Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Cảm quan văn hóa vùng miền của nguyễn du trong thơ chữ hán luận văn thạc sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.87 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-------*****-------

NGUYỄN THỊ HÀ

CẢM QUAN VĂN HÓA VÙNG MIỀN
CỦA NGUYỄN DU
TRONG THƠ CHỮ HÁN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


2

NGHỆ AN, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-------*****-------

NGUYỄN THỊ HÀ

CẢM QUAN VĂN HÓA VÙNG MIỀN
CỦA NGUYỄN DU
TRONG THƠ CHỮ HÁN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Biện Minh Điền


4

NGHỆ AN, 2014


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Với di sản văn học lớn lao, có giá trị trường tồn để lại cho đời,
Nguyễn Du được tôn vinh là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, được Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc UNESCO công
nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du (bao
hàm cả chữ Hán và chữ Nôm với nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác
nhau) là tài sản tinh thần hết sức quý giá đối với dân tộc ta. Bên cạnh bộ
phận văn học Nôm với đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để
lại thơ chữ Hán với ba tập đặc sắc Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm
và Bắc hành tạp lục. Có thể nói, đây cũng là những tác phẩm đạt tầm kiệt
tác, là “áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận
về ý nghĩa. Nó mới lạ độc đáo trong một nghìn bài thơ chữ Hán của ông cha
ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán Trung Quốc nữa” [62, 7].
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải được tiếp tục
tìm hiểu, nghiên cứu...
1.2. Thơ chữ Hán với những đặc điểm riêng của nó (bác học, kín đáo,
“chính thống”, tính chất nhật ký, ký thác,…) là bộ phận cơ bản của văn học
Việt Nam trung đại. Riêng ở bộ phận thơ chữ Hán, Nguyễn Du cũng là một

cây đại bút. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một nguồn tài liệu vô cùng quý
giá. Đó không chỉ là tâm sự kín đáo của Nguyễn Du gửi gắm ở một loại thơ
không phải mọi người đều biết, không chỉ là tài năng văn học của ông. Đó


6
còn là một kho tri thức văn hóa sâu rộng mang ý nghĩa dân tộc và nhân loại
sâu sắc, chúng ta cần phải tìm hiểu, khám phá, tiếp nhận... Thơ chữ Hán của
Nguyễn Du đã được nghiên cứu trên nhiều bình diện song chưa đủ, còn
nhiều mảng, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, trong đó có vấn đề nhận thức, phản
ánh và thể hiện văn hoá các vùng miền…
1.3. Nguyễn Du là người đi nhiều, trải nhiều. Có thể nói như Biện
Minh Điền, rằng “Nói đến Nguyễn Du là nói đến con người trải nghiệm,
nếm trải, thấm lắm mọi lẽ đời, mọi biến thiên, dâu bể... Trong rất nhiều tiền
đề góp phần tạo thành cảm quan nghệ thuật ấy của Nguyễn Du, sự trải
nghiệm và tích hợp các yếu tố văn hóa vùng, miền đóng vai trò hết sức quan
trọng. Đến lượt, chính cảm quan nghệ thuật ấy khiến ông càng bao quát thấu
đáo các yếu tố văn hóa vùng, miền, để rồi tích hợp, làm chúng sống dậy
thành hình tượng, biểu tượng, gây ám ảnh khôn nguôi trong lòng người,
không chỉ trong Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, mà còn cả trong
thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp
lục)”…
2. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Cảm quan văn hoá vùng miền của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán.
2.2. Giới hạn của đề tài
- Đề tài bao quát toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn Du, bao gồm 249
bài trong 3 tập thơ của tác giả:
Thanh Hiên thi tập
Nam trung tạp ngâm

Bắc hành tạp lục.
- Văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du dùng để khảo sát, luận văn dựa
vào cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du (In lần thứ hai; Lê Thước, Trương Chính
sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp; Phạm Khắc Khoan, Ngô Ngọc Can,
Vũ Tam Tập, Nguyễn Văn Tú, Nguyễn Hữu Bổng, Trần Thanh Mại, Vũ


7
Mộng Hùng, Nguyễn Xuân Tảo, Hoàng Tạo dịch thơ; Nguyễn Sĩ Lâm hiệu
đính; Trương Chính giới thiệu), Nxb Văn học, 1978.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3.1. Tổng quan về Nguyễn Du và thơ chữ Hán của ông trên lịch
trình nghiên cứu
Nguyễn Du và tác phẩm của ông có thể nói là một đối tượng luôn có
sức hấp dẫn với giới nghiên cứu, phê bình cũng như công chúng yêu thơ.
Theo Nguyễn Hữu Sơn, “Tính cho đến nay các nhà nghiên cứu đã sưu tầm,
biên soạn, phiên âm, dịch chú đầy đủ cả ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Trên thực tế, mỗi tập thơ được viết trong một khoảng thời gian nhất định và
nội dung theo sát từng chặng đường đời tác giả.” [50].
Khác với Truyện Kiều cho đến nay đã có cả một quá trình tiếp nhận,
nghiên cứu phê bình trải dài trên dưới hai trăm năm, thơ chữ Hán Nguyễn
Du đến năm 1931 mới được ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trên tạp chí Nam
Phong số 161 chỉ với 13 bài. Trước Cách mạng tháng Tám, các nhà nghiên
cứu Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim đã từng có bài viết về thơ chữ Hán
Nguyễn Du. Đến năm 1959 tập thơ chữ Hán Nguyễn Du đầu tiên ra đời có
tên Thơ chữ Hán Nguyễn Du do các ông Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc
Hanh sưu tầm biên soạn, in tại nhà in Hoàn Cầu, Hà Nội. Như vậy lịch sử
nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du mới bắt đầu từ khoảng những năm ba
mươi của thế kỉ XX, khá ngắn ngủi so với lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều.
Về thơ chữ Hán Nguyễn Du đã một số bài nghiên cứu, phần lớn các

bài viết chú ý tìm hiểu chân dung tinh thần và con người Nguyễn Du qua thơ
chữ Hán. Tiêu biểu có các bài như: Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ
chữ Hán (Hoài Thanh), Đôi nét về Nguyễn Du qua ba tập thơ chữ Hán lưu
thế (Quách Tấn), Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán (Xuân Diệu),
Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (Hà Minh Đức), Nguyễn Du trong những bài
thơ chữ Hán (Đào Xuân Quý). Các tác giả đã dựa vào nội dung các bài thơ
chữ Hán để nhận diện hình ảnh cuộc đời Nguyễn Du, đi từ Thanh Hiên thi


