BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------
HỒ THỊ BÍCH NGỌC
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG TẤP KINH TẾ, KỸ THUẬT, CÔNG
NGHỆ VIỆT ANH (NGHỆ AN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn
giáo dục chính trị
Vinh, 2010
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
3
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4
4.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
5
5.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5
6.
Những đóng góp của luận văn
6
7.
Cấu trúc của luận văn
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀO QUÁ TRÌNH
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH CÁC
7
TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
1.1.
Khái luận chung về đạo đức và giáo dục đạo đức
7
1.2.
Nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
22
Minh
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ
BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG CẤP
44
KINH TẾ KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ VIỆT ANH
(NGHỆ AN) TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.
Thực trạng vấn đề đạo đức của học sinh các trường
2.2.
Trung cấp chuyên nghiệp
Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức cho học sinh Trường Trung cấp KT, KT, CN
44
64
Việt Anh (Nghệ An) hiện nay
86
KẾT LUẬN
2
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ, đặc
biệt là học sinh (HS), sinh viên (SV) trở thành những con người cách mạng
chân chính. Người luôn đánh giá cao vị trí và tầm quan trọng của họ trong sự
nghiệp cách mạng, tương lai của dân tộc, bởi trong mọi công việc, thanh niên
luôn hăng hái, xung phong và họ xứng đáng là cánh tay phải đắc lực của Đảng.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhân ngày khai giảng đầu tiên của năm học
mới tháng 9/1946, trong thư gửi thanh niên, HS toàn quốc, Người căn dặn:
“Non sông Việt Nam có trở nên đẹp tươi hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quang để sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn vào công học tập của các cháu” [24; 33].
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức của Người có
tầm quan trọng đặc biệt, bởi chính Người đã đề ra và thực hiện một cuộc cách
mạng trên lĩnh vực đạo đức. Người luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo
đức cho các thế hệ thanh niên Việt Nam nói chung, HS Trung cấp chuyên
nghiệp (TCCN) nói riêng, nhằm giúp họ trở thành những người công dân tốt,
cán bộ tốt của nhà nước. Đến cuối đời, trong bản “Di chúc” thiêng liêng để lại
cho toàn dân tộc, Người vẫn dành một phần trang trọng để bàn về đạo đức
cách mạng và vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, đào tạo họ
trở thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên” để có thể kế thừa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên
chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện cả về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hoá, thể chất và tri thức; Đồng thời tạo mọi
điều kiện để thanh niên có việc làm, phát huy tài năng, đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ vậy, qua các thời kỳ cách
mạng, thế hệ trẻ luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có tinh thần yêu
4
nước, hăng hái xung phong, không quản ngại khó khăn gian khổ, hy sinh, kế
tục và phát huy truyền thống của các thế hệ đi trước. Ngày nay, HS, SV đã và
đang hăng hái đi đầu trong các phong trào thi đua sôi nổi như phong trào
“Học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “SV tình nguyện”…
Với tinh thần, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng đi tới những nơi khó khăn gian
khổ phấn đấu, rèn luyện để trưởng thành.
Mặc dù vậy, tình trạng thanh niên nói chung, HS các trường TCCN nói
riêng vi phạm về phẩm chất đạo đức vẫn còn diễn ra và diễn biến khá phức
tạp. Sở dĩ như vậy là do các nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Với tác động nhiều mặt của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự du nhập của nền văn hóa
phương Tây đã có những tác động tiêu cực và làm cho các chuẩn mực đạo
đức xã hội nói chung và đạo đức trong nhà trường nói riêng xuống cấp.
Thứ hai, Sự hình thành các giá trị đạo đức mới hiện nay đối với HS phụ
thuộc nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến những đặc trưng của tuổi thanh niên.
HS các trường TCCN thông thường có độ tuổi từ 18 - 25, ở độ tuổi này họ có
nhiều mặt tích cực song cũng có nhiều hạn chế. Mặt tích cực của họ đó là
lòng nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho được những hoài bão của bản thân,
chân thành, cởi mở trong suy nghĩ và việc làm, dám chấp nhận gian khổ và hy
sinh… Tuy nhiên, họ cũng dễ bồng bột chủ quan, hấp tấp vội vàng, nhẹ dạ cả
tin, gặp khó khăn dễ hoang mang, dao động, dễ bị kích động, thiếu chủ động
do kinh nghiệm sống còn hạn chế…
Hơn nữa, yêu cầu của thời đại đòi hỏi các quốc gia phải phát triển đồng
bộ, toàn diện, phải đào tạo người lao động không chỉ có kiến thức sâu về
chuyên môn mà còn cần phải có cuộc sống văn hoá lành mạnh, có lập trường
kiên định. Trong bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên trại hè cấp I
vào ngày 12 tháng 6 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định con
5
người phải có tài và đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước.
Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai nhưng
cũng không giúp ích gì được ai.
