Tải bản đầy đủ (.doc) (174 trang)

Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn nguyễn minh châu, nguyễn huy thiệp, nguyễn thị thu huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.7 KB, 174 trang )

1

Mục lục
Trang
Mở đầu

6

1. Lý do chọn đề tài

6

2. Lịch sử vấn đề

7

3. Đối tợng nghiên cứu và nguồn dẫn liệu

16

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

16

5. Phơng pháp nghiên cứu

17

6. Đóng góp của đề tài

18



Chơng 1: cơ sở lý luận của đề tài

20

1.1. Một số khái niệm của lý thuyết hội thoại liên quan đến lời độc thoại nội tâm

20

1.2. Độc thoại nội tâm trong truyện ngắn

24

1.3. Tiêu chí nhận diện lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ

39

1.4. Tiểu kết chơng 1

58

Chơng 2: Các hành động ngôn ngữ của lời độc thoại
nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ

60

2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ


60

2.2. Phân biệt hành động ngôn ngữ trong đối thoại và hành động ngôn ngữ
trong độc thoại

61

2.3. Tiêu chí xác định loại hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân
vật

71

2.4. Thống kê, miêu tả các hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân
vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Ngun ThÞ
Thu H

74


2

2.5. Những nhân tố chi phối việc lựa chọn hành động ngôn ngữ của lời độc
thoại nội tâm
2.6. Tiểu kết chơng 2

97
108

Chơng 3: Ngữ nghĩa lời độc thoại nội tâm nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy

Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ

110

3.1. Khái niệm ngữ nghĩa của lời

110

3.2. Các nhân tố chi phối ngữ nghĩa lời độc thoại nội tâm

113

3.3. Các nhóm ngữ nghĩa của lời độc thoại nội tâm

132

3.4. Tiểu kết chơng 3

158

Chơng 4: Vai trò của lời độc thoại nội tâm trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy thiệp,
Nguyễn Thị Thu Huệ

160

4.1. Vai trò biểu hiện tâm lý và tính cách nhân vật trong tính đối thoại của
lời độc thoại nội tâm

160


4.2. Vai trò định hớng hành động nhân vật trong cấu tạo lập luận của lời độc
thoại nội tâm

166

4.3. Vai trò thể hiện phạm vi hiện thực trong tác phẩm qua sắc thái giới tính
của lời độc thoại nội tâm

176

4.4. Vai trò khắc họa phong cách ngôn ngữ tác giả của lời độc thoại nội tâm

191

4.5. Vai trò thể hiện sự đổi mới thi pháp truyện ngắn của lời độc thoại nội tâm

195

4.6. Tiểu kết chơng 4

200

Kết luận

203

Tài liệu tham khảo

207



3

Mục lục các bảng thống kê
Trang
Bảng 2.1. Tần số xuất hiện của lời độc thoại nội tâm

74

Bảng 2.2. Các hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ

75

Bảng 2.3. Các hành động ngôn ngữ tiêu biểu trong lời độc thoại nội tâm

98

Bảng 2.4. So sánh tơng quan số lợng giữa hành động hỏi và hành động khẳng
định trong lời độc thoại nội tâm của nhân vật

107

Bảng 3.1. Không gian độc thoại

116

Bảng 3.1.a. Các không gian công cộng phổ biến


119

Bảng 3.1.b. Các nội dung độc thoại trong không gian gia đình

121

Bảng 3.1.c. Các không gian gia đình phổ biến

122

Bảng 3.2. Thời gian độc thoại

123

Bảng 3.3. Trạng thái tâm lý chủ thể khi độc thoại nội tâm

128

Bảng 3.3.a. Các loại trạng thái tâm lý dơng tính

128

Bảng 3.3.b. Các loại trạng thái tâm lý âm tính

130

Bảng 3. 4. Các nhóm ngữ nghĩa của lời độc thoại nội tâm

134


Bảng 3.4.a. Các phơng diện tìm hiểu về bản thân của chủ thể độc thoại

135

Bảng 3.4.b. Các mối quan hệ giữa chủ thể độc thoại với những ngời xung quanh

143

Bảng 3.4.c. Những sự vật, hiện tợng khách quan đợc đề cập trong lời độc
thoại nội tâm

148

Bảng 3.4.d. Các nội dung triết lý nhân sinh trong lời độc thoại nội tâm

152


4

Bảng 3.4.đ. Các sắc thái tình yêu trong lời độc thoại nội tâm

154

Bảng 4.1. Vị trí của kết luận trong lập luận

169

Bảng 4.2. Tổ chức lập luận trong lời độc thoại nội tâm


175

Bảng 4.3. Số lợng hành động hỏi trong lời độc thoại nội tâm của nhân vật nam và
nhân vật nữ

181

Bảng 4.4. Số lợng hành động khẳng định, hành động phủ định trong lời độc
thoại nội tâm của nhân vật nam và nhân vật nữ

182

Bảng 4.5. Các từ, cụm từ biểu thị khả năng trong lời độc thoại nội tâm các
nhân vật nữ của Nguyễn Thị Thu Huệ

186

Bảng 4.6. Các từ, cụm từ biểu thị cách diễn đạt khẳng định/ phủ định trong
lời độc thoại nội tâm các nhân vËt nam cđa Ngun Minh Ch©u, Ngun
Huy ThiƯp

187


5

Bảng chú thích viết tắt
TT

Nội dung viết tắt


Ký hiệu viết tắt

1

Độc thoại nội tâm

ĐTNT

2

Nguyễn Minh Châu

NMC

3

Nguyễn Huy Thiệp

NHT

4

Nguyễn Thị Thu HuÖ

NTTH


6


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lời nói là khái niệm có ý nghĩa tiền đề, là đối tợng nghiên cứu trung tâm
của ngữ dụng học. Không nghiên cứu ngôn ngữ ở dạng tĩnh với những quy luật và
cấu trúc cứng nhắc, bất biến, ngữ dụng học chú trọng đến việc sử dụng ngôn ngữ
trong hoạt động giao tiếp, xem xét mối quan hệ giữa ngôn ngữ với những ngữ cảnh
và ngời dùng khác nhau. Hớng tiếp cận này cho phép ngữ dụng học có thể nhận ra
những dạng thức, quy luật hành chức sinh động và đa dạng của ngôn ngữ.
1.2. Khi giao tiếp, lời nói đợc tổ chức thành hai dạng: lời đối thoại và lời độc
thoại nội tâm (ĐTNT). Lời đối thoại luôn thể hiện mối quan hệ tơng tác giữa ngời
nói và ngời nghe trực tiếp, hiện diện trực quan trong quá trình nói năng. Do vậy, nó
là nguồn t liệu quan trọng để ngữ dụng học tìm ra những nguyên tắc, đặc tính hành
chức của ngôn ngữ. Trong đời sống thực, lời ĐTNT thờng diễn ra ngầm ẩn, không hớng đến ngời nghe nào khác ngoài chính bản thân chủ thể độc thoại. Nó là dạng lời
thoại đợc ngời nói sử dụng để giao tiếp với chính mình - ngời nghe đặc biệt. Những
đặc điểm này khiến việc nghiên cứu lời ĐTNT từ lý thuyết hội thoại hầu nh còn bỏ
trống.
1.3. Lời ĐTNT tồn tại khá phổ biến trong thực tế sử dụng ngôn ngữ để giao
tiếp, nhng nó chỉ hiện diện rõ ràng, cụ thể ở tác phẩm nghệ thuật (kịch, tiểu thuyết,
truyện ngắn). Sự tái hiện ĐTNT vào tác phẩm nghệ thuật tất yếu không thể đảm bảo
tuyệt đối tính khách quan, nguyên bản của dạng lời nói này nhng trên một mức độ
nhất định, các nhà văn luôn phải tôn trọng các đặc tính bản chất, các nguyên tắc nảy
sinh và sự hành chức của nó. Vì thế, khi cha có điều kiện vật chất hoá lời ĐTNT ở
đời sống thực, lời ĐTNT trong tác phẩm nghệ thuật là một nguồn t liệu đủ tin cậy
cho phép việc nghiên cứu về nó có thể đạt đợc những kết quả cơ bản bớc đầu. Đồng
thời, tìm hiểu dạng lời nói này trong tác phẩm văn học cũng là tìm hiểu cách thức tổ
chức ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn, góp phần nhận diện phong cách ngôn ngữ
tác giả.
1.4. Sau 1975, văn häc ViƯt Nam chun sang mét thêi kú ph¸t triĨn mới, có
những chuyển đổi mạnh mẽ về t tởng và phơng pháp sáng tác. Các tác phẩm tập



