Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Tìm hiểu vấn đề dạy học hợp tác môn ngữ văn ở lớp 10c5, 11c2 và 11c4 trường trung học phổ thông ngã sáu (hậu giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.93 MB, 129 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN

BẠCH LONG

TÌM HIỂU VẤN ĐỀ DẠY HỌC HỢP TÁC
MÔN NGỮ VĂN Ở LỚP 10C5, 11C2 VÀ
11C4 - TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
NGÃ SÁU (HẬU GIANG)
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành sư phạm Ngữ Văn
Khóa 33

Cán bộ hướng dẫn : Ths. NGUYỄN MINH CHÍNH

Cần Thơ, tháng 5 - 2011

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

1

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp


Ngành Sư phạm Ngữ Văn

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
B – PHẦN NỘI DUNG
Chương một. LÍ LUẬN VỀ DẠY HỌC HỢP TÁC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Những vấn đề chung về học hợp tác
1.1 Khái niệm học hợp tác
1.2 Những ưu điểm và yếu tố tạo nên thành công trong dạy học hợp
tác
1.2.1 Những ưu điểm
1.2.2 Những yếu tố tạo nên thành công trong dạy học hợp tác
1.3 Cách chia nhóm, loại hình nhóm và cách tổ chức lớp học
1.3.1 Cách chia nhóm
1.3.1.1

Cách chia nhóm ngẫu nhiên

1.3.1.2

Cách chia nhóm chỉ định

1.3.2 Loại hình nhóm
1.3.2.1


Nhóm cố định

1.3.2.2

Nhóm không cố định

1.3.3 Cách tổ chức lớp học
1.3.4 Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học hợp tác
1.4.1 Vai trò của giáo viên
1.4.2 Vai trò của học sinh
2. Cách thức tổ chức dạy học hợp tác
CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

2

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

2.1 Thiết kế bài tập thảo luận nhóm
2.2 Các dạng bài tập thảo luận nhóm thường gặp
2.3 Quá trình chuẩn bị và các bước tổ chức thảo luận nhóm
2.3.1 Quá trình chuẫn bị
2.3.2 Các bước tổ chức thảo luận
2.4 Lợi ích của việc học hợp tác
2.4.1 Đối với học sinh

2.4.2 Đối với giáo viên
2.5 Những khó khăn của học hợp tác
3. Các hình thức đánh giá học hợp tác
3.1 Đánh giá tổng thể và đánh giá thường xuyên
3.1.1 Đánh giá tổng thể
3.1.2 Đánh giá thường xuyên
3.2 Chủ thể tự đánh giá
3.2.1 Giáo viên đánh giá học sinh
3.2.2 Học sinh đánh giá lẫn nhau
3.2.3 Học sinh tự đánh giá
Chương hai. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ DẠY HỌC HỢP TÁC Ở LỚP 10C5,
11C2 VÀ 11C4 - TRƯỜNG THPT NGÃ SÁU (HẬU GIANG)
2.1 Hoạt động dạy học ở trường THPT hiện nay
2.2 Đôi nét về lớp 10C5, 11C2 và 11C4
2.2.1 Đôi nét về lớp 10C5
2.2.2 Đôi nét về lớp 11C2
2.2.3 Đôi nét về lớp 11C4
2.3 Tường thuật một số tiết dạy
2.3.1 Biên bản dự giờ ở lớp 10
2.3.1.1 Lớp khảo sát 10C5
2.3.1.2 Dự giờ thêm ở những lớp khác của khối 10
2.3.2 Biên bản dự giờ ở lớp 11
CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

3

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp


Ngành Sư phạm Ngữ Văn

2.3.2.1 Lớp khảo sát 11C2, 11C4
2.3.2.2 Dự giờ thêm ở những lớp khác của khối 11
2.4 Phân tích hoạt động dạy học hợp tác của giáo viên, giáo sinh và học
sinh
2.4.1 Hoạt động của giáo viên, giáo sinh
2.4.2 Hoạt động của học sinh
2.5 Tìm hiểu thêm về hoạt động dạy học hợp tác ở trường phổ thông
2.5.1 Qua phiếu thăm dò
2.5.2 Nhận xét kết quả phiếu thăm dò
2.5.3 Trao đổi với học sinh
2.5.4 Trao đổi với giáo viên
2.5.5 Bản thân sử dụng dạy học hợp tác
2.5.5.1 Tườn thuật một số tiết dạy
2.5.5.2 Kinh nghiệm đúc kết
2.5.6 Trao đổi với BGH trường THPT Ngã Sáu về việc sử dụng
phương pháp dạy học hợp tác (thảo luận nhóm)
2.6 Đánh giá chung
C – KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
Tài liệu tham khảo
MỤC LỤC

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

4

SVTH: Bạch Long



Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

QUY ƯỚC VIẾT TẮT
1. THPT: Trung học phổ thông.
2. BGH : Ban giám hiệu.
3. SGK: Sách giáo khoa
4. GV: Giáo viên.
5. HS: Học sinh.
6.

: Giáo viên hỏi.

7.

: Giáo viên nhận xét.

8.

: Giáo viên giảng bài.

9.

: Giáo viên sử dụng biểu bảng.

10.


: Học sinh trả lời.

11.

: Học sinh thảo luận nhóm.

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

5

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Tháng 10-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống nạn thất học,
khích lệ toàn dân tham gia: “…muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân
mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận
của mình, phải có kiến thức, để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà
và trước hết là phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.” [ 12;tr.14]. Ngay từ buổi đầu
độc lập Bác đã quan tâm đến vấn đề giáo dục và 66 năm sau (năm 2011) đất nước
đang phát triển từng ngày, vị thế của ngành giáo dục ngày càng được coi trọng
trong thời buổi công nghệ số: “Bao vấn đề đang đặt ra trước mắt mỗi chúng ta,
những con người vừa là chứng nhân vừa là chủ nhân lịch sử trên mọi lĩnh vực
hoạt động; quá trình nhất thể hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra một cách nhanh
chóng đến bất ngờ, cuộc cách mạng thông tin đang biến đổi sâu sắc đời sống vật

