Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Chủ đề tình yêu trong thơ vi thuỳ linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.77 KB, 75 trang )

mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Nhng ở những thời kỳ lịch
sử khác nhau, tơng ứng với những điều kiện văn hoá- xã hội, t tởng nhân sinh,
thẩm mĩ nhất định, mỗi nền văn học lại có những quan niệm và cách thể hiện
riêng về tình yêu. Trong văn học dân gian Việt Nam, đề tài tình yêu đợc nói
đến khá phong phú qua các câu ca dao, điệu hò, những câu hát trao duyên...
Nhng sang đến thời kỳ văn học trung đại, đề tài này chỉ đợc đề cập đến một
cách chung chung, dè dặt. Tình yêu gắn với tình cảm vợ chồng, gắn với khuôn
mẫu trong xã hội phong kiến "tam cơng ngũ thờng" (ngời quân tử) và "tam
tòng tứ đức" (ngời phụ nữ). Đến thời hiện đại, với sự trỗi dậy của cái tôi cá
nhân, đề tài tình yêu đợc thể hiện mạnh mẽ nồng nhiệt và đắm say hơn trong
phong trào Thơ mới 1932- 1945 bởi những tác giả tiêu biểu nh: Xuân Diệu,
Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chơng v.v. Nh vậy, tơng
ứng với từng thời đại lịch sử - thẩm mĩ khác nhau, chủ đề tình yêu trong thơ
của mỗi tác giả lại đợc khai thác, xử lý theo những cách thức nghệ thuật
không giống nhau. Chính điều đó đã góp phần tạo nên diện mạo thi ca riêng,
độc đáo của họ.
1.2. Trong những năm gần đây, một trong những hiện tợng thơ nổi bật
gây nhiều chú ý, phải kể đến Vi Thuỳ Linh. Ngay khi xuất hiện tập thơ đầu
tiên Khát (1999), Vi Thuỳ Linh đã tạo đợc một ấn tợng khá mạnh mẽ trên thi
đàn. Sau đó cùng với sự xuất hiện tiếp tục các tập thơ Linh (2000), Đồng Tử
(2005), Vili in love (2008), Vi Thuỳ Linh đã trở thành một hiện tợng thơ nữ
gây nhiều tranh cãi trong giới phê bình và độc giả. Thơ Linh viết nhiều về tình
yêu, tình dục nh một nhu cầu bản năng, tự nhiên chính đáng của con ngời. Đó
cũng là một biểu hiện của khát vọng tự do, giải phóng cá tính. Có thể nói, tình

1


yêu là một chủ đề hết sức nổi bật trong thơ Vi Thùy Linh. Nó gắn liền với một


quan niệm riêng về tình yêu cá nhân và những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ trong
nghệ thuật thể hiện của tác giả.
1.3. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn cha có công trình nào khảo sát một
cách toàn diện và tập trung về hiện tợng thơ tình Vi Thuỳ Linh. Vì thế, chúng
tôi quyết định chọn Chủ đề tình yêu trong thơ Vi Thuỳ Linh làm đề tài nghiên
cứu của khoá luận.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến tập thơ thứ 4 Vili in love đợc công bố vào đầu tháng 11. 2008,
Vi Thuỳ Linh đã khẳng định đợc chỗ đứng riêng của mình trong dòng chảy
thơ ca đơng đại Việt Nam. So với thế hệ đàn chị nh Xuân Quỳnh, D Thị Hoàn,
Nguyễn Thị Hồng Ngát, ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, và những nhà thơ
cùng thời nh Phan Huyền Th, Ly Hoàng Ly, Phan Thị Vàng Anh, Trơng Quế
Chi, Vi Thuỳ Linh thực sự có những thế mạnh riêng. Với một quan niệm
"dấn thân" sáng tạo quyết liệt và cả những "tuyên ngôn" mạnh bạo, thậm chí
có phần thách thức trên báo chí và các phơng tiện truyền thông, với một cá
tính thơ cứng cỏi, mạnh mẽ và sức viết khá dồi dào, Vi Thuỳ Linh đã trở thành
một hiện tợng trong giới viết trẻ hôm nay. Trong vòng 10 năm, Vi Thuỳ Linh
đã có bốn tập thơ: Khát (1999), Linh (2000), Đồng tử (2005), Vili in love
(2008). Những tập thơ của Vi Thuỳ Linh đã gây tranh luận xôn xao trong giới
độc giả cũng nh trong giới nghiên cứu, phê bình.
Xoay quanh những sáng tác của Vi Thuỳ Linh có hai xu hớng đánh giá
trái ngợc nhau. Có những ngời tích cực ủng hộ cho giọng thơ mới này nh:
Trần Đăng Khoa, Inrasara, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Huy Thiệp, Thanh
Thảo, Dơng Tờng, Nguyễn Trọng Tạo Nhng cũng có những ngời phản đối
kịch liệt, thậm chí xem nhẹ thơ Vi Thuỳ Linh, tiêu biểu nh: Nguyễn Thanh
Sơn, Chu Thị Thơm, Trần Mạnh Hảo Có thể kể đến một số bài viết sau:

2



- Một ớc mơ dữ dội: Làm mẹ của Thanh Thảo, báo Kiến thức gia đình,
số 170, 2000.
- Khi nhục cảm đã vợt qua con chữ của Chu Thị Thơm, GD & TĐ số
27, 3. 2001.
- Linh ơi! trong cuốn Phê bình văn học của tôi của Nguyễn Thanh
Sơn, Nxb Trẻ, 2002.
- Thơ Vi Thuỳ Linh cơn cuồng lu từ những mê - lộ - chữ của Nguyễn
Việt Chiến, lời tựa tập Khát, 2005.
- Đọc lại Vi Thuỳ Linh của Trần Đăng Khoa, lời tựa tập Linh, 2005.
- Ngời tận lực tham ô tuổi trẻ của Phạm Xuân Nguyên, 9. 2005
- Bài Hiện tợng Vi Thuỳ Linh của Nguyễn Huy Thiệp, báo Sinh viên
Việt Nam, 9 - 2005.
- Thơ đơng đại - một góc nhìn của Phạm Minh Đăng, thotre.com.vn.
- 10 khuôn mặt thơ trẻ đơng đại của Bùi Công Thuấn, Thotre.com.vn.
- Vi Thuỳ Linh và một kiểu t duy về lời của Trần Thiện Khanh,

- Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố nữ của Inrasara, Nxb Hội
nhà văn, 2007. v.v.
Nguyễn Huy Thiệp trong bài Hiện tợng Vi Thuỳ Linh, đã xem Vi Thuỳ
Linh nh một hiện tợng nổi bật trong thơ trẻ hiện nay. Theo Nguyễn Huy
Thiệp: "Vi Thuỳ Linh là một hiện tợng trong thơ Việt Nam. Một tiếng thơ lạ.
Vi Thuỳ Linh mới chỉ đi những bớc đầu tiên trên con đờng thơ truân chuyên
gian khó của mình". Ông cũng thể hiện sự tin tởng vào lớp nhà thơ trẻ, đặc
biệt là Vi Thuỳ Linh. Ông cho rằng: các nhà thơ trẻ phải ý thức đợc "sự
nghiệp" của mình nếu nh họ muốn dẫn thân vào "hội đoạn trờng" để mà biết
cách bền gan tu chí. Đồng thời "những nhà thơ trẻ rất cần nâng đỡ về mặt tinh
thần, tình cảm, cần sự chỉ dẫn của những ngời đi trớc"[13, tr.121 -124].