7

trung thể hiện cuộc sống của con ngời cá nhân, những hậu quả mà chiến tranh để lại
trong thời bình. Trong sự đổi mới đó, thể loại truyện ngắn đà đạt đợc nhiều thành
quả nhất.
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiên phong của tiến trình đổi
mới văn học. Truyện ngắn của ông, ngay từ những năm đầu của thập niên 80 (thế kỷ
20), đà bộc lộ rõ khát vọng khám phá đời sống nội tâm con ngời trong thời đại mới,
đặc biệt là ngời lính trở về sau chiến tranh. Lời ĐTNT nhân vật là một phơng tiện
ngôn ngữ đợc ông sử dụng rất hiệu quả để phản ánh phạm vi hiện thực này, góp
phần tạo nên dấu ấn phong cách độc đáo của tác giả.
So với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Thị Thu Huệ là
những nhà văn thuộc về thế hệ sau. Trong những năm 90 (thế kỷ 20), đây là hai tác
giả truyện ngắn nổi tiếng. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất sắc sảo, thể
hiện nổi bật trong lời thoại nhân vật. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
giàu nữ tính, phù hợp với việc tái hiện cuộc sống tâm hồn, tình cảm của các nhân vật
nữ. Khảo sát lời ĐTNT nhân vật trong truyện ngắn của họ sẽ cho phép sự nghiên cứu
về dạng lời nói này trở nên toàn diện, đầy đủ hơn.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra nói trên, chúng tôi lựa chọn
đề tài: Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những kết quả nghiên cứu có tính chất tiền đề về độc thoại nội tâm
(monologue intérieur)
Mặc dù độc thoại xuất hiện từ khá sớm (gắn liền với sự ra đời của kịch - một
loại hình nghệ thuật sân khấu) nhng ĐTNT chỉ bắt đầu đợc chú ý vào những năm
cuối thế kỷ 18 và thực sự đợc tập trung nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20. Những tiểu
thuyết phơng Tây hiện đại nh: Ulysse (James Joyce); Đi tìm thời gian đà mất (M.
Proust); Thời gian khổ (Dickens) đà sử dụng ĐTNT với t cách là một phơng tiện đÃ

tới kịp vừa may để diễn đạt căn bệnh mới của thế kỷ trong tiĨu thut míi [25, tr.69].
Sù xt hiƯn cđa §TNT mét cách dày đặc và mới lạ trong tiểu thuyết hiện đại đà thu
hút sự chú ý của các nhà nghiên cøu ë ngoµi níc cịng nh trong níc.


8

2.1.1. Những kết quả nghiên cứu về độc thoại nội tâm ở ngoài nớc
Vấn đề đầu tiên mà các nhà nghiên cứu ở nớc ngoài đặt ra là xác định t cách
tồn tại của ĐTNT trong tiểu thuyết và truyện ngắn. Có thể khái quát kết quả nghiên
cứu về vấn đề này thành hai xu hớng cơ bản: ĐTNT với t cách là một kỹ thuật, một
thủ pháp của nhà văn trong xây dựng tác phẩm và ĐTNT với t cách là một dạng lời
thoại, đợc nhân vật sử dụng ®Ĩ thùc hiƯn sù giao tiÕp.
Tiªu biĨu cho xu híng thứ nhất là quan điểm của hai tác giả Wiliam Flin
Thrall vµ Mario Klarer. Trong cuèn A handbook to literature (Cẩm nang văn học) tác
giả Wiliam Flin Thrall nhìn nhận ĐTNT chỉ là một kỹ thuật, trong đó, luồng suy nghĩ
của một nhân vật trong một tiểu thuyết hoặc truyện ngắn đợc bộc lộ. Nó ghi lại trải
nghiệm cảm xúc bên trong của nhân vật trên từng cấp độ hoặc là sự phối hợp nhiều
cấp độ tình cảm. Theo ông, ĐTNT không phải là lời thoại mà là một hình thức phi
thoại (non - verbalize), đợc dùng để diễn đạt cảm giác hoặc tình cảm không diễn tả
bằng lời [131, tr.243]. Thống nhất với quan điểm này, Mario Klarer cũng khẳng
định ĐTNT là một kỹ thuật miêu tả trong đó một nhân vật đợc đặc trng hoá riêng biệt
bằng suy nghĩ của chính nhân vật đó mà không có thêm bất cứ lời bình luận nào. Nó
bị chi phối bởi tâm lý và liên quan đến luồng suy nghĩ của nhân vật [127, tr.142]. Nh
vậy, ĐTNT đà đợc nhìn nhận nh một cách thức, một thủ pháp của nhà văn để biểu
đạt suy nghĩ, tình cảm, cảm giác bên trong, ngầm ẩn của nhân vật. ĐTNT không đợc
xem là dạng lời thoại do nhân vật trực tiếp nói ra để thực hiện sự giao tiếp trong một
ngữ cảnh nhất định.
Tiêu biểu cho xu hớng thứ hai là cách nhìn nhận của nhà ngôn ngữ học V.B.
Kasevich trong giáo trình Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cơng. Khi nói về

mối quan hệ giữa ngôn ngữ và t duy, ông đà nhận ra sự tồn tại của những kiểu t duy
mà ở đó hình thức lời nói đợc sử dụng nhng dờng nh đà bị rút gọn: nó chỉ giữ lại một
số những yếu tố quan trọng nhất, còn tất cả những cái gì là tất nhiên thì đều không
đợc thể hiện bằng lời nói [51, tr.18]. Từ đó, dẫn đến một thực tế thờng gặp trong đối
thoại là ở những tình huống khá quen thuộc thì những cái đợc coi là đà biết sẽ đợc
bỏ qua, không đợc ngời nói và ngời nghe đa vào trong phát ngôn của mình. Điều đặc
biệt là tác giả Kasevich cho rằng: quá trình ép nén các phơng tiện ngôn ngữ nh thÕ


9

lại càng hiển nhiên hơn trong trờng hợp các độc thoại tởng tợng, hoặc độc thoại cho
mình, tức là khi không cần phải lo lắng để đạt đợc sự lĩnh hội từ phía ngời đối thoại
[51, tr.18]. Nh vậy, ông đà khẳng định: cả lời đối thoại và lời độc thoại đều có thể có
những đặc điểm hành chức giống nhau để tiến hành giao tiếp có hiệu quả. Không
chỉ thừa nhận sự tồn tại của ĐTNT, Kasevich còn chỉ ra một trong những quy luật
quan trọng của nó: ĐTNT là dạng lời nói không chịu sự chi phối từ một ngời nghe
phân biệt nh đối thoại. Xem xét ĐTNT trong mối quan hệ với ngời nghe, Kasevich
đà khẳng định ĐTNT là một dạng lời thoại đợc con ngời sử dụng để giao tiếp.
Vấn đề thứ hai mà các nhà nghiên cứu nớc ngoài quan tâm khi tìm hiểu về
ĐTNT trong tiểu thuyết là xác định ĐTNT, phân biệt nó với khái niệm dòng ý thức.
Hai khái niệm này có mối quan hệ gần gũi với nhau, ranh giới giữa chúng trong tiểu
thuyết nhiều khi khó phân biệt. Tác giả Tamara Motilova trong bài Độc thoại nội
tâm và dòng tâm t đà đồng nhất hai khái niệm và cho rằng:
Nó xuất hiện nh diễn từ không biểu đạt thành lời của các nhân vật hoặc nh diễn từ
của tác giả, nhân danh mình mà nói, nhng có thể coi nh đà mợn từ vựng và giọng
điệu của nhân vật; hoặc nh đối thoại bên trong, ở đó, giọng nói của nhân vật bị xẻ
làm đôi thành hai giọng phân biệt và đối nghịch; nó xuất hiện dới hình thức một
chuỗi kÕt ln cã tỉ chøc cịng nh qua nh÷ng ý kiến mơ hồ và hỗn loạn [dẫn theo
25, tr. 69-70].


