng
hiểu hơn về nhân sinh quan, thế giới quan của Nguyễn Trãi- nhà thơ lớn,
anh hùng dân tộc còn mãi với thời gian.
III. Mục đích yêu cầu:

- Với luận văn này, chúng tôi mong muốn làm sáng rõ những nội
dung về hình tợng ẩn sĩ thể hiện trong tập thơ nôm Quốc âm thi tập,
thông qua quan sát những đặc điểm, giá trị hình tợng.
- Chúng tôi cố gắng chỉ ra đợc những tính chất truyền thống và
những điểm cách tân ở Nguyễn Trãi về phơng diên nội dung cũng nh
nghệ thuật thể hiện hình tợng này.
- Chúng tôi cũng chỉ ra sự tơng đồng và khác biệt của hình tợng này so
với hình tợng ngời ẩn sĩ trong ức Trai thi tập của cùng tác giả để thấy những
cái hay độc đáo của hình tợng ẩn sĩ trong Quốc âm thi tập.
IV. Phơng pháp nghiên cứu:
Trong khoá luận này, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phơng
pháp: thống kê, phân loại, phân tích, tổng hợp, so sánh để làm rõ vấn đề
nghiên cứu.
V. Cấu trúc khoá luận:
Trong khoá luận này, ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội
dung chính đợc chia làm bốn chơng nh sau:
Chơng1: Khái quát hình tợng ẩn sĩ trong văn học trung đại
Nam,Trung Quốc và ý nghĩa của việc nghiên cứu hình
tợng này.
Chơng2: Hình tợng ẩn sĩ ở Quốc âm thi tập qua những hồi cố.
Chơng3: Hình tợng ẩn sĩ trong mối quan hệ với thiên nhiên.

6


Việt


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Chơng 4: Đặc sắc nghệ thuật thể hiện hình tợng ẩn sĩ ở Quốc âm thi tập.

PHầN NộI DUNG CHíNH
Chơng1: Khái quát hình tợng ẩn sĩ trong văn học
trung đại Việt Nam, Trung Quốc và ý nghĩa
của việc nghiên cứu hình tợng này.
1.1. Khái quát hình tợng ẩn sĩ trong văn học trung đại Việt Nam và
Trung Quốc.
1.1.1. Những giới thuyết cần thiết.
"ẩn sĩ" là những ngời ở ẩn, lánh đời. Trong thang bậc sĩ nông
công thơng ở các quốc gia chịu ảnh hởng của Nho giáo, kẻ sĩ là tầng lớp
đứng đầu, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống sản xuất tinh thần, đặc
biệt là trong hệ thống quản lý xã hội. Nhng quan hệ giữa họ với hệ thống
chính trị không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, chính vì vậy mà
dẫn sự hình thành của một lớp ngời gọi là "ẩn sĩ ", tức là những ngời có
khả năng làm quan nhng chủ động không bớc vào hay li khai quan trờng.
ẩn sĩ cũng gọi là "u nhân", "dật nhân", "xử sĩ"... tuy cách gọi có thể khác
nhau nhng đều viết về một loại ngời: đó là ở ẩn, lánh đời, không quan
tâm đến thế sự.
Ngời ở ẩn ban đầu do bất mãn với thời cuộc để bảo toàn sinh
mệnh và khí tiết, tránh không để cái sự ô trọc của xã hội, triều đại làm
vấy bẩn cái chí làm trai, cái cốt cách vốn thanh cao, trung trực. Về sau,

ẩn dật đợc xem là hành động không ham công danh, không phụng sự
quyền quý, đợc mọi ngời thừa nhận là "cao sĩ", vẻ vang hơn ngời làm
quan[10 ;tr108].
Theo Trần Ngọc Vơng, ẩn sĩ đựơc xem xét, đánh giá: Trong loại
này có cả nhà Nho ẩn dật và Đạo gia. Loại cá nhân độc đáo này xứng
đáng để đơc nghiên cứu chuyên biệt. Đích cuối cùng mà họ hớng tới là tự

7


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

do tinh thần, tách ra ngoài, hớng lên trên xã hội, tìm kiếm sự hài hoà
trong quan hệ với tự nhiên, vừa hớng tới "thiên tính, thiên tâm". Họ giành
giật (và giành giật đợc) với chế độ chuyên chế, với ngôi vị hoàng đế
quyền đợc tồn tại trong cô độc, trong sự biệt lập, với một sự bảo đảm
không can thiệp vào chính sự [17 ;tr 62] .
Sự nhận xét trên có nhiều điểm phù hợp với hoàn cảnh của ẩn sĩ,
đánh giá khá xác đáng đặc điểm, cá tính, sở nguyện của ẩn sĩ. Tuy nhiên,
ẩn sĩ cũng khá đa dạng và sự đa dạng đó là do chế độ chính trị, đặc điểm
lịch sử xã hội mỗi thời; đặc biệt, nó phụ thuộc vào tính cách, phẩm chất,
cá tính của từng ngời. Có ngời ẩn theo kiểu này, có ngời ẩn theo kiểu
khác. Có loại ẩn sĩ lánh đời, thoát tục, không muốn dính líu gì tới chuyện
chính sự, xã hội. Nhng cũng có loại ẩn sĩ luôn nghĩ tới dân, tới nớc với
một tấm lòng yêu thơng, nặng nợ hai chữ "trung hiếu" làm đầu họ không
dễ dàng đánh mất đi bản chất vốn có của mình. Do vậy hình tợng ẩn sĩ
đi vào thơ ca cũng khá đa dạng, phong phú.
"Hình tợng ẩn sĩ" là hình tợng văn học đợc xây dựng dựa trên

nguyên mẫu là ngời sống ẩn dật, lánh đời do bất mãn với thời thế. Lịch
sử thơ ca văn học trung đại Trung Quốc, Việt Nam đã có không ít tác giả
xây dựng hình tợng ẩn sĩ trong thơ ca bằng chính cuộc sống ẩn dật của
mình: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Đào Uyên Minh; Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Khuyến...Mỗi ngời có một hoàn cảnh khác nhau, tâm sự
khác nhau nên hình tợng ẩn sĩ trong thơ họ cũng đa dạng, nhiều cấp độ.
Bên cạnh việc ở ẩn theo nghĩa thông thờng, vẫn còn có những ngời ở ẩn
rất đặc biệt. Có khi đang làm quan nhng họ lại xa lánh đời sống chính trị
lâu rồi, luôn nghĩ đến việc ở ẩn; hoặc ở ẩn nhng chẳng lúc nào nguôi việc
nớc, việc dân mà tấm lòng luôn giằng xé "đêm ngày cuồn cuộn nớc triều
đông". Nguyễn Trãi là điển hình cho loại ẩn sĩ này.
1.1.2.Khái quát hình tợng ẩn sĩ trong văn học trung đại Trung Quốc:

8


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Lịch sử ẩn sĩ Trung Quốc có từ rất lâu đời, song hành với lịch sử
quan lại. ẩn sĩ sớm nhất ở Trung Quốc tính ra phải kể đến những ngời
nh: Sào Phủ, Hứa Do, Vơng Nghệ... Họ đã đi vào văn học nh một kiểu ẩn
sĩ mẫu mực về khí tiết.
Đã có không ít sách báo nghiên cứu, các câu truyện kể về ẩn sĩ
trong văn học Trung Quốc. ở các đời: Hậu Hán th, Tần th, Đờng Th,
Tống sử, Minh sử...đều có Dật dân truyện, ẩn dật truyện. Gần đây nhất
có tác phẩm ẩn sĩ Trung Hoa của Hàn Triệu Kỳ là cuốn sách ghi chép
khá đầy đủ về hiện tợng ẩn sĩ Trung Hoa từ xa xa đến hết thời kỳ phong
kiến. Cuốn này đã giải thích khá đầy đủ, rõ ràng về mọi mặt của ẩn sĩ.

Qua đó, ta không những thấy tên gọi ẩn sĩ phong phú mà sách vở chuyện
kể về họ cũng rất nhiều.
Nơi ăn chốn ở của các ẩn sĩ Trung Hoa đa dạng song đôi khi cũng
rất phức tạp. Có ngời bỏ nhà cửa, rời bỏ chốn quan trờng vào núi sâu" ăn
hang ở lỗ ", xa lánh mọi ngời mọi việc, xem nh chẳng có quan hệ gì với
thế giới loài ngời nữa. Tiêu biểu nh Bá Di, Thúc Tề... lại có ngời lang
thang nh ăn mày, bộ dạng giống "ngời điên" nh Sở Cuồng Tiếp D cuối
thời Xuân Thu. Nhìn chung ẩn sĩ ở rừng rú , hang hốc thì họ sinh hoạt
nh ngời rừng, đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn.
Cũng có loại ẩn sĩ từ quan và sống nhàn nhã, chẳng phải lo lắng gì
đến chuyện cơm áo, nơi ăn chốn ở. Chẳng đấu đá quan trờng cũng chẳng
có chuyện tạp nháp phải tức giận. Phần nhiều ẩn sĩ loại này sống ở vùng
quê hoặc đi ngao du sơn thuỷ, làm bạn tri kỷ với thiên nhiên. Họ thờng
sáng tác thơ văn hoặc nghiên cứu học thuật. Tiêu biểu nhất có Lý Bạch
đời Đờng.
Lại có loại ẩn sĩ sống ngay trong lâu đài, quán quách đợc nhà vua
xây cho, ở gần kinh thành hoặc gần nơi sơn thuỷ hữu tình. Họ quan niệm
ẩn sĩ xa lánh triều chính là" tiểu ẩn" còn nh họ mới là "đại ẩn" bởi họ ở

9


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

ngay chốn thị phi mà trong sạch, họ là" quý tộc không mặc quần áo quý
tộc", đại diện nh Lôi Thứ Tông đời Tống, hay Tôn T Mạo đầu thời Đờng... Phần lớn họ là ngời có tài, đức độ, khí tiết, đợc vua chúa yêu mến
bởi cái tiếng thơm. Họ đợc vua biệt đãi, quan tâm đến đời sống vật chất,
sở thích cá nhân; không bị ép làm gì nếu không muốn. Tuy vậy, trong

loại này có ngời mặc nhiên chấp nhận sự u ái của vua và vẫn sống cuộc
đời ẩn dật thanh sạch , đôi khi họ góp ý kiến cho triều đình những điều
có lợi, đúng đắn. Song cũng có trờng hợp từ ẩn sĩ trở thành gã tiểu nhân
có thế lực, bởi đợc yêu chuộng, cuộc sống sung túc sang trọng dần làm
thay đổi bản chất của họ. Tiêu biểu nh Chủng Phóng trong Tống sử.
Mối quan hệ của ẩn sĩ với chính trị-xã hội đơng thời có thể khái
quát thành hai loại: Một loại không hợp tác và một loại hợp tác.
ẩn sĩ không hợp tác với chính trị xã hội đơng thời biểu hiện nh
không làm quan ở nớc loạn, không phục vụ dị tộc, bộc lộ một thái độ đối
kháng mạnh mẽ với kẻ thống trị, nh Trờng Th, Kiệt Nịch, Sở Cuồng Tiếp
D thời Xuân Thu hay Tăng D Viễn thời Minh...Nhìn chung họ là những
ngời khí tiết, biểu hiện nhất quán, thậm chí bất bình cũng biểu hiện ra
mặt. Họ đợc xem nh là cao sĩ.Một loại khác thì kiên quyết rời bỏ quan trờng, không nhận bổng lộc nhng lại có thái độ hoà hoãn, linh hoạt. Họ
không quá cứng rắn, mãnh liệt, không làm mất thể diện kẻ thống trị nên
bản thân họ cũng có thể thoải mái sống theo ý mình. Cũng có loại lo lắng
về cục diện chính trị của triều đình, bất mãn với chính sách quốc gia, tức
giận, bất bình với bộ máy cầm quyền từ trung ơng đến địa phơng nhng tự
mình cảm thấy không đủ sức xoay chuyển thời cuộc nên đành giữ thái độ
"minh triết bảo thân". Loại này đợc xem là"trung ẩn". Đây là loại thân
trong quan tròng mà lòng là ẩn sĩ.Tiêu biểu nhất có Đông Phơng Sóc đời
Hán Vũ Đế, Bạch C Dị đời Đờng...
Nói tới loại ẩn sĩ hợp tác, phục vục chính trị đơng thời cũng có
mấy loại. Loại thứ nhất tuy không ở trong quan trờng nhng lại phát huy
10