3



Trong bài Thơ Vi Thuỳ Linh cơn cuồng lu từ những mê - lộ - chữ,
Nguyễn Việt Chiến đã có nhận xét: "Lặng lẽ theo dõi Vi Thuỳ Linh trên thi đàn - trẻ nhiều biến động trong những năm qua, tôi có cảm giác trong con ngời - thơ ấy luôn trỗi dậy các cơn "cuồng lũ" từ những mê - lộ - chữ. Sự chất
chứa khiến ta liên tởng tới một miệng núi lửa đang trào sôi nham thạch, dự
báo nhiều khoảnh khắc thơ". Ông còn viết: "Tuy Vi Thuỳ Linh có lúc nh tín
đồ cực đoan của Thi - giáo làm không ít ngời khó chịu, nhng nhìn vào sáng tác
thơ của nhà thơ trẻ này cứ đều đặn trên thi đàn đã làm cho những ngời khó
tính cũng phải ghi nhận những nỗ lực và mong muốn đổi mới thi ca của Linh".
Nguyễn Việt Chiến cũng đa ra một dự cảm về một cuộc cách mạng thơ trong
tơng lai: "Với khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng sáng tạo luôn tràn
đầy trong tâm thế, cây bút này vợt lên bằng cá - tính - thơ của mình để cùng
những nhà thơ trẻ hôm nay báo hiệu một ngày mới đang đến với thi ca đơng
đại Việt Nam" [12, tr.5 -7] .
Trần Đăng Khoa đã nhận xét về thơ Vi Thùy Linh nh sau: "Phải nói
rằng Vi Thuỳ Linh là ngời dũng cảm và tự tin. Chị vịn vào nội lực ấy để mà
đứng dậy trên hai chân của mình và sáng bằng nớc mắt". Ông cho rằng thơ
Vi Thuỳ Linh ngổn ngang và rậm rạp trong suy nghĩ trăn trở của ngày hôm
nay, chị vứt hết mọi loè loẹt của từng con chữ, chị bỏ vần điệu, thậm chí bỏ cả
nhạc điệu - là cái tối thiểu cần phải có trong thơ" [13, tr.6].
Báo Kiến thức gia đình số 170, 2000 có bài Một ớc mơ dữ dội: Làm mẹ
nhà thơ Thanh Thảo cũng đánh giá cao thơ Vi Thuỳ Linh và cho rằng đó là "hiện
tợng chín sớm trong thơ". Tác giả viết: "Vi Thuỳ Linh là một hiện tợng của thơ
Việt Nam hiện đại. Đó là một hiện tợng chín sớm trong thơ và cả trong đời. Cô gái
20 tuổi đã có ớc mơ dữ dội làm mẹ và nghĩ một cách thâm trầm sâu sắc đến không
ngờ về thiên chức ngời mẹ trong thế giới". Và: "bằng cú pháp thơ già dặn, cách nói
thơ đơn giản và trực diện, bài thơ của Vi Thuỳ Linh nh một hồ nớc chứa những
cơn sóng ngầm từ bên dới"[13, tr.120].

4



Phạm Xuân Nguyên trong bài Ngời tận lực tham ô tuổi trẻ để sống thơ,
đã nhận xét: "Vẫn một niềm khát khao của Linh nh ngày nào, khao khát vừa
ngây thơ vừa đau đớn, đau đớn mà hạnh phúc. Tôi gặp lại ở đây những khát
vọng cháy bỏng và thăng hoa trong thơ Linh về tình yêu". Khi đọc xong tập
thơ Đồng tử, ông viết: "Nhng tôi nhận thấy một đằm sâu hơn trong nhiều bài
thơ tình lần này Linh đứng ở vai Anh để vỗ về âu yếm an ủi mình". Và: "nhiều
bài thơ tình yêu của Linh trong tập này cũng chín hơn, hay hơn. Bởi Linh đã
có Đồng tử của mình". Ông khẳng định: "Thơ Vi Thuỳ Linh ở Đồng tử cho
thấy cô vẫn cha hết thơ"[14, tr.122 -123].
Trong bài Thơ đơng đại- một góc nhìn, Phạm Minh Đăng xem "Vi Thuỳ
Linh xuất hiện giữa thi đàn nh một cú sốc nặng đối với một nền thơ tuy đã mở
cửa nhng vẫn còn khuất gió, cái cú sốc đó nặng đến mức nhiều ngời chẳng
chịu đọc thơ cô nhng vẫn hăng hái đứng lên bảo vệ cho một các đạo đức từ lâu
đã bị quên bẵng đi". Tác giả cho rằng: "Thơ Vi Thuỳ Linh đẹp ở sắc thái nhục
thể. Cha bao giờ tôi thấy tiếng nói của ngời nữ trở nên tự do và ớt mợt nhục
cảm đến thế" và "thơ cô đâu có phải là những sản phẩm ngẫu nhiên bắt nguồn
từ dục vọng đơn thuần"[4, tr.42- 43].
Trên Thotre. com, Bùi Công Thuấn xem Vi Thuỳ Linh là một trong mời
khuôn mặt thơ trẻ đơng đại: "Đối với Vi Thuỳ Linh, tình yêu và thơ là định
mệnh. Thơ tình của Vi Thuỳ Linh là thơ tình của ngời đang yêu, đang đắm say
hạnh phúc và hoan lạc". Bùi Công Thuấn so sánh thơ Vi Thuỳ Linh với Xuân
Diệu, Xuân Quỳnh, Nguyên Sa, và cho rằng thơ tình Vi Thuỳ Linh đã mới
hơn nhiều: "Ngời đọc nhận thấy trong thơ Vi Thuỳ Linh có chất đắm say của
Xuân Diệu, chất suy t tỉnh táo và đằm thắm thuỷ chung của Xuân Quỳnh,
những tinh tế ngôn ngữ của Nguyên Sa nhng ở Vi Thuỳ Linh, đúng nh nhà thơ
tự nhận định, thơ Vi Thuỳ Linh đợc viết bằng ngôn ngữ tinh ròng, phong phú,
bằng giọng tâm sự chân thành gần gũi giàu nữ tính"[26].