Theo quan niệm trên, tác giả Motilova đà chỉ ra những hình thức tồn tại của
ĐTNT. Thứ nhất, đó là dạng ĐTNT có sự lai ghép, vay mợn giữa ngôn ngữ nhà văn
và ngôn ngữ nhân vật. Thứ hai, đó là những lời đối thoại bên trong của nội tâm nhân
vật. Thứ ba, đó là những ý kiến mơ hồ và hỗn loạn. Hình thức cuối cùng (những ý
kiến mơ hồ và hỗn loạn) mà Motilova nói đến thực ra chính là dòng ý thức.
Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu Xô viết trớc đây lại hớng đến sự phân
biệt giữa ĐTNT và dòng ý thức. Phân tích việc sử dụng hai loại phơng tiện này trong
tác phẩm của Stendhal và Tolstoi, M.B. Khrapchenko chỉ rõ:
Tính chất phân tích của lời lẽ nội tâm nhân vật trong Đỏ và đen là cho lời lẽ đó có
một số đặc điểm của sự tề chỉnh, duy lý chặt chẽ, đôi khi đầy bi tráng. Theo ý nghĩa
này, độc thoại nội tâm trong các tác phẩm của Stendhal khác biệt khá cơ bản víi


10

lời lẽ nội tâm các nhân vật của Tolstoi, lời lẽ này đợc xây dựng nh thể là sự hiển
hiện dòng t tởng tự nhiên, tuỳ tiện, sự vận động của tình cảm[dẫn theo 25, tr.79]

M.B. Khrapchenko đà dựa vào cấu trúc của lời lẽ nội tâm nhân vật để chỉ ra
sự phân biệt. Lời lẽ nội tâm trong tác phÈm Stendhal cã cÊu tróc tỊ chØnh, duy lý
chỈt chÏ, tức là có tính tổ chức rõ rệt, còn trong tác phẩm của Tolstoi, nó là một
dòng t tởng tự nhiên, tuỳ tiện, tuôn chảy miên man theo sự vận động của tình cảm và
tâm lý nhân vật. Nói cách khác, đó chính là sự khác biệt cơ bản giữa lời ĐTNT và
dòng ý thức.
Theo một xu hớng khác, nhà nghiên cứu Jean Cardot quan niệm: ĐTNT khi
đạt tới một cách viết ngày càng mang tính chất điện tín, ngắt quÃng; sự đứt đoạn của
dòng chảy ngôn từ: những gián đoạn thờng xuyên ám chỉ tình trạng thiếu vắng lời đáp
lại [dẫn theo 25, tr.83], sẽ trở thành dòng ý thức. Khi đó, ĐTNT trong tiểu thuyết
không thể lẫn với độc thoại của kịch vì tính chất phi logic và rời rạc của phát ngôn.

Ông không đồng nhất hai khái niệm ĐTNT và dòng ý thức nhng cũng không chỉ ra
sự phân biệt giữa chúng. Trong quan niệm của ông, dòng ý thức là mức độ phát triển
cao nhất của ĐTNT. Th viện điện tử questia.com cũng cho rằng: Các nhà văn cuối
thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đà đi tìm các khả năng mới của ĐTNT, tạo ra hiệu quả về
tính chất phi võ đoán và tự do của độc thoại. Đầu thế kỷ 20, hình thức ĐTNT có vẻ
hoàn toàn tuỳ tiện, đợc xử lý đến mức cực đoan: ĐTNT cũng chính là dòng ý thức của
nhân vật[102, ngày 16/12/2007].
Hiện nay, đa số các nhà nghiên cứu ở nớc ngoài đều xem ĐTNT là một khái
niệm phân biệt với độc thoại của kịch và với dòng ý thức, mặc dù giữa chúng có
những mối quan hệ, những điểm giống nhau nhất định. Đây chính là tiền đề lý
thuyết quan trọng nhất để chúng tôi triển khai sự nghiên cứu về lời ĐTNT nhân vật
trong tác phẩm văn học.
2.1.2. Những kết quả nghiên cứu về độc thoại nội tâm ở trong nớc
ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu chuyên biệt về ĐTNT có số lợng rất
hạn chế. Tuy nhiên, các tác giả nh: Đặng Anh Đào, Nguyễn Thái Hoà, Trần Đình Sử
đều có những sự chú trọng nhất định đến ĐTNT khi nói về sự đổi mới thi pháp
truyện và tiểu thuyết hiện đại.


11

Tác giả Đặng Anh Đào trong Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phơng Tây hiện
đại đà dành hẳn mục VII, phần I với hơn 16 trang để nói về ĐTNT và dòng tâm t ,
chỉ ra sự khác nhau giữa chúng với độc thoại. Không đi vào phân biệt hai khái niệm
ĐTNT và dòng tâm t (dòng ý thức), nhng tác giả Đặng Anh Đào đà phân tích và nêu
lên những đặc điểm quan trọng của ĐTNT. Khi phân biệt độc thoại và ĐTNT, bà
khẳng định: Độc thoại đợc nói đến ở kịch, đôi khi trong tiểu thuyết, trong khi khái
niệm ĐTNT chỉ dùng trong tiểu thuyết [25, tr.74]. Giữa hai khái niệm này có những
điểm giống nhau: chúng đều là sự tái hiện những ý nghĩ của nhân vật, đều có tính
chất hớng nội. Điểm phân biệt mà tác giả Đặng Anh Đào chỉ ra đó là: độc thoại gắn

liền với hành động hơn, thiên về hành động hơn so với ĐTNT. Còn ĐTNT vào dòng
tâm t thì thờng có tính chất kìm hÃm hành động, thiên về xu thế miêu tả hơn là tự sự
rõ nét hơn. Thế giới bên trong là đối tợng miêu tả chủ yếu của ĐTNT [25, tr.74].
Chú trọng đến việc nhận diện ĐTNT trong hệ thống ngôn từ của tác phẩm
văn học, tác giả của Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phơng Tây hiện đại đà đa ra
những luận điểm cụ thể. Bà xác định, ĐTNT thuộc phạm vi ngôn từ của nhân vật, tất
nhiên, cũng không thể đối lập hoàn toàn nó với ngôn từ ngời kể chuyện, nhất là
trong những trờng hợp ngời kể chuyện ở ngôi thứ nhất hoặc nhờng lời cho nhân vật.
Điều kiện để loại câu nửa trực tiếp này trở thành ĐTNT hoặc dòng tâm t là: nó phải
khoác giọng điệu và từ vựng của nhân vật, dù chủ thể vẫn nhân danh chính thức là
ngời kể chuyện, ở đó giọng nói của ngời kể chuyện phải lẫn với giọng điệu của
nhân vật ngay tại cái vỏ ngôn từ[25, tr.70]. Còn đối với ĐTNT đợc biểu hiện trực
tiếp thì lời phát ngôn đợc đặt ở ngôi thứ nhất (ta) hoặc ngôi thứ hai (tơng đơng với
mày), giọng điệu và từ vựng của nhân vật phải đi thẳng vào văn bản. Sự chú ý của
tác giả Đặng Anh Đào đến ngôi nhân xng của ĐTNT cho thấy, bà đà xét ĐTNT
trong mối quan hệ giữa lời nói với chủ thể phát ngôn,.
Nghiên cứu về Những vấn đề thi pháp của truyện, tác giả Nguyễn Thái Hoà đi
vào miêu tả những khái niệm cơ sở của thi pháp học thể loại truyện (trong đó có
ĐTNT và dòng ý thức) từ góc nhìn ngôn ngữ học. Ông xem ĐTNT cũng là một hình
thức đối thoại. Nhân vật tự phân thân thành vai nói và vai nghe để thực hiện quá
trình trò chuyện với chính bản thân mình. Do vậy, tác giả Nguyễn Thái Hoà đà nhận