chất và tinh thần mỗi con người trên hành tinh.” [ 22;tr.12]. “Những quốc gia biết
lợi dụng sự bùng nổ công nghệ thông tin liên lạc số và gắn với kỹ năng học tập mới
sẽ đứng đầu thế giới về giáo dục” [ 22;tr.14].
Trước bao biến đổi như thế thì: “Đối với mỗi quốc gia, giáo dục là chiến
lược hàng đầu bởi giáo dục chính là nội lực. Vì vậy, giáo dục phải nhằm mục tiêu
quan trọng là giải phóng và phát huy tiềm năng sáng tạo của người học, để từ trên
ghế nhà trường cũng như khi ra đời họ sẽ luôn không ngừng sáng tạo” [ 22;tr.116]
đào tạo ra những con người vừa hồng vừa chuyên. Nhưng thực tế ở trường trung
học phổ thông hiện nay: “Học sinh chán Văn nhà trường, không muốn học môn
Văn, coi thường môn học này và ngày càng lạnh nhạt với cả những giá trị văn hoá
dân tộc. “…Dạy Văn như dạy chính trị”, “Dạy Văn thành dạy xã hội học dung
tục” ” [ 22;tr.257]. Vậy đâu là nguyên nhân của thực trạng trên? Khi mà ngành
giáo dục đã có sự thay đổi. “Văn chương là địa hạt của cảm xúc, của rung động
thẩm mĩ. Tác phẩm văn chương là sản phẩm sáng tạo độc đáo của cá nhân trong
những tâm trạng và cảm xúc riêng tư” [ 22;tr.135]. Chính vì thế vấn đề đặt ra là
làm thế nào để thay đổi nhận thức và cách học của học sinh khi mà: “Có một thời
gian dài, do nhiều lí do, việc dạy Văn chỉ còn là việc truyền thụ kiến thức, thậm chí
chỉ còn là đọc chép, học tập chỉ còn là sự tiếp thu kiến thức một cách thụ động, kết
CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

6

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

quả : Việc tiếp thu kiến thức không tốt và năng lực tự học môn Văn của học sinh

cũng chậm tiến bộ do tư duy của học sinh – nhân tố quyết định của khả năng nhận
thức không phát triển. Chất lượng học tập của học sinh ngày càng yếu, học sinh
ngày càng lười suy nghĩ, chỉ còn cách trông cậy vào những mẫu có sẵn, bài có sẵn.
Ngay cả “học sinh giỏi” cũng chỉ là những “học sinh chăm”, gặp đề khó, đề lạ bó
tay. Làm thế nào đây để chấm dứt lối học thụ động đã thành nếp, lối dạy nhồi nhét,
biến học sinh thành cái máy ghi hoặc cái bồ chữ; làm thế nào đây để cho học sinh
tự tìm ra kiến thức và biến kiến thức thành tâm hồn, trí tuệ của mình rồi bằng
những thao tác tư duy, tiến đến những kiến thức mới và vận dụng những kiến thức
để giải quyết vấn đề mới, vấn đề khó” [ 13;tr.30].
Là một giáo viên Ngữ Văn trong tương lai, chúng tôi suy nghĩ và trăn trở
làm sao để thay đổi tư duy dạy và học môn Ngữ văn cho phù hợp với thời đại.
Thực trạng đáng buồn về môn Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông hiện
nay là động lực và cũng là thách thức để tôi có học hỏi kinh nghiệm trong hành
trang bước vào “sự nghiệp trồng người”. Chính vì thế, chúng tôi quyết định chọn
đề tài “Tìm hiểu vấn đề dạy học hợp tác môn Ngữ Văn ở lớp 10C5, 11C2 và 11C4
- Trường THPT Ngã Sáu”(Hậu Giang). Đề tài nghiên cứu này sẽ giúp chúng tôi
hiểu rõ hơn việc học lý thuyết ở trường Đại học và việc vận dụng lý thuyết ấy vào
thực tế giảng dạy như thế nào? Thực trạng dạy và học môn Ngữ Văn ở trường phổ
thông hiện nay ra sao? Từ đó giúp chúng tôi có những điều chỉnh và sử dụng các
phương pháp giảng dạy phù hợp trong công tác của mình sau này.

2. Lịch sử vấn đề
Ở thế kỉ XVIII, A.Kômenxki đã viết: “ Giáo dục có mục đích đánh thức
năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách…Hãy tìm ra
phương pháp cho giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn”. Ở nước ta, vấn đề
phát huy tính tích cực chủ động của học sinh nhằm đào tạo những người lao động
sáng tạo đã được đặt ta trong ngành giáo dục từ những năm 1960. Với khẩu hiệu
“biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” cũng đi vào các trường sư
phạm từ thời điểm đó [14;tr.20]. Vấn đề dạy học hợp tác (dạy học theo nhóm) là
phương pháp sử dụng phổ biến hiện nay trên quy mô toàn cầu.


CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

7

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Trên thế giới, “…đã bắt đầu ít nhất là từ năm 1867 lúc nhà cải cách giáo
dục tiên phong W.T. Harris đề xướng một kế hoạch ở St. Louis bang Mussouri cho
phép học sinh học nhảy qua trình độ tiểu học. Theo Kulik C.C.L và Kulik
J.A(1982), kế hoạch của Harris là “ gợi ý bước đầu về khả năng học nhóm”. Tuy
vậy phải đợi đến buổi giao thời của thế kỉ XX quan điểm của việc học theo nhóm
mới được thực hiện và đưa vào thực hành mẫu” [7;tr.114,tr.115].
Ở Việt Nam, “…cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX nhiều chuyên luận, chuyên
nghành lần lượt ra đời : Rèn luyện tư duy học sinh qua giảng dạy văn học (1969)
của Phan Trọng Luận; Vấn đề giảng dạy văn học theo thể loại (1970) của Trần
Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn, Huỳnh Lý, Đàm Gia Cẩn; Phân tích
tác phẩm văn chương trong nhà trường (1978) của Phan Trọng Luận; Con đường
nâng cao hiệu quả dạy văn (1978) của Phan Trọng Luận; Tu từ học với vấn đề
giảng dạy Ngữ Văn (1979) của Đinh Trọng Lạc; Dạy văn - Tầm nhìn - Biến đổi
(1996) của Nguyễn Thanh Hùng có dành một phần cho phương pháp ngoài phần
nghiên cứu và phê bình văn học; Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học (1998)
của Nguyễn Thị Thanh Hương góp thêm một tiếng nói về phương pháp theo hướng
chú ý sự tiếp nhận của học sinh [21;tr.192].
Những chuyên luận ra đời đã góp phần thay đổi quan điểm, cách nhìn nhận,

cách dạy học của môn Ngữ Văn. Nền giáo dục Việt Nam bước sang thế kỉ XXI với
những cơ hội và thách thức mới khi mà: “…có lẽ nên có một cách nhìn vấn đề trên
nhiều phương diện với nhiều nguyên nhân phức tạp bao gồm vấn đề chương trình
sách giáo khoa, yêu cầu của từng cấp học, vấn đề cách dạy cách học, hoàn cảnh
học tập của học sinh, cho đến những vấn đề tác động ngoài xã hội vào nhà trường
trong cuộc chạy đua kiến thức hiện nay, kể cả cách thi cử và cách kiểm tra kiến
thức, một nhân tố đang gây nhiều rắc rối cho nhà trường” [22;tr.184]. Cố Thủ
Tướng Phạm Văn Đồng từng nói : “ Phương pháp dạy và học tập, đấy là một trong
những vấn đề quan trọng nhất của giáo dục, là nhân tố chủ yếu đưa đến kết quả
thiết thực đối với địa phương và đối với cả nước” [22;tr.184]. Chính vì thế, “…đã
đến lúc, dù quá muộn cần có một cái nhìn toàn diện tổng thể thực trạng dạy học
văn trong nhà trường theo đòi hỏi gay gắt, cấp bách của bản thân đời sống xã hội
CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

