Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Chất liệu văn học trong thơ nôm nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.16 KB, 58 trang )

Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g

LỜI NÓI ĐẦU
Nguyễn Trãi là gương mặt tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam
Trung đại .Ông là tấm gương lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi.
Phần lớn những sáng tác của Nguyễn Trãi đều làm rung động tâm hồn độc
giả trong và ngoài nước ở nhiều thế hệ .Đặc biệt nhắc tới ông người ta
không thể không nhắc đến tập “Quốc âm thi tập”, một tập thơ có ý nghóa
như mở đầu cho thơ cổ điển Việt Nam .Ở Nguyễn Trãi luôn luôn có sự
sáng tạo tài tình , linh hoạt , uyễn chuyển trong từng câu thơ .
Tìm hiểu , nghiên cứu những tác phẩm của Nguyễn Trãi thực sự trở
thành điểm thu hút nhiều nhà nghiên cứu , phê bình văn học .Đi sâu vào
nghiên cứu “chất liệu văn học trong thơ Nôm Nguyễn Trãi ”,chúng tôi thấy
thiết thực, bổ ích ,thú vò .Mặc dù bản thân tác giả nghiên cứu đã cónhững
cố gắng nhất đònh nhưng vì thời gian có hạn , hạn chế từ chủ quan … Do
vậy khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót , hạn chế .Chúng tôi mong
độc giả lượng thứ …
Nhân dòp này , chúng tôi thành tâm cảm ơn TS.Phạm Tuấn Vũ –người
trực tiếp hướng dẫn tận tình .Cảm ơn các thầy cô đã trực tiếp giảng dạy ,
các bạn bè và gia đình đã có nhiều ý kiến đóng góp quý báu , những lời
đóng góp chân thành tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khoá luận
này.
Chúng tôi xin cảm tạ tất cả!
Vinh, Tháng 4/2004
Trần Thò Hằng

1




Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
A-PHẦN MỞ ĐẦU

1.Mục đích yêu cầu :

Nguyễn Trãi được đánh giá là nhà chính trò, nhà quân sự, nhà ngoại
giao, đặc biệt là một nhà văn nhà thơ, nhà văn hoá lớn của dân tộc. Ở
Nguyễn Trãi con người và trí tuệ như được chung đúc hết mọi cái hay cái
đẹp. cái chân thiện mỹ của thời đại . “Dưới con mắt sáng suốt đầy nhiệt
tình của chúng ta ngày nay , đời sống và hoạt động, tâm tư và chí hướng,
thơ và văn, tóm lại toàn bộ sự nghiệp và con người Nguyễûn Trãi sống dậy
lớn lên và hướng tới chúng ta. Đối với người và việc của lòch sử, thời gian
trôi qua dần dần làm lu mờ cái gì còn đục chưa thật trong, ngược lại làm
thêm sáng tỏ những giá trò chân chính, những cống hiến quý báu cho thời
đại và con người “(7,tr 14).
Nguyễn Trãi là ngôi sao sáng của văn học yêu nước đầu thế kỷ XV,
ông đã để lại cho chúng ta những tác phẩm văn thơ vô cùng quý giá, phản
ánh những quan điểm tiến bộ về văn học và nghệ thuật đương thời.
Kế thừa truyền thống tốt đẹp hàng nghìn năm lòch sử của dân tộc, đặc biệt
là những thành tựu văn hóa rực rỡ của thời đại Lí-Trần, Nguyễn Trãi đã có
những cống hiến to lớn vào việc phát triển nền văn hóa đại Việt lên một
bước mới.
Đó là nền văn hóa tiến bộ, yêu nước, có tính dân tộc và nhân dân sâu
sắc, có giá trò hiện thực lớn, có tính chiến đấu rất cao, thể hiện một cách

2


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
đầy đủ nhất, mạnh mẽ nhất chủ nghóa yêu nước Việt Nam trong thế kỷ
XV. Đồng thời, Nguyễn Trãi còn là người mở đầu cho nền văn học cổ điển
Việt Nam, người đã sáng tác một khối lượng lớn thơ bằng chữ Nôm. Tìm
hiểu việc sử dụng chất liệu văn học trong thơ Nôm Nguyễn Trãi góp phần
tìm hiểu lao đôïng nghệ thuật của nhà thơ.
Việc giải quyết đề tài góp phần giảng dạy tốt hơn thơ Nôm Nguyễn
Trãi trong chương trình phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Đồng thời
góp phần tìm hiểu một cách sâu sắc hơn tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng của
đại thi hào Nguyễn Trãi.
2. Lòch sử vấn đề:
2.1 Khái niệm chất liệu nghệ thuật :
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “yếu tố vật liệu, vật chất hàng đầu
và cốt yếu nhất được dùng để làm nên tác phẩn nghệ thuật, tức là thể hiện
dự đồ sáng tác của người nghệ só. Ví dụ: âm thanh (cho âm nhạc); ngôn từ
(cho văn học); màu sắc và đường nét (cho hội họa); gỗ, thạch cao, đá,
đồng….(cho điêu khắc)…. Trong quá trình sáng tác, những chất liệu này
hiện diện cùng với phẩm chất thẩm mỹ của chúng, tức là với tư cách âm
thanh âm nhạc, ngôn từ nghệ thuuật .