12

ra nh÷ng biĨu hiƯn mang ý nghÜa ng÷ dơng vỊ bản chất hành động của dạng lời nói
này. Khi chỉ ra các dấu hiệu nhận biết ĐTNT, ông thờng dựa vào những phơng tiện,
những cấu trúc thể hiện các loại hành động ngôn ngữ khác nhau trong lời nói của
nhân vật.
Những dấu hiệu đánh dấu độc thoại nội tâm của nhân vật thờng thấy là: (X) tự hỏi

rằng, cho rằng nh thế làcó sao không nhỉ v.v có thể gọi là độc thoại lập luận;
Chao ơi! Mình mà, Khốn thay, mình lại, Còn gì hơn với mình, gọi
là độc thoại cảm thán; giá nh, hồi đó, nhớ lại hồi xa v.v có thể gọi là độc thoại
hồi ức; một ngày nào đó mình sẽ, ớc gì có v.v là độc thoại cầu khiến
v.v [43, tr.78]

Trong trờng hợp có sự chập đôi giữa ĐTNT của nhân vật với lời kể của ngời
kể chuyện, ranh giới giữa chúng sẽ trở nên rất khó xác định. Tác giả Nguyễn Thái
Hoà cho rằng đó là một thủ pháp của truyện và ngời ta thờng gọi đó là lời kể gián
tiếp tự do. Ông không đồng nhất hai khái niệm ĐTNT và truyện ngắn tâm t (dòng ý
thức) và chỉ ra sự khác nhau giữa chúng. Có chung nguồn gốc là kể lại ý nghĩ và
cảm xúc của nhân vật ở ngôi thứ ba nhng ĐTNT chỉ xuất hiện trong một số tình
huống đối thoại nhất định còn truyện kể tâm t (psycho-narration) là dòng chảy triền
miên của ý thức, là giọng chủ đạo của lời kể.
Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng đà đa ra những nhận xét, kiến giải bớc
đầu về ĐTNT. Bản chất giao tiếp của ĐTNT đợc khẳng định rõ ràng với luận điểm
của tác giả Đỗ Hữu Châu trong giáo trình Đại cơng ngôn ngữ học, tập 2, Ngữ dơng
häc. Nãi ®Õn sù trao lêi cđa vËn ®éng héi thoại, ông phân tích cả ở lời đối thoại và
lời ĐTNT. Sự trao lời trong đối thoại diễn ra giữa Sp1 (vai nãi) vµ Sp2 (vai nghe) - lµ
hai ngêi khác nhau. Còn ở những trờng hợp độc thoại, độc thoại không phải đơn
thoại và là độc thoại đời thờng không phải trên sân khấu, thì ngời nói chỉ là mét nhng sù trao lêi vÉn diƠn ra nhê vµo sự phân đôi nhân cách: nhân cách nghe và nhân
cách nói [15, tr.206]. Ví dụ ông dẫn để phân tích là ĐTNT của nhân vật Hàn trong
truyện ngắn Một truyện xuvơnia (Nam Cao): Hắn tự bảo: Cuốn tiểu thuyết của đời
ta bắt đầu ở thời điểm độc thoại, Hàn nghe và Hàn nói có sự khác biệt nhất định.


13

Với quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu, những nhân tố cơ bản của quá trình giao
tiếp: vai nói, vai nghe đợc xác định cả trong lời ĐTNT.

Một số luận văn, luận án nh: Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện
của Nam Cao (Lu Thị Oanh); Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (Các hình thức
thoại dẫn) (Mai Thị Hảo Yến); Khảo sát các hình thức dẫn thoại (trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp) (Nguyễn Thị Thanh Huyền), dù nghiên cứu các đối tợng thuộc
những phạm vi khảo sát khác nhau nhng đều có một phần nội dung đề cập đến
ĐTNT với t cách là một dạng lời thoại thực sự của nhân vật. Xuất phát từ quan điểm:
ĐTNT là dòng suy nghĩ của con ngời thể hiện những tâm t, tình cảm, trạng thái tâm
lý thầm kín, không phát ra thành lời, Lu Thị Oanh gọi tất cả những đoạn văn có sự
xuất hiện của suy nghĩ bên trong của nhân vật là những đoạn ĐTNT. Trong đó có
thể là những phát ngôn thực sự mà nhân vật trực tiếp nói ra, cũng có thể là những
đoạn văn xen lẫn lời độc thoại với lời dẫn chuyện Luận văn này xem xét những
đoạn văn ĐTNT - một phần trích bất kỳ trong văn bản phản ánh dòng suy nghĩ chảy
âm thầm trong óc con ngời. Từ đó, ĐTNT đợc phân tích trên những phơng diện đặc
trng của ngữ pháp văn bản, với những vấn đề nh: cấu trúc hình thức của đoạn văn
ĐTNT (diễn dịch, quy nạp, đề thuyết, liệt kê); cách thức nhập đề, cách thức kết thúc
đoạn văn độc thoại. Đồng thời với việc khảo sát tần số xuất hiện, tác giả luận văn
cũng nêu lên giá trị biểu hiện của các đoạn độc thoại nội tâm: khẳng định chủ đề và
t tởng tác phẩm, khẳng định phong cách tác giả về mặt ngôn ngữ. Có thể thấy, tác
giả Lu Thị Oanh đà đi từ cấu trúc của đoạn văn ĐTNT để xác định ý nghĩa, vai trò
nghệ thuật của nó đối với những vấn đề cơ bản của phong cách học.
Hai tác giả Mai Thị Hảo Yến và Nguyễn Thị Thanh Huyền lại khai thác một
hớng đi khác. Mục đích của họ là nghiên cứu về lời dẫn thoại trong truyện ngắn một
tác giả cụ thể. Muốn phân lập các hình thức dẫn thoại thì vấn đề đặt ra tr ớc hết là
phải xác định các dạng lời thoại đợc sử dụng trong tác phẩm. Đó là những lời đối
thoại giữa một ngời nói với một ngời nghe phân biệt, và đối thoại nội tâm cũng là
một dạng lời thoại, có những đặc điểm dẫn thoại riêng. Đặc biệt, Mai Thị Hảo Yến
còn chú ý đến các loại hành động ngôn ngữ xuất hiện ở lời dẫn của ĐTNT. Mặc dù
không chỉ ra một cách trực tiếp, nhng sự phân tích của tác giả ®· cho thÊy: lêi