Hiện nay, vấn đề giáo dục và rèn luyện phẩm chất đạo đức cho thế hệ
trẻ trong các trường TCCN nói chung và Trường Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật,
Công nghệ (KT, KT, CN) Việt Anh (Nghệ An) nói riêng đã được quan tâm,
tuy nhiên kết quả đạt được vẫn còn hạn chế và nhiều vấn đề đặt ra. Để góp
phần khắc phục những hạn chế đó, tạo ra những chuyển biến trong việc giáo
dục đạo đức cho HS các trường TCCN, tôi đã lựa chọn đề tài: “Vận dụng tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh
Trường Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công nghệ Việt Anh (Nghệ An)”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên là một lĩnh vực đã có
nhiều nhà khoa học, với nhiều công trình, bài viết đề cập đến. Theo chúng tôi,
các công trình có thể chia làm hai nhóm sau:
Nhóm thứ nhất, để cụ thể hoá vấn đề giáo dục đạo đức cho HS trong
các trường Đại học (ĐH), Cao đẳng (CĐ) và TCCN, thời gian qua đã có
những nghiên cứu về thực trạng của vấn đề này, từ đó tìm ra các giải pháp để
nâng cao chất lượng. Đó là các công trình: Nguyễn Đông Anh (2002), “Đổi
mới nội dung và phương pháp đánh giá kết quả rèn luyện phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống của SV và HS ở các trường ĐH và Trung học chuyên
nghiệp hiện nay”, Tạp chí Phát triển Giáo dục, số 3, tháng 5 - 6; Nguyễn
Quốc Anh (1999), “Công tác giáo dục đạo đức, chính trị cho HS, SV”, Tạp
chí Cộng sản, số 2; Lê Hữu Ái và Lê Thị Tuyết Ba, “Các nội dung và hình
thức giáo dục đạo đức cho SV ĐH Đà Nẵng hiện nay”; Đoàn Minh Duệ
(1997), “Tình hình tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của SV các trường
ĐH, CĐ các tỉnh phía Bắc Miền trung hiện nay”; Bùi Minh Hiển (1996),
6
“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho SV ĐH
Quốc gia Hà Nội”… Các công trình tiếp cận từ các góc độ khác nhau, nghiên
cứu về vị trí, tầm quan trọng của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà sinh thời Người đã luôn quan tâm giáo dục,
đào tạo họ thành những công dân tốt, cán bộ tốt, góp phần to lớn cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Nhóm thứ hai, gồm các công trình mang tính chất hệ thống, tìm hiểu,
nghiên cứu quá trình hình thành, những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục thanh niên, cả về mặt lý luận và thực tiễn: Đoàn Nam Đàn
(2008), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên”, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng Tuyên (2009), “Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ
trẻ cho cách mạng theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo
dục, số 222 kỳ 2 tháng 9; TS Trần Quy Nhơn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, Nxb Giáo dục, Hà Nội…
Có thể thấy, vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ đã được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu, và là vấn đề quan tâm thường xuyên của các
trường học - cái nôi giáo dục đạo đức, lối sống của mỗi con người. Cho tới
nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên, trong
đó có HS, SV. Nhìn chung các tác giả đều đưa ra thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp khá phong phú. Nhưng nghiên cứu vấn đề này vào thực tế ở Trường
Trung cấp KT, KT, CN Việt Anh (Nghệ An) thì chưa được tác giả nào đề cập
đến. Vì vậy, chúng tôi tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của việc giáo
dục đạo đức cho HS và đề ra một số giải pháp phù hợp với thực tế nhằm
mang lại hiệu quả giáo dục cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cụ thể của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, đề tài góp phần khẳng định sự cần thiết và những giải pháp cơ bản
7
nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh trung cấp chuyên nghiệp, mà trước hết là
tại Trường Trung cấp KT, KT, CN Việt Anh, theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết các nội dung chủ yếu sau:
- Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, trên cơ sở đó làm rõ nội
dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho HS TCCN.
- Điều tra, phỏng vấn, khảo sát thực trạng về công tác giáo dục đạo đức
cho HS ở Trường Trung cấp KT, KT, CN Việt Anh (Nghệ An).
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho cho HS ở Trường Trung cấp KT, KT, CN Việt Anh (Nghệ An)
hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi Trường Trung cấp
KT, KT, CN Việt Anh (Nghệ An).
- Đề tài được triển khai trong giới hạn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào việc giáo dục đạo đức cho HS ở Trường Trung cấp KT, KT, CN Việt Anh
(Nghệ An).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta về giáo dục con người; Lý luận về tâm lý học, Giáo
dục học, Lý luận phương pháp giáo dục đạo đức của các nhà khoa học trong
và ngoài nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức;
Vận dụng các kết quả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
8
cho thanh niên; Tìm hiểu và quán triệt chủ trương, đường lối về giáo dục đạo
đức cho thế hệ trẻ của Đảng và Nhà nước.
- Nghiên cứu thực tế: Điều tra, khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức
cho HS Trường Trung cấp KT, KT, CN Việt Anh (Nghệ An).
- Bước đầu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho HS TCCN.
6. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở tập hợp, phân tích những tài liệu thu thập được, đề tài nhằm
giới thiệu những nội dung chủ yếu Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Phân tích khái quát những đặc điểm về thực trạng giáo dục đạo đức
trong nhà trường hiện nay, đồng thời phân tích những nguyên nhân cơ bản và
đề xuất phương hướng khắc phục thực trạng nêu trên, làm cơ sở cho việc xây
dựng phương hướng giáo dục đạo đức đang triển khai ở các trường TCCN nói
chung và Trường Trung cấp KT, KT, CN Việt Anh (Nghệ An) nói riêng.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các bạn HS, SV và
học viên cao học học tập và nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn trình bày
trong 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vào quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh các Trường Trung cấp
chuyên nghiệp.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh Trường Trung cấp Kinh tế, Kỹ
thuật, Công nghệ Việt Anh (Nghệ An) trong giai đoạn hiện nay.