5



Trần Thiện Khanh trong bài Vi Thuỳ Linh và một kiểu t duy về lời, đã
nhận xét: "T duy của Thuỳ Linh khá phức tạp. Chị có một t duy đa phức,
không nên đòi hỏi và không thể đòi hỏi ở chị mỗi lúc t duy phải tuyệt đối
chính xác. Chị không thuộc về một trật tự nào cả". Trần Thiện Khanh nhận
thấy sự mâu thuẫn trong t duy của Vi Thuỳ Linh nhng đó là "đợc phép tự mâu
thuẫn để cái vỏ của thơ ca nơi chị căng cựa nứt ra". Tuy vậy, tác giả cũng cho
rằng: "lời của Linh vẫn hay bị hơ quá lửa"[8].
Tuy nhiên, không phải mọi ý kiến đều nghiêng về phía khen ngợi thơ
Linh, Nguyễn Thanh Sơn trong bài viết Linh ơi! không đánh giá cao thơ
Linh. Ông phê phán thơ Linh: "Tập thơ của Linh mới chỉ đọc 10 bài thơ đầu
đã thấy dày đặc những ngôn từ to tát, những huyễn hoặc, kích động, cực đại,
khuếch tán, phi thờng hợp nhất, trầm cảm, khủng hoảng, bạo động, tối khẩn
huỷ diệt". Ông còn đa ra sự so sánh: "Nếu ví nhà thơ nh một ngời thợ gốm, và
bài thơ nh chiếc bình, Linh cũng giống nh nhiều nhà thơ trẻ khác, những ngời
luôn muốn mô tả tình cảm của trong cái cực đại của nó, và không thể chờ đợi
để đa ra những từ ngữ thích đáng, đã chẳng mấy bận tâm giữ cho lửa đều mà
chỉ chăm đốt lửa trong lò thật bốc. Và vì thế không nên ngạc nhiên khi mở
những chiếc bao thơi thay vì chiếc bình với chất men mịn màng, ta lại thấy
những mảnh vụn méo mó của những câu thơ quá lửa" [23, tr.103 - 107].
Chu Thị Thơm trong bài Khi nhục cảm đã vợt qua con chữ, đã có nhận
xét khi đọc những vần thơ đầy nhục cảm của Vi Thuỳ Linh trong Chân dung:
"Cứ nhất thiết thèm chồng là cứ phải để t duy phiêu lu với hình thể nồng nỗng,
trần truồng, hồng hộc đợi chờ trong sự bất thờng nh thế chăng". Chu Thị
Thơm phê phán thơ Linh hết sức kịch liệt. Chu Thị Thơm xem thơ Linh là thứ
thơ "Anh - Em - Chăn - Gối - Giờng - Sừng" và không có giá trị [29].
Inrasara, trong bài Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố nữ, đã nhận
xét nh sau: "Vi Thuỳ Linh có đợc hơi thơ khá lạ nhờ sự tiếp xúc của thông tin
đại chúng, ít nhiều nó đã thổi đợc làn gió hắt hiu vào khí hậu thơ đang tù đọng

của chúng ta". Tuy nhiên, Inrasara cũng đa ra nhận định rằng, đòi hỏi thơ Vi

6


Thùy Linh gồng gánh "tinh thần nữ quyền" hay "biểu tợng giải phóng phụ nữ
trong văn học" là một yêu cầu quá tải"[7, tr.96 - 98].
Bên cạnh những bài viết trên còn có một số bài viết khác đã nghiên cứu
về những khía cạnh khác nhau trong thơ Vi Thuỳ Linh. Trên cơ sở kế thừa,
tiếp thu, phát triển với những ý kiến của những nhà nghiên cứu, phê bình,
chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những nét mới mẻ trong quan niệm cũng nh cách
thể hiện chủ đề tình yêu trong thơ Vi Thuỳ Linh.
3. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã vận dụng nhiều phơng pháp nghiên cứu, cụ thể: phơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, miêu
tả, thống kê
4. Đối tợng nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung tìm hiểu chủ đề tình yêu trong
thơ Vi Thuỳ Linh trên cơ sở khảo sát 4 tập thơ: Khát (1999), Linh (2000),
Đồng tử (2005), Vili in love (2008).
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài Chủ đề tình yêu trong thơ Vi Thùy Linh, chúng tôi xác định
khóa luận này có những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu và xác định vị trí của thơ Vi Thuỳ Linh trong dòng thơ trữ
tình đơng đại Việt Nam.
- Khảo sát đặc điểm của chủ đề tình yêu trong thơ Vi Thùy Linh
- Khảo sát những phơng thức biểu hiện trong thơ Vi Thùy Linh
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Th mục tham khảo, nội dung
chính của khóa luận gồm 3 chơng:
Chơng 1: Khái quát đặc điểm thơ trữ tìnhViệt Nam thời kỳ sau Đổi mới

và hiện tợng thơ Vi Thùy Linh
Chơng 2: Nét độc đáo của chủ đề tình yêu trong thơ Vi Thùy Linh
Chơng 3: Phơng thức thể hiện tình yêu trong thơ Vi Thùy Linh

7


Chơng 1
Khái quát đặc điểm thơ trữ tình Việt Nam
thời kỳ sau đổi mới và hiện tợng thơ Vi Thuỳ Linh

1. 1. Khái quát về bối cảnh lịch sử - xã hội
Cách mạng Tháng 8/ 1945 và hai cuộc kháng chiến tiếp liền sau đó đã
khơi dậy và phát triển đến cao độ ý thức cộng đồng mà cốt lõi là lòng yêu nớc,
tinh thần dân tộc và ý thức giai cấp trong đời sống xã hội Việt Nam. Có thể
nói nền văn học cách mạng suốt 30 năm từ năm 1945- 1975 đã xây dựng và
phát triển trên nền tảng t tởng ấy. Cảm hứng chủ đạo của nền văn học là chủ
nghĩa yêu nớc, khát vọng độc lập tự do và lý tởng XHCN. Văn học Việt Nam
thời kỳ trớc 1975 thờng tìm đến những chân giá trị mang tầm cộng đồng, dân
tộc nh lý tởng, lẽ sống hay những phẩm chất truyền thống. Thơ tình yêu thời
kỳ này cũng vậy. Nó tìm về trú dới mái nhà đạo đức. Bởi vì thời kỳ này tiêu
chuẩn phẩm chất chính trị, đạo đức đợc đặt lên hàng đầu khi đánh giá con ngời.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, cuộc sống con ngời dần trở lại với những
quy luật bình thờng của nó, con ngời trở về với muôn mặt của đời thờng, phải
đối mặt với bao nhiêu vấn đề trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay
của xã hội. Đặc biệt, sau đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định đờng
lối đổi mới trên tất cả mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hoá, t tởng
Công cuộc đổi mới đã đa đất nớc thoát ra khỏi khủng hoảng và tiến tới xây
dựng đất nớc ngày càng vững mạnh. Bối cảnh đó đã thúc đẩy sự thức tỉnh ý
thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm tới mỗi ngời và từng số phận.

Sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và
chủ đề mới. Văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc về
con ngời mà nền tảng triết học và hạt nhân cơ bản của quan niệm ấy là t tởng