14

ĐTNT có thể ứng với việc sử dụng những hành động ngôn ngữ nhất định. Chẳng
hạn: ĐTNT trực tiếp ứng với hành động ngôn ngữ hỏitrong truyện ngắn Nam Cao
có bốn trờng hợp [121, tr.188]; ĐTNT ứng với hành động ngôn ngữ đánh giá
trong truyện ngắn Nam Cao có ba trờng hợp [121, tr.189] Các bảng thống kê về
các hành động ngôn ngữ đợc dẫn ở ĐTNT trực tiếp (trang 193), ở ĐTNT gián tiếp tự
do (trang 209) và ở §TNT trùc tiÕp tù do (trang 203) thùc ra chÝnh là sự liệt kê
những hành động ngôn ngữ đợc sử dụng trong lời độc thoại qua truyện ngắn Nam
Cao. Dễ dàng nhận thấy ở ba bảng thống kê này số lợng hành động ngôn ngữ chỉ
dừng lại ở một số loại hạn chế chứ không phong phú, đa dạng nh lời đối thoại.
Những công trình, bài viết nói trên đều đà đa ra những nhận xét, đánh giá
khác nhau góp phần làm sáng rõ khái niệm, đặc điểm cũng nh sự nhận diện về
ĐTNT. Những kết quả này giúp chúng tôi có đợc cái nhìn khái quát, tổng hợp để từ
đó xác định hớng nghiên cứu cụ thể của luận án.
2.2. Hớng nghiên cứu độc thoại nội tâm của luận án
Các công trình nghiên cứu về ĐTNT ở trong nớc và ngoài nớc đều tiến hành
trên t liệu là các tiểu thuyết và truyện ngắn. Điều này cho thấy, dù ĐTNT tồn tại tự
nhiên trong đời sống con ngời nhng nã chØ thĨ hiƯn trùc quan, x¸c thùc trong t¸c
phÈm văn học. Sự ảnh hởng, chi phối của ngôn ngữ và ý thức nhà văn đến ĐTNT
nói riêng và ngôn ngữ tác phẩm nói chung là không thể phủ nhận, song về cơ bản,
khi đề cập đến ĐTNT, các nhà nghiên cứu đều xem nó là phạm trù thuộc về ngôn
ngữ nói năng của nhân vật, có sự độc lập nhất định với ngôn ngữ nhà văn hoặc ngôn
ngữ ngời kể chuyện. Từ đó, ĐTNT đà đợc xem xét nh một dạng lời nói trực tiếp, đợc
nhân vật sử dụng ®Ĩ thĨ hiƯn c¸c mèi quan hƯ giao tiÕp cđa nó với các nhân vật
khác.
Mối quan hệ giữa ĐTNT với dòng ý thức là một vấn đề phức tạp làm nảy sinh
nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Đa số các nhà nghiên cứu xác định,
ĐTNT và dòng ý thức có những điểm giống nhau nhng vẫn là hai khái niệm phân
biệt, có những đặc điểm khác nhau về cấu trúc, tổ chức ngôn ngữ, nội dung ĐTNT

đợc tổ chức dới dạng một lời thoại, gắn với mét ý thøc giao tiÕp, mơc ®Ých giao tiÕp


15

rõ ràng, cụ thể của nhân vật còn dòng ý thức là sự tuôn chảy miên man, vô định
những suy nghĩ bên trong, khi nhân vật gần nh rơi vào trạng thái vô thức.
Đặc biệt, những ý kiến, nhận xét của một số nhà nghiên cứu trong nớc nh
Đặng Anh Đào, Nguyễn Thái Hoà, Đỗ Hữu Châu đà xem xét ĐTNT trên các phơng
diện nh hành động ngôn ngữ, vai nói, vai nghe cho phép khẳng định: ĐTNT cũng
là một dạng lời thoại, một hình thức sử dụng ngôn ngữ ®Ĩ giao tiÕp cđa con ngêi.
Bëi vËy, hoµn toµn cã thể nghiên cứu nó dới ánh sáng của lý thuyết hội thoại, từ góc
độ ngữ dụng học. Luận án tiến sỹ của Mai Thị Hảo Yến đà chỉ ra khá nhiều loại
hành động ngôn ngữ đợc sử dụng trong lời ĐTNT nhân vật và việc nhận diện các
hành động này cũng dựa vào những cấu trúc, phơng tiện ngôn ngữ nh ngời ta từng
tiến hành với lời đối thoại.
Nh vậy, các công trình nghiên cứu đi trớc chủ yếu hớng đến những phơng
diện lý luận chung về ĐTNT nh khái niệm, tiêu chí nhận diện. Một số luận văn, luận
án ngôn ngữ học đà ít nhiều đề cập đến sự hành chức của ĐTNT với t cách là một
dạng lời thoại đợc nhân vật sử dụng để giao tiếp trong tác phẩm văn học. Tuy nhiên,
trong những công trình này, ĐTNT không phải là đối tợng nghiên cứu chính mà chỉ
là một khái niệm có liên quan, do đó, kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những
nhận xét, mô tả bớc đầu.
Những kết quả nghiên cứu về ĐTNT của các tác giả đi trớc là những gợi mở
tiền đề rất quan trọng, đặt cơ sở về lý luận và thực tiễn cho quá trình tìm hiểu lời
ĐTNT của chúng tôi. Trong luận án này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu lời ĐTNT
nh một đối tợng chuyên biệt, xem xét nó với t cách là một dạng lời thoại trực tiếp
của nhân vật. Tiếp cận lời ĐTNT dới ¸nh s¸ng cđa lý thut dơng häc, ln ¸n híng
tíi việc chỉ ra một số đặc điểm hành chức cơ bản của lời ĐTNT nh: việc sử dụng các
loại hành động ngôn ngữ, sự chi phối của các nhân tố ngữ cảnh đến ngữ nghĩa của

lời và vai trò của lời ĐTNT đối với một số phơng diện nghệ thuật của tác phẩm văn
học.
3. Đối tợng nghiên cứu và nguồn dẫn liệu
3.1. Đối tợng nghiên cứu


16

Luận án khảo sát và nghiên cứu lời ĐTNT nhân vật trong 94 truyện ngắn của
ba tác giả: NMC, NHT, NTTH.
Trong truyện ngắn, lời nói bên trong của nhân vật có thể đợc biểu đạt gián
tiếp qua ngôn ngữ tác giả hoặc ngời dẫn chuyện, qua hình thức lai ghép nửa trực tiếp
giữa ngôn ngữ tác giả với ngôn ngữ nhân vật. Chúng tôi chỉ khảo sát những lời
ĐTNT do nhân vật trực tiếp thực hiện trong một ngữ cảnh cụ thể để đảm bảo tối đa
tính khách quan và nguyên bản của t liệu.
3.2. Nguồn dẫn liệu
Đề tài giới hạn phạm vi khảo sát ở truyện ngắn Việt Nam đơng đại, giai đoạn
những năm 80 - 90 của thế kỷ 20. Chúng tôi triển khai đề tài trên nguồn dẫn liệu là
truyện ngắn NMC, NHT, NTTH, chú trọng đến lời thoại nhân vật trong hoạt động
giao tiếp, mà cụ thể là lời ĐTNT, đợc nhân vật thực hiện trong những tình huống và
ngữ cảnh khác nhau của đời sống. Trong truyện ngắn ba tác giả, chúng tôi đà thống
kê đợc 467 ngữ cảnh có chứa lời ĐTNT của nhân vật. Dựa trên số lợng này, chúng
tôi đi vào miêu tả đặc điểm ý nghĩa, sự hành chức cũng nh vai trò của lời ĐTNT
nhân vật trong truyện ngắn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:
- Nhận diện, xác định lời ĐTNT nhân vật trong truyện ngắn của NMC, NHT,
NTTH.
- Thống kê, miêu tả các hành động ngôn ngữ trong lời ĐTNT nhân vật và các
nhân tố chi phối việc lựa chọn hành động ngôn ngữ khi nhân vật ĐTNT.

- Miêu tả các nhóm ngữ nghĩa của lời ĐTNT và chỉ ra các nhân tố chi phối
ngữ nghĩa của lời.
- Khái quát những đặc điểm nổi bật của lời ĐTNT trong truyện ngắn NMC,
NHT, NTTH, cũng nh chỉ ra vai trò của chúng đối với lý thuyết hội thoại nói chung,
vai trò quan trọng của lời ĐTNT đối với việc thể hiện những phơng diện cơ bản của
tác phẩm văn học nh: nhân vật, phong cách ngôn ngữ của nhà văn, nội dung tác
phẩm và thi pháp truyện.
5. Phơng pháp nghiên cứu


