Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn nguyễn khải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.93 KB, 106 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN

NGUYỄN HOÀNG VIỆN

NGÔN NGỮ HỘI THOẠI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: CHIM VĂN BÉ

Cần Thơ, 5 - 2011


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

B - PHẦN NỘI DUNG
Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÍ THUYẾT HÀNH ĐỘNG
NGÔN TỪ VÀ LÍ THUYẾT HỘI THOẠI


1.1. Lí thuyết hành động ngôn từ
1.2. Lí thuyết hội thoại
1.2.1. Khái niệm về hội thoại
1.2.2. Cấu trúc hội thoại
1.2.3. Yếu tố kèm lời và yếu tố phi lời
1.2.4. Các quy tắc hội thoại
1.2.5. Cơ chế tạo hàm ngôn hay hàm ý hội thoại

Chương 2

THỐNG KÊ VÀ PHÂN TÍCH NGÔN NGỮ HỘI THOẠI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI
2.1. Cơ sở và mục đích phân tích ngôn ngữ nhân vật
2.1.1. Cơ sở phân tích ngôn ngữ hội thoại
2.1.2. Mục đích phân tích ngôn ngữ hội thoại

2.2. Thống kê và giới hạn ngữ liệu phân tích
2.2.1. Thống kê


2.2.2. Giới hạn ngữ liệu phân tích

2.3. Phân tích ngôn ngữ hội thoại trong 5 truyện ngắn của Nguyễn Khải
2.3.1. Phân tích ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn Nằm vạ
2.3.2. Phân tích ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn Mùa lạc
2.3.3. Phân tích ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn Một người Hà Nội
2.3.4. Phân tích ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn Đất mỏ
2.3.5. Phân tích ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn Đàn bà

2.4. Nhận xét về ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Khải


C - PHẦN KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
BẢNG KÊ NGUYÊN DẠNG NGUỒN NGỮ LIỆU
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN


A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ hội thoại của con người trong đời sống giao tiếp hằng ngày thường
không có sự gọt giũa, chuẩn bị trước, không giống với ngôn ngữ của nhân vật trong tác
phẩm văn chương tự sự, có sự chuẩn bị trước, chọn lọc và chứa đựng bao dụng ý nghệ
thuật của tác giả. Hay nói khác đi, ở tác phẩm tự sự nói chung và truyện ngắn nói
riêng, một trong những phương tiện giúp tác giả nói với cuộc đời những vấn đề mà
mình bức xúc, boăn khoăn,… là hình tượng nhân vật. Thông qua những diễn biến về
nội tâm, tâm lí tính cách của từng nhân vật, và sự khác biệt, tương phản, đối lập về
tâm lí, tính cách của các nhân vật trong cùng một tác phẩm, ít nhiều chúng ta thấy
được cái thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn muốn gián tiếp gửi gắm vào cuộc đời.
Nguyễn Khải cũng không ngoại lệ. Là một nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi
Việt Nam sau năm 1945 và thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến
chống Pháp, Nguyễn Khải có những thành công đáng kể ở thể loại truyện ngắn. Cũng
như tiểu thuyết và truyện vừa, truyện ngắn của ông vừa mang tính thời sự nóng hổi,
vừa có tầm khái quát cao, thể hiện nhiều vấn đề thiết thực của cuộc sống, nhiều vấn đề
mang tính triết lí, đạo đức, nhân sinh sâu sắc. Do vậy, để nhận chân ra những giá trị tư
tưởng của Nguyễn Khải thể hiện trong truyện ngắn, không gì thú vị hơn là chúng ta
tìm hiểu ngôn ngữ hội thoại của nhân vật, đặc biệt là soi sáng nó dưới góc độ ngôn ngữ

học.
Để có thể soi rọi ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Khải từ góc độ ngôn ngữ, chúng ta không thể không sử dụng lí thuyết hành động ngôn
từ và lí thuyết hội thoại, hai lí thuyết thuộc chuyên ngành ngữ dụng học, vừa được giới
thiệu trong chương trình học những năm gần đây. Do vậy, khi quyết định lựa chọn đề
tài cho luận văn của mình, người viết đã chọn đề tài Ngôn ngữ hội thoại trong truyện
ngắn Nguyễn Khải. Qua đó, người viết muốn tạo cho mình một dịp tìm hiểu nghiên
cứu cả hai lĩnh vực: văn học (truyện ngắn Nguyễn Khải) và ngữ dụng học, cụ thể là
vận dụng lí thuyết hành động ngôn từ và lí thuyết hội thoại tiếp cận nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Khải.