9
B. NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA
HỒ CHÍ MINH VÀO QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
1.1. Khái luận chung về đạo đức và giáo dục đạo đức:
1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc, bản chất và vai trò của đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một phạm trù rất rộng, nhưng lại rất cụ thể. Trong cuộc
sống hàng ngày, chúng ta thường nhắc đến cụm từ đạo đức với nhiều phương
diện: đạo đức gia đình, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề
nghiệp… nói rộng ra là đạo đức của cả một dân tộc. Tuy nhiên khi sử dụng
cụm từ này, không nhiều người quan tâm đến nội hàm của khái niệm. Vậy
đạo đức là gì?
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức học đã xuất hiện cách đây hơn 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn
Độ, Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là Mos (moris) - lề thói
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Trong tiếng Hy Lạp,
đạo đức được xem như đồng nhất với “luân lý học” và được bắt nguồn từ chữ
Ethicos, nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến đạo đức tức là nói
đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và
người trong sự giao tiếp hàng ngày với nhau.
Ở Phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại bắt nguồn từ cách hiểu về Đạo của họ. Đạo là một trong những phạm trù
quan trọng của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường,
10
đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở. Về sau Đạo được vận dụng trong triết
học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn là con đường sống của con người
trong xã hội, là năng lực phổ biến điều hành mọi sự vận động và biến hóa
không ngừng của vạn vật và sự việc quanh ta. Đạo trong Kinh Dịch đặt trên
nền tảng thiên kinh địa nghĩa: trật tự xã hội phản ánh trật tự vũ trụ. Không có
một đấng tối cao nào có thể tùy tiện ban phúc giáng họa mà chỉ còn các
nguyên lý vô ngã Âm - Dương, ngã = tôi, vô ngã = không có cái tôi, mà theo
ngôn ngữ hiện đại được hiểu là quy luật khách quan. Nói một cách khác, theo
ngôn ngữ của chúng ta ngày nay thì Đạo là quy luật xảy ra xung quanh ta,
không tùy thuộc vào ý nguyện cá nhân của bất cứ ai.
Khái niệm Đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh văn thời nhà Chu và
từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Theo Khổng
Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo tư tưởng của Lão tử thì tu thân tới
mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức. Đức là hiểu Đạo.
Đức là mức độ tập trung của Đạo ở một con người. Nói theo ngôn từ ngày
nay, Đức là trình độ năng lực nắm vững và vận dụng quy luật. Trình độ cao
bao nhiêu thì Đức dày bấy nhiêu. Thánh nhân là người có Đức. Theo cách
hiểu ngày nay thánh nhân đơn giản chỉ là "người có trình độ" nắm vững được
sự vận động khách quan của quy luật, kể cả quy luật tự nhiên lẫn quy luật xã
hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính. Nhìn chung Đức là biểu hiện
của Đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của
người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc
sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như
tương lai, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội. Hay nói cách khác, đạo đức là một dạng ý thức xã
11
hội gồm những nguyên tắc, chuẩn mực giá trị được xã hội thừa nhận, có tác
dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ xã hội, gia
đình, tập thể. Ý thức đạo đức tạo cho con người quan niệm đúng về cái thiện
và ác, cái xấu và tốt, lương tâm và trách nhiệm; để có ứng xử đúng với mình,
với người khác, với tập thể và xã hội. Đạo đức là nền tảng tinh thần xã hội,
góp phần quan trọng ổn định và phát triển xã hội. Xã hội càng phát triển, vai
trò của đạo đức càng quan trọng. Đạo đức được xem là khái niệm luân thường
đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt - xấu, đúng - sai, được sử dụng
trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng
phạt, đôi lúc còn được gọi là giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo,
chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử
từ hệ thống này. Có nhiều dạng đạo đức: đạo đức công dân, đạo đức tôn giáo,
gia đình, xã hội…Trong sự nghiệp cách mạng, đạo đức là nền tảng, là “cái
gốc của người cách mạng”.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của
các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thuỷ, đạo đức của chế độ
chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của
giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; Trái lại,
giai cấp bị bóc lột tuỳ theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy
mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng
có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng
xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng
chung. Theo V.I.Lênin thì tính kế thừa của đạo đức phản ánh những luật lệ
đơn giản và cơ bản của bất kì cộng đồng người nào. Đó là những yêu cầu đạo
đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với
người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản
bội... và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn...