3



Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
Nhờ chất liệu nghệ thuật, nghệ só mới khách thể hóa được các hình
tượng đã hình thành trong tưởng tượng của mình, tạo cho chúng một cái vỏ
ngôn ngữ (ngôn ngữ nghệ thuật). Việc nghệ só lệ thuộc vào chất liệu nghệ
thuật trong sáng tạo thể hiện ở chổ anh ta không thể không tính đến những
đặc tính, những khả năng, tính quy luật vốn có ở chất liệu đượïc sử dụng.
Cũng vì vậy mà sự xuất hiện các chất liệu nghệ thuật mới, các phương tiện
kỷ thuật mới đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành những loại hình
nghệ thuật mới, ví dụ: Điện ảnh, truyền hình, nhiếp ảnh nghệ thuật (1.tr
48).“Văn học là một loại hình nghệ thuật được sáng tác bằng ngôn từ là
chất liệu thứ nhất, chủ yếu của văn học, nó khác với hội họa, điêu khắc, sân
khấu, âm nhạc…Khái niệm ngôn từ là lời nói bao gồm lời nói miệng tức là
phát ngôn nói và lời nói viết biểu hiện qua văn từ được dùng làm cơ sở để
sáng tạo văn học. Và khi nói văn học là nghệ thuật ngôn từ thực chất là nói
văn học là nghệ thuật sử dụng câu, lời văn vào mục đích nghệ thuật"(4,tr 183)
Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn học, bởi nếu không thì nhà văn
không thể tư duy nghệ thuật bên ngoài các khả năng nghệ thuật của ngôn
từ. Không thể biểu hiện được tư tưởng, tình cảm hay tất cả những sáng tạo
của mình nếu không sử dụng ngôn từ.
2.1.1. Chất liệu văn học Trung Hoa:

Nhà thơ Nguyễn Trãi sử dụng các điển cố, điển tích, các câu chuyện
xưa tích cũ, hay những câu chuyện được chép trong sách Trung Hoa để vận

4



Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
dụng vào sáng tác trong tác phẩm của mình một cách hợp lý, linh hoạt và
sâu sắc.
2.1.2. Chất liệu văn học dân gian Việt Nam
Đó là những lời ăn tiếng nói của nhân dân đúc kết những kinh nghiệm
trong cuộc sống, trong lao động qua những câu thành ngư, tục ngữ, ca dao.
2.2.2. Chất liệu văn học trong thơ Nôm Nguyễn Trãi:
Hầu như chưa được nghiên cứu một cách toàn diện.
3.Phương pháp nghiên cứu:
Chúng tôi dùng các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp …
Phương pháp (với ý nghóa phương pháp tư duy): chúng tôi nghiên cứu gắn
thơ Nôm Nguyễn Trãi với đời sống văn học Quốc âm (thơ Nôm) của dân
tộc, đặt Nguyễn Trãi trong loại hình tác giả nhà Nho.
4. Phạm vi nghiên cứu :
Chất liệu văn học trong thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi .

5


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g


B-PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I:
SỬ DỤNG CHẤT LIỆU VĂN HỌC TRUNG HOA
TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
1.Thống kê:
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi gồm 254 bài thơ. Nguyễn Trãi đã sử
dụng những chất liệu văn học Trung Hoa và văn học dân gian Việt Nam
viết nên những tác phẩm mà cho đến bây giờ, vẫn còn có ý nghóa nhân
sinh sâu sắc.
Trong 254 bài thơ ấy thì có đến hơn một 100 bài tác giả sử dụng chất
liệu văn học Trung Hoa, với những điển cố điển tích nói về các nhân vật
lòch sử đã đi vào huyền thoại như Khổng Dung, Đào Tiềm, Lý Bạch, Tô
Thức… Cũng như thơ Nôm các tác giả Trung đại, thơ Nôm Nguyễn Trãi đã
6


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
tiếp thu không ít ảnh hưởng của Hán học. Trong hàng chục thế kỷ giao lưu
văn hóa, ngôn ngữ viết, vừa giữ vững cấu trúc ngữ pháp và vốn từ vựng cơ
bản những nhân tố chính để khẳng đònh ngôn ngữ dân tộc - vừa đồng hóa
rất nhiều từ ngữ Hán vào kho từ vựng của mình. Trong sự đồng hóa này,
phải thấy công lao của nhiều tác giả thơ Nôm. Nguyễn Trãi là một trong
những người đã góp phần công lao xứng đáng, ông đã cố gắng Việt hóa
nhiều yếu tố vay mượn của Hán học.
Hãy thử nêu một số dẫn chứng tiêu biểu. Từ câu: Thiên hạ chi ưu nhi ưu,
hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc (Lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui

của thiên hạ) của Phạm Văn Chính, ông đã viết:
Ta ắt lòng bằng văn chính nữa
Vui xưa chẳng quản đeo âu
(Ngôn Chí – bài thứ 18)
Từ câu: Nho quan đa ngộ thân (cái mũ nhà Nho khiến cho tấm thân bò làm
tổ nhiều) của Đỗ Phủ, ông đã viết:
Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ phủ
Tay còn lo hái thuốc Uyên minh
(Mạn thuật – bài thứ 9)
Từ câu: Tử cố cùng (quân tử thì bền vững ngay trong lúc khốn cùng) trong
sách Luận ngữ, ông viết :

Khó bền mới phải người quân tử
7


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu
(Trần tình –bài thứ 7)
(Từ câu: Nhân giả nhạo sơn ,trí giả nhạo thủy (Bậc nhân giả vui với núi,
bậc trí giả vui với nước) trong sách Luận ngữ, ông viết :