17

Để thực hiện đề tài này, luận án sử dụng phối hợp một số phơng pháp nghiên
cứu sau đây:
5.1. Phơng pháp thống kê - phân loại - miêu tả
Luận án thống kê số lợng lời ĐTNT trong truyện ngắn từng tác giả. Trên
nguồn t liệu này, chúng tôi tiến hành phân loại lời ĐTNT dựa trên những cơ sở, tiêu
chí cụ thể: tần số xuất hiện của lời, các loại hành động ngôn ngữ, các nhóm ngữ
nghĩa Dựa vào số lợng lời ĐTNT nhân vật đợc phân loại, luận án đi sâu vào miêu
tả đặc điểm về ngữ nghĩa, các hành động ngôn ngữ phổ biến cũng nh các nhân tố
ngữ cảnh chi phối đến sự hành chức của lời ĐTNT.
Các nhận định, đánh giá đợc luận án rút ra đều dựa trên sự miêu tả, phân tích
số liệu cụ thể. Tần số lặp lại cao hay thấp của số liệu thống kê là cơ sở quan trọng
phản ánh tính quy luật của đối tợng, giúp chúng tôi chỉ ra và lý giải những đặc điểm
hoạt động của lời ĐTNT trong giao tiếp.
5.2. Phơng pháp so sánh
Nghiên cứu về lời ĐTNT trên t cách lời thoại, luận án luôn đặt nó trong mối
quan hệ so sánh với lời đối thoại. Đây là đối tợng so sánh chủ yếu cho thấy sự thống
nhất và đối lập giữa hai dạng lời nói. Sự so sánh chủ yếu thực hiện trên những phơng
diện nh: hành động ngôn ngữ, ngữ nghĩa của lời, các nhân tố chi phối việc lựa chọn

hành động ngôn ngữ và ngữ nghĩa Những nhận xét rút ra đợc từ sự so sánh này sẽ
góp phần khẳng định thêm một số vấn đề lý thuyết của ngữ dụng học.
Mặt khác, khi cần so sánh để làm nổi bật những đặc điểm của lời ĐTNT nhân
vật trong truyện ngắn NMC, NHT, NTTH, chúng tôi sẽ mở rộng phạm vi khảo sát t
liệu. Lời ĐTNT trong truyện ngắn Nam Cao (trớc Cách mạng), truyện ngắn Hồ Anh
Thái, Nguyễn Ngọc T, Phan Thị Vàng Anh và trong một số truyện ngắn của Ernest
Heminguay, Marcel Proust là những cứ liệu so sánh chủ yếu.

5.3. Phơng pháp phân tích ngữ nghĩa - hoạt động
Trong luận án này, ngữ nghĩa của lời ĐTNT đợc xem xét không chỉ ở bình
diện hệ thống - cấu trúc mà đợc tiến hành cả ở bình diện chức năng, b×nh diƯn sư


18

dơng, lêi nãi. Ng÷ nghÜa trùc tiÕp cđa tõ, ng÷, câu (suy ra từ quan hệ cấu trúc nội tại
của chúng), đợc đặt vào mối quan hệ với nhận thức, với những yếu tố của ngữ cảnh
và tình huống để tìm ra ngữ nghĩa đích thực, cụ thể.
Để nêu lên những đặc điểm về ngữ nghĩa của lời ĐTNT, luận án cũng không
dừng lại ở việc chỉ ra ngữ nghĩa từng lời ĐTNT riêng lẻ, rời rạc mà sẽ quy nghĩa đó
về những phạm vi hiện thực khái quát hơn.
5.4. Phơng pháp phân tích - tổng hợp
Cùng với các phơng pháp trên, đề tài sử dụng đồng thời phơng pháp phân tích
lý giải các biểu hiện của những hành động nói cụ thể trong lời ĐTNT nhân vật, giải
thích vì sao nhân vật lại thờng sử dụng các nhóm hành động điển hình, vai trò của
việc sử dụng chúng trong mối quan hệ với chủ đích sáng tạo của nhà văn. Qua đó,
đề tài đi đến khái quát, tổng hợp một số đặc tính nổi bật của lời ĐTNT trong truyện
ngắn NMC, NHT, NTTH, chỉ ra những đóng góp trong việc sử dụng phơng tiện
ngôn ngữ - lời ĐTNT - của ba nhà văn đối với truyện ngắn Việt Nam những năm 80
- 90 (thế kỷ 20).

6. Đóng góp của đề tài
Tiến hành thực hiện đề tài Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi
xác định những đóng góp của luận án trên một số phơng diện sau đây:
Thứ nhất, luận án chủ yếu đi sâu tìm hiểu lời ĐTNT dới ánh sáng của lý
thuyết hội thoại và ngữ dụng học, nghiên cứu nó với t cách là một dạng lời thoại đợc
con ngời sử dụng để giao tiếp. Do đó, lời ĐTNT sẽ đợc xem xét trên những phơng
diện quan trọng nhất của lời nói: việc sử dụng hành động ngôn ngữ và ngữ nghĩa.
Những nhận xét, đánh giá về hai phơng diện này sẽ cho thấy những quy luật hành
chức đặc thù của lời ĐTNT.
Thứ hai, từ những kết quả nghiên cứu đạt đợc, luận án sẽ khẳng định thêm
một số vấn đề của lý thuyết hội thoại: vai trò của nhân tố ngời nghe, sự chi phối của
những nhân tố ngoài ngôn ngữ đến việc sử dụng ngôn ngữ, bản chất hành động của
lời nói Đồng thời, mối quan hệ gắn bó giữa ngôn ngữ học và những khoa học liên


19

ngành nh văn hoá học, thi pháp học, lý luận văn học, xà hội học, tâm lý học cũng đợc thể hiện sáng rõ hơn.
Thứ ba, những phơng diện quan trọng của tác phẩm văn học nh: nhân vật,
phong cách ngôn ngữ tác giả, thi pháp truyện sẽ đợc nhìn nhận từ đặc điểm hành
chức của lời ĐTNT - một hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Cấu trúc luận án gồm 4 chơng:
Chơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chơng 2: Các hành động ngôn ngữ của lời độc thoại nội tâm nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ
Chơng 3: Ngữ nghĩa lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ
Chơng 4: Vai trò của lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ


Chơng 1
Cơ sở lý luận của đề tài


20

1.1. Một số khái niệm của lý thuyết hội thoại liên quan đến lời độc thoại
nội tâm
ĐTNT là một dạng thức tổ chức ngôn ngữ thành lời nói của con ng ời để thực
hiện sự giao tiếp. Do vậy, ĐTNT vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với những khái niệm
cơ bản của lý thuyết hội thoại. Việc phân tích các khái niệm: cuộc thoại, lợt lời, ngữ
cảnh giao tiếp, vai nói và vai nghe sẽ tạo nên tiền đề lý luận làm sáng rõ những đặc
điểm hành chức của lời ĐTNT.
1.1.1. Cuộc thoại, lợt lời
1.1.1.1. Cuộc thoại
Cuộc thoại là khái niệm cơ bản của lý thuyết hội thoại vì nó bao gồm tất cả
các nhân tố của quá trình giao tiếp nh: ngời nói, ngời nghe, lời thoại, ngữ cảnh
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán thì cho đến nay việc định ranh giới
cuộc thoại cha có gì là thực dứt khoát với những tiêu chí đủ tin cậy. Tuy nhiên, các
cuộc thoại là có thật và yêu cầu nghiên cứu buộc ngời nghiên cứu phải quyết định
một sự phân chia nào đó ít nhiều võ đoán [17, tr.299]. Hai tác giả này đà đa ra
những tiêu chuẩn cần và đủ để có một cuộc thoại:
Để có một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện cần và đủ là có một nhóm nhân vật có
thể thay ®ỉi nhng kh«ng ®øt qu·ng trong mét khung thêi gian không gian có thể
thay đổi nhng không đứt quÃng nãi vỊ mét vÊn ®Ị cã thĨ thay ®ỉi nhng không đứt
quÃng[17, tr.298]

Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học định nghĩa cuộc thoại nh sau:
Đơn vị hội thoại lớn nhất, bao trùm nhất đợc xác định theo các tiêu chí về:

- Nhân vật hội thoại.
- Thời gian và địa điểm hội thoại.
- Chủ đề hội thoại.
- Các dấu hiệu định ranh giới nh: mở đầu, kết thúc [117, tr.64-65].