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành


tốt chức năng của phái ngoài triều. Họ rất có khả năng bổ sung những
điều bất cập của chính quyền. Phần lớn trong số họ là những nhà học giả.
Họ nắm chắc và thực hiện nghiêm chỉnh theo lời dạy của thánh hiền.
Những lúc có mâu thuẫn gay gắt thì họ là những ngời "tiết sĩ", tỏ rõ lập
trờng chính trị của mình trớc bọn thống trị đơng thời. Loại thứ hai là tuy
không nhận chức tớc, không trong quan trờng nhng lại tích cực bồi dỡng
đào tạo thế hệ sau, cung cấp nhân tài cho quan trờng. Thông qua việc dạy
dỗ đó để bồi dỡng những ngời có tài, có đức, có ích cho nhân dân đất nớc. Vai trò của họ nh những "cố vấn" vậy .Và có thể trong giờ phút cấp
thiết thì họ chịu bày mu vạch kế, giúp đỡ kẻ thống trị nh Đào Hoàng
Cảnh thời Nam triều, Lý Sỹ Khiêm thời Tuỳ, hay nh Vơng Hy Di đời Đờng, Đỗ Anh thời Nguyên...Thứ ba là loại xem xét thời cơ chờ giá mà
bán. Đây đợc xem là loại tạm thời làm ẩn sĩ nh Khơng Tử Nha, Gia Cát
Lợng, Vơng Miện...Họ là những ngời sinh vào thời loạn, không cam phận
tịch mịch, có chí muốn tìm "minh chủ", quét sạch hoạ loạn, xây dựng
một thế giới thanh bình, lúc cha tìm đợc minh chủ thì náu thân nơi hang
sâu động thẳm, khi gặp dịp "vua tôi hoà hợp"thì họ sẵn sàng bớc ngay ra
thực hiện cái nghiệp mà họ mong ớc.Truyện về Gia Cát Lợng kể ông là
ngời có tài từ nhỏ.Thiên hạ đại loạn, ông ẩn c tại Ngoạ Long Cơng phía
tây Tơng Dơng. Khi Lu Bị bị Tào Tháo đánh bại, chạy tới Kinh Châu, có
ngời giới thiệu Gia Cát Lợng, Lu Bị lập tức cùng Quan Công và Trơng
Phi tới bái thỉnh, liên tiếp ba lần mới đợc Gia Cát Lợng tiếp. Từ đó, Gia
Cát Lợng quyết lòng phục vụ cha con Lu Bị, Lu Thiên. Đại thi hào Đỗ
Phủ thời Đờng từng làm thơ bộc lộ sự kính trọng sâu sắc của ông đối với
cuộc đời Gia Cát Lợng.Loại cuối cùng là loại tìm cách khéo léo muốn
theo"lối tắt Chung Nam". Loại này thờng rất xu phụ chính trị đơng thời.
Họ tính tình nông nổi, tài năng không nhiều nhng tâm ý lại rất cao. Phần
lớn loại này có ở thời Đờng. Họ không muốn thông qua khoa cử hay từ
một chân tiểu lại từng bớc vơn lên mà hy vọng một tấc lên trời nh Ngô

11



Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Duân, Hạ Chi Trơng, Mạnh Hạo Nhiên, ngay cả Lý Bạch cũng không
khỏi có những chỗ vớngvào thói tục. Họ chính là loại ẩn sĩ mà lòng quan.
Nguyên nhân là bởi có nhiều hiền tài ở ẩn đợc vua yêu, đợc tiến cử nhanh
chóng, làm quan hoặc có cuộc sống sung túc nên họ đã lợi dụng lối đi
này để thăng quan tiến chức mau lẹ mà chẳng phải học hành, khổ luyện
gì nhiều. Thờng thì những loại ngời nh thế này ít đợc coi là ẩn sĩ mà cũng
chẳng đợc ngời đời sau ca ngợi gì.
Chúng ta có thể thấy ẩn chứa đằng sau, bên trong sâu thẳm tâm
hồn các ẩn sĩ là cả ngàn lẻ một những nguyên nhân khiến họ bất đắc chí.
Và cũng bởi những sầu muộn trong lòng không biết bày tỏ cùng ai, họ
tìm đến thiên nhiên, chè rợu và thơ nh một ngời bạn tri âm tri kỷ.
Từ khi t tởng Lão Trang đợc phổ biến rộng rãi, rồi cả sự ảnh hởng
của Đạo giáo và Phật giáo nữa thì phong khí làm ẩn sĩ ngày càng thịnh
hành. Họ kết hợp ở ẩn với tu dỡng văn hoá tinh thần. Hoà mình vào cảnh
vật thiên nhiên, sơn thuỷ hữu tình họ thờng có cảm hứng sáng tác thơ
văn, vịnh cảnh đẹp. Việc kết hợp du lịch và sáng tác thơ văn với quy mô
lớn bắt đầu từ thời Lu Tống. Nhng có lẽ đỉnh cao phải dành cho Lý Bạch.
Lý Bạch là ngời có tài nhng không gặp thời. Bất đắc chí với thời cuộc,
ông thích đi những nơi danh sơn thắng thuỷ để du ngoạn cảnh đẹp. Ông
đợc xem là tác gia du lịch sơn thuỷ vĩ đại nhất Trung Quốc thời cổ. Sinh
thời ông từng viết:
Ngũ nhạc tầm tiên bất từ viễn
Nhất sinh ái nhập danh sơn du.
(Ngũ nhạc tìm tiên không ngại khổ
Nhất sinh thích tới danh sơn chơi)

Tâm hồn lãng mạn ấy bắt gặp những cảnh đẹp của non sông đất nớc đã sinh ra những bài thơ trác tuyệt. ẩn sĩ nh thế này đợc dân nghèo
coi nh "thần tiên", còn giới quan lại cũng phải nể nang, kính mộ. Lý

