BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
VÕ THANH TÙNG
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH VÀO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO CÁN BỘ CÔNG CHỨC
Ở THỊ XÃ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH:
LL&PP DẠY HỌC BỘ MÔN CHÍNH TRỊ
- 2-
ĐỒNG THÁP 11/2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
VÕ THANH TÙNG
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH VÀO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO CÁN BỘ CÔNG CHỨC
Ở THỊ XÃ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH:
LL&PP DẠY HỌC BỘ MÔN CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.10
Người hướng dẫn khoa học:
TS: Bùi Văn Dũng
- 3-
ĐỒNG THÁP 11/2010
Lời cám ơn
Với tình cảm chân thành, tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn Đại
học Vinh – Nghệ An, Đại học Đồng Tháp, Sở Giáo dục và đào tạo Đồng
Tháp, Thò uỷ, Uỷ ban nhân dân thò xã Sa Đéc đã tạo điều kiện để tôi được
tham gia khoá học hữu ích này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn quý thầy giáo, cô giáo của trường Đại học Vinh
đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS Bùi Văn Dũng,
người đã tận tình đònh hướng, chỉ dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn các đồng chí, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã cổ vũ,
động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khoá học.
Mặc dù đã rất nhiều cố gắng, nhưng khả năng còn hạn chế nên chắc
chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy giáo,
cô giáo và các đồng chí, đồng nghiệp chỉ dẫn, góp ý để luận văn được hoàn
chỉnh.
Đồng Tháp, năm 2010
Tác giả luận văn
Võ Thanh Tùng
- 4-
MỤC LỤC
Mục lục............................................................................................................4
MỞ ĐẦU........................................................................................................5
NỘI DUNG.....................................................................................................11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC...........................11
1. Một số khái niệm........................................................................................11
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.............................................................14
3. Tính tất yếu của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức
trong giai đoạn hiện nay..................................................................................27
4. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức ở thị xã
Sa Đéc..............................................................................................................34
5. Đánh giá chung............................................................................................41
6. Những kinh nghiệm.....................................................................................50
Chương 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀO GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở THỊ XÃ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP
1. Phương hướng chung..................................................................................54
2. Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ nâng cao đạo đức, lối sống của cán bộ,
công chức ở thị xã Sa Đéc giai đoạn hiện nay.................................................56
3. Những giải pháp chủ yếu.............................................................................59
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...............................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................85
PHỤ LỤC.......................................................................................................89
- 5-
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ, công chức các cơ quan hành chánh là những người thay mặt Nhà
nước, chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống
hằng ngày của người dân; liên quan đến lợi ích và nghĩa vụ công dân.
V.I.Lênin cho rằng, muốn lật đổ chế độ cũ, giành chính quyền và xây
dựng xã hội mới, giai cấp vô sản cần phải có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng lỗi lạc “đạo đức, lối sống,
phong cách và cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về
đạo đức cho tất cả chúng ta noi theo” [4, Tr.66]. Do đó, việc đưa vào trong các
nội dung để giáo dục cho cán bộ, công chức “những lời chỉ dẫn của Người về
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung với nước, hiếu với dân, về lòng
yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, về đức tính khiêm tốn, lối sống giản dị…”
[11, tr.96] nhằm làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thấm sâu vào “trái tim,
khối óc” của cán bộ, công chức, trên cơ sở đó vận dụng để học tập, rèn luyện
vào thực tiễn công tác và cuộc sống.
Mặt khác, do vị trí vai trò của mình mà mỗi cán bộ, công chức vừa phải
thực hiện đạo đức công dân, vừa phải thực hiện đạo đức của người cán bộ; dù
công tác ở lĩnh vực nào cũng đều phải có phẩm chất đạo đức; cấp bậc càng cao
càng phải nêu gương về đạo đức.
Hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã thoát khỏi bao vây, cấm vận và đang có bước tiến
mạnh mẽ; kinh tế, văn hoá – xã hội có những tiến bộ đáng kể, đời sống vật chất
và tinh thần của người dân được nâng cao; kinh tế thị trường đã phát huy tác
dụng, kích thích tư duy sáng tạo của mọi người, khắc phục sự ỷ lại, bảo thủ
- 6-
trước đây… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, kinh tế thị trường cũng
tạo ra những mặt trái của nó như: lối sống thực dụng, xa hoa, lãng phí và tệ nạn
xã hội theo đó mà nảy sinh.