Đó là những lí do thúc đẩy người viết chọn đề tài Ngôn ngữ hội thoại trong
truyện ngắn Nguyễn Khải.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về lí thuyết hội thoại
Lí thuyết hội thoại là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của ngữ
dụng học. Lí thuyết hội thoại được một số nhà ngôn ngữ học người ngoài xây dựng,
trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu đó, một số nhà Việt ngữ đã trình bày lại và vận
dụng vào việc nghiên cứu tiếng Việt, tiêu biểu nhất là hai công trình nghiên cứu: Ngữ
dụng học, tập một của Nguyễn Đức Dân và Đại cương ngôn ngữ học, tập hai của Đỗ
Hữu Châu. Sau đây, người viết sẽ điểm qua những nội dung cơ bản của lí thuyết hội
thoại được Nguyễn Đức Dân và Đỗ Hữu Châu trình bày công trình nghiên cứu của
mình.
Trong cuốn Ngữ dụng học, tập một, Nguyễn Đức Dân đã đề cập đến cấu trúc
hội thoại với các thành tố: lượt lời, mở thoại, cặp thoại; trong lượt lời có sự phân biệt
giữa tranh lời với trao lời. Cùng với cấu trúc hội thoại, ông còn đề cập đến nguyên lí
hội thoại và phép lịch sự. Nguyễn Đức Dân khẳng định: “Muốn cho một cuộc thoại
thành công, mỗi bên hội thoại cần tuân thủ những nguyên lí nhất định trong hội thoại.

Đó là nguyên lí cộng tác và nguyên lí lịch sự (còn gọi là phép lịch sự), những nguyên
lí chi phối, tác động mạnh mẽ tới quá trình hội thoại, cho phép giải thích hàm ý ở mỗi
lượt lời, những hình thức ngôn ngữ và cấu trúc của phát ngôn trong tình huống giao
tiếp cụ thể” [8; tr.129]. Đồng thời, Nguyễn Đức Dân cũng cho rằng: nguyên lí cộng tác
trong hội thoại gồm một nguyên lí khái quát bao trùm 4 tiểu nguyên lí và 4 phương
châm hội thoại: phương châm lượng, phương châm chất, phương châm quan hệ,
phương châm cách thức.
Bên cạnh Nguyễn Đức Dân là Đỗ Hữu Châu, trong cuốn Đại cương ngôn ngữ
học, tập hai, nội dung đầu tiên Đỗ Hữu Châu trình bày là vận động hội thoại, ông cho
rằng trong bất cứ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao lời, đáp lời, và
tương tác. Theo ông, quy tắc, cấu trúc, chức năng trong hội thoại đều do ba vận động
tương tác này mà có. Cùng với ba vận động hội thoại, Đỗ Hữu Châu còn trình bày quy
tắc hội thoại và cấu trúc hội thoại. Quy tắc hội thoại gồm: quy tắc điều hành luân


phiên lượt lời, quy tắc điều hành nội dung của hội thoại và quy tắc quan hệ liên cá
nhân – phép lịch sự.
Theo Đỗ Hữu Châu, quy tắc luân phiên lượt lời có mục đích phục vụ cho sự
phát triển nội dung cuộc thoại. Quy tắc luân phiên lượt lời có vận hành tốt thì hội thoại
mới có kết quả.
Còn quy tắc điều hành nội dung của cuộc thoại có chức năng điều hành nội
dung của hội thoại “không chỉ theo câu chữ mà còn phải điều hành cả những nghĩa
hàm ẩn” [5; tr.229]. Quy tắc điều hành nội dung cuộc thoại gồm hai nguyên tắc:
nguyên tắc cộng tác hội thoại và nguyên tắc quan yếu. Cùng quan điểm với Nguyễn
Đức Dân, Đỗ Hữu Châu cũng rằng nguyên tắc cộng tác hội thoại gồm 4 phương châm:
phương châm lượng, phương châm chất, phương châm quan hệ, phương châm cách
thức.
Đỗ Hữu Châu và Nguyên Đức Dân tuy có trình bày khác nhau về lí thuyết hội
khác nhau, nhưng nhìn chung về cơ bản có điểm tương đồng. Hai ông đều khẳng định
hội thoại là một hoạt động thường xuyên và phổ biến của ngôn ngữ. Hội thoại có tầm

quan trọng nhất định trong đời sống giao tiếp. Để đạt được kết quả hội thoại theo
mong muốn, mỗi bên tham gia hội thoại phải tuân thủ những nguyên tắc cộng tác hội
thoại và cấu trúc nhất định.