12


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Bạch cũng là ngời thích uống rợu và uống rất nhiều. Ông tự xng là "tiên
rợu". Tơng truyền ông vì say rợu, du thuyền đêm trăng đẹp, thấy trăng dới mặt nớc, tởng tợng ôm trăng rồi bị chết đuối.
Đào Uyên Minh ( Đào Tiềm ) cũng là ngời hay rợu và có những
bài thơ về thiên nhiên rất hay, về thú uống rợu khi ở ẩn cũng nhiều. Chu
Quang Tiềm nói về ông:"Giống nh nhiều ngời nghiện rợu, ông phải dùng
rợu để đè nén nỗi buồn trong lòng, để quên nhiều chuyện không nh ý
trên đời. Rợu đối với ông mờng tợng nh một loại vũ khí mà ông cầm
trong tay để khiêu chiến với số phận"[4;tr 161].
Tình hình phát triển của ẩn sĩ Trung Hoa nhìn chung có lúc thịnh
lúc suy. Có lúc ẩn sĩ trở thành có giá, đợc trọng dụng, đãi ngộ, có lúc lại
bị cầm tù, giết chóc, bị bức bách phải rời bỏ quê hơng, chạy đông trốn
tây...Điều đó tuỳ thuộc vào chế độ chính trị từng triều đại, từng thời kì và
những chính sách khác nhau của kẻ thống trị đối với loại ngời này.Chẳng
hạn nh thời xa xa đến thời Tây Hán, do lực lợng ẩn sĩ không có gì đáng
kể nên kẻ thống trị đơng thời cũng không có chính sách nào lu ý tới họ,
về cơ bản là để mặc họ tự sinh tự diệt.Đến thời Đông Hán lại đề cử dật
nhân, biệt đãi u nhân. Cuối thời Đông Hán có xảy ra tranh dành quyền
lực nên ẩn sĩ, văn nhân sĩ phu nhiều ngời bị bắt giết. Sang thời Nguỵ,
Tấn, Đờng,Tống thì dật nhân lại đợc vơng triều trọng dụng nên đội ngũ
ẩn sĩ gia tăng mau lẹ. Đến thời Nguyên, Minh, Thanh thì ẩn sĩ lại không

đợc may mắn nh thời trớc đó nữa. Nhà Minh từng ban bố pháp lệnh trừng
trị các ẩn sĩ không phục vụ cho triều đình...
Tóm lại, lịch sử ẩn sĩ Trung Hoa cũng có lúc thăng trầm, có khi
thế này, khi lại thế khác. Nhng hình tợng ẩn sĩ đi vào văn học thì đợc
ngợi ca không ít. Họ đã trở thành những bậc đại danh, việc làm và khí
tiết của họ đã trở thành điển tích, điển cố,giai thoại cho văn học đời
sau.Văn học trung đại Việt Nam cũng chịu ảnh hởng không nhỏ từ Văn
học trung đại Trung Quốc và chắc chắn rằng hình tọng ngời ẩn sĩ trong

13


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Văn học trung đại Việt Nam cũng mang nét tơng đồng, thấp thoáng bóng
dáng ẩn sĩ Trung Hoa. Nhng cũng chắc một điều rằng ẩn sĩ trong Văn
học trung đại Việt Nam cũng có những nét riêng độc đáo.
1.1.3. Khái quát về hình tợng ẩn sĩ trong Văn học trung đại Việt Nam:
Trên đây là những khái quát về hình tợng ẩn sĩ trong Văn học
trung đại Trung Quốc . Còn ẩn sĩ trong Văn học trung đại Việt Nam thì
sao? Đây là cả một lớp ngời chịu ảnh hởng không chỉ đạo Nho mà ngay
thời Lý-Trần, những tôn giáo khác đã có ảnh hởng lớn đến đời sống tinh
thần của con ngời Việt Nam, đặc biệt là những trí thức. Hiện tợng "tam
giáo đồng nguyên" đã quy tụ và mỗi tôn giáo có một ảnh hởng nhất định
tới con ngời Việt Nam và toàn bộ thế giới tâm linh, quan niệm sống của
mỗi ngời. Đời Lý-Trần coi trọng cả ba giáo, trên cơ sở những truyền
thống dân tộc, chủ yếu là truyền thống yêu nớc và nhân ái, kết tinh
những mặt tích cực của cả ba thành một tinh thần rộng mở sáng ngời, trớc và sau ít thấy trong thời phong kiến. Nó không phải là một tinh thần

chiết trung hay thoả hiệp , nó cũng không phải là một sự hỗn hợp tuỳ
tiện. Nó đúng là một sự kết tinh quanh một cốt vững chắc là cốt dân tộc
những nhân tố tích cực, phù hợp của ngoại lai, cho nên nó là một sự nâng
cao chót vót, rạng rỡ.[18 ;tr 85-86]
Sự hoà đồng của các tôn giáo nói trên đã tạo ra ở con ngời Việt
Nam nói chung và những trí thức phong kiến nói riêng, đặc biệt là lớp
ngời ở ẩn những nét tơng đồng và khác biệt với ẩn sĩ của Trung Hoa.
Ngoài ra, nguyên do cơ bản là đặc thù lịch sử Việt Nam. Nhìn chung thì
ẩn sĩ Việt Nam soi vào ẩn sĩ Trung Hoa cũng tìm thấy mình trong những
điểm cơ bản nhất, tích cực nhất. ẩn sĩ ở Việt Nam thờng rất ít loại tiêu
cực nh ẩn sĩ ở Trung Hoa. Chẳng hạn nh ẩn sĩ Trung Hoa có kẻ lời biếng
bừa bãi, có loại ăn hang ở lỗ, ăn mày ăn xin, bộ dạng nh "ngời điên" thì ở
Việt Nam ẩn sĩ thờng không có loại này. Đây là điểm khác biệt thứ nhất

14


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

giữa ẩn sĩ của hai quốc gia khác nhau là Việt Nam và Trung Quốc. ẩn sĩ
Việt Nam chủ yếu là lớp ngời có trí thức và tinh thần vì dân vì nớc nên
trong những điều kiện không thuận buồm xuôi gió, bất đắc chí với thời
cuộc vì vận mệnh dân tộc trong tay bọn xâm lợc hay kẻ thống trị mới,
đau lòng vì nỗi thống khổ của nhân dân, họ đều mang tâm trạng yếm thế.
Họ thờng từ quan về quê ở ẩn, lánh những thói tục, tránh tiếp xúc, hợp
tác với kẻ thống trị và chốn quan trờng nhiều điều thị phi, mâu thuẫn,
nhiều bất công ngang trái. Chúng ta có thể kể đến những nhân vật tiêu
biểu nh Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Võ Trờng