Thị xã Sa Đéc là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của
tỉnh Đồng Tháp, đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng đông. Thời gian qua, số
đông cán bộ công chức thị xã tận tụy, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, tuy nhiên một số còn chưa thấy hết vị trí, vai trò, trách nhiệm của
mình là công bộc của dân, còn quan liêu, hách dịch, tham nhũng, vô cảm với
nhân dân.
Nhận thức được vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ
mới, Thị ủy, Ủy ban nhân dân thị xã rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức lối
sống cho đội ngũ này trong đó đặc biệt chú trọng đến việc đưa tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vào rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức.
Những năm qua, việc giáo dục đạo đức lối sống cho cán bộ công chức
dựa trên các chuyên đề “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
ở thị xã Sa Đéc đã được triển khai bước đầu có kết quả tích cực, tuy nhiên, công
tác này cũng có những hạn chế nhất định: một số cản bộ vẫn còn yếu kém về
nhận thức và hành động, chưa thấy hết vai trò, trách nhiệm của mình trong phục
vụ nhân dân. Trên thực tế, thời gian qua, trên các phương tiện thông tin đại
chúng, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ án tham nhũng lớn. Có thể nói, tham
ô, lãng phí, xa hoa… đã và đang là căn bệnh nguy hiểm đối với xã hội ta. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tính trạng đó, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất
đó là sự sa sút về đạo đức, lối sống trong cán bộ, công chức.
Do vậy, vấn đề cấp bách hiện nay là phải nghiên cứu một cách sâu sắc về
vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức theo tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh như thế nào cho có kết quả, đòi hỏi cần làm rõ thực trạng, những
vấn đề đặt ra, những giải pháp chủ yếu để vận dụng tư tưởng đạo đức Bác Hồ
vào giáo dục nâng cao nhận thức và hành động cho cán bộ, công chức.
- 7-
Đây là vấn đề rất quan trọng, cấp thiết và trong điều kiện hiện nay, đặt ra
trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong việc thực hiện Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Vì lẽ đó, tôi chọn vấn
đề: “Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, công chức ở Thị xã Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức và
vấn đề tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, những năm qua cũng có rất nhiều công
trình nghiên cứu và nghị quyết nói đến như:
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh – truyền thống dân tộc và nhân loại.
GS.Vũ Khiêu chủ biên. NXB khoa học xã hội Hà Nội 1993.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong chuẩn mực của thời đại mang tên
Người. Đỗ Huy. Tạp chí Triết học, số 2, 1992.
Cán bộ, Đảng viên học tập và rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đặng Sỹ Lộc. Tạp chí tư tưởng văn hoá, số 3, 1993.
Các tác giả như: Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong, Hà Thế Ngữ… cũng
đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu về đạo đức và giáo
dục đạo đức.
Nghị quyết hội nghị TW3 (Khóa VIII) về tiêu chuẩn cán bộ nói chung và
tiêu chuẩn cụ thể đối với từng loại cán bộ: cán bộ Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể, cán bộ lực lượng vũ trang, cán bộ khoa học kỹ thuật…
Nghị quyết hội nghị TW5 (Khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn.
Nghị quyết hội nghị TW6 (Khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng viên.
- Một số công trình nghiên cứu có liên quan như:
- 8-
+ Sách “xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ
thống chính trị đổi mới”, của PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên 1998, đã xác
định tiêu chuẩn cán bộ thực trạng đội ngũ này, tiêu chuẩn phương hướng, giải
pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
+ Sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, PGS.TS
Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ biên, 2003, đã đề cập nhiều
đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
+ Các tài liệu bồi dưỡng về đạo đức cho cán bộ công chức của Ban chỉ
đạo Cuộc vận động: “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do
NXB chính trị quốc gia xuất bản vào các năm 2007, 2008, 2009, 2010
+ Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, NXB Chính Trị
quốc gia, Hà Nội…
Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” ở nước ta cũng đã được đề cập rất nhiều. Riêng ở
thị xã Sa Đéc vấn đề này còn mới mẻ, cho đến nay, chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống về vấn đề này, đây là
một khó khăn cho tác giả. Vì thế, đề tài luận văn mà tác giả lựa chọn không
trùng lấp với các công trình khoa học đã công bố. Các công trình nghiên cứu nêu
trên với nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau là điều kiện để tác giả tham khảo
và tìm ra những phương pháp thích hợp để giải quyết vấn đề mà luận văn đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích:
Làm rõ vai trò đặc điểm và sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức lối sống
cho cán bộ, công chức thị xã Sa Đéc.
Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức, lối sống, nội dung, phương thức đã
thực hiện trong thời gian qua, đồng thời chỉ ra những ưu điểm, những tồn tại,
- 9-
hạn chế, nguyên nhân để đưa ra giải pháp vận dụng thích hợp đối với việc giáo
dục đội ngũ cán bộ, công chức ở thị xã Sa Đéc trong thời kỳ mới.
b. Nhiệm vụ:
- Làm rõ giá trị tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, sự cấp thiết của việc đưa
tư tưởng đạo đức của Người vào giáo dục cán bộ, công chức.
- Khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức thị
xã trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức của thị xã trong
thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp vận
dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức,
lối sống cho cán bộ, công chức ở thị xã Sa Đéc, Đồng Tháp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, quan sát, điều tra thu
thập thông tin; phương pháp nghiên cứu chuyên ngành lý luận và giáo dục chính
trị kết hợp với phương pháp nghiên cứu triển khai.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học
Góp phần làm rõ giá trị lý luận về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được
vận dụng vào thực tiễn giáo dục cán bộ công chức ở địa phương.
Nêu bậc thực trạng nguyên nhân những ưu điểm, hạn chế của công tác
giáo dục đạo đức, lối sống và đề ra những giải pháp cơ bản khả thi trong việc
giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức trong thời gian tới, giúp cho các cấp ủy,
chính quyền có cơ sở để thực hiện công tác bồi dưỡng, giáo dục cán bộ đạt hiệu
quả cao hơn, củng cố và xây dựng niềm tin cho nhân dân vào đội ngũ cán bộ,
công chức ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu
- 10-
tham khảo; ngoài ra, cũng có thể sử dụng trong việc nâng cao hiệu quả của Cuộc
vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 2 chương, trừ phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham
khảo, phụ lục.
- 11-
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC
1.1 Lý luận chung về đạo đức
1.1.1 Một số khái niệm
1.1.1.1 Về đạo đức
Đạo đức là một phạm trù rất rộng nhưng lại rất cụ thể. Trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta thường nhắc đến cụm từ đạo đức trên mọi lĩnh vực: đạo đức
gia đình, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp, v.v. nói
rộng ra là đạo đức của cả một dân tộc. Vậy đạo đức là gì?
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện hơn cách đây 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy
Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La Tinh là mos (moris) – lề thói
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Trong tiếng Hy Lạp, đạo
đức được xem như đồng nhất với “Luân lý học” và được bắt nguồn từ chữ
Êthicos, nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến đạo đức tức là nói đến
những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người
trong sự giao tiếp với nhau hằng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
bắt nguồn từ cách hiểu về đạo đức của họ. Đạo đức là một phạm trù quan trọng
của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi. Về sau
- 12-
này, đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn
là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm “Đức” lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu và từ
đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng thường xuyên. Đức dùng để
nói đế nhân đức, đức tính và là biểu hiện của đạo, đạo nghĩa là nguyên tắc luân
lý. Như vậy, có thể nói, đạo đức của người Trung Quốc cổ đại, chính là những
yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo
Trước C.Mác và Ph. Ăngghen, các nhà triết học duy tâm lẫn duy vật đều
rơi vào quan điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức họ không thấy
được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung
và đạo đức nói riêng.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng, trước khi sáng lập các quan
điểm tư tưởng, lý luận, con người đã hoạt động thực tiễn, tức là đã sản xuất ra
các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Toàn bộ tư tưởng thể hiện trong các
hình thái ý thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội đó. Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội. Đạo đức
cũng vậy, nó là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng
các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi của con người.
Chủ nghĩa Mác – Lênin nêu bật khái niệm đạo đức như sau: đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử của con người trong
các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Như vậy, đạo đức không phải là cái sẵn có ở đâu đó, nó được hình thành
từ khi có xã hội loài người và tồn tại vĩnh viễn cùng loài người, tuy nhiên đạo
đức lại có tính lịch sử là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, mà
tồn tại xã hội lại không bất biến. Hình thái ý thức xã hội đạo đức giúp con người
điều chỉnh hành vi của mình hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ.
