Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Con người trong truyện ngắn nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.94 KB, 84 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Nguyễn thị tuyết mai

Con ngời trong truyện ngắn
nguyễn minh châu
Chuyên ngành:
Mã số:

Lý luận văn học
60.22.32

Luận văn thạc sỹ ngữ văn
Ngời hớng dẫn khoa học:
ts. hoàng mạnh hùng

Vinh - 2006
mở đầu

1. Lý do chọn đề tài.
1.1 Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) thuộc vào những tác giả hàng đầu
của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình bằng
truyện ngắn "Sau một buổi tập" (1960) cho đến tác phẩm cuối cùng "Phiên chợ
Giát" (1989), Ông đã có 29 năm cầm bút và đạt nhiều thành công trên các thể
loại khác nhau nh: Tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình,
Nhà văn - chiến sỹ Nguyễn Minh Châu đã thành tâm hoà vào dòng ngời "xẻ dọc
trờng sơn đi cứu nớc", sống và sáng tác trong khao khát bằng ngòi bút của mình
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh cho quyền sống tự do của dân tộc.




2

Khởi nguồn từ hiện thực chiến đấu vĩ đại của dân tộc, hàng loạt tác phẩm
của Nguyễn Minh Châu viết trong khói lửa chiến tranh: Cửa sông, Dấu chân
ngời lính, Lửa từ những ngôi nhà, Mảnh trăng, Bên đờng chiến tranh, lần lợt ra đời khẳng định vị trí vững vàng và phần đóng góp kịp thời quý giá của nhà
văn vào sự nghiệp chiến đấu và nền văn học chống Mỹ - "Một trong những nền
văn học nghệ thuật tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc".
Từ sau 1975 đất nớc thống nhất, ngời nghệ sỹ đầy mẫn cảm và tâm huyết
Nguyễn Minh Châu lại sớm bắt nhịp vào cuộc sống mới của dân tộc, dũng cảm
tham gia vào cuộc "Chiến đấu cho quyền sống của từng con ngời", các tác phẩm:
Miền cháy, Mảnh đất tình yêu, Ngời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến
quê, Cỏ lau, Phiên chợ Giát cùng hàng loạt bài phê bình tâm huyết và sắc sảo,
Nguyễn Minh Châu thực sự là cây bút tiên phong "ngời đã đi đợc xa nhất" trong
cao trào đổi mới văn học.
1.2 Sáng tác của Nguyễn Minh Châu khi miêu tả không khí hào hùng và
phẩm chất cao đẹp của con ngời Việt Nam trong chiến đấu, khi bộc lộ niềm lo
âu khắc khoải và khát vọng thức tỉnh lơng tâm trong cảm hứng nhân văn mãnh
liệt. Những tác phẩm đó đợc ngời đọc nhiệt tình đón nhận vì nó thực sự có ích
cho cách mạng và cuộc sống. Những tác phẩm đó còn đợc giới nghiên cứu đánh
giá cao và coi đó là một trong những hiện tợng văn học "ở sáng tác của Nguyễn
Minh Châu, truyện ngắn bộc lộ ra những đặc tính của một thể loại u việt, mở ra
cho văn học những đề tài và vấn đề mới của đời sống nhân dân, những hình tợng
nhân vật mới. Các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đào sâu thêm ý niệm của
chúng ta về nớc Việt Nam hiện nay" [18, 361]. Với cống hiến xuất sắc của mình
trong hoạt động văn học nghệ thuật nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đợc Bộ quốc
phòng, Hội nhà văn Việt Nam trao tặng nhiều giải thởng có giá trị.
Việc tìm hiểu các tác phẩm của Ông là cần thiết và chắc chắn sẽ rút ra
nhiều bài học bổ ích cho nghiên cứu văn học xét từ nhiều phơng diện.

1.3. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có tác phẩm đợc đa
vào giảng dạy nhiều trong nhà trờng phổ thông nh: Bức tranh (Lớp 9), Mảnh
trăng cuối rừng (lớp 12). Đó đều là những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
sáng tạo của nhà văn ở từng thời kỳ khác nhau và là những tác phẩm ghi nhận sự
biến chuyển trong t duy nghệ thuật của tác giả.Vì thế việc nghiên cứu Nguyễn
Minh Châu sẽ góp phần nâng cao chất lợng giảng dạy tác giả này cả ở trờng phổ
thông và đại học.


3

1.4. Xuất phát từ sự trân trọng, ngỡng vọng về một thời đại văn học, một
tác giả văn học, cùng với hứng thú cá nhân, trong quá trình tiếp xúc, nghiên cứu
tác phẩm chúng tôi nhận thấy Nguyễn Minh Châu là nhà văn viết nhiều thể loại
nhng thành công nhất là truyện ngắn. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu luôn thể
hiện sự băn khoăn suy nghĩ, tìm tòi đổi mới. Do thời gian và năng lực còn hạn
chế ở đề tài nàychúng tôi tập trung nghiên cứu về con ngời trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu
2. Lịch sử vấn đề.
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn
xuôi đơng đại. Mỗi tác phẩm của ông là sự trăn trở, tìm tòi trong lao động nghệ
thuật với một tinh thần trách nhiệm cao. Nhà văn luôn đi cùng bớc đi của đất nớc và trong mỗi thời kỳ ông đều nhìn nhận rất kỹ, khá sâu và không bao giờ viết
vội vàng. Các sáng tác viết trong chiến tranh của ông từng là những bức tranh
hiện thực sinh động về con ngời và cuộc sống của nhân dân ta những năm chống
Mỹ và đợc đánh giá cao. Những năm sau chiến tranh, ông là nhà văn sớm nhất
có sự trăn trở, khát khao đổi mới văn học.
Khái quát về lịch sử nghiên cứu Nguyễn Minh Châu đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu nh "Nguyễn Minh Châu - tài năng và sáng tạo nghệ thuật"
của nhà xuất bản văn học thông tin; "Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh
Châu ( Sự hình thành những đặc trng) của Tôn Phơng Lan. " Nguyễn Minh

Châu - tác giả, tác phẩm"Tập hợp nhiều bài viết của các tác giả có tên tuổi
nh Nguyễn Văn Hạnh, Lã Nguyên, Phạm Quang long, Đinh Trí Dũng..Trong
các công trình nghiên cứu, vấn đề con ngời cũng đã đợc giới nghiên cứu quan
tâm đề cập đến và đợc nhìn nhận, đánh giá bằng hai giai đoạn: Trớc năm 1975
và sau 1975
2.1 Trớc 1975, những sáng tác viết trong thời kỳ chiến tranh, Nguyễn
Minh Châu quan tâm phản ánh và cổ vũ những phẩm chất yêu nớc, anh hùng của
nhân dân ta: Cửa sông, Dấu chân ngời lính, Mảnh trăng, Bên đờng chiến
tranhlà những tác phẩm tiêu biểu.
Con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trớc 1975 đã đợc các tác
giả nghiên cứu trong các công trình của mình nh trong "T tởng nghệ thuậtquan niệm về hiện thực và con ngời của Nguyễn Minh Châu" tác giả Tôn Phơng Lan cho rằng "Những phẩm chất đẹp đẽ, cao quý của con ngời Việt Nam
trong cuộc sống chiến đấu và lao động hàng ngày đã đợc ông thể hiện ở những
dáng vẻ khác nhau"[22, 37]. Đến "Nhân vật trong sáng tác của Nguyễn


4

Minh Châu ", tác giả Tôn Phơng Lan phát hiện ra " Sự ra đời của các loại hình
nhân vật tuỳ thuộc vào quan niệm sáng tác của mỗi nhà văn. Đối với Nguyễn
Minh Châu, hệ thống nhân vật đã phản ánh trung thành thế giới nghệ thuật cũng
nh quan niệm nghệ thuật về con ngời và hiện thực trong các chặng đờng sáng
tác"[22,70]. Qua nghiên cứu, tác giả bài viết cũng khẳng định "Vào trớc những
năm tám mơi, nhìn chung nhân vật của Nguyễn Minh Châu cha có nét riêng độc
đáo vì tác giả chủ yếu chỉ soi chiếu ở góc độ con ngời xã hội" [22, 70]. Nh vậy
có thể nhận ra trớc năm 1975 nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng hoà chung vào
văn mạch của dân tộc, văn học lúc này nhằm phục vụ cho lợi ích dân tộc, cho
cuộc kháng chiến. Đây cũng chính là điều mà tác giả Hồ Hồng Quang trong "
Tác phẩm viết về chiến tranh những năm 80, một sự chiêm nghiệm lại về
cuộc chiến và ngời lính cách mạng của Nguyễn Minh Châu " đã nhận định
"Trớc những năm 80, cảm hứng lịch sử và t duy sử thi đã hớng các nhà văn tới

cái nhìn con ngời làm chủ đất nớc, làm chủ dân tộc. Đó là con ngời có lý tởng,
xả thân vì nghĩa lớn, có đầy đủ tài năng, ý chí và nghị lực con ngời trong văn
học đợc nhìn nhận hết sức rạch ròi xấu - tốt, địch - ta, Cao cả - thấp hèn
Nguyễn Minh Châu nằm chung trong cảm hứng sáng tạo đó" [17, 233]. Nhận
định về văn học Việt Nam trớc năm 1975 và sáng tác của Nguyễn Minh Châu
trong thời kỳ này tựu trung lại các tác giả đều có chung nhận xét về sự ảnh hởng
của khuynh hớng văn học lúc bấy giờ là phục vụ chính trị "là con đẻ của Cách
mạng và những cuộc chiến tranh lớn, văn học Việt Nam trớc 1975 không thể
không mang những đặc điểm của một nền văn học thời chiếngắn bó với vận
mệnh của Tổ quốc, trớc 1975, văn học của chúng ta về cơ bản là một nền văn
học sử thi" [18, 340], vì lẽ đó "số phận văn chơng của Nguyễn Minh Châu gắn
liền với những bớc đi cơ bản của nền văn học Việt nam ở những thời điểm lịch
sửNguyễn Minh Châu thả con thuyền văn chơng của ông xuôi theo cái dòng
chảy đang có sức cuốn hút mạnh mẽ ấy" [18, 340].
2.2. Sau 1975, Nguyễn Minh Châu đợc coi là ngời có công đầu trong đổi mới t
duy nghệ thuật, trong miêu tả con ngời, đề tài'' Nguyễn Minh Châu là một
trong những nhà văn đợc coi là ngời đi tiên phong trong việc đổi mới văn học
những năm 80. Có một sự thay đổi lớn lao trong t duy nghệ thuật, thể tài , bút
pháp, giọng điệu, lời văn ở ngòi bút của anh so với giai đoạn sáng tác trớc. Sự
thay đổi và phát triển của t duy nghệ thuật, xét đến tận gốc, cái quan trọng nhất
là sự đổi thay quan điểm nghệ thuật về con ngời . Nguyễn Minh Châu có đợc sự
đổi thay này khá sớm so với đồng nghiệp" [18, 233]. Thời kỳ này ông nổi lên là
nhà văn viết về đời thờng với đầy những sự kiện nhân thế. Sau 1975 con ngời