Đạo ta cậy bởi chân non khỏe
Lòng thế tin chi mặt nước bằng
(Mạn thuật –bài thứ 4)
Từ câu: Nhân tâm chi bất đồng, kiều diệu yên (lòng người khác nhau hiện

ra ở nét mặt), Nguyễn Trãi viết :
Lòng người trên mặt ai ai khác
Sự thế bằng cờ nước bước nghèo
(Mạn thuật –bài thứ 10)
Từ khẩu ngữ Hán học: Đại ẩn, triều thò, tiểu ẩn ẩn lăng tẩu (Bậc đại ẩn thì
ẩn ngay tại nơi triều đình, thành thò đông đúc, bậc tiểu ẩn mới ẩn ở chốn
lăng tẩm hẻo lánh), Nguyễn Trãi viết:
Ẩn cả lọ chi thành thò nữa
Nào đâu là chẳng đất nhà quan
(Ngôn chí –bài thứ 17)
Từ khẩu ngữ Hán học:Bần cư trung thò vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu
khách tầm (nghèo thì dầu ở giữa chợ cũng không ai đến hỏi, giàu thì có ở
núi rừng thì cũng có khách đến tìm ). Ông viết:
8


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g

Của nhiều sơn dã đem nhau đến
Khó ở kinh thành ít kẻ han
Từ khẩu ngữ Hán học: Cùng đáo cốt hoặc bần đáo cốt (nghèo khó đến
xương), ông viết:
Càng một ngày càng ngặt đến xương
Ắt vì số mệnh ắt văn chương
(Tự thán – bài số 1)
Việc cố gắng Việt hóa những từ ngữ, kết cấu ngôn ngữ và hình tượng….

của Hán học như vậy không phải bao giờ cũng đạt đến kết quả hoàn mó,
nhưng thật là đáng quý cái dụng ý Việt hóa càng nhiều càng tốt những yếu
tố ngôn ngữ văn học và văn hóa tiếp thu từ kho văn liệu Hán học.
Tác giả đã sử dụng trực tiếp các điển cố điển tích là những chất liệu
nghệ thuật của văn học Trung Hoa một cách rất phù hợp, ý nghóa sâu sắc
như ở câu thơ:
Thương Chu bạn cũ các chưa đôi
(Ngôn chí – bài số 1)
Nguyễn Trãi gọi bạn cũ thời Thương Chu thì chỉ có thể là Y Doãn và
Chu Công. Y Doãn giúp dựng nghiệp nhà Thương, Chu Công giúp dựng
nghiệp nhà Chu , cũng như chính Nguyễn Trãi giúp dựng nghiệp nhà Lê Y Doãn và Chu Công cả hai đều làm nên sự nghiệp rồi mà còn giữ quyền
vò suốt đời, chứ không như mình, sau khi đã thành công (thû việc rồi )lại

9


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
phải lánh về để hưởng an nhàn cho nên tự xét mình chưa thể sánh với Y
Doãn và Chu Công được .
Nguyễn Trãi khiêm tốn tự cho mình chưa sánh đôi được với bạn đời xưa.
Trong bài Ngôn chí – thứ 8 tác giả viết :
…………………
Đài Tử lăng cao thu mát;
Bè Trương Khiên nhẹ khách sang.
Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi;
Hầu chất so le khóm cuối làng .

Ngâm sách thằng chài trong thû ấy,
Tiếng trào lộng khắp Thương – lang.
Trong bài thơ này Nguyễn Trãi đã sử dụng đến bốn điển tích tác giả cho
rằng với túi thơ bầu rượu chẳng quản chi xềnh xoàng và thấy khoẻ dụng
ấm áp mấy dặm trường.
Đài Tử Lăng là Nghiêm Quang tức là Nghiêm Tử Lăng là bạn học của
Lưu Tú là Hán Quang - Vũ, khi Quang Vũ thành công khôi phục nhà Hán
thì Tử Lăng đổi họ đổi tên trốn đi ở ẩn tại núi Phú - Xuân tỉnh Chiết
-Giang , thường câu cá ở sông Đồng-Giang, chổ Tử Lăng ngồi câu cá sau
gọi là đài Tử - Lăng. Bè Trương Khiên: Trương Khiên là một nhà thám
hiểm có tiếng đời Hán Vũ đế, đi khắp các nước ở phía Tây - Bắc Trung
Quốc như Nhục - Chi, Hung-Nô. Bè Trương Khiên là chỉ cái bè của người
đi phiêu liêu giang hồ. Khách sang có lẽ chỉ người sang, hiển q, chỉ
10


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
Trương Khiên hai lần phiêu liêu đi sứ các nước miền Tây - Bắc, đều được
phong tước cao.
Ngâm sách thằng chài: là Ngư phủ trong bài Ngư phủ của Khuất
Nguyên.Tiếng trào lộng tiếng hát trào lộng vang khắp sông Thương- Lang,
sông Thương-Lang là sông Hán trong bài ca Ngư phủ của Khuất Nguyên.
Nguyễn Trãi nhắc đến các điển tích điển cố trong thơ của mình khiến cho
chúng ta nhớ ngay đến những câu chuyện đời xưa, liên tưởng đến điều tác
giả muốn nói trong thơ mình.
Cả bài thơ nói về công danh sự nghiệp của mình khi không được

trọng dụng nữa, nhưng cũng chưa được về ở ẩn ở Côn Sơn mà còn phải
luẩn quẩn nơi kinh thành. Ông ví mình như Nhan Uyên học trò của Khổng
Tử ngày xưa vậy:
Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt
(Ngôn chí –bài thứ 11)
Nhan Uyên là học trò giỏi của Khổng Tư, nhà nghèo, chỉ sống bằng cơm
giỏ nước bầu thôi.
Ở bài Ngôn chí - thứ 14 viết khi Nguyễn Trãi đã ở tuổi lục tuần, lưng đã
gầy, da só, tướng lù khù, nghỉ ở chốn lâm truyền thanh vắng mong làm bạn
với Sào Hứa (Sào Phủ và Hứa Do) hai nhà cao só ở đời Đường Nghiêu, thời
thượng cổ ở Trung Quốc.Và nhàn chơi lễ nhạc đạoKhổng Chu. Khổng Chu
tức là Khổng Tử đời Xuân thu và Chu Công ở đời nhà Chu là hai vò thánh
nhân đầu tiên của đạo Nho. Họ sống trong một căn nhà cỏ để đội ơn đức