- 13-
1.1.1.2. Về giáo dục đạo đức
Đây là sự tác động có mục đích, có định hướng với các hình thức, biện
pháp khác nhau của chủ thể đến khách thể nhằm nâng cao tri thức, nhận thức
của khách thể về hệ tư tưởng, đường lối, truyền thống, đạo lý dân tộc,... nhằm
hướng đến mục đích đã định. Theo nghĩa đó, giáo dục đạo đức là một quá trình
truyền bá, phổ biến một cách cơ bản, có hệ thống về những giá trị tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm xây dựng thế giới quan,
nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, hình thành đạo đức lối sống tốt
trong cán bộ, công chức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: học là để sửa chữa tư tưởng; học là để tu
dưỡng đạo đức cách mạng; học để tin tưởng và học để thực hành cho tốt.
1.1.1.3. Khái niệm cán bộ, công chức
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Tỉnh
(gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
- 14-
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, công chức: phải có một đời tư
trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Chủ
tịch Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là
toàn bộ cuộc đời của Người là tấm gương sáng về đạo đức. Cùng với sự phát
triển đất nước, sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế
hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong
sáng thì sẽ không thuyết phục, vận động được nhân dân trong các phong trào
cách mạng. Người cán bộ, ngoài việc phải hoàn thành tốt công việc chung của
Đảng đã được phân công, lại phải còn là một thành viên tốt của gia đình, là một
người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan
hoà, gần gũi với mọi người chung quanh trong cùng bản làng, thôn xóm…
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.2.1 Vị trí, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Cách đây hàng nghìn năm, vai trò của đạo đức đối với xã hội đã được các
nhà xã hội học xem xét và bàn luận tới.
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (thế kỷ thứ VI tr CN) đã
khuyên học trò “tiên học lễ, hậu học văn”. Mạnh Tử rất đề cao đạo đức đến mức
ông đề xuất quản lý xã hội bằng “đức trị”.
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo Phật do Thích Ca Mâu Ni
sáng lập đã đề cập đến nhiều vấn đề đạo đức. Cái cốt lõi của đạo đức Phật giáo
là khuyên con người sống thiện, biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, xa lánh cái
ác.
Trong xã hội Hy Lạp – La Mã cổ đại, đặc trưng cơ bản nhất về giáo dục
con người được thông qua những truyền thuyết, các sử thi… cũng để đề cao giá
trị đạo đức - cái cao thượng của con người. Đó là nữ thần Atina đẹp như mặt
trăng, đầy tình nhân ái đối với con người. Hình tượng thần Dớt có tài, đức vẹn
toàn. Ôđixê là bản trường ca bất hủ, một biểu tượng cao đẹp về tính trung thực,
- 15-
lòng quả cảm, sự trong sáng trong tình bạn, tình yêu… Tất cả những hình tượng
đó đều là những phẩm giá đạo đức tốt đẹp của con người.
Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức được các nhà nghiên cứu xã hội đặt ra rất
sớm. Đặc biệt trong các truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, nhân dân ta đã đề cao
những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức giúp con người hướng đến những điều tốt
đẹp. Truyện Tấm Cám, Cây Tre Trăm Đốt, Trạng Quỳnh… đều giáo dục con
người hướng thiện và nhân cách cao đẹp trong cuộc sống.
Vấn đề đặt ra là tại sao con người phải sớm quan tâm đến đạo đức? Tại
sao đạo đức có một vai trò to lớn đối với đời sống xã hội?
Một là, đạo đức là nhu cầu khách quan của đời sống xã hội. Trong đời
sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết
nhằm đảm bảo cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống trong xã
hội, ai cũng phải suy nghĩ về vấn đề đạo đức, để tìm ra những con đường, cách
thức và biện pháp nhằm kết hợp lợi ích của mình với cộng đồng; từ đó bảo đảm
cho sự tồn tại và phát triển của chính mình cũng như cộng đồng.