Toản, Nguyễn Thiếp...Nhìn chung ở Việt Nam ẩn sĩ thờng là loại ngời
đối chứng và phản biện về năng lực và đạo đức với kẻ cầm quyền. Còn
trong những thời kỳ đất nớc bị ngoại xâm đô hộ, họ là một trong những
bằng chứng về tinh thần yêu nớc.
Điều đó cũng cho chúng ta thấy rằng quan hệ với chính trị xã hội
đơng thời của ẩn sĩ ở Việt Nam không quá phức tạp nh ở Trung Quốc.ở
Việt Nam không có loại ẩn sĩ hợp tác làm tay chân cho kẻ thống trị,
không có loại xu nịnh chạy theo giai cấp thống trị. Do đặc điểm riêng về
truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, cách xử thế của con ngời Việt Nam
lấy nhân nghĩa và dân tộc làm đầu nên ở trong con ngời ẩn sĩ Việt Nam
có một sợi dây vô hình nối kết làm cho thống nhất với nhau. Đó là thái
độ bất hợp tác với chính trị đơng thời, tỏ rõ khí tiết của những con ngời
thực sự có tâm huyết lo nớc cứu đời, thơng dân tha thiết. Mọi hành
động,lời nói hay cả trong sáng tác văn chơng, họ đều bộc lộ tâm trạng
buồn chán, thái độ bi phẫn, uất giận trớc thực tại. Nhng hơn hết, họ sống
thanh cao, liêm khiết, giản dị, thậm chí họ sống nghèo khổ để có đợc sự
thanh tĩnh, thoải mái trong tâm hồn. Họ tìm về chốn quê yên bình đạm
bạc bầu bạn với thiên nhiên, cỏ cây sông núi, họ cũng thởng trà, uống rợu, ngắm hoa, sáng tác văn chơng...Những việc tởng chừng có thể làm
cho con ngời ta chìm dần vào quên lãng mọi việc khác trên đời, thoả mãn
15


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

với cuộc sống mới tự do tự tại, thanh thản mọi bề. Nhng ẩn sĩ Việt Nam
phần đông không có xu hớng đi tìm sự thoát ly tuyệt đối. Họ không
thành "sao rợu" nh Lý Bạch hay Đào Uyên Minh, say bất tận dể tìm thấy
sự thăng hoa trong cõi lòng. Mà họ vừa say vừa tỉnh. Say để quên đi

những bất mãn cuộc đời, tỉnh để nhận ra mình bất lực trớc thời thế, cảm
thấy day dứt với lơng tâm, với nhân dân lầm than mà không làm gì đợc.
Họ có mâu thuẫn giữa hai con ngời trong một con ngời. Bởi vậy mà cái lẽ
xuất-xử của trí thức phong kiến Việt Nam không dễ dàng, đơn giản. ẩn
sĩ Việt Nam vẫn canh cánh một nỗi lòng trung quân ái quốc không lúc
nào nguôi. Thực sự họ cha thể"thoát tục" hoàn toàn mà họ còn nặng nợ
với dân, với nớc.
Với tấm lòng "cuồn cuộn nớc triều đông",Nguyễn Trãi sống và
hành động không cho riêng mình mà vì một lý tởng cao đẹp: lý tởng
nhân dân. "Ngay cả khi ông về ở ẩn, đó cũng là một cách ẩn đặc biệt,
điển hình, không có sự nhẹ nhõm, h tâm, không có sự an bần lạc đạo, độc
thiện kì thân, mà luôn trăn trở, bồn chồn, khắc khoải vì đất nơc, vì" cật lng hồ hải đặt cha an.""[17; tr 209 ]. Ngay cả khi ông tuyên bố thây kệ
cuộc đời, ông quên hết mọi thứ xung quanh, ông xem mình nh ngời đã
"điếc hai tai", không cần đếm xỉa gì tới sự đời nữa, thậm chí cả bản thân,
cả chữ nghĩa, nhng:
Nhân gian mọi sự đều nguôi cả
Một sự quân thân chăng khứng nguôi
(Tự thán-bài 36)
Chữ học ngày xa quên hết dạng
Chẳng quên có một chữ cơng thờng
(Tự thán- bài 12)

16


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Chỉ đọc vậy thôi, hai chữ "quân thân" và "cơng thờng" cũng đủ

cho ta thấy sự mâu thuẫn, giằng xé dữ dội nh thế nào trong lòng Nguyễn
Trãi. Cho nên suốt đời ông băn khoăn xuất và xử đều không thanh thản.
Nguyễn Bỉnh Khiêm thì nặng một " tấm lòng tiên u đến già cha
thôi". Cuộc đời ông phần lớn sống nh ẩn sĩ. Vì chán ngán bất mãn với
cuộc đời nên không ra làm quan. Nhng khi đã phò giúp nhà Mạc thì ông
cũng cố gắng hết sức, đem tài đức của mình thực hiện cho đợc lý tởng"
trí quân trạch dân" nh Nguyễn Trãi. Đó là một con ngời biết"tiên u hậu
lạc", có trách nhiệm. Ông cảm thấy "thẹn" với nhân dân, với non sông
đất nớc, với chính mình bởi sự " bất tài" (thực ra là bất lực trớc thời cuộc)
của mình. Ông ngậm ngùi viết :"Giúp nớc thơng dân cha thoả lòng ta hồi
trớc, băn khoăn rất thẹn già không có tài" ( Trung tân quán ngụ hứng).
Ông đã thú nhận sự bất lực của mình để rồi trở lại am Bạch Vân, sống cái
cảnh "Một mai, một cuốc, một cần câu" đến trọn tuổi trời. Ông không
gặp thời nên học vấn của ông không đợc dùng, ý muốn của ông không đợc toại nguyện. Cuối cùng, cũng nh Chu An xa, ông đành treo mũ từ
quan để bảo toàn danh tiết.
Nguyễn Khuyến lại khác, "vấn đề xuất-xử ở Nguyễn Khuyến
không đặt ra một cách nóng vội, ồn ào nh ở Nguyễn Công Trứ, cũng
không đặt ra một cách day dứt nh ở Nguyễn Trãi" [3 ;tr 205]. Nề nếp
cuộc sống Nguyễn Khuyến có khác, nó đi vào thế ổn định, kẻ sĩ không
phải lựa chọn gì mà chỉ việc học- thi đỗ- làm quan.Vì vậy mà gặp đợc
đấng minh quân, đất nớc thịnh trị thì "nhập thế".Ngợc lại, chẳng may gặp
phải hôn quân bạo chúa, đất nớc rối ren, loạn lạc thì "ẩn" là hơn. Nguyễn
Khuyến cũng nh Nguyễn Đình Chiểu, làm quan nhng không có những bớc thăng trầm nh Nguyễn Trãi, không có sự gắn bó máu thịt, vào sinh ra
tử với sự an nguy của đất nớc nh Nguyễn Trãi nên dù sao ông cũng xem
cái việc về hay ở không quá đỗi năng nề. Tuy vậy, ông lui quan về ở ẩn
khi thực trạng đất nớc bị thực dân Pháp xâm chiếm, đô hộ; biết rằng