8
tập đến Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Vấn đề được quan tâm
nhiều nhất là nỗi buồn đau trước cuộc đời, thái độ Nguyễn Du đối với thời
cuộc, tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du. Quách Tấn viết về tâm
trạng Nguyễn Du “Thanh Hiên thì chan chứa buồn thương còn Nam Trung thì
ngấm ngầm sầu hận”, lời thơ trong Bắc Hành tạp lục “bớt phần não ruột
nhưng thêm phần chua cay”. Xuân Diệu khái quát “Nguyễn Du là người, như
Khuất Nguyên, mang những vấn đề của ngàn năm, của triệu người, nên cái
đau khổ của ông là một đau khổ lớn, có tính cách đại diện cho nhân loại”.
Viết kĩ hơn và chú ý nhiều đến giá trị thơ chữ Hán ngoài vấn đề con
người và tư tưởng là các bài viết của: Mai Quốc Liên - Thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, Nguyễn Lộc với Thơ chữ Hán Nguyễn Du và tâm sự của nhà
thơ, Trương Chính - Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, Nguyễn Hữu
Sơn - Thơ chữ Hán Nguyễn Du từ cõi hư vô nhìn lại kiếp người, Biện Minh
Điền Sự trải nghiệm và tích hợp các yếu tố văn hóa vùng miền và cảm quan
nghệ thuật Nguyễn Du,v.v...
Nguyễn Lộc đặt thơ chữ Hán trong thế đối sánh với Truyện Kiều.
Theo ông, “Truyện Kiều giống như một dòng sông lớn còn thơ chữ Hán
Nguyễn Du lại là những con suối nhỏ nhưng tất cả đều đổ vào đại dương
mênh mông của chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ”. Mai Quốc Liên gọi thơ
chữ Hán Nguyễn Du là thơ trữ tình - triết học, “khác với Truyện Kiều là một

trường ca tự sự, thơ chữ Hán là những bài thơ phần lớn là ngắn, theo thể luật
Đường, trong đó Nguyễn Du bộc lộ cái tôi trữ tình của mình, chất trữ tình ở
đây hòa quyện với chất triết học cho nên phần lớn thơ ở đây gọi là thơ trữ
tình triết học”. Giá trị thơ chữ Hán Nguyễn Du được Mai Quốc Liên Liên
đánh giá: “thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật
trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa”, “thơ chữ Hán Nguyễn
Du là đỉnh cao của thơ chữ Hán Việt Nam trong mười thế kỉ. Đó là một
nguồn phong phú để ta tìm hiểu một vấn đề đặc thù: vấn đề thi pháp thơ chữ
Hán Việt Nam”.


9
Trong bài viết Nguyễn Du và thế giới nhân vật trong thơ chữ Hán,
Nguyễn Huệ Chi đã khái quát các kiểu nhân vật mà Nguyễn Du nhắc đến
trong thơ chữ Hán, từ chính bản thân Nguyễn Du cho đến “con người có số
phận cơ cực, hẩm hiu trong cuộc sống”, “nhân vật lừng danh mà mình hằng
gần gũi, thân thuộc qua sách vở”. Đối với các nhân vật phản diện “đặt
những nhân vật loại này ở một vị trí rất phụ, có khi không đọc kỹ có thể lướt
qua. Nhưng mặc dù thế, bóng dáng của chúng vẫn không lẫn vào đâu được”.
Đối với những kẻ thống trị “ông không hề dành cho những kẻ đương thời
nắm trong tay quyền sinh quyền sát đối với trăm họ”,… Tác giả bài viết đặc
biệt chú ý tình cảm của Nguyễn Du tới những bậc tài hoa “Lòng thương xót
của Nguyễn Du đối với những nhân vật kỳ tài bao giờ cũng đằm thắm, ẩn
ngụ trong đó nỗi xót thương cho bản thân, vì như nhà thơ vẫn nói, ông đã tự
xem mình là người có chung một mối “phong vận kỳ oan” với các bậc “giai
nhân tài tử”. Bài viết của Nguyễn Huệ Chi phân tích khá kỹ thế giới nhân
vật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Các công trình trên đây thể hiện tâm huyết của các nhà nghiên cứu đối
với thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tuy nhiên hướng nghiên cứu chưa đi sâu vào
vấn đề cảm quan văn hoá vùng miền của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán,

mới chỉ dừng lại ở các ý kiến, nhận định cơ bản cũng là bàn về con người
Nguyễn Du, tâm sự Nguyễn Du.
Cũng cần phải kể đến công trình khá tập trung trong nghiên cứu về
thơ chữ Hán Nguyễn Du là Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du
của tác giả Lê Thu Yến [67]. Công trình có ba chương, chương một trình
bày các vấn đề liên quan đến văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du như: quá
trình thu thập di cảo, tình trạng các văn bản hiện có, cách sắp xếp cụ thể
từng phần, sai biệt về từ ngữ, vấn đề dịch nghĩa. Chương hai là chương đi
sâu khám phá đặc điểm hình tượng nghệ thuật về con người, thời gian nghệ
thuật, không gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Chương thứ ba
là những vấn đề ngôn ngữ thơ chữ Hán Nguyễn Du như câu thơ, từ ngữ. Với


10
việc chỉ ra cụ thể các đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, tác giả
Lê Thu Yến đã cung cấp những hiểu biết chung cơ bản nhất để nhận định về
di sản văn học quý báu này. Nhưng vấn đề cảm quan văn hóa vùng miền của
Nguyễn Du trong thơ chữ Hán chưa được chú ý.
3.2. Vấn đề cảm quan văn hoá các vùng miền của Nguyễn Du trong
thơ chữ Hán
Trước hết, xin được nói rằng, đây còn là vấn đề mới. Tuy nhiên một
số vấn đề về văn hóa Việt Nam, văn hóa Thăng Long thời đại Nguyễn Du,
văn hóa dòng họ Nguyễn Tiên Điền đã được đề cập mà đáng chú ý nhất là
gần đây có Hội thảo khoa học về Đại thi hào Nguyễn Du và các danh nhân
dòng họ Nguyễn Tiên Điền với Thăng Long – Hà Nội do Bộ Văn hóa Thể
thao và Du lịch phối hợp với UBND Tỉnh Hà Tĩnh dự định tổ chức vào
tháng 10/2010 (sau, do mưa lũ tại miền Trung, nên hoãn). Các tham luận
chuẩn bị cho Hội thảo này đã được tập hợp và đăng Kỷ yếu với tên gọi Đại
thi hào Nguyễn Du và các danh nhân dòng họ Nguyễn Tiên Điền với Thăng
Long – Hà Nội (Nxb Văn hóa Tông tin, Hà Nội, 2011) [63]. Trong công