5

trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu hiện lên chân thực hơn vừa có cái tốt vừa
có cái xấu, vừa có anh hùng lại vừa có kẻ hèn nhátSự đổi mới ấy đợc ông
chuyển tải hết trong tác phẩm của mình.

Nghiên cứu Con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 hầu
hết các tác giả đều nhận ra sự thay đổi trong t duy nghệ thuật của ông và phát
hiện ra những đổi mới tìm tòi trong sáng tác của ông. Nguyễn Văn Hạnh trong
bài viết " Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con
ngời" nhận xét " Nguyễn Minh Châu đã cảm nhận đợc ngày càng rõ nét những
chuyển động có ý nghĩa thời đại của cuộc sống và của văn học, và anh đã mạnh
dạn tự phủ định mình, đổi mới cách viết, từ một cách nhìn mới về con ngời, về
cuộc sống"[17, 120- 121]. Sở dĩ có sự thay đổi này bởi ''Nguyễn Minh Châu
không chấp nhận những quan niệm sơ lợc đơn giản về con ngời và cuộc đời"[18,
344]. Chính vì vậy trong bài viết " Thái độ của Nguyễn Minh Châu đối với
con ngời: niềm tin pha lẫn lo âu", tác giả Phạm Quang Long đã nhấn mạnh
"Cống hiến lớn nhất ở ông là sự thức tỉnh một ý thức mới, đúng đắn hơn trong
cách nhìn nhận đánh giá về con ngời"[18, 272- 273].
Tiến sỹ Đinh Trí Dũng trong "Nguyễn Minh Châu và sự trăn trở của
một ngòi bút đầy trách nhiệm" đã có cái nhìn khái quát về sáng tác của Nguyễn
Minh Châu trớc và sau năm 1975 "Trong những ngày mà đất nớc có chung hình
hài, có chung khuôn mặt- nh cách nói của một nhà thơ, Nguyễn Minh Châu đã
trăn trở đi tìm sự khác nhau giữa thế hệ cầm súng cha anh Anh đã có một cách
viết thật lạ, đọc cứ nh bị ám ảnh mãiNguyễn Minh Châu nh một ngời lính hành
quân không mỏi, luôn trăn trở đào sâu vào những tầng vỉa mới của đời sống,
phát hiện những kiểu ngời mới, những giá trị mới" [17, 134-135] và tác giả bài
viết cũng khẳng định " Sự đổi mới cách nhìn về con ngời đã đem lại cho tác
phẩm Nguyễn Minh Châu những gơng mặt lạ" [17, 135].
Lịch sử nghiên cứu con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã đợc đề cập ở các công trình trên, các nghiên cứu về con ngời trớc 1975 đợc đánh
giá chủ yếu theo quan điểm chính trị xã hội học, các tác giả khen nhiều nhng
chủ yếu chỉ đối chiếu nguyên mẫu, đào sâu khám phá cha nhiều. Nhìn chung
chúng ta thấy các ý kiến đa ra trong các công trình và bài viết đều xác đáng, đã
đánh giá đúng tài năng nghệ thuật Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn của
ông đặc biệt là những nghiên cứu về con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu sau 1975.



6

Một số cá nhân yêu thích và quan tâm đến Nguyễn Minh Châu đã đi tìm
hiểu con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nhng cũng chỉ dừng lại ở
một vài khía cạnh và ở một số tác phẩm nhất định. (Đây cha thể thành công trình
nghiên cứu),
Tuy nhiên, nếu đặt vấn đề nghiên cứu con ngời trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu một cách toàn diện và thấu đáo trên từng phơng diện thì chúng tôi
thấy qua các công trình, bài viết đã nêu trên đang còn tồn tại những khoảng
trống đáng kể. Vì thế ở đề tài này chúng tôi tiếp thu những ý kiến đánh giá của
các nhà nghiên cứu và bằng những cố gắng của mình, mong muốn đóng góp
một phần nhỏ bé để lấp bớt chỗ trống trong việc nghiên cứu con ngời trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
3 Đối tợng và mục đích nghiên cứu.
3.1. Đối tợng nghiên cứu.
Hình ảnh con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trớc và sau năm
1975 với tất cả các giá trị t tởng - thẩm mỹ của nó.
3.2.Mục đích nghiên cứu.
3.2.1 Phát hiện những vẻ đẹp của con ngời trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu.
3.2.2 Chỉ ra những đặc điểm miêu tả con ngời trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu.
3.2.3. Thông qua hình ảnh con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
tìm hiểu thêm về quan niệm nghệ thuật về con ngời của Nguyễn Minh Châu
4. Phạm vi nghiên cứu.
Thành tựu trong Văn nghiệp của Nguyễn Minh Châu đợc khẳng định ở
nhiều thể loại khác nhau: Tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, tiểu luận, phê
bìnhnhng thành công nhất là ở mảng truyện ngắn.

Do thời gian và năng lực có hạn, với giới hạn phạm vi nghiên cứu, ở đề tài
này chúng tôi tập trung nghiên cứu về con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu.
Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát qua các truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu trong tuyển tập " Nguyễn Minh Châu truyện ngắn"(2003) của Nhà xuất
bản Văn học Hà Nội.
5. Đóng góp mới của luận văn


7

5.1. Nhận diện những vẻ đẹp, những giá trị tinh thần mà hình ảnh con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã mang tới.
5.2. Lý giải những nguyên nhân, những tiền đề xã hội, lịch sử và nghệ
thuật của hình ảnh con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu .
5.3. Phát hiện thêm về phong cách, t tởng nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu qua hình ảnh con ngời trong truyện ngắn của ông.
6. Phơng pháp nghiên cứu
6.1. Phơng pháp cảm nhận phân tích, tổng hợp tác phẩm.
Đây là phơng pháp truyền thống đợc sử dụng nhằm soi sáng cho những
nhận định chung. Quá trình tìm hiểu con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu chúng tôi sẽ nêu và phân tích một cách xác đáng bằng các dẫn chứng cụ
thể.
6.2. Phơng pháp so sánh đối chiếu.
Để đề tài thêm phong phú, chúng tôi sẽ tạo ra một cái nhìn đối sánh về
con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trớc và sau năm 1975, từ đó có
cái nhìn khái quát về con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
6.3. Một số phơng pháp kết hợp
Do mục đích nghiên cứu đặt ra trong việc đi sâu tìm hiểu hình ảnh con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, ngoài các phơng pháp chính trên,
chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phơng pháp thi pháp học khác nh: Thi pháp tác
giả, thi pháp tác phẩm, thi pháp nhân vật. Trong chừng mực nhất định tạo điều

kiện cho chúng tôi nghiên cứu những phẩm chất, t duy nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu .
Các phơng pháp đợc sử dụng một cách hợp lý đã giúp tác giả phát huy
tính hiệu quả trong quá trình nghiên cứu hình ảnh con ngời và thế giới nghệ
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn đợc
trình bày trong 3 chơng
Chơng 1. Quan niệm nghệ thuật về con ngời của Nguyễn Minh Châu.
Chơng 2. Những biểu hiện của con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu.


8

Chơng 3. Nghệ thuật miêu tả con ngời trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu.

Chơng 1
quan niệm nghệ thuật về con ngời của
nguyễn minh châu

1.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong văn học Cách Mạng Việt Nam
sau năm 1945
Con ngời là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển của
văn học. Con ngời vừa là chủ thể nhận thức chủ yếu trong văn học, vừa là cái
đích để sáng tạo văn học hớng tới. Các sáng tạo về phơng pháp, phong cách thể
loại, ngôn ngữ kết cấu, chung quy đều góp phần tạo nên hình tợng nghệ thuật
mới mẻ, có chiều sâu về con ngời. Con ngời trong văn học do đó là nơi thể hiện
nghệ thuật, là phơng pháp sáng tác, phong cách, thế giới quan trong sự vận động.