17



Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

chẳng hợp tác với triều đình phong kiến nhu nhợc và cũng chẳng làm tay
sai cho giặc là một điều đáng tự hào, nhng sao lòng ông đau nhói, không
yên. Đất nớc loạn lạc, dân tình khốn khổ, làm bậc đại nho, hiền sĩ nh ông
mà " bó tay" thì ông cũng đã tự lấy làm "thẹn":
Vô tài cự khả khinh đầu bút
Hữu dục an năng bất sỉ bào?
(Bất tài há dám xem nhẹ việc vứt bút theo quân,
Còn ham muốn, sao cho khỏi thẹn với tấm áo?)
(Bắc quy lu giản tại Kinh ch đồng chí)
Một nỗi thẹn rất con ngời!
Ngời ta thờng bảo sống trong cái khổ, con ngời thiếu ý thức là con
ngời an phận thủ thờng, mặc nhiên chấp nhận cái khổ nh số phận đã an
bài, nhng con ngời có ý thức là con ngời khổ hơn cả. Cái khổ có ý thức là
cái khổ giằng xé trong nội tâm, ý thức đợc cái gì đã khiến mình phải khổ,
càng cố thoát thì càng vớng vào rối hơn, càng chìm sâu hơn-những bi
kịch cuộc đời.
Thực ra, xuất hay xử, giúp đời hành đạo hay ẩn dật tránh đời là hai
mặt thống nhất trong cách xử thế của Nho gia. "Xuất xử-ra làm quan hay
không ra làm quan-vốn là một vấn đề lớn thờng làm các nhà Nho băn
khoăn, suy nghĩ. Nó không chỉ là chuyện quyết định nhận hay không
nhận một chức vụ mà là lựa chọn một thái độ sống"[3;tr 204 ]. Qua sự
lựa chọn đó, ta biết đợc phẩm chất đạo đức, thái độ chính trị của một con
ngời.
1.2.ý nghĩa của việc nghiên cứu hình tợng ẩn sĩ
Hình tợng ẩn sĩ trong đời sống đã đi vào văn học một cách tự nhiên
và sinh động. Nghiên cứu hình tợng ẩn sĩ giúp ta thấy đợc khả năng h

cấu, nghệ thuật hoá hình tợng này của các tác giả thơ ca văn học trung
đại. ẩn sĩ trong Văn học trung đại Việt Nam vừa có điểm giống vừa có

18


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

điểm khác với ẩn sĩ trong Văn học trung đại Trung Quốc. Có thể nói
điểm giống đợc tạo nên do sự ảnh hởng nhiều mặt của Trung Quốc đối
với Việt Nam. Có điều này là bởi nền văn hoá, văn học Trung Quốc vốn
là nền văn minh lớn, đặc biệt chế độ nghìn năm Bắc thuộc với t tởng
"đồng hoá" đã ảnh hởng không nhỏ đến Việt Nam. Nhng với sức mạnh
nội lực tiềm tàng của một dân tộc vốn có truyền thống đấu tranh , vơn lên
tự khẳng định mình, Việt Nam đã giữ vững thế độc lập phát triển của
mình. Vì vậy mà trong nhận thức của con ngời Việt Nam nói chung, của
ngời trí thức Việt Nam nói riêng vẫn có xu hớng đề cao bản sắc dân tộc
mình để tồn tại cùng cờng quốc phía Bắc. Chúng ta đều biết rằng con ngời Việt Nam vừa có tính cộng đồng, tập thể nhng cũng có tính tự trị ngay
trong bản thân, làng xã của mình. Chính điều này đã tạo nên nét riêng
của con ngời Việt Nam. Và cũng chính điều này đã tạo cho Việt Nam
một thế đứng, thế phát triển độc lập, không bị phụ thuộc vào Trung Hoa.
Từ đây ta dễ dàng hiểu đợc văn hoá, văn học Việt Nam bên cạnh điểm tơng đồng với văn hoá, văn học Trung Quốc vẫn có những điểm khác biệt.
Sự giống và khác nhau về hình tợng ngời ẩn sĩ trong văn học trung
đại của hai nền văn học nh đã phân tích ở trên cho ta thấy rằng : mỗi nền
văn hoá khác nhau, điều kiện chính trị xã hội khác nhau sẽ làm cho hình
tợng nhân vật này khác nhau. Do vậy cá tính nhân vật văn học cũng khác
nhau( quan niệm, suy nghĩ, hành động ,...). Không những thế, ta còn thấy
đợc sự tồn tại và phát triển của tầng lớp trí thức phong kiến cũng nh lịch

sử chính trị. xã hội thời phong kiến ở Việt Nam, Trung Quốc. Đặc biệt là
sự phát triển cá tính của con ngời thời đại mà trung tâm ở đây là ngời ẩn
sĩ.Không những thế, nghiên cứu hình tợng này một cách hệ thống, logic,
khoa học còn giúp ta hiểu sâu, dạy và học tốt những bài thơ về hình tợng
này.