8

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

và đời sống sư phạm để tìm ra một hướng giải quyết bài toán cực kì phức tạp có
nhiều nghịch lý và nhiều lời giải khác nhau nhưng vẫn chưa tìm ra được đáp số tối
ưu” [20;tr.13]. Quan điểm coi học sinh là chủ thể cảm thụ sáng tạo, coi học sinh là
khởi đầu, là điểm xuất phát cho mọi hoạt động của tiến trình dạy học và học bài
văn, chắc chắn sẽ đưa đến những đổi mới cơ bản về cấu tạo giờ học, về cách soạn
một bài giảng cho đến việc lựa chọn các phương pháp thích hợp”
[13;tr.188,tr.189].

Tìm hiểu vấn đề dạy học hợp tác nói chung và tìm hiểu vấn đề dạy học hợp
tác môn Ngữ Văn nói riêng ở trường phổ thông trung học là một vấn đề còn khá
mới ở nước ta. Lịch sử vấn đề của đề tài chúng tôi sẽ tìm hiểu ở hai góc độ:

a. Thứ nhất, là các nguồn tài liệu từ sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa
học. Bước sang thế kỉ XXI tư duy giáo dục của con người ngày càng phát triển
cùng với nhu cầu của xã hội việc lựa chọn phương pháp dạy học hiệu quả là một
trong những nhu cầu thiết yếu.
Trong quyển “ Văn chương và phương pháp giảng dạy văn chương”
(2000), Trịnh Xuân Vũ đã đề cập đến các phương pháp giảng dạy văn chương. Qua
đó, tác giả đã thể hiện quan điểm của mình: “Một phương châm giáo dục nổi tiếng
của UNICEF có nói rằng: Dạy học không phải là ban bố những gì mà ta có, mà là
giúp người học phát hiện sự phong phú của chính mình” [39;tr.115]. Hay : “Giao
tiếp, đối thoại , tranh luận là mỗi cá thể trò có quyền sử dụng “cỗ xe ngôn ngữ”
của mình, tiếng nói của mình để “chở khái niệm vào trong đầu óc mình”
[39;tr.121].
Quyển “ Dạy học Văn ở trường phổ thông trung học” (2001) của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hương đã đề cập đến phương pháp có vai trò rất quan trong đối
với đời sống, trong nghiên cứu khoa học. Đổi mới phương pháp dạy học Văn chính
là đổi mới việc đánh giá mối quan hệ giữa ba thành tố : Giáo viên - Học sinh – Văn
bản văn chương. Trong bài viết về đổi mới phương pháp dạy của giáo viên Văn
học khi lấy học sinh làm trung tâm đã đề cập : “Mục đích của phương pháp dạy
học Văn mới là làm sao để chủ thể người học dưới sự hướng dẫn của người thầy tự
CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

9

SVTH: Bạch Long



Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

cảm nhận, khám phá tác phẩm để tạo ra một sự phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm
hồn, năng lực, nhân cách người học. Do đó mọi phương pháp, biện pháp, hình
thức hoạt động của thầy trò đều nhằm làm sao thúc đẩy sự hoạt động trí tuệ của
bản thân từng học sinh” [14;tr.178].
Quyển “ Phương pháp dạy học Văn” (2005) do Phan Trong Luận (chủ biên)
đã nêu lên vai trò và vị trí của môn Văn ở trường phổ thông, quan niệm dạy học
theo phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại cho chúng ta thấy được
các phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường như : Các phương
pháp dạy văn học sử, dạy Làm văn, phương pháp dạy lí luận văn học phổ thông.
Bên cạnh đó, nêu lên vai trò và vị trí của giáo viên phổ thông trong việc giảng dạy
môn Văn.
Một trong những tài liệu đáng chú ý là chuyên đề phương pháp giảng dạy
“Tổ chức học hợp tác trong dạy học Ngữ Văn” (2006) của Ts. Nguyễn Thị Hồng
Nam. Trong chuyên đề này, tác giả đã trình bày ba vấn đề: Những vấn đề chung về
học hợp tác; Tổ chức học hợp tác trong dạy học Ngữ Văn và các hình thức đánh giá
hiệu quả học hợp tác.
Trong quyển giáo trình “ Lý luận dạy học” của tổ tâm lý – khoa sư phạm Đại học Cần Thơ năm 2007 đã trình bày những vấn đề cơ bản về Lý luận dạy học,
các phương pháp và hình thức dạy học. Trong đó, đáng chú ý là nhóm tác đã sử
dụng các phương pháp dạy học tiến bộ; Các hình thức dạy học có sử dụng hình
thức thảo luận nêu lên các vấn đề như : Khái niệm, tác dụng, các hình thức thảo
luận, các loại hình nhóm, ưu điểm của phương pháp này đã có tác dụng tích cực
trong nhận thức của sinh viên ngành Sư phạm góp thêm một tiếng nói vào xu
hướng đổi mới phương pháp giảng dạy.
Còn trong quyển “Đổi mới phương pháp dạy học chương trình và sách giáo
khoa” (2007) của Trần Bá Hoành đã đề cập đến nhiều phương pháp dạy học tích
cực bên cạnh các vấn đề về sách giáo khoa, tác giả đã trình bày về đổi mới phương

pháp trong giảng dạy như : Phương pháp tích cực, phương pháp hợp tác,…trên cơ

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

10

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

sở “Phương pháp lấy học sinh làm trung tâm” nhằm phát huy năng lực của học
sinh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Trên báo Giáo dục và thời đại chủ nhật - Số 32 đăng ngày 09/08/2009. Nhà
giáo ưu tú Đặng Hiển nguyên giáo viên chuyên Văn Trường THPT chuyên Nguyễn
Huệ - Hà Nội từng nhận xét : “ Phải thay đổi quan niệm về mục đích dạy văn. Dạy
văn không nhằm giúp học sinh hiểu một số bài văn mà là nhằm hình thành năng
lực văn học cho học sinh. Để hình thành năng lực đó phải dạy và luyện cho học
sinh nhiều thứ. “Dạy văn là một quá trình toàn diện” (Phạm Văn Đồng), trong đó
có tư tưởng, tâm hồn, ngôn ngữ, kiến thức văn học sử, kiến thức tác phẩm văn học,
kỹ năng làm các kiểu bài văn từ miêu tả, kể chuyện đến nghị luận (nghị luận xã
hội, nghị luận văn học), đặc biệt trang bị cho các em cơ sở lí luận văn học để các
em tự mình có thể phân tích, đánh giá các tác phẩm văn học, các hiện tượng văn
học”. Còn trong bài viết “Đổi mới phương pháp học : Không chỉ từ phía giáo
viên” đăng trên báo Giáo dục và thời đại chủ nhật - Số 45, 25/11/2009 đã nhìn
nhận: “Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những giải pháp mang tính đột
phá của ngành giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục. Tuy vậy, để thực hiện giải pháp này, không chỉ đơn giản là từ bỏ cách dạy