Hai là, Đạo đức có vai trò trong việc duy trì trật tự, bình ổn và phát triển
xã hội. Xã hội phát triển nhanh hay chậm, tiến bộ hay trì trệ, suy cho cùng là do
tính tự nguyện, tự giác của con người, đồng thời do mức độ con người nhận thức
được quy luật và hành xử theo quy luật. Chính đạo đức đã đóng vai trò quan
trọng để tạo dựng nên một cuộc sống tốt đẹp cho xã hội và giúp con người hoàn
thiện nhân cách. Cùng với pháp luật, đạo đức góp phần quan trọng vào việc điều
chỉnh thái độ, hành vi con người, qua đó điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặc dù
pháp luật thì chặt chẻ, chính xác ghi thành văn có tính bắt buộc và khung hình
phạt có nhiều nấc, nhưng lại không trừng phạt được từ trong ý nghĩ (ý nghĩ
phạm tội) của con người. Trong khi đó, đạo đức mang nặng tính khuyên nhủ,
khung hình phạt không có các nấc trung gian, chỉ có thiện và ác, tốt và xấu,
nhưng nó lại có thể trừng phạt người ta nếu người đó có ý nghĩ xấu trong lòng
nhờ sự phán xử của lương tâm. Nếu ý nghĩ xấu thì lương tâm mắc cỡ, cắn rứt.
- 16-
Đó chính là một nét đặc thù của đạo đức, tạo nên sức mạnh to lớn của đạo đức
trong đời sống xã hội.
Ba là, đạo đức có tác dụng cảm hoá con người, giúp con người nhận thức
và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Đạo đức cũng giúp cho con người sáng tạo ra hạnh phúc, giữ gìn phẩm giá, làm
thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp, những phẩm chất cao quý, đó
là lòng nhân ái, vị tha, tính trung thực, thẳng thắn…Đạo đức như một động cơ
có sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống lại những cái ác, cái xấu, giữ
gìn và phát huy những cái tốt, cái thiện.
Như vậy, đạo đức có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã
hội. Xã hội loài người càng tiến lên thì vai trò của đạo đức càng quan trọng, có
thể đạo đức sẽ nắm vai trò điều khiển xã hội, thay thể chức năng quản lý con
người bằng pháp luật. Khi xã hội phát triển đến mức văn minh thì một số hình
thái ý thức xã hội sẽ mất đi, nhưng đạo đức vẫn tồn tại và phát triển cùng với
loài người.
Mặt khác, đạo đức cũng có tính hai mặt của nó. Nếu hệ thống các nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức tiến bộ, phù hợp với đời sống xã hội, với xu thế vận
động của xã hội thì đạo đức sẽ có tác động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển;
còn ngược lại nó sẽ gây nên những tác động tiêu cực, cản trở sự phát triển xã
hội. Do vậy, trong quá trình xây dựng xã hội mới, chúng ta phải biết kế thừa và
phát triển những giá trị đạo đức truyền thống phù hợp với xã hội ngày nay; đồng
thời loại bỏ những chuẩn mực đạo đức cũ, không còn phù hợp, xây dựng chuẩn
mực đạo đức mới tiến bộ hơn.
1.1.2.2. Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của
người cách mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23
điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn
về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với
- 17-
công việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [24, tr.328]. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh đến việc dạy và học, đức và tài: “dạy cũng như học, phải chú
trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng.
Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng
là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân” [24,
tr.329]
Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát
triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [18, tr.252 –
253]
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng
thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa” [14, tr.
466 – 467]
Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng
viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
- Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
- Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
- 18-
- Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu
cúi đầu.
Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng
Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường
nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của dân tộc và thời đại.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu
yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh
vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan
hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với công việc. Tư tưởng Hồ
Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên,
nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ,
Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
1.1.3 Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam
trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương
Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước,
phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu".
Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích
- 19-
của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”... [24, tr.22]
Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh
đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”
[19, tr.145]
Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, thân dân,
trọng dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân
tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ
và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan
điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất
nước.
b) Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân
loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại
đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người
nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát
huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [17, tr.161]
- 20-
Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ,
nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên,
kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp
hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa
chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng
con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được" [18,
tr.163]
c) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh, là mối quan hệ “với tự mình”.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con
người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ
thể nội dung từng khái niệm.
- Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không
ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta” [22, tr.632]
- Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân,
của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ,
không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...” [35, tr. 636].