11


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
Đường Ngu; Đường Nghiêu và Ngu Thuấn, hai đời mà lòch sử truyền thống
của Trung Quốc cho là đời thái bình ở thời thái cổ. Chỉ vua thánh.
Câu:

Phần du lẽo đẽo thương quê cũ
(Ngôn chí –bài thứ 16)

Phần du là tên của Hán Cao tổ, lấy tên cây phần du mà đặt tên làng, người

đời sau dùng chữ ấy để chỉ quê hương. Nguyễn Trãi dùng điển này để nói
về cảnh sống nơi ở ẩn, với thú “thưởng mai đạp bóng trăng” nhưng vẫn
nhớ tới quê hương.
Câu :

Tường đào ngõ mận ngại thung thăng .
………………
Trì cỏ được câu ngâm gió ;
Hiên mai cầm chén hỏi trăng .
Thế cùng viên hạc trong hai ấy
(Mạn thuật- bài số 1)

Tường đào ngõ mận: Đạo lý là cây đào cây mận, dùng để ví người
hiền tài .Đòch Nhân Kiệt là tể tướng đời Đường tiến cử nhiều người hiền,
đều trở thành những danh thần, người ta khen ông rằng: ”thiên hạ đào lý
tất tại công môn”, nghóa là đạo lý trong thiên hạ ở trong nhà cửa của ông
cả. Vậy tường đào ngõ mận cũng như sân đào lý là chỉ chổ cửa quyền.

12


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g

Nguyễn Trãi về ở ẩn ngày tháng quanh quẩn an nhàn với những
cảnh vật nông thôn, nào kê khoai thường có, chẳng muốn hay đúng hơn
là ngại thung thăng đến chốn cửa quyền, uy thế. Chỉ muốn sống như

người ẩn só với thú vui bình thường, cho nên nếu thấy có ai hỏi han thì
cũng chớ có xoắn xuýt mà nói chuyện danh lợi làm gì .
Nguyễn Trãi khi đã làm quan vẫn sống cuộc đời giản dò thanh liêm
chính trực; ông nói rằng: “Người tham phú quý người hằng trọng. Ta được
thanh nhân ta sá yêu” (Người ta tham phú q. Còn ta được sự thanh nhàn
thì ta cứ yên sự thanh nhàn).
Tác giả dùng điển Đường Nghiêu: tức là vua Nghiêu họ Đào Đường. Đất
Đường Nghiêu là đất của vua, nghóa là đất nào mà chẳng đất của vua:
Nào đâu là chẳng đất Đường Nghiêu
(Mạn thuật-bài thứ 2)
Suốt cuộc đời mình, Nguyễn Trãi rất suy tư lo lắng cho dân cho nước, một
tấm lòng đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng luôn mang nặng nỗi lo nước
thương dân. Sống và làm việc với một tấm lòng trong sạch cao cả:
Linh đài sạch một dường thanh
(Mạn thuật – bài thứ 9)
Linh đài, là tâm, là lòng, chổ thiêng liêng nhất ở trong con người. Tác giả
muốn nói rằng lòng trong sạch chỉ một vẻ thanh, một lòng trong xanh như
nước vậy.

13


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
Tay còn lọ hái cúc Uyên Minh
(Mạn thuật – bài thứ 9)
Tay còn: tay ta hãy còn thì lọ là (sao lại) ở ẩn (hái cúc) như Uyên Minh

(Đào tiềm). Nhưng thế mà cứ phải hái cúc Uyên Minh: ý tại ngôn ngoại .
Câu:

Én từ nẽo lạc nhà Vương Tạ
Quạt đã bầu thu lòng tiệp dư
(Mạn thuật –bài thứ 12)

Vương Tạ: Hai họ quyền quý bậc nhất ở đời Tấn của Trung Quốc. Câu này
lấy ý ở câu bài thơ “Ô y hạng” của Lưu Vũ Tích đời Đường:
“ Tích thì vương tạ đường tiền yến, phi nhập tầm thường bách tính gia ”
(chim yến xưa kia ở nhà Vương Tạ, ngày nay bay vào nhà thường dân) ý
nói cuộc đời thay đổi.
Tiệp Dư : Hàn Thành đế vốn yêu Ban Tiệp Dư đẹp và hay chữ sau lại
yêu Triệu Phi Yến. Ban Tiệp Dư thủ phận lùi về Đông cung làm bài thơ
“Quạt lượt” ( Hoàn phiến thi )để tả tình cảnh của mình. Câu này ý nói
quạt gần đến mùa thu thì bò người ta quên, cũng như tâm sự của Ban Tiệp Dư.
Nguyễn Trãi đã đưa hai điển cố vào trong hai câu thơ trên nhằm nói
lên sự thay đổi trong cuộc đời mỗi con người . Như mình cũng thế, đang
giữ chức vụ cao trong triều đình vì tấm lòng ngay thẳng, kiên trung mà bò
nghi kỵ, ganh ghét, thậm chí đến cả vua - người từng chiến đấu sống chết
với mình - cũng nghi oan cho mình. Dù đã về ở ẩn nhưng ông vẫn còn băn
khoăn, trăn trở với cuộc đời. Nên thấy được một điều rằng cuộc đời đã
thay đổi nhiều lắm. Ý câu tiếp theo đó là mình đã hết thời được trọng dụng
14