truyền thống, áp dụng những phương pháp mới một cách máy móc, giáo điều,…
mà kèm theo đó, cần phải thay đổi rất nhiều yếu tố khác, tạo được sự đồng bộ. Một
yếu tố cần phải thay đổi trước tiên là những người thầy thì cũng gặp không ít rào
cản: từ nhận thức, phương hướng, trình độ, cho đến sức ì quá lớn” [17].
Trong bài viết “Tổ chức cho sinh viên thảo luận nhóm trong dạy học Ngữ
Văn” của Ths. Nguyễn Minh Chính [4; tr.21] in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Ngữ Văn - Ngoại Ngữ trong trường
Đại học” do Trường Đại học Cửu Long tổ chức. Bài viết đã trình bày về khái niệm
thảo luận nhóm, các loại hình nhóm, các loại nhóm, nhiệm vụ của giáo viên,… bài
viết đã trình bày được những nét cơ bản nhất của hình thức tổ chức thảo luận
nhóm. Từ đó giúp chúng ta định hình cách tổ chức thảo luận nhóm và những điều
cần lưu ý.

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

11

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Trong bài viết “Giải quyết vấn đề thời gian đối với hoạt động nhóm” [2; tr.
26] của Ths. Nguyễn Thị Thu Thuỷ tập trung vào trình bày cách để giải quyết vấn
đề thời gian đối với hoạt động học nhóm trong đó đã đề cập đến giai đoạn chuẩn bị
và giai đoạn thực hiện trên lớp. Ở phần giai đoạn chuẩn bị tác giả đã bàn đến : Xây
dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết cho toàn bộ chương trình, cho từng chương, từng bài,
từng giờ dạy; Phân nhóm trước và hướng dẫn học sinh cách thức học nhóm; Yêu

cầu học sinh chuẩn bị bài trước. Sang phần giai đoạn thực hiện hoạt động trên lớp :
Chia vấn đề lớn thành nhiều vấn đề nhỏ, hoặc cho thảo luận đồng thời nhiều vấn đề
nhỏ có quan hệ cung cấp; Tạo điều kiện cho học sinh thực hiện nhiều thao tác đồng
thời; Xác định rõ thời gian thảo luận và thực hiện nghiêm túc quy định này; Không
yêu cầu tất cả các nhóm cùng báo cáo một vấn đề. Ngoài ra, trong bài viết còn trình
bài biện pháp hỗ trợ đã nêu lên muốn hoạt động nhóm thành công không bị giới
hạn thời gian giáo viên cần khích lệ ,động viên, khen thưởng và đôi khi tỏ ra cứng
rắn ra lệnh cho học sinh chấp hành.
Bên cạnh những bài viết thuộc chuyên ngành Sư phạm Ngữ Văn của Bộ
môn Sư Phạm Ngữ Văn được đăng trong các quyển Kỷ yếu hội nghị, hội thảo khoa
học thì vấn đề học hợp tác cũng được đặt ra và được bàn bạc ở các Bộ môn, các
nhóm nghiên cứu khác như:
[1] Nhóm nghiên cứu Piot 3 với đề tài nghiên cứu “Dạy học hợp tác ở khoa
Sư Phạm” (Đại học Cần Thơ) đã trình bày nội dung, mục tiêu, quá trình nghiên
cứu và vận dụng phương pháp dạy học hợp tác, sản phẩm của nhóm, hiệu quả của
chương trình đối với sinh viên – giáo viên. Trong đó đáng chú ý là phần quá trình
nghiên cứu và vận dụng phương pháp học hợp tác và phần hiệu quả của chương
trình đối với sinh viên – giáo viên đã có những tác động tích cực trong nhận thức
của sinh viên.
Một số bài viết của các cá nhân đáng chú ý như:
[1] Bài viết “Phương pháp dạy học khám phá trong dạy học Vật lý” của
PGS.TS Lê Phước Lộc; bài viết “Vận dụng mô hình “dạy học khám phá” theo

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

12

SVTH: Bạch Long



Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

nhóm học hợp tác trong giảng dạy môn “Lý luận dạy học Sinh vật” của Ths. Phan
Thị Mai Khuê ( Bộ môn Sinh).
[2] Bài viết “Phương pháp dạy học hợp tác đối với môn động vật không
xương sống” của Ths. Nguyễn Thị Mỹ Tín; bài viết “Vận dụng phương pháp dạy
học tích cực vào dạy Địa lý” của Ths. Hồ Thị Thu Hồ - Ths.Trần Thị Phụng Hà.
Các bài viết đã trình bày những suy nghĩ, cách làm mới nhằm mục đích cuối
cùng là nâng cao chất lượng đào tạo trong ngành giáo dục lên một tầm cao mới :
“Cấu trúc lại chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học là để hướng tới
mục tiêu giáo dục. Mục tiêu ấy là nhằm “đào tạo những con người lao động tự
chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết những vấn đề thường gặp, tự lo
được việc làm, lập nghiệp, thăng tiến trong cuộc sống, qua đó góp phần xây dựng
đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng và văn minh” [40;tr.7].Việc vận dụng
phương pháp dạy học tích cực, dạy học khám phá hay phương pháp dạy học thảo
luận nhóm ngày càng được sử dụng phổ biến rộng rải ở nhiều bộ môn trong ngành
giáo dục nhằm nâng cao năng lực của giáo viên cũng như học sinh góp phần vào
phát triển giáo dục, trí tuệ con người Việt Nam trong thời kì mới.

b. Thứ hai, là các nguồn tài liệu đã áp dụng thực tế giữa cơ sở lí thuyết vào
thực tiễn giảng dạy đó là luận văn.
Luận văn tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng sinh viên ngành Sư
phạm Ngữ Văn K27 (2005) với đề tài “Khảo sát hiệu quả sử dụng phương pháp
dạy học tích cực trong giảng dạy Ngữ Văn ở lớp 11A5 - Trường PTTH Nguyễn Việt
Hồng” do Ts. Nguyễn Thị Hồng Nam hướng dẫn. Luận văn gồm hai chương với
chương một là biên bản dự giời một số tiết dạy như: Bài Chí Phèo, Phong cách
ngôn ngữ văn chương và báo cáo của các nhóm học sinh về chuyến đi cộng đồng;
Chương hai khảo sát hiệu quả của việc dạy học tích cực ở lớp 11A5 - Trường