Trên tinh thần Cách Mạng, M. Gorky đã nhìn nhận về con ngời: Con ngời
viết hoa, con ngời lao động, con ngời trong sự phát triển không ngừng các đạo
đức giá trị của cá nhân. Bởi vậy ông thực sự là ngời đặt nền móng cho một thời
đại văn học mới với một tầm cỡ mới.
"Sự nghiệp xây dựng một nền văn nghệ mới không tránh khỏi những cuộc
tranh luận lý thuyết về quan niệm của con ngời, lúc ngấm ngầm, lúc công khai.
Sau năm 1945 cách mạng đã mở ra một chân trời mới cho con ngời vơn lên tự
khẳng định mình. Vì vậy quan niệm nghệ thuật về con ngời trong văn học cách
mạng Việt Nam sau 1945 cũng đã đợc đặt lại vấn đề quan niệm nghệ thuật về
con ngời" [34,224]. Gắn liền với hoàn cảnh lịch sử, với yêu cầu lịch sử, văn học
lúc này đặt vấn đề dân tộc lên trên tất cả, cái tôi bộc lộ chủ yếu trên các vấn đề
dân tộc
Các nhà thơ cách mạng hiện diện với trách nhiệm trớc cuộc đời hiện tại,
khẳng định niềm tin vào tơng lai của đất nớc. Văn học cách mạng là văn học của


9

con ngời mới, con ngời cộng đồng, trong cái tôi mỗi ngời có cả một hệ thống cái
tôi khác nhau. Con ngời hớng về tình cảm chung của cộng đồng, cái tôi, cái ta
hoà hợp khẳng định sự chung sức, chung lòng cho sự nghiệp đánh giặc cứu nớc đó là cái tôi sử thi
1.1.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con ngời
Văn học là hình thức nghệ thuật đầy tính sáng tạo, theo Gorky "Văn học
là nhân học" vì thế con ngời là đối tợng chủ yếu, chiếm vị trí trung tâm trong
văn học "dù miêu tả theo hình thức nào, thần linh, ma quỷ, miêu tả đồ vật hoặc
đơn giản là miêu tả các con vật văn học đều thể hiện con ngời" [33, 43].
Quan niệm nghệ thuật về con ngời là một khái niệm trung tâm của thi
pháp học có nội hàm phong phú và phức tạp. Ngời đọc muốn lĩnh hội đợc khái
niệm này mà tác giả hiểu nó thông qua tác phẩm cụ thể hay hiểu nó một cách
chung chung khái quát nhất thì trớc hết phải hiểu đợc " Con ngời là gì?".

Khái niệm con ngời đợc nhiều ngành khoa học nh: sinh học, tâm lý học,
xã hội học, triết học, văn học... quan tâm nghiên cứu. Mỗi ngành khoa học
nghiên cứu một khía cạnh khác nhau và vấn đề con ngời đã trở thành tâm điểm
chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học trên thế giới cũng nh ở nớc ta.
Tìm hiểu vấn đề này cũng là khám phá một phơng diện quan trọng trong thế giới
nghệ thuật của nhà văn.
Nội hàm khái niệm con ngời rất rộng, có một số quan niệm của triết học
về con ngời hữu ích đối với việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con ngời.
Triết học phơng đông: Ngời phơng đông có quan niệm " Tam giáo đồng
nguyên"( Đạo giáo, nho giáo, phật giáo) nên họ xem con ngời là một tiểu vũ
trụ,con ngời và vũ trụ giao cảm hài hoà. ở Trung Quốc ngời xa quan niệm "
Nhân thân- Tiểu thiên địa" hay theo quan điểm của Lão Tử "Nhân pháp địa, địa
pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên"
( Con ngời thuận theo lẽ tự nhiên).
ở ấn Độ các triết gia quan niệm: Thế giới này là Đại vũ trụ, còn gọi là
Đại ngã và con ngời là tiểu vũ trụ còn gọi là Tiểu ngã. Và con ngời chỉ có thể
tìm đợc giá trị tuyệt đối, tự do tinh thần, thấu đạt chân lý khi thâm nhập vào
Brrahamn tạo nên trạng thái " ngộ" đạo.
Triết học duy tâm: cho rằng con ngời do thợng đế sinh ra. Theo Tômat
Đacanh( 1225- 1274) đã khẳng định:Giới tự nhiên do thợng đế sáng tạo ra từ h
vô. Sự phong phú của nó là do sự thông minh của thợng đế mà ra.


10

R. Đề các (1596 - 1650) quan niệm con ngời sớm tách khỏi vũ trụ để
khẳng định mình nh một thế giới độc lập với vũ trụ, ông nhấn mạnh "Tôi t duy
tức là tôi tồn tại" nghĩa là sự tồn tại của con ngời không phải do sự quy định của
một lực lợng siêu nhiên nào đó mà chính do quá trình hoạt động của mình.
Triết học duy vật máy móc lại cho rằng con ngời là sản phẩm của tự

nhiên. Tuy nhiên con ngời cũng chỉ bị động trớc sự chi phối của thiên nhiên
Triết học duy vật biện chứng: Triết học Mác xác định giá trị con ngời cá
nhân từ bản thân con ngời với t cách là chủ thể và khách thể của các mối quan
hệ xã hội. Theo chủ nghĩa Mác, mỗi cá nhân có ý nghĩa nh là một bộ mặt xã hội
của con ngời, nh là kết quả của việc xã hội hoá cá thể con ngời và cá nhân cũng
tìm thấy mình trong xã hội. Mác - ăng ghen đã đa ra một quan niệm mới mẻ
đúng đắn nhất về bản chất con ngời "Trong tính hiện thực của nó con ngời đã
tổng hoà các mối quan hệ xã hội". Theo cách nói của Mác thì chúng ta -phải tính
đến các quan hệ tự nhiên của con ngời hay các mối quan hệ tự nhiên của họ
cũng đợc xã hội hoá.
Quan niệm về con ngời trong triết học hoặc đóng vai trò phạm trù, hoặc
có mối liên hệ chi phối, quen thuộc với cái tôi trữ tình trong văn học. Con ngời
trong văn học thực chất là sự cắt nghĩa và quan niệm về con ngời đợc thể hiện
bằng hình tợng nghệ thuật, trong các bình diện con ngời đợc miêu tả, trong tơng
quan với không gian, thời gian và trong các nguyên tắc miêu tả tính cách, tâm
lýđợc nhìn nhận xem xét trong các mối quan hệ với cộng đồng, tự nhiên và
phải chính bản thân mình. ở đó con ngời không đơn giản xuôi chiều nữa mà
phong phú và phức tạp nh chính bản thân con ngời trong cuộc sống, xã hội, ngời
ta gọi đó là quan niệm nghệ thuật về con ngời.
Quan niệm nghệ thuật về con ngời là một khái niệm trung tâm của thi
pháp học, nó có sự gắn bó với thế giới quan nhng không đồng nhất với thế giới
quan của nhà văn. Một tác phẩm có giá trị chính là ở chỗ nó đã hiểu, đã cảm
nhận và chiếm lĩnh con ngời sâu sắc ở mức độ nào. Văn học là nhân học, nhiệm
vụ hàng đầu của văn học đó là nghiên cứu về con ngời, mọi sự miêu tả về con
ngời phải đựơc bắt nguồn từ quan niệm về con ngời. Đây không phải là quan
niệm trừu tợng, đây là cách hình dung về con ngời, nhng cách hình dung này
không hoàn toàn mang tính cá nhân mà nó có quy luật văn hoá trong xã hội, nó
gắn liền phơng tiện và chất liệu ngôn từ, gắn liền phơng tiện và những thủ pháp
biểu đạt nhất định.



11

Con ngời trong tác phẩm văn học đợc nhà văn tạo nên từ các phơng diện
nghệ thuật. Thông qua các tác phẩm văn học, Nhà văn khơi gợi những rung
động, tình cảm về cuộc đời, về số phận của con ngời, gợi mở ra mối quan hệ
giữa con ngời và thế giới trong mối liên hệ quá khứ, hiện tại, tơng lai với khát
vọng vơn tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ "... phản ánh nghệ thuật xuất phát từ thế
giới con ngời và hớng về thế giới đó" [13, 159].
Quan niệm nghệ thuật về con ngời có một ý nghĩa rất quan trọng trong
thi pháp học cũng nh trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, vì nó thể
hiện cách thức và mức độ cảm nhận đời sống của nhà văn. Với một quan niệm
nghệ thuật nào đó thì nhà văn có thể miêu tả một số phơng diện đời sống con ngời nhng không miêu tả đợc một cách đầy đủ các phơng diện khác. Muốn miêu tả
phơng diện đời sống khác thì nhà văn phải thay đổi quan niệm nghệ thuật về con
ngời .
Quan niệm nghệ thuật về con ngời luôn hớng vào con ngời trong mọi
chiều sâu của nó cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị
nhân văn vốn có của văn học và cũng là tiêu chuẩn để đánh dấu chiều sâu quan
niệm của nhà văn.
Trong văn học con ngời là trung tâm. Do đó quan niệm nghệ thuật về con
ngời là phạm trù cơ bản, là yếu tố trung tâm chi phối các yếu tố khác của tác
phẩm. Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể - chỉnh thể của sáng tạo
nghệ thuật. Chính vì vậy quan điểm nghệ thuật về con ngời đợc thể hiện trong
toàn bộ cấu trúc của tác phẩm văn học. Con ngời trong văn học đợc thể hiện tập
trung trớc hết ở các nhân vật, bởi Nhân vật văn học là con ngời đợc miêu tả, thể
hiện trong tác phẩm bằng phơng tiện văn học, nghiên cứu nhân vật để phát hiện
ra con ngời. Nhà văn gửi gắm thông điệp t tởng của mình qua nhân vật. Nhân vật
chứa đựng cái nhìn khách quan, chủ quan của nhà văn ngời đọc tiếp nhận tác
phẩm suy cho cùng là tiếp nhận thông điệp của tác giả.
Mục đích cuối cùng của văn học là sáng tạo cho đợc hình tợng con ngời,

có thể không có cốt truyện nhng không thể không có con ngời trong văn học.
Vậy quan niệm nghệ thuật về con ngời là sự lý giải cắt nghĩa, sự cảm thấy
con ngời đợc hoá thân thành các nguyên tắc, phơng tiện, biên pháp hình thức thể
hiện con ngời trong văn học.
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong văn học cách mạng Việt Nam
1945 - 1975