trình này, các bài viết đều tập trung vào nội dung như tên gọi của tập kỷ yếu.
Chỉ có bài viết của Biện Minh Điền với tên gọi Sự trải nghiệm, tích hợp các
yếu tố văn hóa vùng miền và cảm quan nghệ thuật của Nguyễn Du [63, 131
– 156] là gần gũi, sát với vấn đề mà luận văn này tiếp tục tìm hiểu, nghiên
cứu. Theo tác giả bài viết này, Nguyễn Du với tinh thần chủ đạo là “trông
thấu cả sáu cõi”, nghĩ tới mọi kiếp người, những hiện tượng được ông nói
đến vừa mang ý nghĩa thực, khắc dấu của lịch sử, văn hoá vùng miền, vừa
vượt lên, mang ý nghĩa đại diện, biểu trưng... Biểu trưng cho văn hoá vùng
miền theo cái nhìn của Nguyễn Du cơ bản vẫn là là sơn - thuỷ. Có thể
thấy, xuyên qua văn hoá sơn thuỷ - như là biểu trưng cho cái bền vững, có
thể làm chỗ tựa, và văn hoá đô thành - như là biểu trưng, chứng tích cho cái
biến đổi, khôn lường, điều mà Nguyễn Du khôn nguôi day dứt, muốn tìm


11
cách hóa giải là kiếp phù du của nhân gian, của phận người trước bao phen
dâu bể. Làm sao có thể thấu hiểu, thương cảm, xẻ chia? “Thiên hạ hà nhân
liên bạc mệnh ?” - Thiên hạ, ai người thương kẻ bạc mệnh, nhất là với người
tài sắc? Đây chính là cốt lõi trong nghiệm sinh, trong cảm quan của ông dẫu
trải qua vùng nào, miền nào, xứ nào dưới gầm trời này.
Các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo quý báu
giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Chúng tôi cũng nhận thấy
rằng tuy có những bài viết có một số nội dung liên quan song chưa có công
trình nào tập trung nghiên cứu vấn đề: Cảm quan văn hóa vùng miền của
Nguyễn Du trong thơ chữ Hán. Luận văn này của chúng tôi tập trung tìm
hiểu, nghiên cứu vấn đề này với tư cách như một vấn đề có tính chuyên biệt.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát, xác định dấu ấn văn hoá các vùng miền trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du, xác định những nét riêng của nhà thơ trong cảm quan

nghệ thuật ở loại hình thơ chữ Hán…
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn chung về Nguyễn Du và thơ chữ Hán trong
sự nghiệp sáng tác của thi hào, trên cơ sở đó, định hướng tìm dấu ấn của
hiện thực văn hoá, đất và người các vùng miền trong nhận thức và phản ánh
của Nguyễn Du.
4.2.2. Khảo sát, xác định, phân tích đặc điểm của hiện thực văn hoá
các vùng miền trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
4.3. Khảo sát, xác định, phân tích nghệ thuật bao quát và thể hiện hiện
thực của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về tính chất “nhật ký” của thơ chữ
Hán Nguyễn Du và cái nhìn nghệ thuật độc đáo của nhà thơ…
5. Phương pháp nghiên cứu


12
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong
đó có các phương pháp chính: Phương pháp thống kê – phân loại, Phương
pháp phân tích – tổng hợp, Phương pháp so sánh – loại hình, Phương pháp
cấu trúc – hệ thống…

6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp: Luận văn là công trình tập trung tìm hiểu văn hoá các
vùng miền và nghệ thuật bao quát nó của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán tác
giả với cái nhìn hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc tìm hiểu, nghiên cứu di sản sáng tác của Nguyễn Du và việc tiếp nhận
và dạy - học tác gia, tác phẩm Nguyễn Du trong chương trình ngữ văn ở nhà
trường phổ thông.
6.2. Cấu trúc của luận văn:

Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Thơ chữ Hán trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du
Chương 2: Dấu ấn văn hoá các vùng miền trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Chương 3: Cái nhìn nghệ thuật và phương thức thể hiện văn hoá vùng
miền của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán
Cuối cùng là Tài liệu tham khảo


13

Chương 1
THƠ CHỮ HÁN TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN DU
1.1. Thơ chữ Hán trong văn học Việt Nam trung đại
1.1.1. Vị trí, vai trò của bộ phận thơ chữ Hán trong văn học Việt
Nam trung đại
Thời trung đại, văn học Việt Nam là một nền văn học song ngữ, vừa
được viết bằng chữ Hán vừa được viết bằng chữ Nôm. Chữ Hán là thứ chữ
của tộc người Hán Trung Quốc. Tuy nhiên, văn tự Hán là kiểu văn tự được
thừa nhận trong các văn bản hành chính nhà nước nên nó được coi là văn tự
chính thống. Nền văn học bằng chữ Hán vì thế mà cũng được coi trọng hơn
văn học viết bằng chữ Nôm. Chữ Hán đã du nhập vào việt Nam, ảnh hưởng
rất sâu vào văn học Việt Nam tạo ra bộ phận văn học chữ Hán.
Vai trò của chữ Hán đối với ngôn ngữ văn hoá, văn học Việt Nam là
rất lớn. Tiếp thu với văn học chữ Hán, các nhà văn có cơ hội tiếp thu văn
hoá, kinh nghiệm văn hoá, văn học Trung Quốc. Chữ Hán được sử dụng như
một lợi khí văn tự và từ đây hình thành nên bộ phận văn học chữ Hán. Đây
là bộ phận giữ vị trí chính thống quan phương suốt thời trung đại ở Việt
Nam. Bộ phận văn học chữ Hán giữ vị trí vô cùng quan trọng với một khối

lượng tác phẩm lớn. Nhiều tác phẩm văn học chữ Hán đã trở thành những
kiệt tác của văn học dân tộc.
Thơ chữ Hán là loại hình thơ được sử dụng rộng rãi với nhiều thành
tựu trong thời kì văn học trung đại ở Việt Nam. Đó là sản phẩm của quá