PTTH Nguyễn Việt Hồng trong phần này tác giả đã đề cập đến một số phương
pháp như : Phương pháp KUA, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đọc
diễn cảm, phương pháp diễn giảng, phương pháp đàm thoại,…Bên cạnh đó đã khảo

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

13

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

sát kết quả học tập của học sinh đồng thời tiếp nhận những phản hồi từ BGH và
học sinh về kết quả của việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực.
Luận văn tốt nghiệp của tác giả Cao Kiên Hồng Gấm sinh viên ngành Sư
Phạm Ngữ Văn K28 (2006) với đề tài “Tình hình dạy - học Văn ở lớp 11A1, lớp
11A3 Trường THPT Trà Cú ( Trà Vinh) thực trạng, nguyên nhân, giải pháp” do
Ths. Nguyễn Minh Chính hướng dẫn. Luận văn gồm hai chương:
Chương một. Khái quát về trường THPT Trà Cú và lớp 11A1,11A3 đã trình
bày những đặc điểm về trường, lớp cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, quá trình
thành lập của trường.
Chương hai. Tình hình dạy học Văn ở lớp 11A1 và lớp 11A3 – thực trạng,
nguyên nhân, giải pháp đã trình bày về thực trạng của hai lớp 11A1 và lớp 11A3
qua dự giờ một số tiết dạy, qua phiếu thăm dò và qua việc trao đổi ý kiến với BGH,
với giáo viên từ đó tìm ra nguyên nhân và nêu hướng khắc phục. Luận văn đã đi
vào nghiêm cứu nhìn nhận thực trạng, tìm ra nguyên nhân và nêu giải pháp khắc
phục những khó khăn trong quá trình tìm hiểu hoạt động tại trường.

Luận Văn tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Thuy Thuý sinh viên ngành Sư
phạm Ngữ Văn K28 (2006) với đề tài “Tình hình dạy - học Văn ở lớp 12A6
Trường THPT Bán công Vị Thanh” ( Hậu Giang). Luận văn gồm hai chương:
Chương một trình bày đặc điểm chung của Trường THPT Bán công Vị
Thanh và một số đặc điểm của lớp 12A6. Chương hai tác giả trình bày về tình hình
dạy - học Văn ở lớp 12A6 thông qua khảo sát thực tế. Từ đó, nêu lên thực trạng,
nguyên nhân, giải pháp khắc phục với tình hình thực tế.
Luận văn tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Dung ngành Sư phạm Ngữ Văn
K32 (2010) với đề tài “Tìm hiểu hoạt động dạy - học Văn ở lớp 11A và lớp 11E Trường THPT Lương Định Của ( Quận Ô Môn – TP. Cần Thơ) học kì II, năm học
2009 - 2010. Thực trạng, nguyên nhân, giải pháp” do Ths. Trần Đình Thích hướng
dẫn luận văn gồm hai chương với 105 trang.

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

14

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Chương một trình bày những đặc điểm của Trường THPT Lương Định Của
(TP.Cần Thơ) và đặc điểm hai lớp 11A và 11E. Tác giả đã trình bày đặc điểm về
trường như vị trí địa lí, quá trình thành lập, cơ sở vật chất, BGH, giáo viên, học
sinh, chủ trương và biện pháp của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học nói chung, dạy và học môn Ngữ Văn nói riêng. Về đặc điểm chung của hai lớp
tác giả trình bày về điều kiện đến lớp, chất lượng học tập của học sinh.
Sang chương hai tác giả trình bày hoạt động dạy - học Ngữ Văn ở hai lớp

11A và 11E với những điểm đáng lưu ý như vai trò của môn Ngữ Văn trong nhà
trường phổ thông, các phương pháp dạy học Ngữ Văn xưa nay, tìm hiểu thực trạng
dạy - học ở hai lớp 11A và 11E qua dự giờ, phiếu thăm dò, trao đổi với BGH, giáo
viên,… đồng thời cũng nêu lên những nguyên nhân hạn chế và thành công đã được
phát hiện. Qua đó, trình bày những giải pháp khắc phục từ góc độ nhà quản lí giáo
dục đến giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh,…
Luận văn tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Hằng Ni sinh viên ngành Sư
phạm Ngữ Văn K32 (2010) với đề tài “Tìm hiểu hoạt động dạy học Ngữ Văn ở lớp
11C4 - Trường THPT Ngã Sáu” (Hậu Giang) do Ths. Trần Đình Thích hướng dẫn.
Luận văn cũng gồm hai chương với 65 trang.
Chương một tác giả đã trình bày cơ sở lí luận về hoạt động dạy- hoạt động
học và mối quan hệ giữa chúng trong quá trình dạy học. Tác giả đã nêu lên các khái
niệm dạy, khái niệm học với mục đích, yếu tố tâm lý tác động đồng thời trình bày
mối quan hệ giữa chúng. Qua đó, làm nổi bật lên hoạt động dạy và học Ngữ Văn ở
Trường THPT hiện nay, các phương pháp sử dụng trong quá trình dạy học.
Chương hai tác giả đi vào tìm hiểu hoạt động dạy học Ngữ Văn ở lớp 11C4
- Trường THPT Ngã Sáu (Hậu Giang) trình bày đôi nét về lớp và tìm hiểu hoạt
động dạy và học của lớp thông qua dự giờ một số tiết dạy, phân tích hoạt động dạy
học của giáo viên và học sinh.
Nhìn chung dù tiếp nhận ở góc độ nào thì các bài viết cũng đi từ cơ sở lí
thuyết đến thực tiễn tuy có những hạn chế nhất định từ góc độ tiếp cận nhưng các
CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

15

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp


Ngành Sư phạm Ngữ Văn

công trình nghiên cứu, các bài viết là những nguồn tư liệu quý báo và cũng là tiền
đề quan trọng cho thế hệ sau nghiên cứu và phát triển đề tài hoàn thiện hơn.
Từ lí luận đến thực tiễn là cả một quá trình. Kiến thức chúng ta học ở trường
Đại học chỉ là một phần trong đại dương kiến thức. Lí luận phải gắn liền với thực
tiễn, lí luận mà không gắn liền với thực tiễn chỉ là lí luận xuông không có tính
thuyết phục. Với đề tài “ Tìm hiểu vấn đề dạy học hợp tác môn Ngữ Văn ở lớp
10C5, 11C2 và 11C4 - Trường THPT Ngã Sáu”( Hậu Giang), chúng tôi muốn kiểm
chứng một điều là việc học lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào thực tiễn có những
thuận lợi, khó khăn gì? Hiệu quả ra sao? Từ đó tìm ra biện pháp khắc phục.
Trong phần lịch sử vấn đề này, chúng tôi đã đi từ lí luận qua sách, báo, tạp
chí, kỷ yếu hội thảo khoa học đến thực tế qua khảo sát của sinh viên ở trường phổ
thông thực hiện đạt được những thành công bươc đầu tạo điều kiện cho thế hệ sau
có tiền đề nghiên cứu đồng thời giúp các nhà hoạch định giáo dục, các cấp quản lí
giáo dục có sự đầu tư đúng mức, có trách nhiệm với những chủ nhân tương lai của
đất nước trong thời kì hội nhập.