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:


Trầ n Thò Hằ n g
rồi, cũng như cái quạt được Tiệp dư xem như sang mùa thu người ta không
dùng đến quạt nữa, Nguyễn Trãi ví với cuộc đời mình. Khi hoàn cảnh đất
nước thay đổi, xung quanh vua là một lũ cận thần luôn nònh bợ, đục khoét,
còn mình không hợp với lối sống như thế, vua chẳng còn tin dùng nữa, đã
hết thời rồi:
Cách song mai tỉnh hồn Cô dòch
Kề nước cầm đưa tiếng cửa cao
(Mạn thuật- bài thứ 13)
Nguyễn Trãi về ở ẩn và tự hào về cuộc sống ấy, ở quê cũ nhà mình chẳng
thiếu của, những thứ rau thì có trong vườn cá có trong ao. Câu “cách song
mai tỉnh hồn cô dòch” Hồn cô dòch: sách Trang Tử ,thiên “Tiêu dao du”, nói
đến thần nhân núi cô dòch, da như băng tuyết, yểu điệu như xử nữ, tượng
trưng cái đẹp trong trắng, ở đây Nguyễn Trãi ví cái cốt cách thanh khiết
của cây mai như cái tinh thần trong trắng của thần nữ núi Cô dòch. (Núi Cô
dòch ở tónh Sơn Tây Trung Quốc). Cửa cao: kinh thi bài: Hạc minh có câu:
“Hạc minh vu cửa cao, thanh văn u dã” (chim hạc kêu ở chốn đầm sâu,
tiếng nghe vang cả đồng ruộng). Chim hạc ví với người quân tử. Ý câu thơ
này là: ở kề nước chim hạc kêu vang khắp, ví như mình là người quân tử ở
ẩn, thanh giá ảnh hưởng đến cả xung quanh.
Những của ấy, cảnh ấy tác giả thấy vui thú, an nhàn chứ không vướng
bận những toan tính ở chốn quan trường, ông tự nói cảnh thanh dường ấy
sao chẳng nghỉ ngơi thanh tónh, chứ lẫn thẩn đến chốn cữa quyền làm gì ?

15


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:


Trầ n Thò Hằ n g
Bài Mạn thuật thứ 14, hầu như tác giả sử dụng nhiều chất liệu văn học
Trung Hoa. Bài thơ chỉ có tám câu mà có đến sáu câu tác giả dùng điển cố
điển tích:
Án tuyết mười thu uổng độc thư.
Kẻo còn lọt lọt chữ Tương - như.
Nước non kể khắp quê Hà Hữu;
Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử hư .
……………
Lưng khôn uốn , lộc nên từ .
Nước chẳng còn có Sở Ngư.
(Mạn thuật –bài thứ 14)
2. Nhận Xét :
Trong 254 bài thơ của “Quốc âm thi tập”, Nguyễn Trãi đã sử dụng
chất liệu văn học Trung Hoa trong 102 bài, chiếm xấp xỉ 40% số bài thơ
.Số lượng điển tích điển cố dùng trong từng bài thơ không đồng đều, có bài
dùng đến 6 điển tích, có bài lại chỉ dùng một điển tích mà thôi .
Nguyễn Trãi thường thể hiện trong bài thơ của mình, bằng chất liệu
của văn học Trung Hoa để nói về tình nhà và nợ nước: Người Việt Nam
vốn có lòng yêu nước tha thiết, có tinh thần dân chủ bình đẳng trong quan
hệ giữa người với người. Thương nước thương nha, thương người thương
mình là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Quả vậy, đã là người con
trung thành của đất Việt, có ai không mang nặng mối tình nhà nợ nước ?

16


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c


sv:

Trầ n Thò Hằ n g
Nguyễn Trãi là người con ưu tú của đất Việt, mối tình nhà nợ nước lại
càng gắn bó gấp bội.
Yêu nước thương dân là theo đạo quân thân, đạo trung hiếu đó chính
là đạo Khổng, Chu như Nguyễn Trãi thường nói:
Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng, Chu
(Ngôn chí –bài thứ 14)
Hay câu :

Lòng hãy cho bền đạo Khổng môn
(Tự thán –bài 41)

Biểu hiện cụ thể của đạo Khổng trong đời sống hàng ngày là “tam cương”
và “ngũ thường” theo lối cắt nghóa của Hán Nho. Tam cương là ba mối
giềng , tức ba mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồn. Ngũ thường là năm
phẩm chất nhân, nghóa, lễ , trí, tín. Trong khuôn khổ phương thức sản xuất
sản xuất phong kiến, tam cương, ngũ thường được coi là mẫu mực của lẽ
sống, của quan hệ gia đình, quan hệ vợ chồng Nguyễn Trãi khẳng đònh lẽ
sống theo mối “cương thường” của đạo Khổng:
Tôi ngươi một tiết bền bằng đá
Biên tóc mười phần chòu những sương.
Chữ học ngày xưa quên hết dạng ,
Chẳng quên có một chữ “cương thường.
(Tự thán –bài thứ 12)
Như chúng ta đã biết, loài người tiến đến chế đôï phong kiến là đã có
trình độ văn minh, bỏ qua các thời kỳ mông muội và man rợ. Đạo cương
17



Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
thường khắc hoạ một bước tiến đó của xã hội loài người ở phương Đông.
Điều này chứng tỏ người dân đã có ý thức về cái lẽ sống ở đời là phải đặt
cái gì lên trên để con người có sự hiểu biết đó mà sống sao cho phải đạo.
Chỉ có điều là quan hệ giữa bò trò tức là dân và giai cấp thống trò đứng đầu
là vua phải như

thêù nào là thoả đáng? Trong chiều hướng của một giai

cấp đang lên, nếu có những vua sáng, tôi hiền, cha ngay, con thảo, vợ tốt,
chồng tốt thì vẫn hợp với ý dân và dân chỉ mong được như vậy, để có một
cuộc đời yên ổn ấm no. Chỉ tiếc rằng giai cấp phong kiến nói một đằng
làm một nẻo! Chúng đã áp bức là áp bức đến tàn tệ, đã bóc lột là bóc lột
đến tận cùng! Sống trong khuôn khổ của chế độ phong kiến, Nguyễn Trãi
dù có cố gắng hết sức mình, vẫn không khắc phục được những hạn chế của
thời đại. Tất nhiên trung là trung với vua, vì vua đại diện cho nước, hiếu là
hiếu với cha, vì cha là đại diện cho nhà. Quan niệm về đạo trung hiếu của
Nguyễn Trãi là quan niệm biện chứng từ cái gốc của quyền sống con
người, chứ Nguyễn Trãi không tự khép mình vào loại “ngu trung”.
Đọc sách Khổng, Mạnh hay sách các nhà Nho về sau như Hán Nho,
Đường Nho, Tống Nho, Nguyễn Trãi biết chắt lọc cái hay, tước bỏ cái dở.
Nguyễn Trãi ca ngợi ai ? Nguyễn Trãi ca ngợi những kẻ có đức, có tài, như
Nguyễn Trãi nhắc đến Nhan Uyên năm lần trong tập Quốc âm. Ca ngợi
Nhan Uyên một học trò nghèo, hiếu học và là học trò giỏi của Khổng Tử :
Nhan Uyên thường chỉ có mo cơm, bầu nước, nhưng rất hay chữ, ít sai lầm,

nhưng rất tiếc là mới 29 tuổi mà tóc đã bạc trắng và 32 tuổi thì mất, khiến
Khổng Tử phải kêu lên :
18


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g

Trời hại ta, trời hại ta
Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt
(Ngôn chí –bài thư 11)
Lều tiện Nhan Uyên tìm tới đỗ



( Thuật hứng -bài thứ 12 )
Đúc nên Nhan Tử , tiếc chi vàng
( Tự thuật -bài thứ 6 )
Tác giả nói rằng nếu mà đúc được ngươì hiền tài như Nhan Tử, thì dù
tốn bao nhiêu vàng cũng không hề tiếc chi. Nguyễn Trãi khâm phục những
bậc tài cao đức trọng thời xưa như Y Doãn, Chu Công đã đành, Nguyễn
Trãi còn nêu tấm gương sáng đời sau, từ đời Hán như Trng Lương, Tiêu
Hà, Khổng Dung, đời Đường như Ng Trương, đặc biệt ở đời Tống như
Phạm Trọng Yêm …
Ta ắt lòng bằng, Văn Chính nữa,
Vui xưa chẳng quản đeo âu
( Ngôn chí -bài thứ 18 )

Văn Chính là hiệu của Phạm Trọng Yêm, một nhân só tiến bộ Theo
pháûi mới của nhà Bắc Tống. Trong bài ký ghi ở lầu Nhạc Dương vào năm
1026 đời Tống Nhân Tông, Phạm Trọng Yêm có nhắc lại quan niệm: Ưu
(lo) và lạc (vui) trong sách Mạnh Tư, Chương Lương Huệ vương chép
trong

rằng: Một hôm tề tuyên vương thấy Mạnh Tử chơi ở Tuyết cung liền hỏi:
19


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
“ kẻ hiền giả cũng vui ở đây sao ?”. Mạnh Tử trả lời “có chứ”… “vui với
cái vui của dân thì dân cùng vui, lo cái lo của dân thì dân cùng lo”. Vui
cũng vì mọi người, lo cũng vì mọi người … Cũng nói về nỗi lo và niềm vui
nhưng nỗi lo và niềm vui của Phạm Trọng Yêm có hơi khác: “ … Lúc còn
ngồi ở miếu đường ( tức còn làm quan) phải lo cho dân, lúc thoát ra chơi ở
sông hồ (tức là lúc đi ở ẩn) phải lo cho vua, vậy lúc tiến cũng lo, lúc thoái
cũng lo , thế thì có thì giờ đâu mà vui nữa”? Do đó mới nói rằng : “ lo trước
cái lo của mọi người và vui sau cái vui của mọi người ”. Khái niệm lo trước,
vui sau của Phạm Trọng Yên được người đời truyền tụng“ Tiên thiên hạ
chi ưu nhi ưu , hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc ”
Nguyễn Trãi không nói “ưu lạc” mà nói “ưu ái” tức ưu quốc ái dân,
hoặc ưu dân ái quốc. Tình nhà nợ nước của Nguyễn Trãi sâu nặng trên
cơ sở lòng ưu ái này. Hơn thế nữa trong con người ông còn có hoài bão lớn
lao lại gặp một hiện tượng quá phũ phàng. Xuất thân từ hai dòng họ lớn
bên nội cũng như bên ngoại, vốn có công lao trong sự nghiệp dựng nước và

giữ nước, Nguyễn Trãi ngay từ thời niên thiếu đã nuôi một hoài bão lo đời,
giúp đời. Nhưng rồi ông chứng kiến nhiều sự lục đục trong triều đình nhà
Trần có phe này, phe khác, khiến cho nhiều người thân trong gia đình mình
cũng chuốc phải cái vạ đầu rơi, máu chảy, tan tác, lưu ly …