19


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Chơng 2: Hình tợng ẩn sĩ trong quốc âm thi tập
qua những hồi cố.
2.1 Những giới thuyết cần thiết.
"Hồi" có nghĩa là về, "cố" là những cái cũ đã qua, những cái thuộc
về quá khứ. Nh vậy có thể hiểu "hồi cố" là nhìn lại, ngẫm lại, trở về với
quá khứ.
Vậy tại sao con ngời lại thờng nhìn về quá khứ? "Hồi cố" để tự soi
ngắm lại chính mình, hành vi, thái độ sống của chính mình ở quá khứ. Có
thể nói khi ngời ta nhìn lại quá khứ cũng là một cách bày tỏ thái độ đối
với hiện tại. Một khi đã phủ nhận hiện tại thì trong tâm trí con ngời, quá
khứ là tất cả những gì tốt đẹp, đáng trân trọng và họ xem đó nh là chuẩn
mực để tự soi mình vào, ngắm lại mình xem ý nghĩ, hành động ở hiện tại
có xứng đáng với quá khứ hay không. Họ nhìn lại, soi mình vào quá khứ
để rồi bộc lộ cảm xúc, suy t, bày tỏ thái độ của mình. Đặc biệt đối với
các thi nhân, tầng lớp trí thức Nho học - những ngời chịu ảnh hởng sâu
sắc văn hóa Trung Hoa - văn hóa "sùng cổ" thì đây không chỉ là việc
hứng thú đơn thuần mà còn trở thành một nhu cầu cảm xúc, một hoạt

động tinh thần.
Do đặc thù của lao động sáng tạo nghệ thuật, các thi nhân dù bằng lòng
hay không bằng lòng với thực tại vẫn so sánh thực tại với quá khứ để rồi qua
đó những giá trị của quá khứ, của thực tại đều hiện rõ hơn và đồng thời thái độ
của nhà thơ cũng nổi bật hơn. Đối với những ngừơi ẩn dật thì việc làm này lại
càng thờng thấy. Quá khứ với họ là những triều đại hiển hách hoặc nơi họ đã
từng làm việc, cống hiến, là những sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ hay những
nhân vật, những con ngời mà họ tâm đắc.
2.2 Hình tợng ẩn sĩ qua những hồi cố.
Đọc 254 bài thơ chữ Nôm trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi,
ta bắt gặp nhiều tâm sự: tâm sự của một nhà Nho yêu nớc thơng dân; một

20


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

bậc "đại trí, đại nhân, đại dũng" muốn đem hoài bão khát vọng làm đẹp cho
dân cho nớc nhng đành bất lực trớc thời cuộc nên luôn mang trong mình
tâm sự của một "con chim đại bàng không đợc sải cánh bay"; tâm sự của
một nhà Nho ẩn dật vui thú nhàn; một triết gia bàn luận với đời... và cả tâm
sự hoài cổ, hồi cố những nổi niềm sâu kín. ở chơng này, chúng ta tìm hiểu
sâu về những hồi cố của ngời ẩn dật trong tập thơ.
Khi đã sống ẩn dật, ngời ẩn sĩ vẫn không lúc nào nguôi nhớ về quá
khứ. Cũng nh những ẩn sĩ xa, khi bất đắc chí với thời cuộc, với chính sự
thì ông tìm về "một thời vang bóng" để tự ngắm lại mình, nhớ tiếc những
ngày đã qua và suy xét công việc hiện tại. Ông đã từng có một thời oanh
liệt bên lãnh tụ Lê Lợi. Ông là quân s tài ba, đắc lực của Lê Lợi trong

những ngày tháng chống quân Minh "nếm mật nằm gai" nhng thật vẻ
vang, hoành tráng. Để có chiến thắng Lam Sơn lẫy lừng đó không thể
không kể đến công lao to lớn của ông. Tên ông cùng với Lê Lợi đã trở
thành niềm tự hào dân tộc. Lịch sử đã chuyển dịch theo bớc đi trí tuệ của
các ông. Trong tâm thức con ngời Việt Nam, Nguyễn Trãi là môt nhà
chính trị lỗi lạc, một nhà quân sự đại tài, một nhà t tởng ngoại giao giỏi
giang tháo vát, một nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông đã thật sự hài lòng
với công việc trong những ngày tháng trọng đại ấy:
Trí qua mời mới khả rằng nên,
ỷ lấy nho, hầu đấng hiền.
Đao bút phải dùng tài đã vẹn,
Chỉ th nấy chép việc càng chuyên.
Vệ Nam mãi mãi ra tay thớc,
Điện Bắc đà đà yên phận tiên,
Nghiệp Tiêu Hà làm khá kịp .
Xa nay cũng một sử xanh truyền.
(Bảo kính cảnh giới - Bài 56)

21


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Vậy thì tại sao một con ngời nh ông lại lâm vào hoàn cảnh bế tắc
và muốn rời xa quan trờng? Lý giải điều này ta sẽ thấy ẩn trong con ngời
của"khí phách và tinh hoa của đân tộc là một con ngời luôn mang trong
mình vết thơng lòng, nỗi đau đời mà triều đại phong kiến đã gây nên cho
ông. Cái buồn ấy càng đợc bộc lộ rõ trong thơ bao nhiêu thì ta càng dễ

nhận thấy tâm sự của con ngời ngoài đời có một tâm hồn sáng nh gơng,
trong nh ngọc.
Những nguyên nhân đa Nguyễn Trãi đến tâm thế bi quan, chán
nản và lo sợ là gì? Ngợc dòng lịch sử ta trở về với thời kì đầu nhà Hậu Lê
sau chiến thắng quân Minh xâm lợc. Quan lại trong triều thì thoả mãn
với những gì đã và đang có nên sinh ra t tởng ham địa vị, danh lợi, kèn
cựa, bè phái, sa vào vòng ăn chơi hởng lạc. Trong triều đình, bọn xu
nịnh, thần quyền dèm pha trung thần, nghi kị lẫn nhau:
Hai chữ công danh chăng dám cóc
Một trờng ân oán những hăm he
(Trần tình- bài 8)
Đến cả Lê Lợi, con ngời anh hùng sáng suốt biết bao trong kháng
chiến, thì đến lúc này cũng tỏ ra đa nghi, chăm lo cho ngôi báu, cho
quyền lợi dòng họ của mình. Ông để cho bọn gian thần xúc xiểm, đến
nỗi ngay năm thứ hai và thứ ba của triều đại mình, ông đã giết luôn hai
công thần, hai đại tớng tài giỏi là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo;
chỉ vì lí do một ngời là dòng dõi nhà Trần, một ngời là ngời Kinh lộ.
Nguyễn Trãi là ngời trung trực, không hay khuất trớc bất kì uy vũ nào.
Nhng trong hai trờng hợp này, ông không làm gì đợc. Vì xét ra trong hai
tội ngời ta quy cho Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, bản thân ông lại
có cả hai. Ông sinh trởng tại Hà Nội, trong dinh quan t đồ Trần Nguyên
Đán( ông ngoại của ông). Nguyễn Trãi đã từng làm quan với nhà Hồ ở
kinh đô và bị quân Minh giam lỏng trên dới mời năm ở đó. Còn nh dòng