8


nhân bản. Con ngời vừa là điểm xuất phát, là đối tợng khám phá chủ yếu, vừa
là cái đích cuối cùng của văn học. Con ngời trong văn học hôm nay đợc nhìn ở
nhiều vị thế và trong tính đa chiều của nhiều mối quan hệ: con ngời với xã hội,
con ngời với lịch sử, gia đình, gia tộc, với thiên nhiên, với những ngời khác và
với chính mình... Con ngời cũng đợc văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều
bình diện, nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống t tởng, tình cảm, tự
nhiên, bản năng, những khát vọng cao cả và những dục vọng tầm thờng... Sau
chiến tranh nhiều vấn đề đợc nhìn nhận lại, ý thức cá nhân đợc trỗi dậy và đợc
phản ánh sâu sắc trong văn học. Văn học quan tâm đào sâu đến đời sống riêng
t của con ngời. Xu hớng dân chủ và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã đa tới sự
phát triển phong phú, sôi nổi đa dạng của văn học sau 1975, đặc biệt là sau
thời kỳ đổi mới đất nớc.
1. 2. Khái quát về tình hình phát triển của thơ trữ tình Việt Nam
thời kỳ sau Đổi mới
1.2.1. Những biến đổi của nền văn học thời kỳ sau đổi mới đợc thể hiện
rõ ràng trong sự đổi mới của các thể loại văn học. Đây là vấn đề đã thu hút đợc khá rộng rãi giới nghiên cứu, phê bình. Nhìn chung, các thể loại văn xuôi là
khu vực vẫn đợc xem có nhiều thành tựu nổi trội và có những hiện tợng tiên
phong trong công cuộc đổi mới văn học. Nhng nhìn một cách tổng thể từ sau
Đổi mới đến nay, đặc biệt hơn 10 năm lại đây thì thơ trữ tình lại là lĩnh vực có
những cách tân đáng chú ý.
Thơ trữ tình Việt Nam sau đổi mới là bức tranh phong phú sắc màu với
sự đóng góp của nhiều thế hệ. Có những nhà thơ đã là "đại thụ" trong làng thơ
Việt Nam, đợc khẳng định từ thời tiền chiến nh Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế

Hanh Cũng có những nhà thơ đợc tôi luyện trong lửa đạn chiến tranh nh
Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phơng, Nguyễn
Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, ý Nhi, Phan Thị Thanh
Nhàn; Bên cạnh đó, ta thấy nổi lên một loạt những nhà thơ thuộc thế hệ đầu
9


tiên của thời bình nh Lê Thị Kim, Nguyễn Thị Hồng Ngát, D Thị Hoàn, Phạm
Thị Ngọc Liên, Mai Văn Phấn, Phùng Khắc Bắc, Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Bình Phơng; Đến những năm 80, có sự trở về của Lê Đạt, Dơng Tờng, Hoàng Hng, Hoàng Cầm với những thi phẩm nổi tiếng bởi những tìm tòi
cách tân hình thức mới lạ. Nhng nổi bật hơn cả là thế hệ nhà thơ trẻ hiện nay.
Đây là thế hệ sinh ra và lớn lên trong thời bình, không vớng bận bởi t duy văn
học cũ. Đó là những tác giả nh Bình Nguyên Trang, Dạ Thảo Phơng. Nguyễn
Thuý Hằng, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phan
Huyền Th, Ly Hoàng Ly, Tuy thành tựu đạt đợc không giống nhau nhng họ
đều gặp nhau ở khao khát đổi mới thơ ca.
Cùng với những thay đổi của điều kiện lịch sử - xã hội, thơ trữ tình Việt
Nam sau Đổi mới đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau trong đời sống xã hội:
tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn, những vấn đề mang tính riêng t sâu kín
trong tâm hồn con ngời Tuy cách lựa chọn và thể hiện đề tài của các nhà
thơ rất khác nhau nhng nhìn chung họ đã mang đến cho nền thơ ca Việt Nam
một bức tranh phong phú muôn màu. Trớc 1975, do hoàn cảnh đất nớc có
chiến tranh vì vậy những vấn đề mang tính chất riêng t của con ngời ít đợc chú
ý đề cập. Chiến tranh là mất mát, là hi sinh, chúng ta phải cầm súng để dành
lại độc lập tự do cho đất nớc. Thế nên, nh một lẽ tất nhiên, văn học giai đoạn
này là văn học của sử thi, văn học của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Do vậy,
thơ tình ở giai đoạn này cũng không thể tránh khỏi những áp lực của t duy sử
thi:
Trớc cơn giông là đôi mắt em cời
Chiều lạ quá, chiều ơi lay động mãi

Giá lại phải băng qua trăm ngả đờng phá hoại
Thì hẳn chỗ cuối cùng anh gặp - vẫn là em
(Những đoạn thơ tình giữa 2 cuộc chiến tranh phá hoại - Bằng Việt)

10


Tuy nhiên, mỗi nhà thơ có một quan niệm về đời sống và tình yêu
khác nhau, do đó, màu sắc sử thi trong thơ tình của họ cũng mang những
sắc thái riêng. Đây là tình yêu trong "thời lửa đạn" của Xuân Quỳnh:
Anh trở về sau những tháng năm xa
Cây đã lớn lòng ta nhiều đổi khác
Nh đất nớc vừa qua thời lửa đạn
Lại ngỡ ngàng chim nhỏ, tháng giêng xuân
(Những con đờng tháng giêng - Xuân Quỳnh)
Tình yêu thời chiến tranh gắn liền với cuộc đời, hoà vào dòng đời cách
mạng chung. Đó là cái thời mà nh Chế Lan Viên đã viết: Đất nớc có chung
tâm hồn, có chung khuôn mặt; thời mà Tố Hữu phải chia nhỏ trái tim thành ba
phần tơi đỏ: Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều. Phần cho thơ và phần để
em yêu (Bài ca xuân 61) Thơ tình thời chiến tranh vẫn nói đến cái riêng, nhng cái riêng đó vẫn nằm trong cái chung, bao trùm bởi cái chung của cộng
đồng. Bài Nhớ của Phan Thị Thanh Nhàn là một ví dụ. Đấy là một nỗi nhớ rất
riêng nhng cũng rất chung:
Ô kìa ai đến là quen
Bộ quân phục cũ mũ mềm trán cao
Dáng đi nhanh nhẹn làm sao
Mắt nhìn xa bớc tự hào hiên ngang
Mừng vui em gọi vội vàng
Ai ngờ lúc đến gần hơn em nhầm
Hẳn là anh cũng nhiều phen
Đờng hành quân tởng thấy em đến gần

Tình yêu thời chiến trong sáng đến mức gần nh tuyệt đối. Nó đề cao sự
hoà điệu, đồng điệu của hai tâm hồn, rất ít khi nói về sự rung động của cảm
giác, càng không có những "va chạm" thân xác kiểu nh Xuân Diệu trong Thơ

11


mới: Hãy sát đôi đầu hãy kề đôi ngực. Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
(Xa cách). Tình yêu thời kỳ này đợc đẩy về miền lý tởng chứ không giữ lại ở
nơi hiện thực. Vì thế cho nên ngời ta rất ít nói, thậm chí im lặng, trao gửi cho
nhau cũng trong im lặng, bằng im lặng:
Họ ngồi im không biết nói năng chi
Mắt chợt nhìn nhau rồi lại quay đi
Nào ai đã một lần dám nói
Hơng bởi thơm cho lòng bối rối
(Hơng thẩm - Phan Thị Thanh Nhàn)
Sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự thay đổi của điều kiện lịch sử - xã hội
và sự trỗi dậy mạnh mẽ của ý thức cá nhân đã tác động sâu sắc đến đời sống
văn học. Mọi giá trị đời sống đợc nhìn nhận lại. Văn học nói chung và thơ ca
nói riêng mở rộng sự quan tâm đến mọi ngõ ngách phong phú, phức tạp của
cuộc sống con ngời. Những điều mà trớc chiến tranh con ngời không dám nói
tới trong thơ thì nay đợc trỗi dậy. Thơ ca nói nhiều đến nỗi mất mát, hi sinh,
những điều riêng t thầm kín của con ngời. Những điều về tình yêu, tình dục trớc đây vẫn đợc xem là kiêng kị thì nay đợc nói nhiều ở trong thơ. Vào những
năm đầu của thời kỳ đổi mới, bài thơ Tan vỡ của D Thị Hoàn ra đời đã gây
xôn xao d luận một thời. Tác giả dám nói đến những điều mà thơ thời kì trớc
đó rất ít khi công khai đề cập đến:
Nếu không có một lần
Một lần nh đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá

Anh không cài lại khuy áo ngực cho em
Bên cạnh những đề tài cũ, thể loại cũ, thơ của thế hệ đổi mới đi sâu khai
thác bản thể, khám phá tình yêu, nhục cảm, cái tôi cá nhân bí ẩn và đầy bất
trắc. Tiếng thơ của họ bên cạnh những khao khát yêu thơng, sẻ chia, bù đắp

12


những khao khát chồng vợ, tổ ấm gia đình hạnh phúc còn xuất hiện một cảm
hứng mới rất hiện đại mang đầy bản năng trong ngôn từ, cảm xúc - tính nhục
cảm:
Anh hạ trời xuống Anh nâng đất lên
Anh bùng vỡ thanh xuân cuồng điên
Trên lng Anh bơi mải miết ngón ngón em dài trắng
Môi em trờn đêm căng
Duỗi chân dài em nối những ranh giới, những núi đồi,
sông biển, nhịp nhịp qua cầu đùi muốt.
Vào lúc Anh lên em lên Anh
Thụ tạo giấc mơ ấp ủ
Em đạt khát khao làm mẹ
(Nơi ánh sáng - Vi Thuỳ Linh)
Thơ tình trớc Đổi mới đề cao cái chung, cái ta của cộng đồng. Trái lại,
thơ tình sau thời kỳ Đổi mới lại hớng đến đề cao cái riêng, cái tôi bản thể của
con ngời. Thơ hiện nay bên cạnh cái tôi mang những nét chung vốn có nh lòng
yêu nớc, tự hào dân tộc, ngợi ca dân tộc... thì còn có một cái tôi bản thể khẳng
định vai trò của cá nhân mình trong đời sống xã hội. Một cái tôi trong mọi
mối ràng buộc, trách nhiệm với toàn bộ biến động tâm hồn, tình yêu, dục
vọng, cả những khổ đau, hạnh phúc riêng t nhất. Họ có nhu cầu nói về chính
những va chạm của mình ở mọi cấp độ đời sống, khẳng định cái tôi hiện hữu
giữa đất trời. Đó là một cái tôi hoà vào mạch chảy đơng đại, sự thôi thúc của

cá nhân trớc đời sống muôn vẻ. Sự thôi thúc của tuổi trẻ nh chú ngựa bị ghìm
cơng sau nhiều năm tháng, dữ dội, mãnh liệt nay đợc cất vó nơi thảo nguyên
xanh tơi đón gió và nắng trời, băng qua mọi bờ vực, mọi rào cản để tìm cho
mình một chân trời mới. Cái tôi bản thể đầy tự tin và kiêu hãnh muốn tung
bờm dạo chơi sau nhiều năm tháng ngủ yên trong cái chuồng chật hẹp nay đã

13


thức dậy tạo nên những thanh âm mới. Đây là một tiếng nói mới tuyên chiến
mạnh mẽ với cái cũ:
Thức dậy đi hỡi chú ngựa non của đồng ngực trẻ
Thức dậy và tung bờm cất vó
Phóng nh điên
Chỉ cơn điên mới cứu khỏi nỗi sợ hãi
Thức dậy dẫm chân và lắc đầu kiêu hãnh
(Bài ca ngựa non - Trần Lê Sơn ý)
Nh vậy, có thể nói rằng thơ trữ tình Việt Nam thời kỳ sau Đổi mới đã có
những bớc chuyển mình đáng ghi nhận trên nhiều phơng diện.
1.2.2. Nhng đáng chú ý hơn cả có lẽ vẫn là sáng tác của những nhà thơ
trẻ hiện nay. Khái niệm "nhà thơ trẻ" ở đây có thể hiểu nh thế nào? Theo cách
chúng tôi hiểu, trớc hết, đó là thế hệ những ngời sáng tác trẻ về tuổi đời (chủ
yếu là những cây bút thuộc thế hệ 7X, 8X), lẫn tuổi nghề (tác phẩm của họ
chủ yếu xuất hiện thời kì sau Đổi mới). Đấy là thế hệ nghệ sĩ sinh ra và trởng
thành trong thời bình, trong một môi trờng t tởng xã hội có nhiều đổi mới sâu
sắc, mang tính dân chủ, cởi mở. Do đó, họ không bị vớng mắc bởi những t duy
cũ thời cơ chế quan liêu bao cấp. Mặt khác, do điều kiện đất nớc đổi mới và
mở cửa, họ có điều kiện để tiếp xúc rộng rãi với nhiều luồng t tởng văn hoá,
văn học hiện đại trên thế giới. Bởi vậy, thơ họ thờng có những phá cách và thể
nghiệm nghệ thuật táo bạo, mới mẻ. Có thể điểm qua một số gơng mặt tiêu

biểu mà d luận ít nhiều đã biết đến nh: Vi Thuỳ Linh, Văn Cầm Hải, Nguyễn
Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly, Trần Lê Sơn ý, Trơng Quế Chi, Nguyễn Thế
Hoàng Linh, Nguyễn Thị Thúy Hằng, Phan Thị Vàng Anh, nhóm "Mở
miệng", nhóm thơ nữ trẻ Sài Gòn, Mỗi ngời có một cách nói khác nhau,
nhng họ đều muốn khẳng định mạnh mẽ cái tôi và nỗ lực cách tân thơ Việt.
Họ dám chấp nhận mạo hiểm, thử thách và phiêu lu, chối bỏ sự đơn điệu của
thơ truyền thống, tiến vào rừng rậm của thơ ca.
14


Khi nhận diện những gơng mặt thơ trẻ không thể không nhắc đến hai
nhà thơ nữ đã từng có những tập thơ gây xôn xao d luận, đó là Vi Thuỳ Linh
với bốn tập thơ: Khát, Linh, Đồng Tử, Vili in love, Phan Huyền Th với Nằm
nghiêng, Rỗng Ngực. Điểm chung giữa họ là ý thức phái tính, lời tuyên ngôn
nữ quyền. Cả Linh và Th đều viết nhiều về vấn đề tình yêu, tình dục với những
cách nói táo bạo mãnh liệt. Đọc thơ Linh bắt gặp ở đó bản năng phụ nữ ở ngời
làm thơ bùng nổ qua những câu chữ ào ạt, say sa giãi bày, không tiết chế cảm
xúc, muốn nói thật lớn, thật to những đam mê khao khát của mình, yêu hết
mình và sẵn sằng chết khi không đợc yêu:
Em sẵn sàng chết vì Anh, nhng không phải là cái chết đau đớn
Nếu Anh không của em
Em sẽ vắt mình đến giọt sống cuối cùng, làm nghiêng ngả mọi
ổn định
Thế giới không bao giờ yên ổn
(Không thanh thản )
Nhng ngợc lại, dờng nh Phan Huyền Th lại là một đối âm. Đọc Nằm
nghiêng hay Rỗng Ngực, ta có thể nhận thấy ở chị ý thức viết bằng sự tỉnh táo,
sắc sảo của lý trí. Cho nên trong thơ chị, thay vào sự phô diễn lộ liễu cái tôi là
sự gia tăng chất hài hớc trong những bức tự hoạ với giọng điệu "giễu cợt", "tng
tửng":