12

"Cách mạng tháng 8- 1945 không chỉ là một bớc ngoặt trong lịch sử, mà
còn mở ra một thời đại văn học mới của dân tộc, một cuộc lên đờng hùng vĩ trên
cơ sở ý thức nghệ thuật mới. Ba mơi năm văn học 1945 -1975 là kết quả, là công
sức sáng tạo vô cùng to lớn, phong phú của các thế hệ nhà văn, của cả dân tộc ta,
đồng hành với sự nghiệp xây dựng , bảo vệ và phát triển chế độ xã hội dân chủ
nhân dân dới sự lãnh đạo của Đảngnhà văn ngày càng thấy rõ hơn trách nhiệm
sáng tạo cao cả của mình" [18,13].
Các nhà văn đã tìm thấy con đờng vơn tới lý tởng Chân, Thiện, Mỹ của
con ngời và nghệ thuật trong sự gắn bó với cách mạng và kháng chiến. Trong
giai đoạn 1945 - 1975 nhiều nhà văn đã nhận thấy cuộc chiến đấu cách mạng
suốt mấy chục năm của đất nớc đã là cái nền và cái nguồn để họ sáng tạo.
Những nhận thức mới về vai trò, vị trí của văn nghệ về trách nhiệm của nhà văn
trong đời sống có ý nghĩa rất quan trọng trong ý thức nghệ thuật của văn
học1945- 1975. Những định hớng miêu tả con ngời của văn học 1945-1975 đã
đợc xác lập và phát triển gắn liền với những nhận thức ấy.
Nếu con ngời lý tởng của văn học trung đại chủ yếu là những kẻ sỹ, những
tài tử giai nhân; Nếu văn học 1930- 1945 chú ý đến những thanh niên trí thức
hoặc hớng về tìm hiểu số phận, phẩm chất của những con ngời nhỏ bé, những
nạn nhân, thì văn học Việt Nam 1945 - 1975 là nền văn học đợc sự lãnh đạo của
Đảng thống nhất và chặt chẽ, phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nớc cổ vũ nhân

dân ta trong lao động và chiến đấu, thực tế cách mạng đã mang lại cho ngời cầm
bút những định hớng về quan niệm con ngời. Vì thế văn học thời kỳ 1945 1975 hớng tới đại chúng, trớc hết là quần chúng công nông binh.
Đối tợng thẩm mỹ chính của văn học 1945 - 1975 là con ngời quần chúng
cách mạng. Quan niệm con ngời trong ý thức nghệ thuật 1945 - 1975 đợc xây
dựng trên cơ sở quan niệm về con ngời cách mạng, về quần chúng cách mạng,
các nhà văn của chú ý u tiên khám phá thể hiện và ngợi ca những con ngời của
sự nghiệp chung - con ngời sử thi- con ngời thuộc về sức mạnh tập thể, sức mạnh
cộng đồng. Không gian hoạt động của những con ngời này là công trờng, nông
trờng, chiến trờng chứ không phải không gian gia đình
Vẻ đẹp thẫm mỹ của con ngời đợc nhìn nhận và thể hiện trong ý thức và
hành động hớng về cách mạng, về nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Vẻ
đẹp ấy đợc biểu hiện ở sự giác ngộ và tự nguyện nhận lấy những sứ mạng xã hội,
sứ mạng cách mạng của con ngời, ở những nỗ lực cố gắng cải biến thiên nhiên,
cải biến xã hội và bản thân vì hạnh phúc của nhân dân. Đó là những con ngời xả


13

thân vì nghĩa lớn, họ sẵn sàng gác bỏ chuyện riêng t, hy sinh quyền lợi hạnh
phúc cá nhân và gia đình cho sự nghiệp chung, họ giải quyết mối quan hệ mâu
thuẫn riêng chung giữa quyền lợi gia đình và Tổ quốc hết sức nhẹ nhàng thanh
thoát và bao giờ họ cũng đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên, không bao giờ có sự
giằng co trong tâm hồn họ giữa quyền lợi cá nhân và Tổ quốc:
" Đằng nớ vợ cha đằng nớ
Tớ còn chờ độc lập"
Hay " Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
giếng nớc gốc đa nhớ ngời ra lính"
Khi lòng yêu nớc thành hệ quy chiếu để nhìn nhận đánh giá phẩm chất
của con ngời thì nhân vật trong tác phẩm văn học cũng đợc tác giả thể hiện chủ
yếu trên phơng diện ấy. Nhân vật trong văn học lúc này là tụ điểm của những

phảm chất cao cả anh hùng, là những nhân vật đợc xây dựng nhằm chứng minh
cho phẩm chất yêu nớc, cho tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nớc, không chịu làm nô lệ" họ là những Kinh, Lữ, Khuê, Cô Thuỳ, Nết...
Những con ngời mới, đặc biệt là những con ngời anh hùng 1945 - 1975 đợc xây dựng nh những mẫu hình lý tởng của thời đại. Họ đợc miêu tả đẹp một
cách hoàn thiện, hoàn mỹ, đẹp nh những viên ngọc không có vết xớc đó là
những ngời mẹ "Nh ngọc sáng ngời", "những con ngời nh chân lý sinh ra". Họ là
những con ngời trong huyền thoại, đẹp nh huyền thoại mà lại có thực, hiện hữu
bằng xơng, bằng thịt khó lòng tìm thấy những khiếm khuyết trong phẩm hạnh
của họ: Anh hùng Núp, chị út Tịch, chị Sứ... hay nhân vật Kinh và Lữ "Dấu
chân ngời lính".
Nhân vật trong văn học 1945 - 1975 đợc chia thành hai tuyến rạch ròi và
để đối lập nhau làm nổi bật con ngời anh hùng của sử thi
Con ngời cao cả

con ngời thấp hèn, tiểu nhân

Con Ngời

Con ngời thú

Thánh thiện( Chị Sứ)

ác quỷ( thằng Xăm)

Con ngời tập thể

Con ngời t hữu

Đối sánh văn học 1930 - 1945: Con ngời đợc miêu tả ở cả hai mặt vừa có mặt
tốt vừa có mặt xấu. Ví dụ: Hộ, Chí Phèo... đề cập nhiều đến đời t của nhân vật
Văn học 1945 - 1975: Nhân vật chủ yếu là con ngời sử thi, thế giới đời t,

đời thờng của cá nhân ít đợc đề cập, nếu có đề cập cũng là nhằm mục đích tôn


14

vinh phẩm chất anh hùng. Ví dụ Tnú (Rừng Xà Nu), anh hùng Núp (Đất nớc
đứng lên). Xây dựng nhân vật phụ nh Mẹ, Vợ và Con chỉ với dụng ý bổ sung
hình tợng về ngời anh hùng
1.1.3. Quan niệm nghệ thuật về Con ngời trong văn học 1975 đến nay
Không thể xây dựng các nhân vật văn học nếu nh không hiểu cặn kẽ về
con ngời trong cuộc sống. Nhng trong vô vàn những biểu hiện phong phú phức
tạp của hiện thực, ngòi bút nhà văn sẽ hớng về đâu, về những con ngời nh thế
nào, những phơng diện nào của con ngời để thực sự tạo ra sức hấp dẫn cho nghệ
thuật, có ích cho cuộc đời. Đó là những câu hỏi thờng xuyên của các nhà văn,
của ý thức nghệ thuật trong quá trình xây dựng nền văn học mới.
Văn học Việt Nam sau 30/04/1975 vẫn tiếp tục phát triển trong suốt 30
năm qua và đã có nhiều thành tựu đợc đánh giá khẳng định. Văn học phát triển
nhanh, có sự cách tân đổi mới, cách nhìn nhận khác với văn học 1945 - 1975
Lịch sử dân tộc đã sang trang mới vào ngày 30/04/1975, trong văn học
xuất hiện một loạt các tác phẩm dựng lại không khí bão táp cách mạng, ngợi ca
khí thế tiến công vũ bão của dân tộc và sự thất bại của kẻ thù ở một số tác phẩm:
"Năm 75 họ đã sống nh thế" (Nguyễn Trí Thâm) "Thời gian ở Tây Nguyên"
(Nguyễn Khải), "Trong cơn gió lốc" (Khuất Quang Thuy), "Miền cháy",
"Những ngời đi từ trong rừng ra" (Nguyễn Minh Châu), "Nắng đồng bằng"
(Chu lai)...
Trong không khí chung của thời đại những tác phẩm này đợc chào đón.
Nhng khi con ngời trở lại cân bằng trong tình cảm thì một số tác phẩm tiếp tục
viết theo khuynh hớng sử thi không đợc ngời đọc hào hứng tiếp nhận vì không đa đến cho ngời đọc những nhận thức mới so với tác phẩm trớc đây. Nhà văn
Nguyên Ngọc nhận xét "Sau 1975 bỗng dng xuất hiện một tình trạng rất lạ, sự
lạnh nhạt hẳn đi trong quan hệ giữa công chúng và sáng tác. Ngời đọc mới hôm

qua còn mặn mà là thế bỗng dng bây giờ quay lng lại với anh, không thèm gặp
anh nữa, sách anh viết ra trăn trở, dày cộm nằm mốc trên các quầy sách, ngời ta
bỏ anh, ngời ta đi đọc sách Tây và đọc Nguyễn Du" [ 30]. Chế Lan Viên giải
thích hiện tợng này "Sách thì nhiều nhng không có tác phẩm" [30], và theo
ông "Có một khoảng chân không văn học thực sự lúc này, nhng tôi biết trong
thực tế không có đợc khoảng chân không tuyệt đối nhng vẫn có những hạt nhỏ li
ti trong khoảng chân không ấy"[ 30].
Sau 1975 văn học đã có sự đổi mới trên bình diện t duy nghệ thuật,
chuyển dần từ t duy sử thi sang t duy tiểu thuyết.