20


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
Nhân dân thì phải chòu cảnh lầm than đói khổ, phải chòu sự áp bức, xâm
lược của giặc Minh suốt 10 năm dài gian khổ. Nguyễn Trãi đã sống và
chiến đấu vì dân, vì nước cốt lo cho “đời trò”, chứ có tiếc chi “tuổi
tàn”! Cuộc kháng chiến chống Minh thành công. Ông lại mơ ước
“cảnh ngày trường ” thanh thản. Bức tranh đất nước thanh bình mà ông
phác ra sau đây:
Rỗi, hóng mát thủơ ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu, hiên còn phun sắc đỏ,
Hồng liên, tró đã tiễn … mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dặng, dõi cầm ve lầu tòch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương .
(Bảo kính cảnh giới-bài thứ 43 )
Đúng là phong cảnh thanh bình có hoè biếc, có lựu đỏ, có sen hồng, có
tiếng chợ cá lao xao, có tiếng ve kêu dặng dõi … Với cảnh thanh bình đó

Nguyễn Trãi ước ao cho “dân giàu đủ khắp đòi phương” . Chỉ cần thiếu
một tiếng đàn vua Thuấn nữa là đủ, cuộc sống thanh nhàn, vua Thuấn gảy
khúc Nam Phong lấy làm đắc ý: “Gió nam thuận thời chừ, làm cho dân
thêm giàu có chứ !” ( Nam phong chi thời hề, khả dó phụ ngơ dân chi tài hề

21


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
! ). Trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi nhắc đến điển Nghiêu Thuấn 12
lần như :
Gian lều cỏ đội đức Đường , Ngu
( Ngôn chí -bài thứ 14 )
Ở bài thơ này tác giả sử dụng đến 3 điển tích, trong đó có một điển nhắc
đến vua Nghiêu và vua Thuấn.
Nguyễn Trãi đã quá tuổi 60, nếu tính 60 tuổi thì dư đûộ 8 – 9 tuổi. Không
còn khoẻ mạnh cường tráng nữa mà “ lưng gầy da só tướng lù khù”. Ở chốn
rừng sâu thanh vắng thì làm bạn với Sào Hứa tức là Sào Phủ và Hứa Do là
hai nhà cao só ở đời Đường Nghiêu thời thượng cổ ở Trung Quốc. Lúc nhàn
nhã với lễ nhạc Khổng Chu, vì Khổng Tử thời Xuân thu và Chu Công ở
thời nhà Chu là hai vò thánh nhân đầu tiên của đạo Nho. Có được bát cơm
xoa, cơm hẫm, thứ cơm bình thường thôi cũng do nhờ ơn của nhà nước và
sống trong gian lều cỏ đơn sơ đạm bạc để mà đội đức, nhớ ơn đức của
Đường Ngu. Đường Nghiêu và Ngu Thuấn, hai đời mà lòch sử truyền thống
của Trung Quốc cho là đời thái bình ở thời thái cổ. Chỉ vua thánh, tức là
vua giỏi và hiền từ đức độ như thánh nhân. Sống như thế nhưng chẳng có

gì để đền ơn chúa, chỉ biết dạy láng giềng với mấy kẻ só học đạo nho. Nhà
thơ nhắc điển Nghiêu Thuấn như một điển hình về đời sống nhân dân thái
bình thònh trò, một thời mà đó là điều mơ ước của chính Nguyễn Trãi .
Trong bài thơ Trần tình –Thứ 7, tác giả cũng nhắc đến Đường Ngu.
Chúng ta chưa thể khẳng đònh bài này làm khi Nguyễn Trãi bò quân Minh
giam lỏng ở Đông Quan hay là làm lúc Lê Thái Tổ ruồng bỏ sau khi bò
22


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
giam vì bò nghi có liên quan với án Trần Nguyên Hãn; nhưng cái bản lónh
của Ức Trai thì đã thấy trong thơ rồi: “Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng
phải –Góc thành Nam, lều một gian”.
Nguyễn Trãi, một con người khí phách tài hoa, chung đúc lại trong con
người mình tất cả những gì tốt đẹp nhất, một tâm hồn cao cả ưu ái, sống
ung dung tự tại, dù nỗi lo nước thương đời là điều luôn canh cánh bên lòng
người anh hùng này:
Khó bền mới phải người quân tử ,
Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu.
Nguyễn Trãi tự nhắc nhở mình như vậy. Nhưng khó bền, mạnh gắng đối
với nghòch cảnh, đối với thù đòch còn dễ hơn, vì là hướng ra bên ngoài và
rạch roiø phân biệt; đấu tranh với những kẻ quyền thế hơn mình, thậm chí
với những kẻ xuýt xoát như mình đang đắc thế mới cực hơn. Một người ở
cương vò , đòa vò quan phục hầu gặp hoàn cảnh nào mà phải nói : “chớ cậy
sang mà ép nể”; Lời chẳng phải vưỡn không nghe? Ngay thẳng đến thế là
cùng, dù có bò kẻ trên dùng quyền cao chức trọng ép mình phải nể phục,