Đối với các cuộc ĐTNT, các tiêu chí nh: nhân vật, thời gian, địa điểm và chủ
đề luôn đợc xác định một cách rõ ràng, cụ thể. Nhng là dạng giao tiếp chỉ có một
nhân vật, các dấu hiệu của sự mở đầu và kết thúc một cuộc ĐTNT rất khó nhận diện.
Nhân vật không cần thiết phải đa ra những lời chào, rào đón, ớm hỏi (những dấu


21

hiệu thờng thấy để mở đầu cho một cuộc nói chuyện song phơng) cũng nh những lời
nói, thái độ, cử chỉ cho thấy cuộc thoại kết thúc. Tuy nhiên, trong truyện ngắn, các
cuộc ĐTNT hoàn toàn có thể đợc xác định nhờ vào việc xem xét định hớng tác động
của lời nói nhân vật đến ngời khác. Trớc một sự tình, một hiện tợng, nhân vật đa ra
lời nói của mình (không kể là nói thầm hay nói thành tiếng) mà lời nói đó không hớng đến ngời tiếp nhận, không tạo ra sự phản ứng, hồi đáp từ phía ngời tiếp nhận thì
đó là một cuộc ĐTNT. Sự xác định này, do vậy, luôn phải dựa vào những lời văn
miêu tả, tờng thuật của tác giả hoặc ngời dẫn chuyện ở thời điểm trớc và sau khi
cuộc ĐTNT diễn ra.
1.1.1.2. Lợt lời
Tác giả Đỗ Hữu Châu định nghĩa: Chuỗi đơn vị ngôn ngữ đợc một nhân vật
hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia
nói chuỗi của mình là một lợt lời (turn at talk; tour de parole) [15, tr.205]. Ví dụ:
- Con gái tôi đâu?
- Sao chị biết nó là con gái?
- Lúc lôi ra khỏi bụng tôi, tôi nghe loáng thoáng nó là con gái.
- Cháu đang ở dới phòng trẻ sơ sinh [XV, tr.346].
Cuộc đối thoại trên gồm có bốn lợt lời. Nhìn chung, khi đối thoại, các nhân

vật giao tiếp thờng sử dụng một số hoặc nhiều lợt lời để triển khai nội dung cuộc
thoại. Ngợc lại, khi ĐTNT, nhân vật thờng chỉ đa ra một lợt lời. Đây là dấu hiệu
hình thức phản ánh định hớng giao tiếp của ĐTNT: tự trò chuyện với bản thân,
không hớng đến ngời nghe. Tuy nhiên, khi đợc tổ chức nh một cuộc đối thoại nội
tâm ngầm ẩn thì cuộc độc thoại sẽ bao gồm nhiều lợt lời. Có hai cách thức để tạo
nên các lợt lời trong một cuộc độc thoại. Cách thứ nhất là chủ thể độc thoại lần lợt,
luân phiên vào vai ngời nói và ngời nghe để trao đổi. Cuộc ĐTNT của ngời vợ trong
truyện ngắn Trẻ con không đợc ăn thịt chó của Nam Cao rất tiêu biểu cho cách thức
này: Sao lại có sự long trọng ấy? () à, thôi phải có lẽ hôm nay là giỗ của ông
nào, bà nào đây, () Hăm nhăm tháng chínkhông, mà không phải Giỗ chạp gì
hôm nay? [I, tr.142]. Cách thứ hai là chủ thể độc thoại tự phân thân thành hai con
ngời hoàn toàn khác nhau, sử dụng những cặp đại từ nhân xng tơng ứng để đối đáp:


22

Bây giờ anh nói với tôi một điều gì đi, khuyên tôi một nhời đi! Không. Tôi có
phải cút khỏi đây không? Không. Anh cứ đến đây. Tôi cắt cho anh kỹ lắm, anh biết
đấy! [III, tr.109]. Mỗi lời trao hoặc lời đáp trong những cuộc đối thoại nội tâm nh
vậy đều đợc chúng tôi xem xét với t cách nh một lợt lời ĐTNT thông thờng.
Khái niệm về cuộc thoại và lợt lời của lý thuyết hội thoại là cơ sở quan trọng
để chúng tôi có đợc sự nhận diện chính xác đơn vị tính cho đối tợng nghiên cứu:
một lợt lời ĐTNT đợc gọi là một lời ĐTNT và một cuộc độc thoại có thể có nhiều
lời ĐTNT (nh ở hai ví dụ nêu trên).
1.1.2. Ngữ cảnh giao tiếp, vai nói và vai nghe
1.1.2.1. Ngữ cảnh giao tiếp
Khái niệm ngữ cảnh giao tiếp có rất nhiều cách hiểu khác nhau.
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: Ngữ cảnh là những nhân tố có mặt trong
một cuộc giao tiếp nhng nằm ngoài diễn ngôn [15, tr.15]. Theo cách hiểu này, ngữ
cảnh sẽ bao gồm những nhân tố chi phối đến diễn ngôn trong cuộc giao tiếp cả về

hình thức và nội dung. Do đó, ngữ cảnh sẽ là một tổng thể nhiều hợp phần khác
nhau về nhân vật giao tiếp và hiện thực ngoài diễn ngôn, tức là tất cả những yếu tố
nh vai nói, vai nghe, không gian, thêi gian, mèi quan hƯ vµ hiĨu biÕt hiƯn thực của
vai nói, vai nghe Đây là cách hiểu khá rộng về ngữ cảnh.
Trong giáo trình Từ vựng học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp chỉ ra sự
phân biệt giữa ngữ cảnh và hoàn cảnh nói năng. Ngữ cảnh là những từ bao quanh
hay đi kèm theo một từ, tạo cho nó tính xác định về nghĩa. Hoàn cảnh nói năng là cái
tình huống, cái bối cảnh phi ngôn ngữ mà từ xuất hiện: ai nói, nói bao giờ, nói ở đâu,
nói với ai, vì sao nói [30, tr.369]. Khái niệm ngữ cảnh ở đây đợc hiểu theo một phạm
vi rất hẹp, chỉ là những đơn vị từ ngữ ®i kÌm, bao quanh mét tõ ®Ĩ cho ngêi ta có thể
hiểu đợc chính xác ý nghĩa cụ thể của từ đó.
Khi nói về các yếu tố và các chức năng trong mô hình giao tiếp của Jakobson,
tác giả Diệp Quang Ban giải thích về yếu tố ngữ cảnh nh sau: Ngữ cảnh mà lời nói
đề cập là vật, việc, hiện tợng, không gian, thời gian đợc phản ánh trong lời nói, cho
nên ngữ cảnh có tác dụng giải thích nội dung của thông điệp [5, tr.28]. Cách giải


23

thích này về ngữ cảnh có nhiều điểm tơng đồng với khái niệm hoàn cảnh nói năng
mà Nguyễn Thiện Giáp đà nói đến ở trên.
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên cho rằng, ngữ cảnh gồm 2 phần: a. Ngữ cảnh chính
là thời gian, không gian, cảnh huống bên ngoài cho phép một câu nói trở thành hiện
thực, nói đợc hay không nói đợc đồng thời giúp ta xác định tính đơn nghĩa của phát
ngôn [62, tr.27] và b. ngữ cảnh chính là ngôn cảnh, tức là điều kiện trớc và sau phát
ngôn để cho phép hiểu đúng nghĩa của từ hay phát ngôn cụ thể [62, tr.29].
Những khái niệm của những tác giả đi trớc đợc chúng tôi vận dụng để đi đến
một cách hiểu về ngữ cảnh của lời ĐTNT: đó là những điều kiện về không gian, thời
gian, sự việc, hiện tợng trong hiện thực và những điều kiện về tâm lý, hiểu biết của
chủ thể độc thoại cho phép một lời ĐTNT có thể xuất hiện hợp lý và ý nghĩa của nó