12
Ph. Ăngghen đánh giá rằng đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về
tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại và điều đó không ai có thể nghi
ngờ được. Quan hệ giữa người với người ngày càng mang tính nhân đạo cao
hơn. Ngay trong xã hội nguyên thuỷ đã có những hình thức đơn giản của sự
tương trợ và không còn tục ăn thịt người. Với sự xuất hiện của liên minh bộ
lạc và nhà nước, tục báo thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc
giết nô lệ là việc riêng của chủ nô. Đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô
bị lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo
và quý tộc; Đạo đức tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. Nhưng
theo Ph. Ăngghen thì chúng ta vẫn chưa vượt được khuôn khổ của đạo đức
giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập
giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ có thể có được khi nào xã hội đã
đạt tới một trình độ mà trong thực tiễn của đời sống, người ta không những
thắng được mà còn quên đi sự đối lập giai cấp. Đó là trình độ của xã hội
tương lai, xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Trước C. Mác và Ph. Ănghen, các nhà triết học (kể cả duy tâm và duy
vật) đều rơi vào quan điểm duy tâm khi xem xét đến vấn đề xã hội và đạo
đức. Họ không thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận
động của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Khác với các quan điểm trên,
C. Mác và Ph. Ănghen đã từng chứng minh rằng, trước khi sáng lập các quan
điểm tư tưởng, lý luận, con người đã hoạt động thực tiễn, tức là đã sản xuất ra
các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Toàn bộ tư tưởng thể hiện trong
các hình thái ý thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội đó. Ý thức xã hội của con người là sự phản ánh tồn
tại xã hội của họ. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh những mặt
khác nhau của đời sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là một hình thái ý thức
xã hội phản ánh sự tồn tại xã hội dưới dạng các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn
mực nhằm điều chỉnh hành vi của con người.
13
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể hiểu khái
niệm đạo đức như sau:
Đạo đức là phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá
cách ứng xử của con người trong các mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân và xã hội.
Như vậy, đạo đức không phải có sẵn ở đâu đó, nó được hình thành từ
khi có xã hội loài người và tồn tại vĩnh viễn cùng loài người. Tuy nhiên, hệ
thống các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức lại có tính lịch sử vì với
tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội,
mà tồn tại xã hội lại không bất biến. Hình thái ý thức xã hội đạo đức giúp con
người điều chỉnh hành vi của mình, hướng con người tới cái tốt, cái thiện.
1.1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của đạo đức
Đạo đức là một phạm trù của hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất
sớm trong lịch sử, nó được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm.
Trong lịch sử, đã có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và bản chất
của đạo đức, tiêu biểu là một số quan điểm cơ bản sau đây:
* Quan điểm của tôn giáo:
Trong giáo lý của các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi
giáo đều đề cập đến tính thiện. Điều đó khiến một số nhà tôn giáo hoặc ngộ
nhận hoặc cố tình kết luận đạo đức có nguồn gốc từ tôn giáo và đạo đức mang
bản chất tôn giáo. Họ cho rằng, mọi ân đức đều do Trời, do Chúa, do Thần
thánh đem đến và ban phát cho loài người. Thiên chúa giáo cho rằng, Thượng
đế là đấng tối cao có trách nhiệm ban phát phước lành và cứu rỗi cho ngoài
người mà mỗi người có bổn phận chấp hành nghĩa vụ trước Thượng đế. Phật
giáo thì cho rằng, có một thế giới thần tiên đối với con người, đó là cõi “Niết
bàn”. Sai lầm của các quan điểm tôn giáo là đã đồng nhất đạo đức với tôn
giáo. Thực ra, đạo đức và tôn giáo cùng đề cập đến tính thiện, nhưng đạo đức
14
khác về bản chất so với tôn giáo. Mỗi quan niệm đạo đức đều xuất phát từ đời
sống hiện thực đều có giá trị thực tiễn đối với đời sống con người. Còn tôn
giáo là một thế giới do con người tưởng tượng ra, là thế giới của hư ảo.
* Quan điểm tự nhiên:
Những người theo quan điểm tự nhiên cho rằng, nguồn gốc của đạo đức
có từ bản năng động vật. Động vật cũng có những hoạt động sinh con, nuôi
con, cho con ăn, bảo vệ con. Loài sinh vật sinh sống và có quan hệ với nhau
một cách tự nhiên. Xu hướng của loài vật là loài mạnh thắng loài yếu, vì
chúng hành động theo bản năng của nó. Do vậy có người cho rằng loài người
cũng là một sinh vật nên không tránh khỏi có xu hướng tự nhiên vốn có này.
Từ đó họ kết luận, chủ nghĩa cá nhân, đạo đức vị kỷ là bản chất vĩnh viễn của
con người. Con người trước hết phải sống vì cái tôi, cho cái tôi.
Quan niệm trên đây là sai lầm, các loại sinh vật chưa bao giờ ý thức
được về nó. Mọi hoạt động của loài vật hoàn toàn chỉ dựa vào tính bản năng.
Điều này được C. Mác chỉ rõ: một người kiến trúc sư dù tồi nhất, vẫn hành
động khác về chất so với những con ong khéo léo nhất. Do đó, không thể lấy
loài vật ra để so sánh với loài người. Bản chất nổi bật nhất của con người
không phải ở bản chất tự nhiên. Cái tạo nên con người, làm cho con người
khác hoàn toàn loài vật chính là từ bản chất xã hội. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội.
* Quan điểm xã hội:
Những người theo quan điểm xã hội cho rằng, cơ sở nguồn gốc đạo đức
là từ đời sống xã hội, nhưng khi giải thích về bản chất đạo đức họ lại gắn
những suy nghĩ chủ quan vào đó. Họ coi đạo đức là những quy ước chung, có
tính chất chủ quan xã hội. Những chuẩn mực đạo đức hiện tồn tại trong xã hội
là do chủ quan con người đặt ra, thành những tôn ti trật tự xã hội. Mỗi người
phải có nghĩa vụ, suy nghĩ và hành động theo những khuôn mẫu đó, nếu làm
trái sẽ bị đánh giá là vô đạo đức.