nhưng đều không phải, không đúng thì Nguyễn Trãi nhất mực không nghe!
Một con người có quan niệm sống và lối làm việc nghiêm minh phải
đạo đến mức đáng kính đáng nể. Cả hai câu thơ mang ý nghóa trong cảnh
nghèo khổ buồn chán mà vẫn bền lòng quyết chí khẳng đònh quan niệm
sống của mình, chẳng sợ chẳng vì một thế lực, sức mạnh nào có thể lung
lay được ý chí sống kiên cường ngay thẳng của mình của người quân tử.
Đồng thời phải gắng sức trong mọi hoàn cảnh mới nên kẻ trượng phu. Mặc
23


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
cho hiện tại ,bản thân phải sống trong cảnh ẩn dật, tác giả mặc sức mà cày
ruộng, cuốc vườn –những thứ công việc của nhà nông xa lạ với chốn thành
thò xa hoa phù phiến, nhưng lại cũng có suy nghó rằng: “Tôi Đường Ngu ở
đất Đường Ngu”. Nguyễn Trãi muốn nói mình là tôi tớ của vua thì dù ở
đâu cũng là đất của vua. Ở chốn cung đình sang trọng hay ở nơi thâm sâu,
quê cũ đều là đất của vua, vẫn sống và làm việc hết mình ….. Chứ không
phải lúc được trọng dụng ăn bổng lộc của nhà vua thì ra sức vun vén góp
công sức cho triều đình, còn khi đã không còn được trọng dụng nữa, sống
cuộc đời ẩn dật, tìm thú vui nơi yên tónh thanh nhàn, sống theo lối an phận,
thì chẳng để ý gì đến công việc hay mọi đổi thay của đất nước nữa ...
Điển:

Khó miễn vui, chăng thưở trách.
Vì chưng đời có chúa Đường Ngu
(Thuật hứng-bài thứ 13)


câu thơ cũng nói về sự nghèo khó nhưng miễn sao vui vẻ an nhàn vui đạo.
Mình không có điều gì trách cả bởi vì ở đời vẫn có minh chúa như vua
Nghiêu(Đường ) và vua Thuấn (Ngu).Trong bài “Tự thán –số 4) Nguyễn
Trãi cũng nhắc đến điển Nghiêu Thuấn, và thể hiện cái lối sống ngay
thẳng ưa sự giản dò thanh nhàn. Tác giả viết :
Non nước cùng ta đã có duyên.
Nghóa là mình sinh ra đã có duyên với non nước, sống, chiến đấu cho sự
thanh bình an nguy của non nước. Đất nước có chiến tranh thì bản thân
chẳng thể dững dưng, chẳng thể bỏ mặc mà phải ra sức đấu trí đấu lực với
24


Luận văn tố t nghiệp cử nhân vă n họ c

sv:

Trầ n Thò Hằ n g
kẻ đòch để dành về cho đất nước nhân dân sự yên ổn thanh bình. Trong
Quốc âm thi tập tác giả nhắc đến hai chữ thanh bình, thái bình rất nhiều
lần ,không phải là điều ngẫu nhiên.Và bản thân ông khi đã cùng vua dẹp
loạn xong dành lại sự độc lập cho nhân dân, ông tự dặn lòng rằng: “Được
nhàn xá dưỡng tính tự nhiên”. (Được sự nhàn hạ, thong dong thì nên tu
dưỡng tính tự nhiên, vốn có của mình). Lòng không mắc vào sự tham lam,
toan tính đã là thứ của quý báu lắm rồi. Bởi sống thanh thản yên vui chẳng
phải toan tính, chẳng phải vướng mắc vào một thứ dục vọng nào thì bản
thân sẽ khoẻ mạnh, sống vui tươi yêu đời yêu người rồi. Còn cần chi thứ
của cải phù phiến xa hoa trên đời nữa? phải chăng vì sống như thế mà Ức
Trai tiên sinh cho rằng người sống ở đời mà đưa mình thoát khỏi sự phiền
lụy thân sẽ thanh nhàn thư thái như tiên vậy? Và điều vui sướng hơn nữa

đó là có vua Nghiên Thuấn, tức vua thánh, thì cũng có dân cả đời thònh trò,
nghóa là dân được sung sướng cả. Thế thì ta được phỉ nguyện rồi, tức là
nhân dân được ấm no hạnh phúc dưới triều như thời vua Nghêu Thuấn thì
Nguyễn Trãi đã thoả ước nguyện bấy lâu, cái điều ước ao luôn thôi thúc
trong lòng người anh hùng lo nước thương dân này !
Hay nói đến cảnh vinh hoa nhiều thì thấy khách khứa nhiều,“đăm
chiêu”, khách bên tả bên hữu, cũng như bên trái bên phải, “chân đăm đá
chân chiêu”. Khi nghèo khổ bần tiện thì ai là kẻ trọng người yêu? Chỉ thấy
của từ nơi xa đem đến là quý giá, do người ta đều có tâm lý tham thanh
chuộng lạ. Còn người mà rời quê cũ, chốn yên bình đầm ấm thì thành kẻ
sống xiêu dạt. Cũng giống như câu “ khỏi nhà ra thất nghiệp”. Và ai đã
25


×