đợc hiểu một cách đúng đắn, chính xác.
1.1.2.2. Vai nói và vai nghe
Trong một cuộc giao tiếp, nhân vật giao tiếp dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời
nói, các diễn ngôn để tác động vào nhau. Các nhân vật giao tiếp đợc phân thành vai
nói và vai nghe. Vai phát ra diễn ngôn tức lµ vai nãi (viÕt), kÝ hiƯu b»ng Sp1
(speaker 1) vµ vai tiếp nhận diễn ngôn, tức vai nghe (đọc), kí hiệu bằng Sp 2 (speaker
2) [15, tr.15]. Khi đối thoại trực tiếp, hai vai nói, nghe thờng xuyên luân chuyển,
Sp1 sau khi nãi xong chun thµnh vai nghe Sp2 vµ ngợc lại.
Trong ĐTNT, việc xác định vai nói, vai nghe có những điểm đặc thù, hoàn
toàn phân biệt với đối thoại. Khi nhân vật đa ra một lời thoại hớng tới chính bản thân
mình để trò chuyện, nó đồng thời đóng cả vai nói và vai nghe. Do đó, về bản chất,
hiệu lực tác động của lời ĐTNT sẽ hớng vào chính vai nói, thay đổi nhận thức, tình
cảm của vai nói. Tuy nhiên, trong một số trờng hợp, nội dung, hiệu lực hành động
ngôn ngữ của lời ĐTNT hớng đến một đối tợng hoàn toàn phân biệt với vai nói.
Chẳng hạn, khi nhân vật Mại trong truyện ngắn cùng tên của NTTH thầm nói: Chị
xin lỗi cả hai em. Chị chỉ là ngời đứng ngoài và đừng phải nghĩ gì về chị hết. thì
hành động xin lỗi này rõ ràng không phải hớng vào vai nghe của lời ĐTNT (Mại)
mà hớng vào đối tợng khác (hai em). Nhng trên thực tế, hai em không chịu tác động
hiệu lực của hành động, vì họ không phải là ngời tiếp nhận lời. Với những trờng hợp


24

nh vËy, hiƯu lùc cđa lêi cịng chØ thĨ hiƯn hiệu quả tác động của nó ở chính vai nói:
Mại sẽ cảm thấy đỡ ân hận hơn và có trách nhiệm phải làm những việc cần thiết để
sửa lỗi.
1.2. Độc thoại nội tâm trong truyện ngắn
1.2.1. Các khái niệm: độc thoại, độc thoại nội tâm và dòng ý thức
1.2.1.1. Khái niệm độc thoại (monologue)
Độc thoại là khái niệm trớc hết đợc sử dụng trong kịch - một loại hình nghệ

thuật sân khấu. Có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, độc thoại gọi là monologos, và đợc
định nghĩa một cách đơn giản: lời nói của một ngời đơn độc (khi chỉ có một mình).
Trong Từ điển sân khấu, tác giả Patrice Paris (1980) đà đa ra khái niệm về
độc thoại sân khấu (cụ thể là kịch). Ông cho rằng: Độc thoại là những lời nói của
một nhân vật không trực tiếp hớng đến ngời đối thoại để nhận đợc câu trả lời [129,
tr.260]. Với cách hiểu này, độc thoại đợc xác định tơng đối rõ ràng trên hai mặt:
hình thức và mục đích. Về hình thức, nó là lời do nhân vật nói ra, về mục đích, nó
không hớng đến ngời đối thoại và không chờ đợi câu trả lời từ ngời đó. Việc xác
định độc thoại nh vậy đà ngầm đặt độc thoại trong mối tơng quan với đối thoại. Vì
vậy, ngay sau phần định nghĩa, Patrice Paris chỉ rõ: Lời độc thoại phân biệt với lời
đối thoại ở sự vắng mặt của việc trao đổi bằng lời nói và ở chiều dài quan trọng của
một trờng thoại có thể tách rời ra trong bối cảnh liên quan đến sự xung đột và tranh
cÃi [129, tr.260]. Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (2002) cũng định nghĩa
độc thoại dựa trên cái nhìn so sánh với đối thoại: Khác với đối thoại, độc thoại là sự
thể hiện lời nói trớc hết hớng bản thân mình mà không tính đến phản ứng của ngời
đối thoại [117, tr.91-92). Đối với kịch, ta dễ dàng nhận ra độc thoại với sự xuất
hiện những lời nói của nhân vật với chính mình. Những lời nói đó có thể đợc thực
hiện khi nhân vật đang chỉ có một mình trên sân khấu và có thể cả trong khi nhân
vật đang tiến hành đối thoại với ngời khác. ở trờng hợp thứ hai, nhân vật tách mình
khỏi bối cảnh cụ thể đang diễn ra để nói những điều mà nó không thể hoặc không
muốn bộc lộ với các nhân vật khác. Tuy nhiên, dù ở trờng hợp nào, khi biểu diễn, lời
nói độc thoại của nhân vật trên sân khấu phải đủ lớn về âm thanh, âm l ợng dể khán
giả có thể tiếp nhận, hiểu đợc nội dung của nó. Ngoài hình thức tự thể hiện độc thoại


25

của chính nhân vật, ngời ta còn sử dụng hình thức nói vọng sau cánh gà để diễn tả
những suy nghĩ bên trong khi một nhân vật đợc đặt vào tình huống độc thoại. Nhấn
mạnh đặc trng này của độc thoại sân khấu, tác giả Đặng Anh Đào (2001) chỉ rõ:

Trong kịch, những lời nói một mình đợc phát ngôn có âm thanh trên sân khấu đợc
gọi bằng thuật ngữ độc thoại [25, tr.76]. Từ góc độ này, sự vắng mặt của một ngời
nghe trực tiếp trong độc thoại sân khấu chỉ có tính tơng đối. Thực chất độc thoại là
một loại hành động cụ thể để nhân vật bộc lộ tính cách, nội tâm của mình nhằm phát
triển nội dung kịch bản. Chính vì vậy, Patrice Paris đà nói đến tính phi thực tế của
độc thoại: khi mà con ngời chỉ có một mình thì xem nh là không thể nói chuyện
thành tiếng đợc, tất cả sự trình diễn của một nhân vật trao gửi những tình cảm của
mình cho chính mình dễ trở nên nực cời, xấu hổ và thờng không thực tế, không có
thực [129, tr.260]. Ông cũng nêu rõ:
Thể loại kịch hiện thực hoặc tự nhiên chủ nghĩa chỉ thừa nhận độc thoại khi mà nó
đà đợc đặt vào một tình huống đặc biệt (mơ ngủ, mộng du, say rợu, sự tuôn trào
tình cảm). Trong những trờng hợp khác, độc thoại chỉ rõ tính nhân tạo của kỹ xảo
sân khấu và vai diễn ớc lệ để sự vận hành của vở kịch tốt hơn [129, tr.260].

Tóm lại, khi một nhân vật độc thoại trên sân khấu, nó không hớng đến những
nhân vật khác (cũng tồn tại trong vở kịch đó) và tự trình bày bằng lời nói những suy
nghĩ bên trong của chính mình. Lời độc thoại thờng đợc nói ra từ đầu đến cuối ,
không bị ảnh hởng bởi ngời đối thoại và không chờ đợi sự trao đổi, đáp lời từ ngời
đó. Từ đặc điểm quan trọng này, độc thoại đợc hiểu ở một phạm vi giao tiếp rộng
hơn, không chỉ giới hạn trong không gian sân khấu.
ở phạm vi rộng, độc thoại là một khái niệm dùng để chỉ tất cả những phát
ngôn và văn bản đợc tác giả (ngời nói và ngời viết) trình bày liên tục, trọn vẹn nội
dung của chúng mà không trực tiếp (hoặc rất ít) nhận đợc sự phản hồi, trao đổi từ
phía ngời nhận. Theo đó, độc thoại sẽ xuất hiện trong các hoàn cảnh nh: lời giảng
bài của giáo viên, lời thuyết trình, phát biểu trong mittinh, diễn thuyết, bản tin của
đài phát thanh và truyền hình đợc phát thanh viên trình bày, các công trình khoa
häc… Cã thĨ dÉn ra mét vÝ dơ tiªu biĨu cho cách hiểu này: Các công trình khoa học
hiện đại đợc trình bày chủ yếu là trong hình thức độc thoại. Hình thức độc thoại phù



×