15

Trong Sử thi chủ yếu đi vào hai nhiệm vụ trung tâm và chiến lợc của cuộc
sống là Tổ Quốc và Chủ nghĩa xã hội, quan tâm đến vận mệnh cả dân tộc. Đời t,
đời thờng số phận cá nhân hầu nh bị bỏ quên
T duy tiểu thuyết nghiêng về cách nhìn tiểu thuyết nghĩa là vẫn nói đến
hai vấn đền lớn lao của dân tộc nhng đã nghiêng về những vấn đề đời t, đời thờng với số phận cá nhân con ngời.
Văn học sau 1975 đã nêu lên đợc vấn đề có ý nghĩa nhân sinh rộng lớn,
ảnh hởng đến toàn bộ những con ngời sống trong cộng đồng Việt Nam. Văn học
chúng ta hớng tới số phận từng cá nhân con ngời, cố gắng khám phá số phận đời
t từng cá nhân con ngời
Văn học 1975 đến nay đã có sự đổi mới quan điểm nghệ thuật về con ngời. Nếu văn học 1945 - 1975 u tiên hớng tới tìm hiểu ngợi ca con ngời mới - con
ngời anh hùng của thời đại, họ đợc miêu tả đẹp một cách hoàn thiện, hoàn mỹ.
Nhân vật trong các tác phẩm đợc phân chia ranh giới một cách rạch ròi, dứt
khoát, không có sự nhập nhằng giữa cái cũ - mới, tiến tiến - lạc hậu...Thì văn
học sau 1975 vẫn nói đến con ngời anh hùng của thời đại nhng lại quan tâm đến
nhiều khía cạnh khác của con ngời. Các nhà văn đã nhìn thấy đợc trong cuộc
chiến hào hùng của dân tộc không thể nào tránh khỏi sự mất mát hy sinh nên
văn học không thể không đề cập đến những con ngời chịu đựng những thơng đau

do cuộc chiến tranh đa lại. Và cũng chỉ đến văn học sau 1975 mới thức nhận đợc,bên cạnh những anh hùng dốc lòng vì độc lập dân tộc còn có những kẻ cá
nhân vị kỷ.
Con ngời đau thơng mất mát
Sau 1975 đối tợng khám phá phản ánh của văn học đã mở rộng và mang
tính toàn diện. Bao gồm các mặt hiện thực, không chỉ là hiện thực cách mạng,
các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà còn là hiện thực của đời sống hằng
ngày với các quan hệ thế sự phức tạp đa dạng chằng chịt, đan xen, tạo nên những
mạch nối và mạch ngầm của cuộc sống.
Hiện thực sau 1975 còn là đời sống cá nhân của mỗi con ngời với những
vấn đề riêng t, số phận, nhân cách, khát vọng, hạnh phúc, bất hạnh, kể cả bi
kịch, đau thơng và mất mát. Sau 1975 khi con ngời dần trở lại với quy luật bình
thờng của nó, con ngời trở về với muôn mặt đời thờng, phải đối mặt với bao
nhiêu vấn đề cực kỳ khó khăn trong một giai đoạn có nhiều biến động thời hậu
chiến. Thực tế này đòi hỏi xã hội cũng nh văn học phải thúc đẩy sự thức tỉnh ý


16

thức cá nhân cũng nh sự quan tâm đến mỗi con ngời, mỗi cá nhân trong cộng
đồng.
Cái tang thơng mất mát đợc nói tới nhiều hơn. Nhà văn khai thác khá sâu
sự đau thơng tổn thất của từng số phận cá nhân con ngời. Đó là Ngời lính trong
"Bức tranh" may mắn trở về nhng lại gặp nỗi bất hạnh trớc ngời mẹ bị loà vì
khóc anh quá nhiều trong những ngày nghe tin anh hi sinh. Hay Lực "Cỏ lau"
cới vợ đợc mấy ngày đã lên đờng đi chiến đấu, lúc về thì vợ đã có một gia đình
riêng, đến bà mẹ trong " Mùa trái cóc ở Miền Nam" những tởng chiến tranh
qua đi, thì bà sẽ đợc đoàn tụ với đứa con của mình, nhng hay đâu chiến tranh
làm ngời ta h đi hơn là tốt hơn, vì thế bà đã phải chịu sự hất hủi của đứa con một cán bộ cách mạng...
Có thể nói mọi vấn đề trong cuộc sống của xã hội đều có thể là đề tài của
văn học sau 1975. Cách nhìn hiện thực con ngời đa dạng, phức tạp chứ không

chỉ dừng lại ở vấn đề chiến đấu nh trong văn học 1945 - 1975. Vì thế văn học
sau 1975 đã đề cập đến con ngời đời t, đời thờng hớng tới số phận từng cá nhân
con ngời, cố gắng khám phá số phận cá nhân mỗi con ngời.
Nhà văn Nguyên Ngọc nhận định "Có một điều khá thú vị là hành trình
văn học của chúng ta mấy năm qua từ chỗ cố gắng rút ra khỏi đề tài số phận
chung của cả khối cộng đồng thống nhất để đi đến hiện thực xã hội ngổn ngang
(vấn đề đời t, đời thờng số phận cá nhân với nhiều tính chất tả thực, rồi tiếp tục
đi sâu vào thế giới bên trong từng con ngời. Cuộc tìm kiếm khó nhọc bên trong
thế giới riêng từng con ngời - hành trình ấy không phải là hành trình thu hẹp dần
phạm vi quan tâm của văn học, ngợc lại đó là hành trình mở ra ngày rộng hơn,
phong phú đa dạng hơn của văn học"[ 30].
Văn học 1945- 1975 trong đó có những sáng tác của Nguyễn Minh Châu
hầu hết đợc sáng tác theo khuynh hớng sử thi với những bản anh hùng ca phản
ánh một giai đoạn lịch sử huy hoàng của dân tộc.
Sau chiến tranh, trong các tác phẩm văn học chất sử thi giảm đi. Những
truyện ngắn lúc này tràn ngập các chuyện đời thờng, các nhân vật đã tiếp cận đời
sống từ những tầng sâu bí ẩn của hiện thực đang tiếp diễn với tất cả cái bề bộn,
ngổn ngang của nó bao hàm cả cái bi và cái hài, cái cao cả lớn lao lẫn cái nhỏ
nhặt tầm thờng. Trong " Thời xa vắng" của Lê Lựunhà văn xoáy sâu vào đời
t nhân vật Giang Minh Sài - trở về từ chiến trờng với đủ thứ huy chơng, bằng
cấp, nhng cuối cùng còn lại cuộc đời anh chỉ là con số không tròn trĩnh. Từ một
dũng sĩ diệt Mĩ anh thành một kẻ nô tỳ của vợ con, và cay đắng hơn khi anh phát


17

hiện ra Thuỳ đứa con gái mà anh nhất mực yêu thơng săn sóc và là niếm vui
sống của anh lại không phải là con đẻ của anh. Nửa đời nhìn lại trong tâm thế
của một ngời đã đánh mất tình yêu, hạnh phúc của thời trai trẻ, một thời tuy cha
xa cách về thời gian nhng đã có sự khác lạ về nhận thức và tâm tởng, nỗi buồn vì

thế pha thêm phần chua chát " Đã bảo là tại em. Ngay từ nhỏ đã tại em. Giá
ngày ấý em cứ sống với tình cảm của chính mình, mình có thế nào cứ sống nh
thế, không sợ một ai, không chiều theo ý ai, sống hộ ý định ngời khác, cốt chỉ
đẹp mặt mọi ngời chứ không phải cho hạnh phúc của mình. Nếu em cứ kiên
nhẫn và quyết liệt nh thế, chắc bố mẹ, anh em, đơn vị cũng không đem giết em.
Về sau này nếu em có kinh nghiệm, em có hiểu biết và không hoa mắt choáng
ngợp trớc sự hấp dẫn của thành thị, bình tĩnh hơn, tỉnh táo hơn, xem tạng ngời
mình thì hợp với ai có lẽ em không phải lao đao, lúc nào cũng thấy hụt hơi trong
suốt mấy năm qua. Nửa đời ngời phải đi yêu các ngời khác yêu, nửa đời còn lại
đi yêu cái mình không có, đến bây giờ mới biết thì lại"[23, 332]. Tác phẩm
Tiễn biệt những ngày buồn của Trung Trung Đỉnh là câu chuyện về những ngời
lính làm công tác văn hoá với cuộc sống ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Giữa
phố xá hà thành sôi động, khu tập thể của những ngời lính và cuộc đời những
chủ nhân của nó dờng nh đối lập nhau. Những lo toan đời thờng, từ việc làm cho
vợ, đến cải tạo gian nhà tồi tàn đang ở, những căn phòng nhỏ hẹp, cuộc sống đơn
điệu gợi cho ta sự quẩn quanh, tẻ nhạt đều đợc tácgiả đa vào trong truyện.
Khuynh hớng tiếp cận mới mẻ này đã dẫn đến sự xuất hiện một dạng cốt
truyện mới trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu - kiểu cốt truyện đời t. Đó là
dạng cốt truyện chủ yếu tái hiện những bớc thăng trầm, uẩn khúc trong số phận
cá nhân: Phiên chợ Giát, Mùa trái cóc ở Miền Nam, Ngời đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành, Cỏ lau... Những số phận, những cuộc đời với những xung đột tâm
lý chồng chéo, dòng đời trong truyện ngắn trôi chảy tự nhiên nh bản thân cuộc
sống, luôn dang dở, bề bộn nhiều chiều, nhiều cung bậc.
Văn học sau 1975 vẫn viết về đề tài chiến tranh và xây dựng đất nớc, nhng lối viết đã có phần khác trớc. Sau 1975 xuất hiện một loạt tác phẩm viết về
chiến tranh: Đất trắng, Nỗi buồn chiến tranh, ăn mày dĩ vãng, Cỏ lau, Bức
tranh, Thời xa vắng... ở những tác phẩm này ngời đọc cảm nhận đợc nhà văn
vẫn thể hiện đợc cái vĩ đại, cái hào hùng của cuộc chiến tranh nhng hầu hết các
tác phẩm vừa nêu trên chú ý nhiều hơn mặt gian khổ, sự hi sinh mất mát của dân
tộc cũng nh từng ngời lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Các tác giả đã miêu tả sự khốc liệt và nghiệt ngã của chiến tranh. Nếu nh những

tác phẩm viết về chiến tranh trớc đây, sự gian khổ hi sinh xẩy ra đợc nhắc đến để