14
trình giao lưu và tiếp xúc giữa một “nền văn học trẻ” với một “nền văn học
già” vào khoảng thời gian ngót một ngàn năm Bắc thuộc cùng chính sách
Hán hóa. Từ thế kỉ thứ X, cùng với sự ra đời của một quốc gia phong kiến
độc lập tự chủ thì nền văn học viết Việt Nam cũng chính thức ra đời. Văn
học Việt Nam tiếp thu từ văn học Trung Quốc cả văn tự và hệ thống thể loại.
1.2. Một số đặc điểm của thơ chữ Hán trong văn học Việt Nam
trung đại
Thơ chữ Hán là sản phẩm của một nền văn chương kinh điển, bác
học, khác với thơ chữ Nôm là thơ có thể đến với tầng lớp người bình dân.
Điều này có nguyên do từ đặc điểm thể loại và văn tự. Thơ chữ Hán được
viết bằng chữ Hán thì chỉ có những người được học hành thi thư lễ nghĩa
trong môi trường Hán học mới có thể tiếp cận. Đó là những vua, chúa, quan
lại, thầy giáo, học trò và một số ít những người được đi học. Thể thơ Đường
luật lại là thể thơ vay mượn, không dành cho người bình dân. Làm thơ chữ
Hán phải đạt yêu cầu “tín, đạt, nhã”, nội dung thơ phải nói về “Tâm, Chí,
Đạo” trong khuôn khổ sách vở Nho giáo. Với rất nhiều những quy định về
hình thức và nội dung như thế, thơ chữ Hán rất khó có thể có sự phá cách.
Ngược lại, thơ Đường luật viết bằng chữ Nôm lại có nhiều phá cách độc đáo
về hình thức và nội dung như thơ của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương.
Thơ chữ Hán được coi là bộ phận văn học chính thống của nhà nước
phong kiến. Hầu như nhà nho nào làm thơ trước hết cũng làm thơ bằng chữ
Hán và để lại nhiều thi tập. Thành tựu thơ chữ Hán được khẳng định qua giá
trị các tác phẩm của các Thiền sư thời Lí, Chu Văn An, Nguyễn Trãi,

Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến,… Với
truyền thống mười thế kỉ văn học trung đại, thơ chữ Hán Việt Nam đã có
một chặng đường dài phát triển và đạt được nhiều thành tựu lớn trong việc
biểu hiện tâm hồn, ý thức dân tộc cũng như góp phần vào sự phát triển nền
văn hóa, văn học dân tộc.


15
Thơ chữ Hán mang trong mình những đặc điểm riêng của nó, so với
văn học chữ Nôm thì văn học chữ Hán mang tính chất bất phân, đậm tính
chất bác học, tính quy phạm, nặng tính chất giáo huấn. Văn học chữ Hán
hầu như sử dụng các thành tựu ngoại nhập trang nhã, cao quý.
Thơ chữ Hán được viết bằng nhiều thể, tuy nhiên Đường luật vẫn là
thể chủ yếu. Tuy là “ngoại nhập” nhưng thể loại và văn tự này lại có tính
truyền thống trong hoạt động sáng tác văn học của các thi nhân trung đại
Việt Nam. Trước Nguyễn Du, tám thế kỉ văn học đã như thế. Thi nhân trung
đại thường dùng thơ chữ Hán như một phương tiện nghệ thuật hiệu quả để
kí gửi những nỗi niềm tâm sự kín đáo. Thơ trung đại nói chung và thơ chữ
Hán Nguyễn Du nói riêng trước hết là sự gửi gắm tâm sự, nỗi niềm của thi
nhân trước cuộc đời. Nhà thơ đến với thơ như đến với một người tri âm tri
kỉ, chia sẻ những điều khó có thể tâm sự cùng ai. Bởi thế nhiều khi, thơ
chính là nhật kí tâm trạng.
1.2. Thơ chữ Hán trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du
1.21. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du
Nguyễn Du (1765–1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên,
người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một nhà thơ
song ngữ, sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Những sáng tác này ra
đời theo từng giai đoạn thăng trầm của cuộc đời nhà thơ. Di sản văn học của
Nguyễn Du hiện còn gần như đầy đủ và được tập hợp thành các tập thơ,
truyện.

Các tác phẩm chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
Truyện Kiều (còn gọi là Đoạn trường tân thanh). Cho đến nay vẫn
chưa có sự thống nhất ý kiến về thời gian ra đời của tác phẩm này. Có ý kiến
nói Nguyễn Du viết lúc sống ở Thái Bình, quãng thời gian “mười năm gió
bụi” sống nhờ quê vợ. Ý kiến khác lại cho rằng ông viết vào khoảng thời
gian dưới chân núi Hồng Lĩnh, những năm tháng ông về sống ở quê nhà Hà


16
Tĩnh. Và quan điểm được nhiều người đồng tình hơn cả là sau khi Nguyễn
Du đi sứ Trung Quốc trở về.
Văn tế thập loại chúng sinh (còn gọi là Văn chiêu hồn), đến nay vẫn
chưa rõ thời điểm sáng tác. Theo đoán định của Hoàng Xuân Hãn thì tác
phẩm này ra đời cùng thời với Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc (44,
tr.1972).
Văn tế hai cô gái Trường Lưu và Thác lời trai phường Nón, được viết
lúc Nguyễn Du sống ở Hà Tĩnh, thường đi hát phường vải ở Trường Lưu
(Can Lộc, Hà Tĩnh).
Về thơ chữ Hán, Nguyễn Du để lại ba tập thơ:
Thanh Hiên thi tập (còn gọi là Thanh Hiên tiền hậu tập), gồm 78 bài
thơ chữ Hán làm trong một thời gian dài, từ lúc Nguyễn Du về Thái Bình
sống “mười năm gió bụi”, những năm sống dưới chân núi Hồng cho đến
những năm đầu ra làm quan cho nhà Nguyễn ở Bắc Hà.
Nam trung tạp ngâm, gồm 39 bài, viết trong khoảng thời gian Nguyễn
Du làm quan cho nhà Nguyễn.
Bắc hành tạp lục, gồm 131 bài được Nguyễn Du viết trong thời gian
đi sứ Trung Quốc. Đây là tập thơ có số lượng bài nhiều nhất nhưng lại được
viết trong thời gian ngắn nhất.
1.2.2 Vị trí thơ chữ Hán trong sự nghiệp sáng tác Nguyễn Du
Có thể nói, thơ chữ Hán có một vị trí vô cùng quan trọng trong sự

nghiệp sáng tác của Nguyễn Du. Vào thời Nguyễn Du, Hán học cực thịnh,
Nguyễn Du làm thơ chữ Hán, trút hết tâm huyết, tài năng vào đó là lẽ
thường. Truyện Kiều là "diễn âm", "lỡ tay" mà thành kiệt tác, còn thơ chữ
Hán mới đích là "sáng tác", nên xem nó là phát ngôn viên chính thức của
Nguyễn Du [13, tr.2]. Có thể nói, ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du:
Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục như là những
thước phim quay chậm nhằm tái hiện bức chân dung tinh thần con người
Nguyễn Du từ những ngày vào đời cho đến khi nhắm mắt rời bỏ thế gian.