- 21-
Tiết kiệm khác với hà tiện, bủn xỉn. Nghĩa là khi cần thiết thì bao nhiêu tiền
cũng phải chi xài, còn không cần thiết thì một xu, một đồng cũng không chi.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong
công tác.
- Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”,
“không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không
tham địa vị, không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình...” [22, tr.253]
- Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình
không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá,
lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để
việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm
cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng
tránh” [23, tr.22]
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng
riêng, thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”, đem lòng chí công,
vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”
[23, tr.172]
Muốn “chí công, vô tư” phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân công lý”,
không được vì lòng riêng tư, ích kỷ mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô
tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô
tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính.
d) Tinh thần quốc tế trong sáng
- 22-
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì
Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới,
anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau:
Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh
giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu
chung, “bốn phương vô sản đều là anh em” [23, tr.192]
Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước
chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của
chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...
1.1.3.1 Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong
xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động
viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là:
1.1.3.2. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ
đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng. Người
yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm
gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên...
Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu
mến.
- 23-
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” [25, tr.552]
1.1.3.3. Xây đi đôi với chống
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt
đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với
những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với
chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ
gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất
phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể
hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và
nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện.
Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ
nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong
trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát
động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên
truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
1.1.3.4. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [21, tr.293]
Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một
đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
- 24-
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” [21, tr.557 – 558]
Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì
ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong
mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn
hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái
ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động
thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan
hệ của mình.
1.1.3.5. Về tiết kiệm.
Trong các bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều đến
tiết kiệm và thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Người đã
luận giải kỹ các nội dung trên như sau:
Theo Hồ Chí Minh, tiết kiệm “là không xa xỉ, không hoang phí, không
bừa bãi” [19, tr.636]
Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, mà những việc ích lợi cho đồng bào, cho
Tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng.
Tiết kiệm là tích cực. “Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân
dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà
tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân
dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực”
[19, tr.636]
Tiết kiệm là để phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc.
Để tăng thêm tiền vốn xây dựng đất nước. Điều này càng quan trọng khi
nước ta là nước dân chủ nhân dân, không thể tích lũy vốn theo kiểu thực dân, đế
quốc bằng cách cướp bóc thuộc địa, bóc lột công nhân, nông dân, vay nợ nước
ngoài...
- 25-
Để nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, hậu
quả của 80 năm đô hộ, vơ vét của đế quốc Pháp rồi đến phát xít Nhật.
Nội dung của tiết kiệm là:
Tiết kiệm sức lao động. Tức là phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng
cao năng suất lao động, “1 người làm bằng 2, 3 người”.
Tiết kiệm thời giờ. Bác nói: “Thời giờ tức là tiền bạc”; “Một tấc bóng là
một thước vàng”. “Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ
vứt đi, là người ngu dại” [19, tr.637]. Tiết kiệm thời giờ của mình và tiết kiệm
thời giờ của người khác.
Tiết kiệm tiền của. Phải tiết kiệm tiền của Nhà nước, của nhân dân và của
chính mình. Việc này liên quan tới tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời giờ.
Theo Hồ Chí Minh, tất cả mọi người đều phải tiết kiệm. Trước hết là các
cơ quan, bộ đội, các xí nghiệp.
Nội dung tiết kiệm phải cụ thể, thiết thực ngay trong vị trí công tác của
mình. Bộ đội, chiến sĩ thì tiết kiệm đạn, quân nhu, chiến lợi phẩm...; cán bộ cơ
quan hành chính thì tiết kiệm thời gian, giấy, mực...; cán bộ tư pháp tiết kiệm
thời giờ cho dân khi triển khai nhanh công việc...
1.1.3.6. Về chống tham ô, lãng phí, quan liêu:
Hồ Chí Minh cho rằng: tham ô, lãng phí, quan liêu là nọc độc xấu xa của
chế độ cũ. Muốn xây dựng một xã hội mới phải tẩy cho sạch hết những thói xấu
của xã hội cũ.
Chống tham ô, lãng phí, quan liêu để xây dựng đội ngũ, giúp đỡ cán bộ,
chiến sĩ ta tiến bộ.
Hồ Chí Minh phân tích, có những người trong lúc đấu tranh thì trung
thành, hăng hái, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch,
nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay
thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác,
mà biến thành người có tội với cách mạng. “Chúng ta phải cứu vãn họ, giúp họ