18

ngợi ca sự chiến đấu và chiến thắng của ngời lính, làm nảy sinh cái đẹp, cái cao
quý của ngời chiến sỹ thì ở những tác phẩm viết sau 1975 sự khốc liệt và nghiệt
ngã của chiến tranh đợc trình bày đúng sự thực nh nó diễn ra vì thế đã dẫn tới sự
sàng lọc phẩm giá con ngời đến mức đau xót.
Con ngời cá nhân vị kỷ
Ngọn lửa chiến tranh tàn khốc qua các tác phẩm của nhà văn đã giúp ngời
đọc phân biệt đâu là những phẩm chất tốt đẹp, những anh hùng, đâu là những kẻ
phản bội hèn nhát. Văn học sau 1975 xuất hiện kiểu con ngời cá nhân vị kỷ.
"Đất trắng" (Nguyễn Trọng Oánh) là tác phẩm viết một cách sắc nét về sự hy
sinh mất mát , khốc liệt trong chiến tranh không ngày nào là không có thơng
vong. Trung đoàn 16 của Ba Kiên đợc giao nhiệm vụ rời rừng núi cắm chốt Củ
Chi sát nách Sài Gòn để chờ quân chủ lực của ta tấn công sau này, đây là một
trung đoàn độc lập, phơi lng cho địch biết. Có những đêm cứ một trung đội đi
đánh nhau, bà mẹ nắm cơm chờ các con về ăn, nhng một trung đội 36 ngời đi
chỉ còn mấy ngời về.
Sự hi sinh mất mát và khốc liệt ấy làm lộ rõ bộ mặt của những kẻ phản bội
hèn nhát nh Tám Hàn - Phó chính uỷ miền, cấp trên của Ba Kiên đến động viên
đoàn và bị bao vây, sự khốc liệt của chiến tranh làm Tám Hàn hết sức sợ hãi,
trung đoàn phải mở đờng máu cho hắn về và khi thoát khỏi vòng vây hắn liền
đầu hàng địch, ngay ngày hôm sau hắn lên máy bay kêu gọi trung đoàn ra hàng.
Chiến tranh ác liệt đến mức một số ngời dới quyền Ba Kiên đợc giao nhiệm vụ
đóng chốt ở một điểm nào đó cũng khiếp sợ và bàn bạc nhau rút lui nguỵ biện là
để bảo toàn lực lợng.
Trong chiến tranh cuộc sống dẫu vất vả gian nguy nhng con ngời sống và
chiến đấu cho lợi ích của cộng đồng, họ sẵn sáng hi sinh những khát vọng cá

nhân những tính toán vị kỷ nhỏ nhen để lao vào cuộc chiến. Việc đánh giá nhân
cách của con ngời chỉ đơn giản là thái độ đối với chiến tranh.
Hoà bình lập lại con ngời trở về với chính mình. Trong những ngời lính trở
về trong bom đạn, có những ngời trở thành lãnh đạo, lập lại trật tự trên đất nớc
này. Mà "Xa nay cái vinh quang dễ làm ngời ta hỏng lắm", những cái cá nhân
nhỏ nhen bắt đầu có cơ hội phát triển "Quỷ già đời, quỷ mới tập sự xuất hiện rất
nhiều, hãy ngồi cùng mâm với chúng"[9, 536] và Nguyễn Minh Châu đã nhấn
mạnh "Cái thằng địch bây giờ nằm ngay trong ngời mình, hãy quên cái cá nhân
mình đi, hãy đặt quyền lợi cách mạng lên trên một tý". Nguyễn Minh Châu đã
đem ngòi bút của mình tham gia trợ lực vào cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái


19

xấu trong mỗi con ngời, nó không ồn ào nhng xẩy ra từng giờ, từng ngày và
khắp mọi lĩnh vực của đời sống.
Sau chiến tranh, những cái xấu nảy sinh ngày càng nhiều, nhà văn đã báo
động "Sau khi kháng chiến, một số ngời sống với nhau đang có một điều gì đó.
Ngời ta không quý và yêu thơng nhau nh trong kháng chiến. Ngời ta trong hoà
bình bỗng trở nên ích kỷ, nhỏ nhen và chỉ biết đến quyền lợi riêng của mình mà
thôi" [36, 46]. Một Bàng trong "Miền cháy" quá say sa với thắng lợi lên giọng
quát nhân dân lanh lảnh - dấu hiệu của bệnh hách dịch ở kẻ nắm quyền. Một
ngời đã chiến đấu anh dũng trong chiến trờng vẫn bị vật chất làm cho mù
quáng, đánh đổi cả nhân cách. Hay Hiển cũng "Đôi lúc cảm thấy chính cả mình
một chính trị viên đang đứng trớc một thử thách gây ra không phải bởi bom đạn
hoặc sự hi sinh tính mạng nh trớc đây mà bởi màu sắc và ánh sáng lộng lẫy, bởi
những cám dỗ vật chất muôn màu bày ra trên từng bớc chân"[36, 46].
Đó cũng là sự tha hoá của Toàn trong "mùa trái cóc ở miền nam" - Một
con ngời không tham chiến, mới ở hậu cứ nhảy lên, lòng đầy hãnh tiến với chất
ngời xơ cứng, khắc nghiệt, vô tình trớc tình mẫu tử, đối xử bất nhân với những

ngời từng là đồng chí của mình. nhân vật Toàn về một phơng diện nào đó là lời
cảnh báo về sự tha hoá của con ngời.
Nếu lấy năm 1975 làm bản lề, con ngời trong văn học trớc và sau đã thay
đổi. Con ngời trong văn học 1945 - 1975 đợc u tiên hớng tới, tìm hiểu ngợi ca là
con ngời mới, con ngời anh hùng thời đại, họ là những con ngời đẹp một cách
hoàn thiện, hoàn mỹ. Nhân vật trong các tác phẩm đợc phân ranh giới rạch ròi,
dứt khoát, không có sự nhập nhằng trong tính cách cũng nh trong phẩm chất. Vì
vậy con ngời trớc 1975 hoành tráng nh anh Trỗi, chị Sứ , chị út Tịch, TNú... sau
1975 văn học vẫn đề cập đến con ngời anh hùng của thời đại nhng lại quan tâm
đến những con ngời bình thờng trong cuộc sống. Ví dụ "những đêm không
ngủ" viết về ngời phụ nữ nhớ chồng không ngủ đợc. Con ngời sau 1975 đa
dạng, phong phú, phức tạp hơn. Các nhà văn quan niệm sau 1975 hiếm có con
ngời đẹp một cách hoàn thiện hoàn mỹ, mà con ngời có sự đan xen xấu tốt vì
vậy nhân vật sâu sắc hơn, nhân văn hơn, đời thờng hơn.
Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của sự đổi mới vì thế nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng nằm trong quy luật đó.
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngời của Nguyễn Minh Châu
1.2.1. Quá trình hình thành quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.


20

Con đờng văn nghiệp mà Nguyễn Minh Châu vạch ra cho mình là con đờng khẳng định, bằng những hình ảnh nghệ thuật chân thật, bản chất tốt đẹp, vĩ
đại của chế độ ta, của nhân dân ta và quân đội ta. Vì thế các trang viết của ông
đều khẳng định rằng: hãy lấy con mắt của tình yêu và niềm tin mà tìm hiểu và
đánh giá xã hội ta và những con ngời của chúng ta, cho dù đó chỉ là những con
ngời bình thờng mà ta vẫn tiếp xúc hàng ngày "Mỗi con ngời quen biết mà
mình từng chung sống đều có một cuộc đời gắn liền với lịch sử đất nớc đầy thử
thách, mỗi con ngời đều mang trong lòng biết bao điều tốt đẹp mà mình có thể
học hỏi, có thể khám phá, suốt đời để tìm hiểu nhân dân mình" (Cửa sông)