17
Là nhà thơ song ngữ, sáng tác văn học bằng cả chữ Hán và chữ Nôm,
nếu như với tác phẩm chữ Nôm Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đối
thoại cùng độc giả đương thời và hậu thế về số phận con người, về những
nỗi niềm riêng tư, khát vọng tình yêu hạnh phúc thông qua nhân vật người
con gái tài sắc là Thúy Kiều, thì với các tác phẩm viết bằng chữ Hán,
Nguyễn Du đã tái hiện gần như trọn vẹn cuộc đời mình, từ những biến cố
cho đến tất cả những nỗi niềm tâm sự. Bằng những vần thơ tâm tình,
Nguyễn Du khắc họa hình ảnh của chính mình, một hình ảnh rất động trước
mọi biến cố của cuộc đời.
Nhưng một nghệ sĩ vĩ đại, mỗi khi nói về mình không phải đơn thuần
chỉ biết có mình mà thôi. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, đằng sau hình ảnh
Nguyễn Du với cõi lòng ủ ê tê tái, với cá tính rõ mồn một, một Nguyễn Du
nghìn lần thực hơn cái con người chỉ biết vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện
trước mặt vua Gia Long mà sử sách từng ghi lại, ta còn thấy nhiều điều lớn
lao hơn nữa. Ấy là những suy nghĩ sâu xa của nhà thơ về con người, về xã
hội, về những hiện tượng lịch sử phong phú diễn ra trước mắt ông. Đặc biệt
Nguyễn Du đã thể hiện cảm quan văn hoá vùng miền rất riêng của mình
trước mỗi vùng đất ông đã đi qua.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa cụ thể hóa, vừa khái quát hóa về cuộc

đời và tư tưởng Nguyễn Du qua từng thời kì, dưới sự tác động của các sự
kiện, biến cố xã hội và đời riêng. Có thể thấy, thơ chữ Hán là một bộ phận
vô cùng quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du, là một nửa
phần di sản những sáng tạo của Nguyễn Du. Đó là những suy tư, những
khắc khoải, đau đớn, xót xa trước bao vấn đề xảy ra trong cuộc đời mình và
“những điều trông thấy”. Khảo sát thơ chữ Hán, độc giả có thể thấy được
đâu là sự thống nhất, đâu là sự khác biệt, đâu là sự phát triển trong tư tưởng
Nguyễn Du qua các giai đoạn. Ngoài ra, điều thú vị trong quá trình nghiên
cứu là ta sẽ biết được cảm quan văn hóa vùng miền của Nguyễn Du.


18
Mai Quốc Liên có lần viết: "Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng
văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa.
Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã
đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa". Xuân
Diệu từng nói: ''Chính thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt,
mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du. Thơ chữ Hán thuần là
tâm tình bản thân, Nguyễn Du đã để con người của mình trong thơ; đã cho
ta thấy Tố Như, Tố Như bên sau cái vỏ ông quan, ông chánh sứ. Ở đây,
chúng ta quen thuộc với Tố Như, có thể nói là chúng ta vào dưới da của
Nguyễn Du''[13, 49].
1.3. Các thời kỳ trong hành trình thơ chữ Hán của Nguyễn Du
1.3.1. Thời kỳ trước khi Nguyễn Du làm quan cho nhà Nguyễn:
Thanh Hiên thi tập
Hành trình sáng tạo của đại thi hào Nguyễn Du có thể tính từ lúc nhà
thơ trưởng thành, bị “quăng” ra giữa cuộc đời, va đập và sống với muôn nỗi
đời. Dựa vào các tập thơ chữ Hán Nguyễn Du viết ra ta có thể hiểu những
thăng trầm đời ông, những suy tư, trăn trở trong tâm hồn ông.
Tác phẩm thơ chữ Hán Nguyễn Du có ba tập: Thanh Hiên thi tập,

Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục với 249 bài (có tài liệu nói 250 bài,
thêm một bài Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ (II) nhưng không chép trong
sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du của nhóm biên soạn Lê Thước, Trương Chính
nên chúng tôi sẽ không nhắc tới ở đây). Mỗi tập thơ là một hành trình trong
cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du.
Thanh Hiên thi tập là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du. Ban
đầu tập thơ có tên là Thanh Hiên tiền hậu tập nhưng trong quá trình sưu
tầm, các nhà nghiên cứu không xác định được bài nào là tiền tập, bài nào
hậu tập nên các soạn giả thống nhất gọi chung là Thanh Hiên thi tập. Tập
thơ gồm 78 bài thơ sáng tác từ năm 1786 đến năm 1802, tức là từ lúc
Nguyễn Du 21 tuổi đến năm 39 tuổi, giai đoạn từ năm Tây Sơn kéo quân ra


19
Bắc (1786) cho đến những năm kết thúc giai đoạn Nguyễn Du làm quan ở
Bắc Hà (1804). Tập thơ ghi lại tâm sự của một con người đầy hùng tâm,
tráng chí nhưng thời vận lỡ làng, cảnh ngộ gặp nhiều điều bất như ý, đành
ôm trong lòng mối u uất không cách gì giải tỏa được. Bao trùm cả tập thơ là
điệp khúc buồn, u uẩn, day dứt khôn khuây. Tập thơ chia làm ba phần theo
ba giai đoạn đầu cuộc đời Nguyễn Du: phần thứ nhất Mười năm gió bụi từ
1786 đến 1795; phần thứ hai Dưới chân núi Hồng từ 1796 đến 1802; phần
thứ ba Làm quan ở Bắc Hà từ 1802 đến 1804.
Mười năm gió bụi (1786 – 1795) là những năm Nguyễn Du sống ở
quê vợ huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Từ cuộc sống phong lưu, Nguyễn
Du bị đẩy ra giữa gió bụi cuộc đời. Lúc này Nguyễn Du mới 21 tuổi và sống
ở đây đến năm ông 30 tuổi. Trước đó, được tập ấm của cha nuôi họ Hà ở
Thái Nguyên, Nguyễn Du đã giữ một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên dưới
triều nhà Lê. Khi nhà Lê mất, Nguyễn Du có chạy theo Lê Chiêu Thống
nhưng không kịp. Nguyễn Du đành về quê vợ sống nhờ người anh vợ là
Đoàn Nguyễn Tuấn. Ông đã sống mười năm ở Thái Bình với tâm trạng chán