3. Mục đích, yêu cầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Học để hành, học với hành phải đi
đôi, học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”
[11;tr13]. Chính vì thế, khi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Tìm hiểu vấn đề dạy học
hợp tác môn Ngữ Văn ở lớp 10C5, 11C2 và 11C4 - Trường THPT Ngã Sáu (Hậu
Giang), chúng tôi nhận thấy rằng mục đích, yêu cầu của đề tài cần làm rõ các vấn
đề sau:
- Giữa cơ sở lý thuyết của hoạt động dạy học được học ở trường Đại học với việc
vận dụng cơ sở lý thuyết ấy vào thực tiễn ở trường phổ thông như thế nào?
- Tìm hiểu hoạt động dạy học trong thực tế mà cụ thể là ở lớp 10C5, 11C2 và 11C4
- Trường THPT Ngã Sáu (Hậu Giang).
- Thông qua quá trình tìm hiểu thực tế phân tích hoạt động dạy của giáo viên và

hoạt động học của học sinh qua một số tiết dự giờ kết hợp với việc phỏng vấn giáo
viên, học sinh và qua thăm dò ý kiến học sinh bằng phiếu câu hỏi để có những nhìn

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

16

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

nhận khách quan đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn. Từ đó, rút ra nhận xét, đánh
giá thực trạng của dạy học bộ môn Ngữ Văn ở trường phổ thông hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu
- Vận dụng lý thuyết của dạy học hợp tác vào thực tế.
- Tìm hiểu hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh ở lớp 10C5,
11C2 và 11C4 - Trường THPT Ngã Sáu (Hậu Giang).
- Dự giờ một số tiết của giáo viên, trong đó chú trọng quan sát hoạt động học hợp
tác mà giáo viên đã sử dụng trong quá trình giảng dạy.
- Phân tích hoạt động dạy và học của học sinh ở một số khía cạnh như: Giáo viên
đã sử dụng phương pháp dạy học nào? Thái độ học tập của học sinh ra sao? Hoạt
động dạy và học đã Logic, phù hợp với xu thế đổi mới phương pháp dạy học
chưa?
- Trao đổi với giáo viên và học sinh về vấn đề dạy học hợp tác ở trường phổ thông
hiện nay thông qua phỏng vấn.
5. Phương pháp nghiên cứu

Khi bắt tay vào thực hiện đề tày này việc lựa chọn phương pháp tiếp cận nhằm
đạt kết quả tốt nhất chúng tôi đã sử dũng các phương pháp sau:
- Sử dụng phương pháp sưu tầm, tổng hợp tài liệu có liên quan đến đề tài thông qua
sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học,các công trình nghiên cứu trước như
luận văn,…Sau đó, tổng hợp chọn lọc lại tài liệu sao cho phù hợp với đề tài.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá hoạt động dạy của giáo viên và hoạt
động học của học sinh qua một số tiết dự giờ.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, tổng hợp các ý kiến trao đổi trực tiếp với giáo
viên, học sinh và qua phiếu thăm dò ý kiến.
- Thu thập số liệu: Phiếu thăm dò ý kiến, kết quả học tập qua bảng điểm.

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

17

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

B – PHẦN NỘI DUNG
Chương một. LÍ LUẬN VỀ DẠY HỌC HỢP TÁC
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Những vấn đề chung về học hợp tác
Formatted: Bullets and Numbering

1.1 Khái niệm học hợp tác
Theo David Johson và Roger Johson những chuyên gia về lĩnh vực dạy học

hợp tác đã định nghĩa như sau: “Hợp tác là làm việc cùng nhau để đạt mục tiêu
chung. Trong quá trình học hợp tác, các cá nhân tìm kiếm những kết quả này
không chỉ có ích cho mỗi cá nhân mà còn có ích cho các thành viên khác trong
nhóm”. [23;tr.2]
Còn theo Ts. Nguyễn Thị Hồng Nam thì : “Học hợp tác là một hình thức tổ
chức dạy học trong đó các nhóm học sinh cùng nhau giải quyết các nhiệm vụ học
tập do giáo viên nêu ra, từ đó rút ra bài học dưới sự hướng dẫn của giáo viên”
[28;tr.2].
Một khái niệm về học hợp tác được đề cập đến qua bài viết của Ths. Nguyễn
Minh chính: “Thảo luận nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà sinh viên được
chia thành các nhóm nhỏ để thực hiện nhiệm vụ học tập do giảng viên đề ra.”
[8;tr.21]
Hình thức học tập này đòi hỏi các yêu cầu sau đây:
- Các thành viên trong nhóm phải tham gia trực tiếp và tích cực để cùng nhau
giải quyết nhiệm vụ học tập.
- Phải tạo được môi trường giao tiếp và hợp tác với các mối quan hệ giữa :
+ Sinh viên với sinh viên trong nhóm.
+ Các nhóm với nhau.
+ Sinh viên với giảng viên.
- Mỗi sinh viên trong nhóm có vai trò như nhau và cùng chịu trách nhiệm về sự
thành công của nhiệm vụ học tập.[8;tr.21]

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

18

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp


Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Giáo Viên

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Mô hình dạy học theo hình thức dạy học hợp tác

1.2 Những ưu điểm và yếu tố tạo nên thành công trong dạy học hợp tác

Formatted: Bullets and Numbering

1.2.1 Những ưu điểm
- Kiến thức của học sinh được mở rộng phát triển một cách tự nhiên không bị
áp đặt kiến thức.
- Học sinh có nhiều cơ hội học tập, nghiên cứu trao đổi lẫn nhau, hình thành
những mối quan hệ tốt đẹp : biết đoàn kết, chia sẽ, có ý thức bổn phận và trách
nhiệm với tập thể.
- Hình thành năng lực tư duy, sáng tạo, tự tin trước đám đông khi trình bày
quan điểm, chính kiến của mình đồng thời biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến
của người khác.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho những học sinh yếu kém tham gia hoạt
động học tập. Bên cạnh đó kịp thời uốn nắm định hướng những học sinh lười
biếng, ỷ lại tham gia học tập cùng với lớp.


1.2.2 Những yếu tố tạo nên thành công trong dạy học hợp tác
Theo David Johson và Roger Johson (1999) là những người đi đầu trong lĩnh
vực học nhóm phối hợp thì có 5 yếu tố tạo nên thành công trong dạy học hợp
tác [7;tr.115, tr.116 ]
1.

Sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực ( trong nghĩa cùng bơi và cùng

chìm với nhau),

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

19

SVTH: Bạch Long

Formatted: Bullets and Numbering


Luận văn tốt nghiệp

2.