Yêu
tiếp tục trò chơi ma
ý nghĩ
Con mèo già
Cô độc. Mắt quá sáng
Buồn
vạch khóc vào đêm
(Gửi: Ngày hôm qua)
15


Trơng Quế Chi cũng là một trong những tác giả đợc chú ý nhiều trong
giới viết trẻ hiện nay. Thơ chị khẳng định một cái tôi" trẻ trung, cái tôi tự
chịu trách nhiệm trớc những biến thiên đời sống. Đó là nhu cầu của một cái
tôi đang lớn với bao dằn vặt, suy t, tự vấn, muốn lột xác câu chữ nhằm thoát
khỏi đơn điệu thờng ngày:
Thỉnh thoảng nhạt miệng
Nếm chữ mình
Ngâm muối
Những con dế hát nhiều
Có ngày đồng loạt
Lột xác
Gội đầu mỗi tối
Rửa trôi
Tiếng bớc chân mình đơn điệu
(Tản mạn tuổi 19)
1.3. Khái quát về thơ Vi Thuỳ Linh
Hơn 10 năm gần đây, sự xuất hiện của thế hệ thơ trẻ đã đem lại cho nền
thơ ca Việt Nam một luồng gió mới lạ. Sự mới lạ ấy đợc thể hiện trên nhiều
phơng diện nội dung, đề tài cũng nh hình thức biểu đạt. Một trong những hiện

tợng thơ đáng chú ý trong dòng chảy đó là Vi Thuỳ Linh.
Vi Thuỳ Linh sinh năm 1980, sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, đã tốt
nghiệp phân viện báo chí và tuyên truyền. Hiện nay cô đang là nhà báo nhng
đồng thời cũng là một nhà thơ. Ngay từ khi còn ngồi trên giảng đờng Đại học,
Linh đã xuất bản hai tập thơ Khát và Linh. Đây đợc xem nh là sự khởi đầu cho
sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Vi Thuỳ Linh. Là một nhà thơ trẻ, nhng Vi
Thuỳ Linh đã sớm đợc kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam (2007). Cô là tác
giả trẻ nhất trong Tuyển tập thơ nữ từ xa đến nay (Nxb phụ nữ, đợc in song
ngữ Việt- Anh). Linh cũng là một trong những tác giả đạt giải Bông hồng

16


vàng của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC do khán giả bình chọn (2006) cùng
với Kỷ niệm chơng của Hội liên hiệp phụ nữ Hà Nội (7. 03. 2008). Vi Thuỳ
Linh là tác giả trẻ Việt Nam dự liên hoan thơ quốc tế tại cộng hoà Pháp (11.
2003). Nh vậy, với hơn 10 năm sáng tác, Vi Thuỳ Linh đã đạt đợc những
thành quả đáng ghi nhận.
Thơ Vi Thuỳ Linh đã trải qua một hành trình khá dài từ Khát (1999),
Linh (2000), đến Đồng tử (2005), và tập thơ thứ t với cái tên rất ấn tợng Vili in
love (2008). Thực tế sáng tác của chị cho thấy một tiềm năng sáng tạo khá bền
bỉ. Bằng một lối thơ cuộn chảy phăng phăng đợc khơi nguồn từ cảm xúc nồng
nhiệt đắm say đối với cuộc đời, Linh đã dâng cho đời những vần thơ mang vẻ
đẹp bản năng và đầy sức hấp dẫn. Trên con đờng nghệ thuật khổ ải ấy, Vi
Thuỳ Linh luôn nỗ lực tự làm mới thơ ca, tự hoàn thiện mình qua những vần
thơ nóng bỏng thiết tha. Sự sáng tạo nghệ thuật của Linh đã nhận đợc sự ủng
hộ của nhiều bạn đọc yêu thơ chị và một số nhà nghiên cứu, nhà thơ của thế
hệ đi trớc nh: Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Huy Thiệp, Thanh Thảo, Thuỵ
Khuê, Nguyễn Trọng Tạo Đây là những ngời tích cực cổ vũ cho giọng thơ
này. Họ đều thấy ở Vi Thuỳ Linh những trăn trở, những khát vọng đợc yêu, đợc sống thành thực, và nỗ lực phá bỏ mọi thói quen, mọi cân xứng cũ mòn,

cứng nhắc.
Trớc sự thể hiện mạnh mẽ của cái tôi cá nhân, những khao khát bản
năng, những yếu tố tính dục đợc đa vào trong thơ Linh nh một thủ pháp nghệ
thuật để chiếm lĩnh đời sống. Nhìn từ một góc độ nào đó, những yếu tố tính
dục trong thơ Vi Thuỳ Linh nh một sự khẳng định nhu cầu bản năng của con
ngời. Theo quan niệm của Linh thì đó là nhu cầu tự nhiên mà con ngời cần
phải có. Thơ Linh không ít lần xuất hiện những câu nh:
Khoả thân trong chăn
Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên
(Chân dung)

17


Và:
Ngón mềm trờn trên thân thể
Tất cả tan vào thao thiết nguồn yêu
(Một mình tháng T)
Nhà thơ, dịch giả Dơng Tờng nhận xét khi đọc thơ Vi Thuỳ Linh:
"Vi Thuỳ Linh là một cơn lốc - lốc ý tởng, lốc chữ (chứa chất nổ), lốc tình
(đôi khi là khoái cảm)". Tác giả cho rằng: "Vi Thuỳ Linh là biểu tợng giải
phóng phụ nữ trong thơ ca". Và đây là một phần tuyên ngôn của "cơn lốc":
Miêu tả mình kỹ càng trong những bài thơ không có chữ Hết
Thơ cho những ngời phụ nữ thoát ảo ảnh cam chịu buông xuôi
Cự tuyệt vai trò thứ yếu
Chẳng chịu lợng sức mình
Vì trái tim đa tình bẩm sinh
Chối bỏ kiểu yêu vụng trộm
Không thoả hiệp sống tẻ nhạt
Khăng khăng cực đoan sống cho hết mình

Tình yêu - Phát minh vĩ đại nhất mọi thời
Cứ ôm hôn nhau giữa đờng phố, quảng trờng
Ta sinh ra thế giới
(Hồng hồng tuyết tuyết)
Nguyễn Việt Chiến lại ví: "Vi Thuỳ Linh nh một ngời dệt tầm gai nhẫn
nại đan dệt những cảm xúc của mình với những nỗi đau vô hình trong tay ngôn - ngữ luôn bị trầy xớc, rớm máu bởi những nỗi đau vô hình trong thi ca
và hữu hình trong tình yêu và đời sống con ngời" [12, tr.7]. Trong bài Ngời
dệt tầm gai, Vi Thuỳ Linh đã tìm đợc một nhịp điệu nội tại ẩn chứa những
thao thức trong tình yêu và khát vọng đợc yêu của ngời phụ nữ:

18


Không kỳ vọng những điều lớn lao
Em lặng lẽ dệt nỗi buồn- những sợi tầm gai- không ai nhìn thấy
Gai tầm gai đâm em đau đớn
Em chờ Anh mãi
Tởng chừng không vợt khỏi cái lạnh, em đã khóc trên hai bàn tay
trầy xớc
Thơ Linh xuất hiện hình ảnh nguời đàn bà dệt tầm gai nhẫn nại chờ
hạnh phúc. Phải chăng đây chính là chân dung của Vi Thuỳ Linh trong một
đời sống thơ luôn khao khát sáng tạo dù nhiều gian nan chồng chất trên con đờng thơ ca của mình? Nhà thơ, nhạc sĩ Vũ Mão trong lời tựa tập Đồng tử, đã
nhận xét: "Tôi đã có ấn tợng khi đọc một số bài của tác giả và nghe ca khúc
phổ thơ Linh Trong thơ Linh có một sức trẻ dồi dào, mạnh mẽ vơn tới cái
đẹp bằng sự sáng tạo độc đáo. Đây là tác giả đáng đợc ghi nhận trong lớp nhà
thơ trẻ hiện nay. Thơ Vi Thuỳ Linh khiến tôi tin yêu và hi vọng".
Nhng có một số ngời lại phê phán kịch liệt thơ Linh. Chu Thị Thơm cho
thơ Vi Thuỳ Linh là thứ thơ "nổi loạn", thậm chí "thác loạn", "tục tĩu". Hoàng
Xuân Tuyền cho thơ Linh là "những ghi chép lộn xộn" và không xem đó là
thơ. Nguyễn Thanh Sơn cũng không đánh giá cao thơ Vi Thuỳ Linh. Tác giả

từ chối gọi những câu trong bài Thế giới hiện hữu là thơ. Thậm chí, nhà phê
bình này còn cho rằng những câu thơ hay của Vi Thuỳ Linh nhiều khi là kết
quả của "sự may rủi".
Nhìn chung, những đánh giá xung quanh hiện tợng thơ Vi Thuỳ Linh
đang còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngợc gay gắt. Cần phải
đánh giá về hiện tợng thơ này nh thế nào? Chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một
cách khách quan trên văn bản. Thực tế, thơ Vi Thuỳ Linh có nhiều điểm khiến
độc giả quan tâm, không chỉ trong ngôn ngữ, giọng điệu, mà còn trong cách
suy nghĩ, quan niệm của tác giả.

19


Trớc hết, đọc thơ Vi Thùy Linh chúng ta thấy một cá tính vô cùng táo
bạo và thành thật. Linh không ngần ngại phô bày bản ngã, thể hiện khao khát
tự do mãnh liệt tự do đợc sống và yêu; và quyết không bao giờ hoá trang
để nhập vai ngời khác. Linh là Một, là Riêng, là Thứ nhất (Xuân Diệu), nhng
cũng là một bản thể đầy mâu thuẫn. Thơ Linh cũng nh con ngời Linh, là một
cái tôi mạnh mẽ, quyết liệt nhng cũng rất đỗi chín chắn với những chiêm
nghiệm suy t về thời gian, về lẽ sống, về cuộc đời. Cho nên, nh một tất yếu,
nổi bật trong thơ Linh là một tình yêu say đắm, đầy đam mê. Tình yêu và thơ
đối với Linh là định mệnh. Đối tợng Linh hớng tới ở đây là Anh - một đối tợng trữ tình độc đáo. Khảo sát trên toàn bộ bốn tập thơ ta thấy có đến 146 bài
viết về tình yêu dành cho Anh, chiếm trên 80% trên tổng số 185 bài. Bên cạnh
tình yêu Linh dành cho Anh, Linh còn thể hiện một quan niệm mới mẻ về tình
yêu, tình dục. Thơ Linh vì thế mà xuất hiện rất nhiều những khát khao nhục
thể, những đòi hỏi hết sức bản năng của con ngời. Cô đã giải thích điều này
qua quan niệm cá nhân về tình yêu. Nếu trớc đây ngời ta quan niệm tình yêu
là trong trắng, tinh khiết mà ít đề cập đến tình yêu ở khía cạnh khác nh những
ham muốn tình dục, thì bây giờ Linh quan niệm: "Tình dục nằm trong tình
yêu, là sự hoà quyện giữa thể xác và tâm hồn" [VnExpress. Net].

Song thơ Vi Thùy Linh cũng có những nhợc điểm dễ nhận thấy. Cũng
chính vì muốn khẳng định mạnh mẽ cái tôi cá nhân, nên thơ chị nhiều khi sa
vào tình trạng đại ngôn, và thiếu đi sự cô đọng cần thiết. Có những câu thơ
hay, bị lạc trong rừng rậm um tùm những câu tầm thờng nh: Hối hả khai hoá
miền cằn cỗi để hồi quang trinh bạch, hối hả ôm chặt ngời đàn ông mong đợi,
hoặc cách nói cờng điệu, mòn sáo nh: đỉnh yêu độc đạo, thơ chất con đờng
lửa, tuyệt đỉnh, linh giác... Nhiều bài thơ, câu thơ thiếu sự dồn nén, và có khi
chỉ là những luận đề rỗng nghĩa, ồn ào, chẳng hạn:
Hàng triệu ngời điên lên theo mãnh lực phần mềm microsot
Những tâm hồn đang đợc mã hoá với nhịp điệu sống lập trình

20


Ngày đêm nơron thần kinh căng cứng cập nhật giữ liệu
Con ngời không ngây thơ không nhiều ớc mơ và mất dần lãng mạn
Màu dollar sắp nhuộm cả da trời
(Thế giới hiện hữu)
Tuy nhiên, cả với những nhợc điểm kể trên, thơ Vi Thuỳ Linh vẫn là
một hiện tợng rất đáng lu ý trong dòng thơ trẻ sau 1986.

21


Chơng 2
Nét độc đáo của chủ đề
tình yêu trong thơ Vi Thuỳ Linh

Cùng viết về đề tài tình yêu nhng mỗi nhà thơ lại có một quan niệm và
nghệ thuật thể hiện riêng. Chúng ta đã từng biết đến tình yêu nồng nàn, say

đắm của Xuân Diệu:
Hãy sát đôi đầu hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
(Xa cách - Xuân Diệu)
Trong thời đại mà Xuân Diệu sống, quan niệm về tình yêu nh thế đã đợc xem là táo bạo, là mới mẻ. Nhng đến những thế hệ sau này nh Vi Thuỳ
Linh, cách nhìn nhận về tình yêu lại có những nét độc đáo, mới mẻ khác.
Điều đó bị quy định bởi lí do thời đại và cả cái tạng chất tâm hồn riêng của
từng tác giả. Tình yêu trong thơ Vi Thuỳ Linh đợc thể hiện trong cách ứng xử
thể hiện ở hình tợng cái tôi cá nhân, cách xây dựng hình tợng Anh - đối tợng
trữ tình độc đáo, cũng nh một quan niệm rất mới mẻ về tình yêu, tình dục và ý
thức khẳng định về giá trị của nữ giới trong đời sống, trong tình yêu và thơ ca.
2.1. Tình yêu là cách để khẳng định mãnh liệt cái tôi Vi Thuỳ Linh
2.1.1. Khái niệm cái tôi và đặc điểm cái tôi Vi Thuỳ Linh
2.1.1.1. Khái niệm cái tôi
Cái tôi là một trong những khái niệm triết học cổ xa nhất, đánh dấu ý
thức đầu tiên của con ngời về bản thể tồn tại của mình, để nhận ra mình là một
con ngời khác với tự nhiên, là một cá thể khác với ngời khác. Đó chính là cái
tôi nhân cách. Hay nói cách khác đó chính là cái tôi của ngời nghệ sỹ ngoài
cuộc đời. Ngời nghệ sỹ tự ý thức về cuộc sống, là cá tính, là tính cách riêng để
phân biệt ngời này với ngời khác.