chường, bất đắc chí, và luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương, anh em với biết
bao nỗi lòng chất chứa mà không thể tâm sự với ai. Trong quãng thời gian
“mười năm gió bụi”, nhà thơ sống nghèo túng, ăn nhờ ở đậu, tình cảnh đáng
thương.
Những bài thơ chữ Hán Nguyễn Du viết ở Thái Bình là những bài thơ
ảo não, buồn bã nhất của cuộc đời ông. Ông sống những ngày tháng ủ dột,
luôn mang trong mình cảm thức của một kẻ lang bạt nơi đất khách: “Thoan
tuần hàn thử cố tương thôi/ Tha hương nhân dữ cố niên biệt” (Quanh quẩn
hết mùa rét lại đến mùa nực/ Chốn tha hương, người cùng năm trước từ biệt)
(Xuân nhật ngẫu hứng); “Ki lữ đa niên đăng đa lệ/ Gia hương thiên lí,
nguyệt trung tâm” (Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới đèn những rơi lệ/ Quê
nhà xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng) (Xuân dạ). Vì thế, cũng dễ hiểu
khi Nguyễn Du tự nhận mình là người khách bê trệ trong bài Trệ khách:


20
“Trệ khách yêm lưu nam hải trung” (Người khách bê trệ nằm bẹp mãi ở
vùng biển Nam)…
Ở nơi đây, Nguyễn Du vẫn luôn hướng về quê cha, nơi có sông Lam,
núi Hồng và anh em ruột thịt. Mỗi khi nhìn bóng trăng nguyên tiêu lại thấy
mình cô độc: “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán/ Bạch đầu đa hận tuế thời
thiên/ Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến/ Hải giác thiên nhai tam thập niên”
(Ở Hồng Lĩnh không có nhà anh em tan tác/ Đầu bạc thường bực vì ngày
tháng trôi mau) (Quỳnh Hải nguyên tiêu); “Cố hương đệ muội âm hao tuyệt/
Bất kiến bình an nhất chỉ thư” (Em trai, em gái ở quê nhà bấy lâu bặt hẳn tin
tức/ Không được một lá thư nào cho biết có bình an hay không) (Sơn cư
mạn hứng). Nỗi buồn xa quê cùng nỗi nhớ quê hương luôn ám ảnh Nguyễn
Du, vì thế ông thường nhắc đến chuyện trở về. Ngay cả khi tiễn bạn về quê,
Nguyễn Du cũng chạnh nghĩ đến mình: “Hồng Lĩnh Hữu nhân lai tố chủ/
Bạch đầu vô lại bất hoàn gia” (Từ nay Hồng Lĩnh có người về làm chủ/ Còn

ta đầu bạc không nên trò trống gì mà vẫn không về nhà) (Tống Nguyễn Hữu
Sĩ nam qui).
Nguyễn Du có nhiều nỗi buồn, trong những nỗi buồn đó có nỗi buồn
về công danh sự nghiệp của một người theo đường thư kiếm mà phải sống
cảnh nghèo nàn: “Thư kiếm vô thành sinh kế xúc” (Nghề văn nghề võ đều
không thành, sinh kế quẫn bách) (Tự thán II), “Văn tự hà tằng vi ngã dụng/
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên” (Văn tự nào đã dùng được việc gì cho ta/ Đâu
ngờ phải đói rét để cho người thương) (Khất thực). Có nỗi buồn vì bệnh tật:
“Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu” (Bệnh đến trong bước giang hồ đã lâu
ngày) (Xuân dạ), “Tam xuân tích bệnh bần vô dược” (Ba tháng ốm đau liên
miên nghèo không có thuốc) (Mạn hứng I). Và cuối cùng là nỗi buồn thời
thế đổi thay thể hiện trong Vị Hoàng doanh: “Cổ kim vị kiến thiên niên
quốc” (Xưa nay chưa từng thấy triều đại nào đứng vững nghìn năm).
Trong mười năm ở Thái Bình, Nguyễn Du vẫn mang một mối cô
trung với triều đại cũ, nơi mà cha và anh trai ông đã từng làm quan to. Ông


21
coi thời Tây Sơn là thời loạn: “Loạn thế nam nhi tu đối kiếm” (Trai thời
loạn nhìn thanh gươm mà hận) (Lưu biệt Nguyễn đại lang). Khi Đoàn
Nguyễn Tuấn chia tay để vào làm quan nhà Tây Sơn, Nguyễn Du có ý chê
trách “Bài bì nhưng lụy cựu phù danh” (Thì ông lại mang lụy vì danh hão
như con báo mang lụy vì lốt da) (Họa hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp
Dần phụng mệnh Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt đắc thành chi hữu”
thời tác).
Từ những nỗi niềm ấy, ta thấy hiện lên một con người cô đơn, nỗi
niềm chỉ biết chia sẻ với dòng sông Lam sâu thẳm. Trong mười năm,
Nguyễn Du là kẻ “cùng đồ”, mới ba mươi tuổi mà đầu tóc bạc trắng, là
người thông minh sắc sảo, ôm mộng thư kiếm mà sống nghèo hèn, bệnh tật
không có thuốc chữa. Đặc biệt, con người ấy lại càng cô đơn hơn khi lòng