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Sự tiếp xúc trực tiếp thúc đẩy sự hợp tác ( giúp đỡ nhau trong học tập,

ủng hộ những thành công và cô gắng của nhau),
3.


Trách nhiệm với tư cách ‘tôi” và với tư cách “chúng ta” ( mỗi thành

viên phấn đấu cho mình và cho tập thể mình),
4.

Các kỹ năng trong một nhóm nhỏ và giữa hai người với nhau ( giao lưu,

tin tưởng, có sự nhất trí về đường hướng, cùng nhau quyết định và giải quyết
những mâu thuẫn),
5.

Quá trình thành lập nhóm (cho biết một nhóm có chức năng gì và làm

thế nào để thể hiện chức năng đó).

1.3 Cách chia nhóm, loại hình nhóm và cách tổ chức lớp học

Formatted: Bullets and Numbering

1.3.1 Cách chia nhóm
Có hai cách chia nhóm: Chia ngẫu nhiên và chia nhóm cố định
Formatted: Bullets and Numbering

1.3.1.1Cách chia nhóm ngẫu nhiên
Là cách chia tuỳ thuộc vào số lượng thành viên trong lớp mà người giáo viên
có thể thực hiện cách chia này.
Ví dụ: Lớp có 20 học sinh muốn; chia làm 4 nhóm; giáo viên cho học sinh
đếm số, những học sinh cùng số sẽ cùng một nhóm
Nhóm 1: 1 1 1 1 1
Nhóm 2: 2 2 2 2 2

Nhóm 3: 3 3 3 3 3
Nhóm 4: 4 4 4 4 4

Formatted: Bullets and Numbering

1.3.1.2 Cách chia nhóm chỉ định
Giáo viên chỉ định những học sinh ngồi gần nhau sẽ cùng một nhóm, học sinh
không cần phải di chuyển chỗ ngồi của mình như cách chia ngẫu nhiên.
Mỗi cách chia đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Chính vì vậy,
giáo viên cần lựa chọn cách chia nhóm phù hợp với nội dung của bài học và tình
hình thực tế của từng lớp.
Khi chia nhóm giáo viên cần lưu ý:
-Các thành viên trong mỗi nhóm phải có sự đồng điều về trình độ giỏi, khá,
trung bình, yếu; học sinh nam và học sinh nữ xen kẽ trong nhóm.

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

20

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

-Việc sử dụng loại hình nhóm nào còn phải tuỳ thuộc nội dung của bài học, vào
thời lượng của bài học, chọn câu hỏi thảo luận trong tâm phù hợp. Ngoài ra,
còn tuỳ thuộc vào cơ sở vật chất của lớp ( bàn ghế, không gian lớp học,…)
- Giáo viên nên hạn chế sử dụng nhóm thảo luận trên 7 học sinh. Vì số thành

viên trong nhóm quá đông sẽ gây ra hiện tượng thụ động, ỷ lại những học sinh
khá giỏi.
-Mỗi thành viên trong nhóm phải được phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể và
phải cùng hợp tác với các thành viên khác trong nhóm để giải quyết vấn đề.
- Việc sử dụng thảo luận nhóm phải phù hợp tránh lạm dụng quá nhiều trong
một tiết học đồng thời vấn đề thảo luận nhóm phải tiêu biểu trọng tâm.
Formatted: Bullets and Numbering

1.3.2 Loại hình nhóm
Có hai loại hình nhóm cơ bản: Nhóm cố định và nhóm không cố định

Formatted: Bullets and Numbering

1.3.2.1 Nhóm cố định
Là loại hình nhóm các học sinh hoạt động cùng nhau trong một thời gian
( một tuần, vài tuần, thậm chí là một học kì) cùng nhau thực hiện những bài
tập lớn phức tạp mang tính nghiên cứu.
Đặc điểm của nhóm cố định:
- Các thành viên phụ thuộc vào nhóm để cùng nhau thực hiện nhiệm vụ được
giao. Có thể làm việc với nhau ngoài giờ lên lớp.
- Mỗi thành viên được phân công nhiệm vụ phù hợp với kỹ năng, năng lực của
từng cá nhân.
- Các thành viên trong nhóm phải có tinh thần trách nhiệm nhận xét, đánh giá,
chia sẽ,… tiến trình hoạt động của nhóm.
- Giáo viên đóng vai trò là người tổ chức, định hướng và cung cấp những
nguồn tư liệu, thông tin để nhóm hoàn thành nhiệm vụ.
1.3.2.2 Nhóm không cố định ( Quá trình thực hiện chủ yếu trên lớp học)
Là loại hình nhóm gồm những học sinh cùng làm việc với nhau từ một
vài phút đến dài nhất là một tiết học. Số lượng thành viên nhóm thích hợp
nhất là 2 học sinh hoặc 4 học sinh. Tuy nhiên, chúng ta có thể sử dụng nhóm

lớp hơn tuỳ thuộc vào nội dung bài học.

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

21

SVTH: Bạch Long

Formatted: Bullets and Numbering


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Nhóm không cố định được thành lập để các thành viên trong nhóm giải
quyết bài tập ở mức độ vừa phải, không quá phức tạp. Số lượng thành viên
trong nhóm không cố định tuỳ thuộc vào nội dung yêu cầu bài học và vấn đề
giáo viên giao cho nhóm thực hiện đồng thời cũng tuỳ thuộc vào thời gian của
tiết học ( 45 phút ) và sĩ số hiện diện trong lớp.
Loại hình nhóm không cố định có các loại nhóm sau :
- Nhóm 2 học sinh ( Pairwork).
- Nhóm 4 – 5 học sinh ( Groupwor).
- Nhóm ghép ( Jigsaw).
- Nhóm kim tự tháp ( Pyramid).
- Nhóm hoạt động trà trộn ( Mingling activities).

1.3.3 Cách tổ chức lớp học
Tuỳ vào điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường và tuỳ vào nội dung bài học
chúng ta có thể bố trí chổ ngồi, tổ chức lớp học sao cho phù hợp nhất.