22


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành


dõi nhà Trần thì ông lại là ngời anh em cô cậu với Trần Nguyên Hãn
(Hãn là cháu nội Trần Nguyên Đán)[9; tr 773-774]. Ông đã chua xót
nhận ra rằng "Dới công danh đeo khổ nhục" (Ngôn chí- bài 2). Hơn nữa
bọn gian thần vốn không a ông nên xúc xiểm vua giết hại hai công thần
vì biết rằng ông sẽ lên tiếng can thiệp, bênh vực. Nhân thể,chúng dựa vào
đó để xúi vua giết ông. Và sau hai vụ án bất công này, bản thân Nguyễn
Trãi cũng đã bị nghi ngờ, bị bắt giam. Nguyễn Trãi cảm thấy hoảng hốt
trớc thực tại ấy, ông thốt lên:
Khó ngặt qua ngày, xin sống
(Tự thán - bài 28)
Ông thấy "Dơng trờng đờng hiểm khúc co que" (Tự thán- bài 3) và rút ra
lời nhận xét nh một tất yếu:
Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc
Cho hay đờng lợi cực quanh co
(Ngôn chí- bài 19)
T tởng bi quan của Nguyễn Trãi phát sinh từ đấy, và rủi thay ngày
càng có cơ phát triển với sự kế ngôi của Lê Nguyên Long, con trai Lê
Lợi, một ông vua mời tuổi, với sự chấp chính quái gở của một lũ gian
thần thô lỗ, thiển cận nh Lê Vấn, Lê Sát và vây cánh của chúng. Những
sự dèm pha, thị phi, giết chóc ngời trung thực ngày càng gia tăng.
Nguyễn Trãi bị dồn vào thế cô lập và vào hoàn cảnh luôn luôn phải nơm
nớp lo sợ cho danh tiếng và tính mạng của mình. Thực tại ấy khiến
Nguyễn Trãi nguội lạnh chí khí làm chim bằng chim phợng, cảm thấy
chán nản và muốn về nghỉ.
Nguyễn Trãi ngẫm nghĩ, day dứt nhiều cho cái thế đạo hỗn loạn,
ngặt nghèo, ghê gớm và cảm thấy ghê sợ cái "biển hiểm" của lòng ngời
gian ác, khôn cùng:

23



Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

Biển hiểm ngời gian ai kẻ biết
Ghê thay thế nớc vị qua mềm
(Tự thuật- Bài 4)
Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng ngời quanh nữa nớc non quanh
(Bảo kính cảnh giới- bài 9)
Dễ hay ruột bể sâu cạn
Khôn biết lòng ngời vắn dài
(Ngôn chí - bài 5)
2.2.1. Quê nhà qua hồi cố của ẩn sĩ
Những nguyên nhân trên luôn khiến ẩn sĩ rơi vào tâm trạng bất đắc
chí.Vì vậy mà khi còn ở triều, một mặt ông quyết tâm đem hết tài sức ra
phò vua giúp nớc, nhng mặt khác ông vẫn nghĩ đến chuyện "quy ẩn",
"quy sơn". Đây chính là đặc điểm riêng trong cách ẩn của Nguyễn
Trãi.Lúc bất nh ý thì dù ẩn hay cha, trong ông đã mang sẵn tâm trạng
yếm thế. Thế nên việc ông mơ đợc trở về cũng là lẽ thờng tình. Có những
bài thơ chữ Hán ông viết chủ yếu lúc đơng làm quan, vậy mà trong con
ngời ông đã từng mơ đến:
Miên tởng cố viên tam kính cúc,
Mộng hồn dạ dạ thớng quy đao
(Luống mơ tởng đến ba luống cúc nơi vờn cũ,
Đêm hồn mộng cứ muốn theo chiếc thuyền con mà về)
(Thu nhật ngẫu thành)
Những lúc đau khổ chuyện triều chính, thế sự là ông lại mơ ớc cái

thân nên nhàn, xa lánh chốn thị phi nhiều chuyện để đợc trở về với cảnh
cũ ngời xa, trở về quê cũ nơi thôn giã yên bình. Trong tập thơ Quốc âm
cũng có không ít bài thơ ông làm lúc đơng quan, đó có lẽ là thời gian

24


Khoá luận tốt nghiệp

Sinh viên: Phạm Thị Thành

nhiều lo nghĩ của cuộc đời ông. Ông đã từng giãi bày ở bài thơ đầu, rằng
"triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải". Tại sao lại nh vậy? Có thể hiểu
đây là quãng thời gian ông bị nghi ngờ có liên quan đến vụ án Trần
Nguyên Hãn. Tuy đợc tha nhng ông không đợc trọng dụng, không đợc
giao phó công việc nhng ông cũng cha đợc lui về. Có lẽ vì thế mà quê cũ,
làng cũ cứ trở đi trở lại trong giấc mơ của ông nh thế:
Cảnh cũ non quê nhác chốc mòng
Chiêm bao ngờ đã đến trong(lòng)
(Thuật hứng- bài 6)
Phần du lẽo đẽo thơng quê cũ
Tùng cúc bù trì nhớ việc hằng
(Ngôn chí- bài 15)
Non quê ngày nọ chiêm bao thấy
Viên hạc chăng hờn lại những thơng
(Tự thán bài 1)
Ông khao khát trở về quê, sống cuộc sống thanh nhàn, yên ả, bình
lặng, thoát khỏi thực tại bụi bặm đầy rẫy những xấu xa, tàn nhẫn, giả dối:
Hàng chim ngủ khi thuyền đỗ,
Vừng nguyệt lên thuở nớc cờng.

Mua đợc thú mầu trong thuở ấy,
Thế gian hay một khách văn chơng.
(Trần tình- bài 5)
Thế nhng, đối với ông, không đơn giản chỉ là muốn về quê cũ để đợc
thanh nhàn. Đằng sau cái ớc muốn đó của ngời ẩn sĩ ẩn chứa nhiều tâm
sự sâu kín của Nguyễn Trãi. Có thể nói quê cũ đã gợi cho ngời ẩn dật ấy
nhớ đến ớc mộng sự nghiệp từ thuở xa luôn canh cánh bên lòng. Vì thế
nhớ quê cũ là ông nhớ tới tâm nguyện cống hiến hết mình cho đất nớc
đến nay vẫn cha hoàn thành. Quê nhà thì vẫn thế, ớc mộng thì mỗi ngày

25


×