22


Trong đời sống hàng ngày, cái tôi này chi phối tới mọi hoạt động, t tởng, tình cảm và thái độ của con ngời. Theo H. Bergson (1859 - 1941) thì đó
là "cái tôi bề mặt". Trong sáng tạo nghệ thuật, cái tôi nhân cách của ngời nghệ
sỹ chính là nền tảng để tạo nên sự riêng biệt và độc đáo không trộn lẫn giữa
nhà thơ này với nhà thơ khác. Khi sáng tạo, mỗi nhà thơ đều tạo dựng cho
mình một thế giới nghệ thuật riêng, một cái nhìn riêng về con ngời và về cuộc
đời, gắn với một phơng thức tự thể hiện độc đáo. Chỉ khi ấy cái tôi nghệ thuật

mới xuất hiện. Nh vậy, cái tôi nhân cách đã trở thành cái tôi nghệ thuật, cái tôi
sáng tạo.
2.1.1.2. Vi Thuỳ Linh - một cái tôi mãnh liệt, say đắm, đam mê
Vi Thuỳ Linh là một tác giả trẻ đầy cá tính, táo bạo và mãnh liệt trong
tình yêu. Vi Thuỳ Linh luôn khao khát bộc lộ cái tôi của mình trớc cuộc đời.
Đó là một cái tôi mạnh mẽ, luôn khao khát yêu, khao khát đợc tận hởng tình
yêu với ngời mình yêu một cách say đắm, đam mê. Đọc thơ Linh, ngời đọc
nh bị chìm ngập vào thế giới của yêu đơng, của tình ái. Những dòng thơ vọt
trào, nóng bỏng, mãnh liệt tuôn chảy nh "dòng nham thạch" hiện lên trong
thơ Linh đầy cuốn hút:
Những con kiến rừng yêu mùa nào để đẻ trứng đúng vào tháng T
Cả tháng T em bồn chồn nh cả rừng kiến đốt
Nh con ong
Em khích động Anh bằng tởng tợng có thật
Và đáp lại tất cả thèm muốn
Anh và em trong trắng trong vũ - trụ - sơ - sinh.
(Sinh ngày 4 tháng 4)
Nổi bật nhất trong thơ Vi Thuỳ Linh là một tình yêu mãnh liệt, một tình
yêu tuyệt đối, tình yêu nh là cứu cánh. Dờng nh những khao khát yêu đơng đã
nổ tung thành những bài thơ yêu. Mỗi bài là một mảng lấp lánh sáng rực của
khối tình cuồng si ấy:

23


Anh yêu của em
Em yêu Anh cuồng điên
Yêu đến tan cả em
ào tung ký ức.
(Ngời dệt tầm gai)

Trong thế giới tình yêu của Linh luôn có một khao khát dữ dội và cuồng
nhiệt. Trạng thái luôn khao khát và mong đợi dờng nh đầy ắp trong những vần
thơ mà Linh viết. Tâm trạng đó Linh luôn muốn gửi đến Anh - một ngời mà
Linh luôn tôn thờ và ngỡng vọng:
Trong dữ dội, em khao khát bình yên
Em muốn ngủ bên Anh nh rễ cây trong đất.. .
... Đất của em ơi!
(Một mình tháng T)
Không phải ngẫu nhiên mà Vi Thuỳ Linh đặt tên cho tập thơ của mình
là Khát. Trạng thái luôn luôn kiếm tìm, luôn luôn khao khát và mong đợi ấy
dâng đầy trong những vần thơ của Linh. "Những sông suối dâng trào không
làm vơi cơn khát. Biển cả mênh mông không làm dịu thịt da nến sáng. Cơn
khát tình trào dâng, lửa cháy rừng là chính trái tim nàng đã khơi lên từ ngày
nào mời sáu tuổi. Mỗi bài thơ là một đám cháy, những đám cháy đã dâng lên
thành con sóng lửa, nối tiếp nhau, mãnh liệt, dữ dội tởng không bao giờ dứt"
(Nguyễn Trọng Tạo). Tâm trạng luôn khao khát tình yêu là một trong những
khía cạnh thể hiện rõ chất "Linh" ấy trong thế giới thơ tình Vi Thuỳ Linh. Ngời con gái ấy không ngần ngại nói lên cảm xúc mãnh liệt, những đòi hỏi mang
tính bản năng giới tính của mình một cách táo bạo và thẳng thắn:
Khoả thân trong chăn
Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên. Chỉ cần Anh gối lên đùi.
Mình ôm lấy Anh ôm mình
Biết sự bình yên của mặt đất

24


Và:
Cứ để chăn trễ nải
Biết đâu
Một tối trở về

Chồng nằm trong đó
muốn đợc tù trong đó
muốn đợc tù trong đó.
(Chân dung)
Vi Thuỳ Linh luôn ý thức rõ về cái tôi bản ngã của mình. Một cái tôi
mạnh mẽ, luôn khao khát yêu, khao khát đợc sống thành thực trong tình yêu.
Nhng đồng thời cái tôi ấy cũng luôn ý thức sâu sắc về chính mình. Điều đó đợc thể hiện trong cách đặt tên mỗi tập thơ của Linh. Không phải ngẫu nhiên
mà Linh đặt tên cho tập thơ của mình là: Khát, Linh, Đồng tử, Vi Li in love.
Đây không đơn thuần là tên của tập thơ mà nó thể hiện cái tôi cá nhân, một sự
ý thức về giá trị của mình. Vili in love là Vi Thuỳ Linh trong tình yêu. Vi
Thuỳ Linh đang yêu. Tình yêu nghệ thuật, yêu cuộc sống, những ngời thân,
thiên nhiên, loài vật, Cao Bằng, Hà Nội, Paris, những miền cha đến. Vi Thuỳ
Linh gọi mình là nàng Vi, ngời yêu là chàng Nguyễn:
Họ đâu biết
Chàng Nguyễn, nàng Vi hàng ngày vẫn cùng căn phòng
của mình lao lên trời - tên lửa.
Và ngay tên các bài thơ Vi Thuỳ Linh cũng lấy tên mình: "Linh", "Hai
miền hoa Thuỳ Linh", "Chân dung", "Sinh ngày 4 tháng 4",... Tất cả những
điều đó đều cho thấy sự ý thức về cái tôi, về giá trị của bản thân hết sức mạnh
mẽ ở Vi Thuỳ Linh.
Đặc biệt, trong thơ Vi Thuỳ Linh, bên cạnh những khao khát về tình
yêu giữa Anh và Em, còn có một khao khát hết sức bản năng và mạnh mẽ: làm
mẹ. Dù tuổi đời còn rất trẻ và cha lập gia đình nhng trong thơ Linh những

25


×