luôn hướng về quê hương với cảm thức của một người con tha hương khao
khát trở về nhưng bất lực. Sâu xa trong cõi lòng còn ôm mối cô trung với
cựu triều.
Phần thứ hai trong Thanh Hiên thi tập là Dưới chân núi Hồng gồm 26
bài thơ viết từ năm 1796 đến giữa năm 1802, những năm này Nguyễn Du 31
- đến 37 tuổi. Được trở về với núi Hồng không khác gì con chim bay mãi đã
về tới tổ, Nguyễn Du không còn cảm giác kẻ tha hương nhưng lại mang nỗi
buồn lớn vì sự đổi thay quá đỗi. Bến Giang Đình ngày nào tấp nập thuyền
bè, cờ hoa cũng như cảnh gia tộc giàu sang uy vọng giờ chỉ còn là kí ức:
“Nhất tự y thường vô mịch khứ/ Lưỡng đê yên thảo bất tăng bi” (Từ khi
bóng áo xiêm không còn thấy đâu nữa/ Trông làn khói trên ngọn cỏ ở hai
bên bờ sông mà không xiết bùi ngùi) (Giang Đình hữu cảm). Anh em phiêu
tán không biết khi nào gặp lại “Nhất biệt bất tri hà xứ trú/ Trùng phùng
đương tác tái sinh khan” (Một phen từ biệt không biết nay ở nơi nào?/Cuộc
trùng phùng có lẽ phải đợi đến kiếp sau) (Ức gia huynh). Cũng có lúc ông
nhớ người vợ nơi xa ngái “Kinh niên bất tương kiến/ Hà dĩ úy tương ti (tư)”
(Bao nhiêu năm không gặp nhau, biết lấy gì yên ủi nỗi nhớ mong) (Kí


22
mộng). Lúc muốn vào Nam theo Nguyễn Ánh, Nguyễn Du bị bắt lại giam
trong ngục mười tuần, ông viết những bài thơ uất ức về thực tại và lòng vẫn
tưởng nhớ cựu triều “Bình Chương di hận hà thời liễu/ Cô trúc cao phong
bất khả tầm” (Bao giờ mới hết mối hận Bình Chương/ Khó mà tìm được
phong cách cao thượng của con người nước Cô Trúc) (Mi trung mạn hứng).
Bởi thế nên khi lên thành ông Ninh, Nguyễn Du vẫn ngậm ngùi về chiến
tích cũ “Thập niên nhị tiết nam nhi hận/ Đàn kiếm trường ca đối bạch vân”
(Mười năm trôi qua, chưa rửa được mối hận của nam nhi/ Gõ nhịp vào
gươm, ca hát hoài trước chòm mây trắng) (Ninh Công thành). Ông nói lên
tấm lòng mình “Trạm trạm nhất phiến tâm/ Minh nguyệt cổ tỉnh thủy” (Tấm

lòng trong vằng vặc/ Như ánh trăng sáng, như nước giếng xưa) (Đạo ý).
Qua những biến cố ấy, Nguyễn Du vẫn mang nỗi buồn về văn chương
sự nghiệp và con đường công danh sự nghiệp trước những vấn đề cơm áo
đời thường “Thanh chiên cựu vật khổ trân tích/ Bạch phát hùng tâm không
đốt ta” (Chiếc nệm xanh, vật cũ, khư khư giữ mãi/ Tóc bạc rồi, dù có hùng
tâm cũng ngồi than thở suông mà thôi) (Khai song), “Nhất sinh từ phú tri vô
ích/ Mãn giá cầm thi đồ tự ngu” (Một đời chuyên về từ phú biết là vô ích/
Sách đàn đầy giá, chỉ mình làm ngu mình) (Mạn hứng).
Trong thời kì này, Nguyễn Du có một số bài thơ tâm tình với bạn bè
về chí lớn không thành “Nhãn để phù vân khan thế sự/ Yêu gian trường
kiếm quải thu phong” (Mắt xem việc đời như phù vân/ Kiếm dài đeo lưng
trước gió thu) (Kí hữu). Còn trong Kí Huyền Hư tử, Kí giang bắc Huyền Hư
tử, Độ Long Vĩ giang, Biệt Nguyễn đại lang Nguyễn Du thể hiện một tình
cảm bằng hữu chân thành tha thiết, luôn hướng về nhau bằng sự đồng cảm,
trọng thị “Trân trọng hảo tự ái/ Thu cao sương lộ đa” (Xin anh hãy trân
trọng giữ mình/ Càng vào thu sương móc càng nhiều) (Kí giang bắc Huyền
Hư tử), “Thân bằng tân khẩu vọng/ Vị ngã nhất triêm cân” (Bạn bè thân
thích đứng trên bến nhìn theo/ Vì ta mà nước mắt ướt khăn).


23
Dưới chân núi Hồng còn ghi lại cuộc sống đời thường của Nguyễn
Du. Lúc này, ông như một bậc ẩn sĩ hay một “Hồng Sơn liệp hộ”, “Nam Hải
điếu đồ”. Nguyễn Du có hai bài Hành lạc từ nói về sự “hành lạc” của ông
khi về núi Hồng nhưng sự hành lạc ở đây chỉ là một cách nói chỉ việc đi săn
trên núi, đi câu ngoài biển không màng đến thời cuộc, công danh. Trong bài
Liệp Nguyễn Du nói về thú đi săn “Y quan đạt giả chí thanh vân/Ngô diệc
lạc ngô mi lộc quần” (Những người làm quan hiển đạt thì chí ở đường mây/
Còn ta, ta cũng vui với lũ hươu nai của ta). Ông tự hào về vẻ đẹp của sông
Lam núi Hồng “Mạc sầu tịch địa giai vô khách/ Lam thủy, Hồng sơn túc

vịnh ngâm” (Chớ lo nơi hẻo lánh không có bạn/ Sông Lam, núi Hồng đủ để
ngâm vịnh) (Tặng Thực Đình), “Lam thủy, Hồng sơn vô vạn thắng/ Bằng
quân thu thập trợ thanh ngâm” (Sông Lam núi Hồng đẹp vô cùng/ Tha hồ
anh nhặt nhạnh để làm đề tài ngâm vịnh) (Phúc Thực Đình). Cảnh sông núi
hữu tình như thế, cuộc đời lại lắm nỗi niềm không thể tỏ cùng ai, Nguyễn
Du đã có lúc bày tỏ ý định muốn làm một ẩn sĩ trong rừng sâu “Hồng Sơn
nhất sắc lâm binh cừ/ Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư” (Núi Hồng một màu soi
bóng xuống làn nước phẳng/ Nơi thanh tú tịch mịch này kẻ hãn sĩ có thể ở
được) (Tạp thi II), “Ná đắc kiêu kì phù thế ngoại/ Trường tùng thụ hạ tối
nghi nhân” (Ước gì thoát được vòng trần tục/ Ngồi dưới gốc tùng thú biết
bao nhiêu) (Sơn thôn).
Về với núi Hồng, về với quê cha đất tổ, tuy tinh thần có vẻ phấn chấn
hơn những năm tháng sống ở Thái Bình song Nguyễn Du cũng không thể
tránh khỏi những chuyện đời thường vẫn vây quanh mình là chuyện nghèo
túng và đau ốm. Mới hơn ba mươi tuổi mà bệnh tật luôn đeo đuổi “Tái bệnh
thượng tu nhiều nhiếp lực” (Bệnh trở lại, phải lo điều dưỡng) (Khai song),
“Đa bệnh đa sầu, khí bất thư/ Thập tuần khốn ngọa Quế Giang cư” (Lắm
bệnh, hay buồn, tâm thần không được thư thái/ Mười tuần nay nằm co bên
bờ Quế Giang) (Ngọa bệnh I), “Thập niên túc vật vô nhân vấn” (Bệnh cũ
mười năm không ai thăm hỏi) (Ngọa bệnh II).