2.2. Về ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Khải
Từ lâu, Nguyễn Khải được giới nghiên cứu chú ý vì cái độc đáo của cá tính
sáng tạo. Nhà văn sớm định hình cho mình một phong cách riêng, ngày càng tỏ rõ bản
lĩnh nghệ thuật.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn chương của Nguyễn Khải, cũng có
một số công trình được tập hợp trong quyển Nguyễn Khải về Tác giả và Tác phẩm do
Hà Công Tài và Phan Diễm Phương tuyển chọn và giới thiệu. Tuy nhiên, hầu như
công trình nào cũng nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Khải từ góc độ lí luận văn
học, chúng tôi chưa tìm thấy một công trình nào nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật
trong truyện ngắn của Nguyển Khải từ góc độ ngôn ngữ học. Trong những công trình
nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Khải từ góc độ lí luận văn học, thỉnh thoảng một
vài nhà nghiên cứu có điểm qua vài nét về ngôn ngữ, tức nhiên ngôn ngữ nghệ thuật


đó được nhìn nhận bằng lí luận văn học. Trong công trình Vài đặc điểm phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Khải, Đoàn Trọng Huy nhận xét: “Ngôn ngữ của Nguyễn Khải
giàu chất sống, chất văn xuôi là ngôn ngữ hiện thực. Đặc biệt là tính chất nhiều giọng
điệu. Nhà văn thường đứng ở nhiều góc độ, nhiều bình diện để tả và kể. Không chỉ kể
bằng giọng của mình, bằng lời của người dẫn truyện, tác giả còn biết hóa thành nhiều
giọng điệu khác nhau: có đối thoại, có độc thoại, có ngôn ngữ trực tiếp, có ngôn ngữ
nửa trực tiếp… Đôi khi nghị luận nhiều rồi, Nguyễn Khải lại đưa vào vài lời nói mộc
mạc, dung dị, “thông tục” thường ngày của quần chúng. Những trang viết vì vậy đỡ
căng thẳng, và trở nên tươi tắn, chân thực, sinh động hơn. Chữ nghĩa của Nguyễn
Khải thường chứa ngầm nhiều ngụ ý và sắc thái biểu cảm khá phong phú” [32; tr.93].
Nhận định như thế chỉ mang tính chung chung và chưa có giá trị về ngữ học.
Kế thừa một phần thành quả của các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học,

các nhà phê bình văn học, ở đề tài Ngôn ngữ hội thoại trong truyện ngắn Nguyễn
Khải, người viết sẽ tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Khải từ góc độ ngôn
ngữ học. Cụ thể hơn, người viết sẽ tìm hiểu ngôn ngữ trong mối tương quan với chủ
thể và hoàn cảnh phát ngôn.

3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, người viết muốn thông qua việc phân tích các hành động
ngôn từ mà nhân vật thực hiện trong các cuộc thoại của quá trình hội thoại, đặc biệt là
ở các cuộc thoại vi phạm các phương châm hội thoại, để hướng tới mục đích tìm hiểu
tâm lí, tính cách của nhân vật và tư tưởng của Nguyễn Khải thể hiện trong truyện
ngắn. Đồng thời, chúng tôi khẳng định tầm quan trọng của ngôn ngữ hội thoại trong
việc xây dựng hình tượng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Khải, cũng như vai
trò của ngôn ngữ hội thoại trong việc gián tiếp biểu hiện các giá trị tư tưởng, tình cảm
nhà văn. Cùng lúc đó, người viết sẽ làm nổi bật đặc điểm của hình tượng nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Khải.