15
Có thể nói, tất cả các quan điểm trên đều chưa giải thích một cách đầy
đủ và khoa học về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Họ không thấy được
cơ sở cho đạo đức ra đời, đó chính là hiện thực xã hội, họ xoá nhoà bản chất
giai cấp của đạo đức. Những học thuyết đó đều nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị trong xã hội.
* Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin:
Khác với những quan điểm trên, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải thích
một cách khoa học về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng, đạo đức là một phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội, xuất
hiện từ rất sớm trong lịch sử, nó mang tính lịch sử. Chính con người bằng
hoạt động thực tiễn, mà trước hết là lao động sản xuất, và hoạt động xã hội,
đồng thời qua kinh nghiệm lịch sử của mình đã xây dựng nên những chuẩn
mực đạo đức, nhằm điều chỉnh hành vi trong mối quan hệ giữa người và
người, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội.
Bản chất của đạo đức không phải là một cái gì có sẵn hoặc tiên định.
Nếu không có con người và xã hội loài người thì chẳng có đạo đức nào cả.
Đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa người và người về cái thiện và cái ác.
Tuy nhiên, quan niệm về thiện, ác cũng có tính lịch sử. Đạo đức là hiện tượng
xã hội có tính người sâu sắc nhất. Nó có tính phổ biến và đa dạng vì nó có
mặt trong tất cả các mối quan hệ xã hội và trong các lĩnh vực hoạt động của
con người. Đạo đức bị chi phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử. Mặt
khác, đạo đức còn bao hàm cảm xúc, trách nhiệm của con người trước hoàn
cảnh sống, trước đồng loại. Do đó, đạo đức là sản phẩm tổng hợp của những
yếu tố khách quan và những nhân tố chủ quan. Mặt khách quan là những hiện
thực được phản ánh vào ý thức đạo đức. Mặt chủ quan là những nỗ lực vươn
tới của con người nhằm đạt tới những giá trị đạo đức đích thực.
Nói cách khác, bản chất của đạo đức không phải bất biến, đạo đức luôn
biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Trong xã hội có giai cấp, bản
16
chất của đạo đức luôn mang tính giai cấp. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”,
Ph. Ănghen khẳng định “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [10;
137]
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một hình thái ý thức đạo đức
tương ứng. Từ đạo đức của xã hội nguyên thủy đến đạo đức của xã hội chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản chủ nghĩa, đó là những nấc thang
đánh dấu sự tiến bộ về mặt đạo đức của lịch sử loài người. Quá trình phát
triển đạo đức là một quá trình phủ định biện chứng, một mặt các hình thái sau
kế thừa các hình thái trước, mặt khác bản thân nó tự biến đổi để phù hợp với
tồn tại xã hội tương ứng. Quy luật của sự biến đổi bao giờ cũng theo xu
hướng tiến bộ và sáng tạo ra những giá trị mới. Nguyên nhân sâu xa là do lực
lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển và hoàn thiện. Nhưng cũng phải
thấy rằng, nếu con người không tự cố gắng biến đổi mình cho phù hợp với
yêu cầu cuộc sống thì ý thức và quan niệm cũ về đạo đức sẽ trở thành vật cản
đối với sự phát triển xã hội.
1.1.1.3. Chức năng và vai trò của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội
a. Chức năng của đạo đức
* Chức năng giáo dục
Con người muốn làm được điều thiện, tránh được điều ác, muốn cho
những hành vi của mình được xã hội chấp nhận, không bị dư luận xã hội lên
án thì họ phải nắm được những quan điểm, chuẩn mực đạo đức cơ bản. Chẳng
hạn, nguyên tắc sống của con người phải trung thực, thật thà. Nhìn vào
nguyên tắc này, mỗi người phải tự giác tuân theo, hoặc ai vi phạm, như ăn
cắp, nói dối sẽ bị dư luận phê phán. Vì vậy, chức năng giáo dục của đạo đức
đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách con người.
Cùng với quá trình giáo dục thì quá trình tự giáo dục sẽ giúp con người
càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, nghĩa vụ, danh dự và những phẩm
17
chất đạo đức cần thiết của cá nhân mình đối với đời sống của cộng đồng. Nhờ
có chức năng giáo dục và tự giáo dục, con người học tập được những tấm
gương đạo đức cao cả, xả thân làm việc nghĩa, hy sinh quên mình cho đất
nước, kiên cường đấu tranh cho pháp lý…Chính vì vậy, làm cho xã hội ngày
càng công bằng, văn minh, tiến bộ.
* Chức năng điều chỉnh hành vi
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức có tác dụng làm cho hoạt
động của con người phù hợp với các chuẩn mực của cộng đồng, với lợi ích
của xã hội. Nếu như pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh
cưỡng bức của nhà nước thông qua các đạo luật, thì đạo đức điều chỉnh hành
vi của con người, qua đó điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh của dư
luận xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống và sự kiểm soát của lương tâm.
Trong cuộc sống hiện thực, con người có rất nhiều mối quan hệ đa
dạng, phức tạp đòi hỏi phải giải quyết, nhất là các mối quan hệ có liên quan
đến lợi ích. Chúng luôn có những mâu thuẫn giằng xé nhau buộc chủ thể đạo
đức phải đấu tranh với chính bản thân, nhiều lúc vô cùng quyết liệt. Những
mối quan hệ này lại nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Vì thế, nếu
không dựa vào hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của
xã hội thì cá nhân không thể lựa chọn, cân nhắc, điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp. Bản chất của sự điều chỉnh hành vi là quá trình đấu tranh chiến
thắng của cái thiện với cái ác, của cái tốt với cái xấu, của lương tâm với cái vô
lương tâm. Như vậy, chức năng giáo dục và chức năng điều chỉnh hành vi của
đạo đức luôn gắn liền với nhau trong đời sống đạo đức.