Ở các nước phát triển có điều kiện khi mà số lượng học sinh trong một lớp ít,
phòng học rộng rãi, bàn ghế đơn giản dễ di chuyển nên việc tổ chức lớp học sẽ gặp
nhiều thuận lợi.
Ở nước ta, do điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn, lớp đông học sinh, bàn ghế
khó di chuyển nên việc bố trí, tổ chức lớp học sao cho phù hợp cũng là một bài toán
khó cho giáo viên vì phải đảm bảo phù hợp với nội dung bài học, học sinh hợp tác,
không mất nhiều thời gian, đạt hiệu quả. Tùy vào nội dung của bài học mà chúng ta có
thể lựa chọn loại hình nhóm và cách bố trí sao cho phù hợp nhất.
Ví dụ : Đối với những câu hỏi đơn giản chúng ta có thể sử dụng nhóm 2 – 4 học sinh,
bố trí chỗ ngồi cho 2 học sinh cùng bàn thảo luận. Còn đối với những câu hỏi khó cần
hợp tác mới tìm ra đáp án thì chúng ta có thể sử dụng nhóm ghép và bố trí chỗ ngồi
theo điều kiện hiện có của phòng học. Do vậy, chúng ta có thể bố trí lớp học như sau:

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

22

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Bàn GV

Mô hình chỗ ngồi
theo từng nhóm
Mô hình chỗ ngồi
theo hình chữ U


Mô hình thảo luận
nhóm 4HS

Bàn GV

Mô hình thảo luận
nhóm 2HS

Mô hình chỗ ngồi theo hình O

1.4 Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học hợp tác
1.4.1 Vai trò của giáo viên
Bác Hồ nói: “Thầy giáo ngày nay không phải như trước chỉ biết gõ đầu trẻ, miễn
là có bài cho học trò học, cuối tháng bỏ lương vào túi. Bây giờ thầy giáo có trách
nhiệm với nhân dân, đào tạo cán bộ ra phục vụ nhân dân. Cách dạy, quan niệm dạy
phải khác” [19; tr.6]. Vì thế, theo xu hướng hội nhập với nền giáo dục thế giới việc
đổi mới phương pháp giáo dục giúp học sinh ngày càng tự tin, năng động,…là một

CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

23

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn


nhu cầu tất yếu của xã hội. Phương pháp dạy học hợp tác là một hình thức dạy học
tích cực đáp ứng yêu cầu đó.
Trong thực tế hiện nay, có nhiều quan niệm trái ngược nhau về vai trò của giáo
viên khi sử dụng phương pháp dạy học theo hình thức này.Chính vì thế:
“ Công việc chủ yếu của giáo viên là tổ chức, hướng dẫn, sắp xếp một cách tài
tình, khéo léo, công phu, đầy nghệ thuật qua quá trình giao tiếp đó để tự học sinh
từng bước chiếm lĩnh tác phẩm và tự phát triển dần[21;tr.259] và “Để tổ chức một
giờ học đối thoại có kết quả, người giáo viên phải xử lí nhiều quan hệ phức tạp hơn.
Trong giờ học cũ, giáo viên chỉ cần hiểu tác phẩm là đủ. Công việc chủ yếu cũng là
trình bày sao cho hấp dẫn người nghe. Trong giờ học đối thoại, giáo viên không
phải nắm vững tác phẩm mà còn phải dự đoán những tình huống xảy ra trong sự
tiếp nhận của học sinh. Giáo viên không chỉ thuyết trình mà còn biết tổ chức cho
học sinh tham gia vào cuộc đối thoại sao cho trật tự, lôgic, có định hướng mà vẫn
đảm bảo không khí tự do tư tưởng, không khí cởi mở của một giờ văn
chương”[21;tr.318].
Giáo viên có những vai trò sau đây:
- Giáo viên phải thiết kế các bài tập thảo luận nhóm tập trung vào những vấn đề
trọng tâm của bài học, các tình huống đặt ra cho học sinh giải quyết.
- Tạo bầu không khí học tập thoải mái, thân thiện giữa thầy – trò, trò – trò. Đồng
thời giáo viên cần khơi gợi cho học sinh cách tạo bầu không khí sinh động, tôn
trọng lẫn nhau giữa các thành viên trong lớp.
- Giáo viên giao nhiệm vụ chung cho cả nhóm nhằm tạo ra sự phụ thuộc hỗ trợ hợp
tác giữa các thành viên cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ.
- Trong khi các nhóm thảo luận giáo viên quan sát và đi đến các nhóm nhắc nhỡ, gợi
mỡ, lắng nghe ý kiến học sinh, giải đáp thắc mắc, ghi chép những vấn đề phát
sinh,…
- Sau khi thảo luận xong, giáo viên tạo điều kiện cho các học sinh được trình bày kết
quả thảo luận của nhóm mình. Giáo viên cần chú ý khi trình bày nên gọi một học
sinh bất kì trong nhóm tránh trường hợp học sinh thoái thác, giao trách nhiệm cho
học sinh khá giỏi.


CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

24

SVTH: Bạch Long


Luận văn tốt nghiệp

Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Khi tiến hành dạy học bằng phương pháp dạy học hợp tác người giáo viên cần
đảm bảo 5 yếu tố sau:
− Xây dựng bài tập, câu hỏi thảo luận có độ khó bắt buộc các học sinh phải tư duy và
hợp tác với nhau.
− Đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm và giữa các nhóm trong lớp; tạo sự tin
cậy lẫn nhau để cùng hợp tác hoàn thành nhiệm vụ.
− Đảm bảo tất cả các thành viên trong nhóm đều làm việc đồng thời giáo viên cần tạo
điều kiện thuận lợi để các thành viên nắm vững kiến thức và kĩ năng đạt được sau khi
học xong bài học.
− Giáo viên quan sát quá trình làm việc của học sinh bổ sung, điều chỉnh những điều
được và chưa được của học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cần dạy cho học sinh cách
đánh giá, cách biết lắng nghe, tiếp thu những ý kiến của người khác.

1.4.2 Vai trò của học sinh
Lê Nin nói : “Học - Học nữa - Học mãi”. Hồ chí Minh nói : “Lấy tự học làm cốt”.
Einstin nói : “Kiến thức chỉ có được qua tư duy của một con người”. Một nhà khoa
học Pháp nói : “ Văn hoá không nhận được từ ngoài vào mà là kết quả của việc làm
bên trong, một việc làm của mình với mình…”[16; tr.53 ]. Trong xu thế nền giáo dục

Việt Nam hội nhập và phát triển cùng với nền giáo dục thế giới thì vai trò của người
học sinh ngày càng được quan tâm. Hoạt động nhóm sẽ giúp từng thành viên quen dần
với sự phân công hợp tác, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất
hiện thực sự nhu cầu hợp tác để hoàn thành công việc …[13; tr.14 ].
- Học sinh tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình, được tham gia đánh
giá và tự đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt các mục tiêu của từng phần trong trương
trình học tập, chú trọng bổ khuyết những mặt chưa đạt được so với mục tiêu trước khi
bước vào một phần mới chương trình [13; tr.28 ].
- Vai trò chủ động , tích cực,sáng tạo của học sinh được phát huy tối đa.

2. Cách thức tổ chức dạy học hợp tác
2.1 Thiết kế bài tập thảo luận nhóm
Thiết kế bài tập thảo luận nhóm cho học sinh thảo luận là một vấn đề khó khăn của
rất nhiều giáo viên, đòi hỏi giáo viên phải nắm vững kiến thức của bài học, dựa vào
năng lực trình độ của học sinh mà thiết kế bài tập thảo luận cho phù hợp.
CBHD: Ths. Nguyễn Minh Chính

25

SVTH: Bạch Long


×