Trong hoàn cảnh đất nớc lúc bấy giờ, cũng nh các nhà văn cùng thời, với
Nguyễn Minh Châu, văn học là vũ khí để bảo vệ Tổ quốc, chiến đấu với kẻ thù,
xây dựng đất nớcNhà văn Nam Cao đã từng nói" Hãy sống đã rồi viết",
Nguyễn Minh Châu muốn những trang viết của mình phải phản ánh đợc thực tế
và một tác phẩm bao giờ cũng đảm bảo đợc tính chân thực vì thế trong kháng
chiến chống mỹ hay sau khi hoà bình ông đã đi đến nơi ngời lính đối mặt với kẻ
thù để hiểu hơn về ngời lính và về chiến tranh cách mạng. Nhờ đó ông đã có đợc
những trang viết nóng hổi hơi thở cuộc sống về chiến tranh, ngời lính, khẳng
định lòng yêu nớc, ý chí kiên cờng của con ngời Việt Nam nói chung và ngời
lính nói riêng trong cuộc kháng chiến trờng kỳ. Cảm hứng anh hùng là cảm
hứng chủ đạo của nhà văn trong thời kỳ này, và đây cũng chính là cảm hứng
chính của một giai đoạn văn học lúc bấy giờ. Nếu Nguyên Ngọc có anh hùng
Núp cùng dân làng Kông Hoa sẵn sàng đơng đầu với bọn giặc pháp sừng sỏ,
Anh Đức có Chị Sứ, Nguyễn Thi có chị út Tịch - những ngời phụ nữ anh hùng
tiêu biểu cho những ngời phụ nữ Việt Nam anh hùng, thì đến Nguyễn Minh
Châu có cả một thế giới nhân vật với nhiều dáng vẻ khác nhau, và họ đều tiêu
biểu cho những phẩm chất cao quý và đẹp đẽ của con ngời Việt Nam trong cuộc
sống chiến đấu và lao động hàng ngày. Đó là những Thuỳ, Bân( Cửa Sông),
Kinh, Khuê, Lữ, Nết( Dấu chân ngời lính)Họ đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc,
vừa đốt sách và khóc nức nở để quyết đi theo kháng chiến nh những ngời bạn
của Lữ trong (Dấu chân ngời lính). Dòng máu yêu nớc đã khiến cho cả một thế
hệ thanh niên dấn thân vào cuộc chiến với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh. "Hòa chung vào văn mạch của dân tộc khi đất nớc lâm nguy, Nguyễn Minh
Châu đã có những khúc tráng ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Dới ngòi bút
thiên về trữ tình và vốn dịu dàng nhân hậu, những nhân vật này tiêu biểu cho
tinh thần hy sinh tất cả vì sự nghiệp độc lập của Tổ quốc" [22, 38].


21


Ngay từ những tác phẩm đầu tiên, Nguyễn Minh Châu đã viết bằng ngòi
bút thiên về trữ tình, dịu dàng nhân hậu. Đặc điểm văn học lúc này chủ yếu là
quan tâm đến số phận cộng đồng, số phận dân tộc, Nguyễn Minh Châu vẫn đi
trong quỹ đạo chung nhng bên cạnh đó nhà văn đã chú ý đến những tình cảm
riêng t của con ngời và đây chính là vấn đề sau này nhà văn luôn trăn trở tìm tòi
và sáng tạo. Ngay trong tác phẩm viết về chiến tranh " Dấu chân ngời lính",
với ngòi bút tinh tế và sự đồng cảm sâu sắc Nguyễn Minh Châu đã có những
trang viết về tình cảm gia đình, hay tình cảm đôi lứa tự nhiên. Có thể nói rằng "
Trong quá trình đi tìm cảm hứng cho sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu vừa
đào xới ở tầng lộ thiên của những tình cảm lớn, những nhân cách cao đẹp đồng
thời phát hiện và khai thác vỉa ngầm của những tình cảm gia đình, quê hơng
trong những năm chiến tranh dù nghiêng về thể hiện cái cao cả, cái anh hùng và
thiên về ca ngợi những vẻ đẹp trong chiến đấu thì ở đây cũng đã ánh lên vẻ đẹp
của đời thờng gần gũi và ấm áp" [ 22, 39].
Vào những năm bảy mơi, thời kỳ mà các tác phẩm " Cửa sông, Những
vùng trời khác nhau, dấu chân ngời lính, miền cháy, lửa từ những ngôi nhà"
đã đa Nguyễn Minh Châu vào vị trí là một trong số những cây bút tiêu biểu của
nền văn xuôi chống Mỹ, và có thể nói "đây là thời kỳ thuyền văn của ông trôi
cùng sông văn thời đại mà cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác này là ca ngợi
cuộc chiến đấu, cổ vũ cuộc chiến đấu bằng những sự kiện, những nhân vật mang
phẩm chất anh hùng. Những phẩm chất đó thực sự đã góp phần nhất định vào
việc tuyên truyền cổ vũ cho cuộc kháng chiến'' [ 22, 41], đây cũng chính là thời
kỳ trong ông bắt đầu xuất hiện nỗi băn khoăn, trăn trở về một điều gì đó có vẻ
nh là " bất ổn'' trong đời sống văn học, đó là sự trăn trở về mối quan hệ giữa nhà
văn - hiện thực- ngời đọc. Ông cho rằng" hình nh cuộc chiến đấu anh hùng sôi
nổi hiện nay đang đợc văn xuôi và thơ ca đôi khi tráng lên một lớp men trữ tình
hơi dày, cho nên ngắm nó thấy mỏng manh, bé nhỏ và óng chuốt khiến ta phải
ngờ vựcđó cha phải là sự quan tâm thờng trực nhất của ngời viết, cha phải tâm
huyết, càng cha phải là cái điều chiêm nghiệm có tính triết học của cả một đời
ngời viết văn" [22, 40]. Nh vậy Nguyễn Minh Châu đã nhận thấy rằng văn học ở

thời kỳ này có phần đợc tô hồng, thi vị hoá chiến tranh bằng cảm hứng lãng
mạn, khiến cho nó ít nhiều có phần xa rời hiện thực.
Nguyễn Minh Châu trong thời kỳ này vẫn ca ngợi , cổ vũ cuộc chiến đấu
anh hùng chống ngoại xâm của dân tộc nh chủ trơng của đảng, tuy nhiên ta còn
nhận thấy một Nguyễn Minh Châu khác không hoàn toàn giống khuôn dạng các
nhà văn cùng thời - một Nguyễn Minh Châu bắt đầu quan tâm đến vấn đề khác


22

nh vẻ đẹp đời sống thờng nhật thông qua các mối quan hệ tình cảm vợ chồng, bố
mẹ và con cái, hàng xóm, đồng đội, hay sự cảm nhận tinh tế và những rung động
của nhà văn trớc vẻ đẹp của thiên nhiên tạo hoáđiều này đợc tiếp tục trong các
sáng tác của ông sau này và nó góp phần vào việc hình thành phong cách nghệ
thuật riêng của nhà văn.
Là ngời chủ trơng đa văn học trở về với quy luật vĩnh hằng của đời sống
con ngời - Nguyễn Minh Châu coi tính chân thật là một phẩm chất quan trọng
của văn học. Ông cho rằng viết văn là phải đào xới đến tận cùng cái đáy của
cuộc đời, bởi vậy ông không đồng tình với quan niệm viết về chiến tranh chủ
yếu là viết về sự kiện, " các nhân vật thờng khi đợc mô tả một chiều, thờng là
quá tốt, cha thựccoi con ngời là đối tợng của văn học, ông đã tìm mọi cách để
tiếp cận với cuộc đời, với hiện thực bằng chính triết lý sống, quan niệm sống của
nhân vật mình và trong trờng hợp đó, ông hình dung sự kiện chỉ nh cái sàn của
vở diễn" [22, 43]. Chúng tôi nhận thấy rằng sáng tác của Nguyễn Minh Châu
trong những năm chiến tranh dù nghiêng về thể hiện cái cao cả, cái anh hùng và
thiên về ca ngợi những vẻ đẹp trong chiến đấu thì ở đây cũng đã ánh lên vẻ đẹp
của đời thờng thật gần gũi ấm áp.
Sau chiến tranh, Nguyễn Minh Châu cũng nh nhiều nhà văn khác, đi thực
tế nhiều để viết tiếp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc và qua những chuyến
đi đó ông đã nhận ra rằng : sau chiến tranh, xuất hiện bao nhiêu vấn đề mà

chúng ta phải quan tâm nh lối sống, đạo đức, số phận, cá nhân của từng con ngời. Các tác phẩm: "Ngời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Bức tranh,
Cơn giông" đã ra đời theo hớng sáng tạo đó. Nguyễn Minh Châu là một trong
số các nhà văn đầu tiên quan tâm đến số phận của từng con ngời cụ thể với
những nỗi đau, mất mát do chính chiến tranh gây ra mà lâu nay nó bị cái quan
niệm về ý thức cộng đồng, dân tộc che khuất trong sáng tác, ông viết bằng cả
tâm hồn, trí tuệ của mình với lòng nhân đạo sâu sắc cao cả và tập trung sự chú ý
vào những diễn biến sâu kín mang tính chất quy luật bên trong của tâm lý con
ngời . Chẳng hạn nhân vật Phợng trong "lửa từ những ngôi nhà" - ngời đàn bà
goá bụa - đứng giữa sự lựa chọn: một mặt muốn đợc hạnh phúc nh mọi ngời,
một mặt lại muốn yên phận một bề, sẽ suốt đời ở với những đứa con. Nguyễn
Minh Châu cũng đã nhìn các anh hùng từ điểm nhìn nhân đạo: thấm thía với
những mất mát của bản thân từ đó họ muốn đợc bù đắp che chở cho ngời khác.
T tởng này xuyên thấm trong ý thức của nhiều nhân vật nữ nh bà Hậu trong
"Lửa từ những ngôi nhà", hay Quỳ trong "Ngời đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành".