* Chức năng nhận thức
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận
thức thông qua phản ánh tồn tại xã hội. Các quan điểm, chuẩn mực đạo đức
chính là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức phù hợp với yêu cầu phát triển của
xã hội. Vì vậy, nó được con người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành
18
những khuôn mẫu về mặt đạo đức để con người căn cứ vào đó mà tự xem xét,
tự đánh giá và điều chỉnh bản thân.
b. Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội
Cách đây hàng nghìn năm, vai trò của đạo đức đối với xã hội đã được
các nhà xã hội học xem xét và bàn luận tới.
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (thế kỷ VI tr CN) đã khuyên
học trò “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ông mong muốn xã hội phát triển bình
ổn, gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Mạnh Tử rất đề cao
đạo đức đến mức ông đề xuất quản lý xã hội bằng đức trị. Trong xã hội Ấn
Độ cổ đại, học thuyết của Đạo Phật do Thích Ca Mâu Ni sáng lập đã đề cập
đến nhiều vấn đề về đạo đức. Cái cốt lõi nhất của hệ thống đạo đức Phật giáo
là khuyên con người sống thiện, biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, tránh
điều ác. Trong xã hội Hi Lạp - La Mã cổ đại, đặc trưng cơ bản nhất về giáo
dục con người được thông qua những truyền thuyết, các sử thi nhằm đề cao
những giá trị đạo đức. Đó là nữ thần Atina xinh đẹp như mặt trăng, đầy tình
nhân ái đối với con người. Hình tượng thần Dớt có tài - đức vẹn toàn. Ôđixê
là bản trường ca bất hủ, một biểu tượng cao đẹp về tính trung thực, lòng dũng
cảm, sự trong sáng trong tình bạn, tình yêu….Tất cả những hình tượng đó đều
là những phẩm giá đạo đức tốt đẹp của con người.
Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức được các nhà nghiên cứu xã hội đặt ra rất
sớm. Đặc biệt trong các truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, nhân dân ta đã đề cao
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức giúp con người hướng tới
những điều tốt đẹp. Truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Trạng Quỳnh đều
giáo dục con người hướng thiện và có nhân cách cao đẹp trong cuộc sống.
Vấn đề đặt ra là tại sao con người lại sớm quan tâm đến đạo đức? Bởi
vì đạo đức có một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội:
Thứ nhất, đạo đức là nhu cầu khách quan của đời sống xã hội. Trong
đời sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải
19
quyết nhằm đảm bảo cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống
trong xã hội, ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra những
con đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của
mình với lợi ích cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của
chính mình và cộng đồng.
Thứ hai, đạo đức có vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự, bình ổn
và phát triển xã hội. Xã hội phát triển nhanh hay chậm, tiến bộ hay trì trệ, suy
cho cùng là do tính tự nguyện, tự giác của con người, đồng thời do mức độ
con người nhận thức được quy luật và hành động phù hợp theo quy luật.
Chính đạo đức đóng vai trò quan trọng để tạo dựng nên cuộc sống tốt đẹp cho
xã hội và giúp con người hoàn thiện nhân cách. Từ khi con người và xã hội
loài người xuất hiện, đạo đức cũng hình thành và tham gia vào quá trình điều
chỉnh ý thức cũng như hành vi của con người. Cùng với pháp luật, đạo đức
góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh thái độ, hành vi con người, qua đó
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặc dù pháp luật thì chặt chẽ, chính xác, ghi
thành văn, có tính bắt buộc và khung hình phạt có nhiều nấc, nhưng lại không
trừng phạt được từ trong ý nghĩ (ý nghĩ phạm tội). Trong khi đó, đạo đức
mang nặng tính khuyên nhủ, khung hình phạt không có các nâng trung gian,
chỉ có thiện và ác, tốt và xấu, nhưng nó lại có thể trừng phạt người ta ngay từ
trong suy nghĩ (ý nghĩ xấu) nhờ phán xử của lương tâm. Đó chính là nét đặc
thù của đạo đức. Tạo nên sức mạnh to lớn của đạo đức trong đời sống xã hội.
Thứ ba, đạo đức có tác dụng cảm hoá con người, giúp con người nhận
thức và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và
người. Đồng thời, đạo đức giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, gìn giữ
phẩm giá, làm thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp, những phẩm
chất cao quý, đó là lòng nhân ái, vị tha, tính trung thực, thẳng thắn… Đạo đức
như một động lực thôi thúc con người đấu tranh chống lại những cái ác, cái
20
xấu và phát huy những cái tốt, cái thiện. Nói cách khác, đạo đức luôn hướng
con người tới cái chân, thiện, mỹ.
Như vậy, đạo đức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
Xã hội loài người càng tiến lên thì vai trò của đạo đức cũng tăng lên, có thể đạo
đức sẽ nắm vai trò điều khiển xã hội, thay thế chức năng quản lý con người của
pháp luật. Khi xã hội đạt đến trình độ văn minh cao thì một số hình thái ý thức
xã hội sẽ mất đi, nhưng đạo đức vẫn tồn tại và phát triển cùng với con người.