4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu truyện ngắn, chúng ta có thể đứng ở nhiều góc độ khác nhau như:
ngôn ngữ, văn học, văn hóa,… ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên, ở


đề tài của mình, người viết chủ yếu nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Khải ở góc độ
ngữ dụng. Cụ thể hơn, người viết sẽ nghiên cứu ngôn ngữ trong truyện ngắn của
Nguyễn Khải thông qua lí thuyết hành động ngôn từ và lí thuyết hội thoại.
Khi chúng ta nhắc đến ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm tự sự nói chung và
truyện ngắn Nguyễn Khải nói riêng, chúng ta phải kể đến ngôn ngữ trần thuật và ngôn
ngữ nhân vật. Trong ngôn ngữ nhân vật có ngôn ngữ hội thoại và ngôn ngữ độc thoại.
Do hạn chế về thời gian cũng như yêu cầu của luận văn, ở đề tài này, người viết chỉ
tìm hiểu ngôn ngữ hội thoại của nhân vật.


5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được hiệu quả của việc nghiên cứu, người viết sử dụng phương pháp
thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp để cảm nhận cái hay, cái đẹp của truyện ngắn
Nguyễn Khải.


B - PHẦN NỘI DUNG
Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÝ THUYẾT
HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ VÀ LÝ THUYẾT HỘI THOẠI
1.1. Lí thuyết hành động ngôn từ
Lí thuyết hành động ngôn từ do Austin, một nhà triết học người Anh, đưa ra.
Năm 1955, Austin sang Đại học Havard (Mĩ) trình bày một chuyên đề về triết học
ngôn ngữ, thể hiện qua 12 bài giảng. Ông qua đời năm 1960. Hai năm sau đó, 12 bài
giảng này được tập hợp lại và in thành sách với tiêu đề How to Do Things with Words
(Hành động như thế nào bằng lời nói), đặt nền móng cho lí luận về hành động ngôn từ.
Theo Austin nội dung cốt lõi của speech act (hành động ngôn từ) bao gồm:
locutionary act (hành động tạo lời), illocutionary act (hành động trong lời),
perlocutionary act (hành động qua lời). Lý thuyết này của Austin được các nhà ngữ
học Việt Nam tiếp thu và trình bày trong một số công trình nghiên cứu.
Trong Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng, theo Cao Xuân Hạo hành động
ngôn từ gồm: hành động mệnh đề, hành động ngôn trung, và hành động xuyên ngôn.
Theo ông hành động mệnh đề là “cái nội dung ý nghĩa được chuyển đạt trong một
hành động ngôn trung, gồm có một nhận định về một sự vật cụ thể (một sở chỉ nào
đó)” [12; tr.122]. Hành động ngôn trung là những hành động như “khẳng định (hay
phủ định), hỏi, yêu cầu làm một việc gì, hứa hẹn, miêu tả, xin lỗi, cám ơn, phê phán,
thách thức, cho phép, mà cũng có nhiều khi làm một lúc hai ba hành động như thế”
[12; tr.121]. Hành động xuyên ngôn là “một sự tác động vào tâm lý hay/ và hành vi
của người nghe, cho nên cũng gọi là lực xuyên ngôn (perlocutionary force) làm cho

người nghe xúc động, yên tâm, bị thuyết phục, bị áp đảo, bực mình, phấn khởi, v.v.”
[12; tr.121].
Trong giáo trình Ngữ dụng học, Nguyễn Đức Dân đã phân hành động ngôn từ
thành ba loại: hành vi tạo lời, hành vi tại lời, và hành vi mượn lời. Theo ông, hành vi
tạo lời có 3 phương diện: trước hết hành vi ngữ âm để tạo ra chuỗi âm thanh làm nên
phát ngôn đó, thứ hai là hành vi đưa giọng, thứ ba là hành vi tạo vật. Còn hành vi tại