24
Mặc dù đã về sống ở quê hương, nơi ông từng ao ước, nhớ mong,
song thơ chữ Hán Nguyễn Du sáng tác trong thời kì này vẫn còn đó những
tâm sự thời cuộc, còn đó nỗi niềm hoài Lê, những nhọc mệt của bệnh tật
nghèo khó, còn vương nợ công danh và có ý thoát tục. Tuy nhiên trong thời
kì này vẫn có những bài thơ mang thần thái tươi sáng hơn là những bài thơ
ca ngợi say đắm cảnh đẹp quê nhà, là cuộc sống vui cùng sông núi biển trời
cùng tình cảm bằng hữu chân tình và cảm động.

Giai đoạn thứ ba là những bài thơ viết khi Nguyễn Du làm quan cho
nhà Nguyễn tại Bắc Hà, những năm 1802 đến 1804, từ lúc ông 37 tuổi đến
39 tuổi. Trong suốt hai năm này, Nguyễn Du chỉ viết 17 bài thơ chữ Hán.
Những ngày tháng đi xa nhà, với tâm hồn Nguyễn Du thì trước hết vẫn là
nỗi niềm nhớ quê da diết. Nguyễn Du nhớ về Quỳnh Côi quê vợ “Chinh
hồng ảnh lí gia bà tại/ Ẩn ẩn Quỳnh vân tâm lưỡng phong” (Trong bóng
chim hồng bay kia, nhà mình ở đâu/ Chỉ thấy vài ba ngọn núi thấp thoáng
trong mây miền Quỳnh Côi) (Ngẫu hứng II). Nhưng hơn hết là nỗi nhớ núi
Hồng sông Lam, nơi quê cha đất tổ “Hồng sơn sơn nguyệt nhất luân minh/
Thiên lí Trường An dạ thử tình” (Đêm nay trên núi Hồng Lĩnh vầng trăng
tròn sáng vằng vặc/ Ở Trường An nghìn dặm, lòng tôi thật là ngao ngán) (Kí
hữu), “Hồng sơn thiên lí ỷ lan tâm” (Tựa lan can, lòng nhớ núi Hồng nghìn
dặm xa) (La Phù giang thủy các độc tọa), “Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ”
(Bồi hồi nhớ đêm nào ở Hồng Lĩnh) (Sơ nguyệt),… Đi làm quan xa quê,
Nguyễn Du lại buồn nỗi buồn lữ khách và cho đó là một cuộc lang thang,
vất vả “Lục xích câu mi trường dịch dịch/ Tứ thời phao trịch thái thông
thông” (Tấm thân sáu thước bị câu thúc cứ vất vả mãi/ Bốn mùa thoi đưa mà
sao mau thế) (Ngẫu hứng II), “Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn” (Ở noi lữ xá đã
buồn lắm rồi). Ông cũng chẳng còn coi trọng công danh “Phù thế công danh
khan điều quá/…Phù lợi vinh danh chung nhất tán” (Công danh ở đời xem
như mây bay vút qua/…Danh lợi hão huyền cuối cùng rồi sẽ tiêu tan hết)
(Mộ xuân mạn hứng), còn muốn làm một ẩn sĩ trong rừng trúc hay về lại núi


25
Hồng làm bạn hươu nai. Bởi vì cuộc đời là phù sinh, là áng mây nổi rồi sẽ
tan biến.
Trong thời gian làm quan ở Bắc Hà, Nguyễn Du có một lần đi tiếp sứ
đoàn Trung Quốc ở Lạng Sơn. Trên đường, ông chú ý đến cuộc sống của
con người bình thường với vẻ đẹp của sự bình yên gợi cảm giác muốn trở về

(Lạng sơn đạo trung, Quỷ Môn đạo trung). Nhân thấy con công múa hay
con bướm chết mà suy nghĩ về thật giả, thiện ác ở đời (Khổng tước vũ, Điệp
tử thư trung). Thấy hòn đá vọng phu ông ca ngợi tấm lòng người phụ nữ
chung thủy “Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân” (Tấm thân giữ trọn được tiết
trinh mãi mãi) (Vọng phu thạch). Vào động Nhị Thanh ông suy ngẫm về đạo
Phật, con người, thời cuộc. Bài thơ cuối cùng của tập thơ này, Nguyễn Du
dành nói về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh cùng mối đồng cảm đối
với con người tài sắc.
Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài thơ viết trong suốt 18 năm của cuộc
đời Nguyễn Du cho thấy đây là một con số không nhiều. Vì thế, có thể coi
những vần thơ viết ra là gan ruột nhất, trút bỏ tất cả nỗi lòng. Đó trước hết là
nỗi đau, nỗi buồn trước cuộc đời, là những ẩn ức không biết ngỏ cùng ai, là
tình cảm quê hương, gia đình, là những tâm sự về lí tưởng, thời cuộc hay
những mối đồng cảm đối với con người,…Những điều này, độc giả chỉ có
thể tìm thấy trong thơ chữ Hán mà không thể ở một mảng thơ nào khác của
Nguyễn Du.
Cuộc đời của Nguyễn Du đã chứng kiến bao phen thay đổi sơn hà đến
chóng mặt. Chuyện thay đổi trước mắt, con người bị cuốn vào thực tại
không sao cưỡng lại được nên chỉ thấy cuộc đời này đáng buồn, đáng
thương. Có thể nói ở Nguyễn Du nổi bật nhất là nét lo đời, lo cho tất cả mọi
người - con người suốt đời đau thế thái nhân tình. Nhà thơ chứng kiến giữa
cuộc đời loạn lạc, ông càng hiểu rõ nỗi khổ của nhân dân, càng đau đớn
trước sự suy tàn của cuộc đời. Trên con đường đầy ngã rẽ, Nguyễn Du vẫn


×