Tuy nhiên, cần thấy rằng sự tác động của đạo đức đến đời sống xã hội
có tính hai mặt. Nếu hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức
tiến bộ, phù hợp với đời sống xã hội, với xu thế vận động của xã hội thì nó sẽ
có tác động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển; Nếu ngược lại, nó sẽ gây lên
những tác động tiêu cực cản trở sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng xã hội mới, chúng ta phải kế thừa và phát triển những giá trị đạo
đức truyền thống phù hợp với xã hội ngày nay, loại bỏ những chuẩn mực đạo
đức cũ không còn phù hợp, đồng thời xây dựng những chuẩn mực đạo đức
mới nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
1.1.2. Giáo dục đạo đức và vai trò của nó đối với sự phát triển nhân
cách học sinh Trung học chuyên nghiệp
1.1.2.1. Khái luận chung về giáo dục đạo đức
Hiểu theo nghĩa rộng, giáo dục con người là một quá trình giáo dục
toàn diện cả về trí tuệ và phẩm chất đạo đức. Và trong xã hội hiện nay, khi mà
mặt trái của nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào khắp các mối quan hệ trong
cuộc sống con người, làm băng hoại và xói mòn các giá trị đạo đức thì vấn đề
giáo dục phẩm chất đạo đức lại càng được đặt ra bức thiết. Nhận thức được sự
cần thiết đó, Đảng ta đã chủ trương phát động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” một cách rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Điều đó đã lý giải vì
21
sao trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến giáo dục và đào tạo con người. Người đã phân tích một cách đơn giản và
dễ hiểu rằng, “không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến
kinh tế, văn hóa” [28; 184]. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức và
luôn quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong hoạt động giáo dục và đào tạo.
Người cho rằng, hiền dữ không phải là tính sẵn của mỗi con người, phần
nhiều là do giáo dục. Đối với Người, việc quan tâm đến giáo dục là vì muốn
đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Những công dân
tốt, những cán bộ tốt đó, đương nhiên phải có đủ cả đức lẫn tài.
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng, chính là phương thức
chuyển văn hóa đạo đức của xã hội thành văn hóa đạo đức của cá nhân. Nói
cách khác, đó là phương thức và quá trình chuyển những nguyên tắc, những
chuẩn mực, những quan điểm và lý tưởng đạo đức của xã hội thành những
phẩm chất đạo đức cá nhân, thành nhu cầu và tình cảm đạo đức, thành niềm
tin và tri thức, thành trách nhiệm và nghĩa vụ, thành ý chí và động cơ cá
nhân, thành năng lực sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi con người. Đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người cho rằng, công việc này phải tiến hành
thường xuyên, phải rèn luyện bền bỉ hàng ngày, phải coi đây là công việc
của tất cả mọi người và diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Đây cũng là một công
việc hết sức khó khăn, nó đòi hỏi sự nỗ lực, tính tự kiềm chế và cả đức tính
kiên trì. Một con người hôm nay là tốt nhưng chưa có gì có thể đảm bảo
chắc chắn rằng, ngày mai, ngày kia anh ta cũng vẫn là người tốt. Cho nên,
mỗi con người, trong suốt cuộc đời của mình, cần phải nỗ lực rèn luyện liên
tục để khẳng định và vươn tới cái thiện, chống lại cái ác trong cuộc sống và
ngay cả trong chính bản thân mình.
22
1.1.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách
học sinh Trung học chuyên nghiệp
Giáo dục đạo đức cho HS, SV là nhiệm vụ quan trọng bên cạnh việc
dạy kiến thức, dạy nghề. Giáo dục đạo đức là nhằm hướng tới mục đích đào
tạo những con người không chỉ có tài mà còn có đức, để các em trưởng
thành và trở thành người có ích cho xã hội. Vấn đề đạo đức và giáo dục đạo
đức cho HS, SV ở nước ta mấy năm gần đây đã trở thành điểm nóng không
chỉ của ngành giáo dục mà còn của toàn xã hội. Công tác giáo dục đào tạo
HS, SV - đội ngũ trí thức tương lai cần theo một phương hướng cơ bản là
phải thực sự coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa
giáo dục tri thức với giáo dục lý tưởng, đạo đức cho HS. Xác định đạo đức
là "gốc" của người cách mạng, nó không chỉ là nền tảng nhân cách trong sự
thống nhất với tri thức, mà còn là điều kiện tiên quyết để trau dồi tri thức nói
chung, nâng cao trình độ lý luận nói riêng. Có thể thấy, đạo đức trong sáng
của người HS là một trong những điều kiện, hơn nữa là điều kiện tiên quyết,
là tiền đề để trau dồi lý luận. Không những thế, lý luận ở đây cũng không chỉ
là tri thức, là học vấn nói chung mà là lý luận cách mạng - Đó là lý luận
không chỉ giải thích thế giới mà cốt lõi là để cải tạo thế giới. Vì vậy, nếu học
tập không nhằm mục đích thực tiễn, phục vụ nhân dân thì không thể lĩnh hội
được tinh thần thực chất của lý luận.