23

Khi nhìn nhận đánh giá về con ngời tác giả còn phát hiện ra trong mỗi ngời lính đều có cái nền tảng của tình cảm gia đình, quê hơng, nh thế ở chiến trờng
họ mới biết yêu thơng và cảm thông đợc với nhau và với hậu phơng. Chính vì lẽ
đó mà ngay từ những năm bảy mơi Nguyễn Minh Châu đã không rập khuôn theo
những lề lối thông thờng mà đã nhìn sâu vào cuộc sống và tìm ra các khía cạnh
khác nhau của sự đời, của tâm thức, của tình cảm, sự hoà nhập cần thiết giữa
riêng chung. Đó là biểu hiện nhất quán trong quá trình hình thành t tởng nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngời và những kiến giải nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu
Đôxtôiepxki nói: " Trong chủ nghĩa hiện thực đầy đủ, phải tìm thấy con
ngời trong con ngời . Ngời ta gọi tôi là nhà tâm lý không đúng, tôi chỉ là nhà

hiện thực chủ nghĩa trong ý nghĩa cao nhất, tức là tôi miêu tả tất cả các chiều sâu
của tâm hồn con ngời" [36, 13]. Trong phê bình tiểu luận và suốt gần 30 năm
sáng tác Nguyễn Minh Châu cho rằng cần "lấy số phận cá nhân làm gơng soi
lịch sử và lấy nội tâm con ngời để nói về cuộc sống chung"[22, 47]. Không chấp
nhận một nền văn nghệ minh hoạ, mô phỏng một cách công thức, giản đơn về
cuộc sống và con ngời, ông lấy số phận của con ngời làm nơi xuất phát, khám
phá và là chuẩn mực để nhà văn nhìn nhận đánh giá thế giới, đặc biệt là những
sáng tác sau 1975.
Xuất phát từ quan niệm coi con ngời với những quy luật vĩnh hằng là đối
tợng của văn học, ông đã đi vào các số phận, các tính cách, tìm đến các nỗi niềm
riêng t, sâu kín vốn thờng bị trùm phủ bởi các sự kiện xã hội hoặc bị che khuất
bởi t tởng thời đại. Đó chính là quá trình đi tới cái đích của nghệ thuật và thể
hiện cái riêng của mình trong quan điểm, cách nhìn ở những kiến giải độc đáo
của Nguyễn Minh Châu trớc hiện thực đời sống. Điểm nhìn nghệ thuật đó của
Nguyễn Minh Châu đã tạo ra đợc nhiều hớng khác nhau khi tiếp cận hiện thực.
Nếu nh ở một số nhà văn vẫn còn tồn tại cách nhận diện con ngời trong
mối quan hệ với giai cấp, với cộng đồng với xã hội dựa trên nền giá trị chính
thống, vì thế chủ yếu hớng về cái cao cả, còn những vấn đề riêng t thờng rất
thấp. Với Nguyễn Minh Châu ông đã cố công tìm cách phân tích các quan hệ
sâu kín để làm nổi lên sự đa dạng và phong phú trong cuộc sống dựa trên mối
quan hệ giữa nhân dân với cách mạng, giữa cá thể với cộng đồng, mối quan hệ
trong gia đình, tình yêu, tình bạn, thậm chí cả mối quan hệ với kẻ thù. Bởi vậy
bên cạnh một Nguyễn Minh Châu với những phát hiện ngợi ca cái cao cả anh


24

hùng của con ngời trong chiến tranh, từng đặt ra các vấn đề cấp bách của đời
sống sau chiến tranh, còn có một Nguyễn Minh Châu với những khắc khoải về
số phận cá nhân, con ngời trong cuộc sống sau hơn ba mơi năm chiến tranh. Ông

đã nhận ra những nỗi mất mát, sự dang dở của những ngời phụ nữ trong chiến
tranh, không những thế ông còn sớm phát hiện ra mặt trái của cuộc chiến nh t tởng công thần hay quan niệm không bình thờng về gia đình ở chính những ngời
lính.
Nguyễn Minh Châu hớng cái nhìn về chiến tranh từ con ngời với số phận
cá nhân chứ không phải là sự kiện, ở đó con ngời vừa chịu sự chi phối của hoàn
cảnh vừa tác động lên nó. Tính biện chứng của cuộc sống trớc hết đợc Nguyễn
Minh Châu lý giải bằng sự cắt nghĩa các tính cách. Với Nguyễn Minh Châu tiêu
chí để ông nhận diện con ngời là nhân cách, tính cách chứ không phải ở giai cấp,
địa vị xã hội. Chẳng hạn nhân vật Quang trong Cơn giông là kẻ phản bội lại
cách mạng, và giải thích điều này theo ông đó là do tính cách y " Một con ngời
luôn luôn tìm cách thoả mãn mọi thèm khátđợc sống sung sớng, đợc ăn ngon
mặc đẹp, đợc mọi ngời chung quanh chiều chuộng và tôn kính'' [9, 221] nên khi
cách mạng gặp khó khăn y thành kẻ chiêu hồi.
Trong sáng tác của mình Nguyễn Minh Châu không có chủ ý đi vào đề tài
tích cực hay tiêu cực, bởi với ông cuộc sống mà chúng ta đang sống có sự thống
nhất giữa tự nhiên và vũ trụ: " Đã từ lâu, tôi mang quan niệm rằng từ khi có loài
ngời đã có tình yêu thơng cũng nh sự ghen ghét, hằn thù, hãm hại, chém giết lẫn
nhauvà từ đó đã xuất hiện những luật sống hay luật đời giữa ngời với ngời. Cái
luật đời ấy vừa mang tính ngời vừa chứa đựng tính sinh vật và cả những gì chung
nhất của vũ trụ mà chúng ta cha hiểu biết hết" . Khám phá về con ngời không
phải là cách nhìn nhận đánh giá đơn thuần mà phải có sự khám phá mới về con
ngời và xã hội để thấy đợc trong cái tiêu cực, cái sa đọa một vấn đề gì đó mới.
Vì lẽ đó sau này ông khám phá con ngời qua tính cách, qua đạo đức qua ứng xử
và hành động. Con đờng tiếp cận hiện thực phức tạp của đời sống chiến tranh đợc Nguyễn Minh Châu đi sâu thể hiện với một thái độ dứt khoát và rõ ràng hơn
về con ngời. Chẳng hạn ở nhân vật Toàn trong " Mùa trái cóc ở miền Nam" là
lời cảnh báo của nhà văn về sự tha hoá trong đạo đức con ngời. Ông cũng đã giải
thích rằng trong mỗi con ngời bao giờ cũng có mặt cha hoàn thiện, vì thế nếu
con ngời không biết rèn luyện và hoàn thiện mình thì dễ dàng bị trợt dốc trong
đạo đức và lối sống. ở một khía cạnh khác, sự khám phá về con ngời đã khiến
cho ngòi bút của ông thờng xuyên đi sâu vào đời sống nội tâm, những niềm vui

nỗi buồn sự mất mát khổ đau trong con ngời " Chiến tranh, kháng chiến không


25

phải nh một số ngời khác, đến bây giờ tôi không hề mảy may hối tiếc đã dốc tất
cả tuổi trẻ vào đấy cống hiến cho nó, nhng nó nh một nhát dao phạt ngang mà
hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại nh cũ"[9, 55], điều này đa lại
cho sáng tác Nguyễn Minh Châu những giá trị nhân đạo mới. Hiện thực chiến
tranh thông qua sự miêu tả về nỗi đau vật chất, nỗi đau tinh thần của ngời lính,
của ngời phụ nữ qua hình ảnh "một ngời lính già suốt đời cùng một ông bố"
sống "giữa những hình ngời đàn bà bằng đá đầy cô đơn" [9, 490] càng trở nên
sâu sắc hơn. Có thể thấy rằng " từ chỗ đứng bên ngoài quen thuộc nh lâu nay vẫn
gọi là hớng ngoại, ông chuyển dần sang cái nhìn từ bên trong, lấy chính cái đốm
lửa leo lét tù số phận cá nhân mà soi ra xã hội, soi vào cuộc đời và cùng ngời
đọc đau đớn kinh hoàng nhận ra sự tàn phá của chiến tranh đối với thiên nhiên,
con ngời. Cách nhìn của ông về hiện thực chiến tranh trong các sáng tác của thập
niên 80là biểu hiện của sự chuyển đổi về t duy nghệ thuật"[22 ,56].
Bên cạnh đề tài chiến tranh, Nguyễn Minh Châu còn rất thành công trong
đề tài nông thôn và ngời nông dân. sự am hiểu về nông thôn và tâm lý tính cách
ngời nông dân cộng với tình yêu đối với họ đã đem lại sự đổi mới t duy nghệ
thuật của ông. "Khách ở quê ra " và "Phiên chợ Giát " là hai tác phẩm đầu
tiên ngời nông dân đợc tiếp cận từ tính cách, từ số phận. Nguyễn Minh Châu đã
quan sát ngời nông dân từ bản chất, tính cách và t tởng của ngời nông dân để rồi
từ đó ông nhận thấy những hạn chế ở ngời nông dân nh lối gia trởng trong gia
đình, phân rẽ các hệ gia tộc ở làng xã và t tởng thích đẻ nhiều để có nguồn lực
lao động, tính cạnh tranh và thích cát cứ. Chính t tởng này đã tạo cho họ cái ý
thức bao giờ cũng cố để mình hơn ngời khác và ngời nhà thì phải quý hơn ngời
ngoài. Cách tiếp cận theo hớng này của Nguyễn Minh Châu là rất độc đáo và
mới mẻ, ông không nhìn ngời nông dân ở góc độ con ngời công dân, con ngời xã

hội mà là con ngời lao động với những thuộc tính giai cấp, xã hội và bản chất lao
động của mình.
Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu ta có thể nhận
ra quan niệm nghệ thuật của ông có tính định hớng ngay từ đầu. Đó là sự hớng
đến những của giá trị chân thiện mỹ. Khi đất nớc còn chiến tranh, những phẩm
chất cao cả, đẹp đẽ có thật trong đời sống đợc ông xem là đối tợng tiếp cận. Tuy
nhiên ông cũng đã soi tìm vào những góc riêng t mà không phải nhà văn nào lúc
ấy cũng nhìn thấy, hoặc mạnh dạn đề cập đến. Sau này khi nhà văn tiếp cận với
những mặt cha hoàn hảo của hiện thực đời sống, ngòi bút của ông vẫn tiếp tục
khao khát vơn tới cái đích của cuộc sống của con ngời là sự hoàn thiện hoàn mỹ.
Cái đẹp đợc ông đặt trong sự gắn bó chặt chẽ với sự chân thật và nó luôn đợc


×