Việc học tập chỉ thực sự có kết quả với động cơ đúng đắn. Tất nhiên,
kết quả của học tập không chỉ phụ thuộc vào người học mà còn phụ thuộc vào
người dạy, vào điều kiện học tập, việc tổ chức quản lý học tập... Mặc dù vậy,
phẩm chất đạo đức của người HS vẫn là điều kiện tiên quyết để học tập có kết
quả. Nó là động lực để phát huy tính chủ động, tích cực trong những điều kiện
lịch sử - cụ thể, để biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục nói
chung, giáo dục tri thức nói riêng. Việc coi trọng giáo dục đạo đức, xây dựng
23
đạo đức trong giáo dục HS không chỉ là đòi hỏi cho nhiệm vụ xây dựng đất
nước, mà còn là đòi hỏi bức thiết của bản thân công tác giáo dục tri thức.
Công tác giáo dục trí thức coi giáo dục đạo đức không những là tiền đề
của việc nâng cao trình độ, đồng thời là nhiệm vụ của mình. V.I. Lênin đòi hỏi
phải làm cho toàn bộ nhiệm vụ giáo dục, đào tạo thanh niên trở thành nhiệm vụ
giáo dục đạo đức cộng sản. Nói về mục đích học tập lý luận của người cán bộ,
Bác Hồ đòi hỏi trước hết phải là học để làm việc, làm người rồi mới làm cán bộ.
Ai cũng biết thế hệ trẻ chuẩn bị hành trang vào đời cần phải tích luỹ các
kiến thức khoa học, công nghệ, ngoại ngữ, tin học… nhưng nếu chỉ chừng đó
thôi mà không lưu tâm hoặc bỏ qua việc trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, ý thức pháp luật thì rất dễ dẫn
đến sự phát triển lệch lạc, phiến diện. Đó là con đường dẫn tới sự thiếu hụt
những giá trị nhân văn trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của
con người. Sự thiếu hụt đó là nguy cơ làm suy thoái, thậm chí biến dạng quá
trình phát triển của cá nhân và cộng đồng. Đã đến lúc chúng ta cần phải ý
thức được rằng, giáo dục đạo đức, thực chất là giáo dục nhân cách, hình thành
và phát triển hài hòa, toàn diện nhân cách của con người nhằm đáp ứng cho
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Giáo dục đạo đức là quá trình hình thành, phát
triển và hoàn thiện ý thức đạo đức cũng như năng lực thực hiện hành vi đạo
đức của mỗi cá nhân. Đây cũng là quá trình giúp cho cá nhân không chỉ hình
thành mà còn góp phần củng cố những nhu cầu đạo đức, đặc biệt là hình
thành và nuôi dưỡng những tình cảm, niềm tin và lý tưởng đạo đức. Trên cơ
sở đó, giúp cho mỗi cá nhân có thể nhận diện được các mặt tích cực và tiêu
cực trong hoạt động của con người và xã hội. Từ đó con người sẽ có ý thức
trách nhiệm hơn, dám vì mình, vì mọi người và vì những giá trị đạo đức đích
thực. Tất cả sẽ tạo thành động lực thúc đẩy cá nhân thực hiện hành vi đạo
đức, đồng thời sáng tạo ra những giá trị đạo đức mới, phù hợp với giai đoạn
lịch sử mới.
24
Bàn về giáo dục đạo đức trong nhà trường, GS. Trần Thanh Đạm cho
rằng giáo dục đạo đức khó hơn trí dục vì giáo dục đạo đức không có một đề
cương, giáo án nào có sẵn. Giáo dục đạo đức không tách ra đứng một mình
mà được lồng ghép vào từng bài giảng, thấm sâu vào HS mỗi ngày. Theo GS.
Trần Thanh Đạm, kiến thức nào cũng có tính tư tưởng. Không chỉ các môn
khoa học xã hội mà các môn khoa học tự nhiên cũng mang tính giáo dục trong
đó. Giáo dục đạo đức không chỉ là những lời nói suông theo kiểu đao to búa
lớn mà thấm vào từng trang sách, bài học qua những việc làm cụ thể và những
hành động thiết thực. Cha mẹ làm gương cho con cái, thầy cô mẫu mực trước
học trò, người lớn tạo niềm tin cho lớp trẻ… Hiện nay nhà trường rất quan
tâm tới việc giáo dục đạo đức cho HS nhưng vẫn còn tồn tại những mặt trái
của cuộc sống: HS đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, ý thức phấn đấu kém…
Nhiều người lo ngại cho sự xuống dốc của đạo đức xã hội, trong đó có sự
băng hoại về giá trị đạo đức của giới trẻ. GS. Nguyễn Lộc - Phó viện trưởng
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam lo lắng rằng, tuy là một trong 7 vấn đề xã
hội cần ưu tiên nhưng hiện nay, giáo dục đạo đức đang bị lãng quên. Sự
xuống cấp của đạo đức có nhiều nguyên nhân, trách nhiệm thuộc về nhiều
ngành, nhưng trước hết trách nhiệm đó là của nhà trường - nơi giáo dục đạo
đức con người từ khi mới cắp sách đi học đến lúc bước chân vào đời.
1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dân tộc Việt Nam, là vị
lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hoá thế giới. Người đã kết tinh trong mình những phẩm chất và giá
trị tinh thần cao quý nhất của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta và nhân loại tiến bộ một di sản tinh
thần vô giá, đó là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, kết
tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn
hoá nhân loại và thời đại. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bao quát một bình
25