lời được hiểu “là các hành vi như hỏi, trả lời, ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khẳng định,
cam kết, khuyên bảo…”[8; tr.17], và chúng được “thực hiện ngay trong lời nói” [8;
tr.17]. Và hành vi mượn lời là “hiệu quả mà người nói chủ bụng gây ra đối với người
nghe. Trong một tình huống cụ thể, qua cung cách nói năng khi thực hiện một hành vi
trong lời, người nói có thể nhằm một chủ đích, một mục tiêu nào đó cần đạt được” [8;
tr.19].
Trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Đỗ Hữu Châu chia hành động ngôn
từ thành: hành vi tạo lời, hành vi ở lời, và hành vi mượn lời. Các khái niệm được ông
trình bày như sau: Hành vi tạo lời theo ông là “hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn
ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu… để tạo ra một phát ngôn về hình
thức và nội dung” [5; tr.88]. Hành vi ở lời được giải thích “là những hành vi người nói
thực hiện ngay khi nói năng. Ví dụ về hành vi ở lời: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời, hứa
hẹn, khuyên bảo v.v…” [5; tr.89]. Còn hành vi mượn lời “là những hành vi “mượn”
phương tiện ngôn ngữ, nói cho đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu
quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc chính người nói” [5;
tr.88].
Trong cuốn Dụng học Việt ngữ, lí thuyết hành động ngôn từ được Nguyễn
Thiện Giáp chia hành động ngôn từ thành: hành động tại lời (locutionary act), hành
động ngoài lời (illocutionary act), hành động sau lời (perlocutionary act). Ông lần lượt
định nghĩa: “Hành động tại lời là hành động cơ sở phát ngôn, là hành động phát ra
một câu với ý nghĩa và sở chỉ xác định” [11; tr.44]. “Hành động ngoài lời là hành
động tạo ra một lời tuyên bố, một lời hứa, một lời chào… khi phát ra một câu nhờ hiệu

lực của những quy ước có liên quan tới nó” [11; tr.45]. “Hành động sau lời là hành
động gây ra hiệu quả ở người nghe nhờ phát ra một câu” [11; tr.45].
Giới thiệu lí thuyết hành động ngôn từ trong giáo trình Ngữ pháp học chức
năng tiếng Việt: Cú pháp học, tác giả Chim Văn Bé chia hành động ngôn từ thành:
hành động tạo lời, hành động trong lời, hành động qua lời. Theo ông hành động tạo
lời gồm có ba phương diện: Hành động phát âm (phonetic act), hành động kiểm giao
(phatic act), hành động tạo nghĩa - chiếu vật (rhetic act). Từ cơ sở trên, ông kết luận:
hành động tạo lời là “hành động sử dụng các phương tiện ngữ âm, từ vựng (và các quy
tắc kết hợp có sẵn trong ngôn ngữ) để tạo ra câu / phát ngôn với nội dung ngữ nghĩa


và chiếu vật ít nhiều xác định”[1; tr.18]. Hành động trong lời là “hành động được
người nói thực hiện bằng cách nói ra và khi nói ra điều gì đó (by saying and in saying
something). Chẳng hạn như chúc mừng, cám ơn, mời, hứa, van, xin, ra lệnh, kết tội,
đánh cược, phản bác, đề nghị, gợi ý, v.v…” [1; tr.18]. Hành động qua lời là “hành
động mà người nói thực hiện thông qua hành động trong lời, nhằm gây ra những hiệu
quả nào đó đối với xúc cảm, suy nghĩ và hành động của người nghe, của chính người
nói hay người khác một cách có chủ định, có mục đích” [1; tr.21].
Giới thiệu How to Do Things with Words của Austin, các tác giả trên đã chuyển
thuật ngữ và diễn giải nội dung khái niệm có nhiều chỗ không thống nhất. Nhưng để
vận dụng cho đề tài của mình, người viết tạm chấp nhận cách chuyển thuật ngữ và
cách diễn giải nội dung khái niệm của tác giả Chim Văn Bé. Bởi vì nội dung giới
thuyết các khái niệm của ông được đối chiếu với nguyên văn cụ thể của Austin, nên nó
rất khách quan và đáng tin cậy. Theo ông hành động ngôn từ gồm 3 phương diện:
Hành động tạo lời, hành động trong lời, hành động qua lời.
Hành động tạo lời (locutinonary act) là “hành động sử dụng các phương tiện
ngữ âm, từ vựng (và các quy tắc kết hợp có sẵn trong ngôn ngữ) để tạo ra câu / phát
ngôn với nội dung ngữ nghĩa và chiếu vật ít nhiều xác định” [1; tr.18].
Hành động trong lời (illocutionary act = in + locutionary act, in: trong) là “hành
động được người nói thực hiện bằng cách nói ra và khi nói ra điều gì đó (by saying

and in saying something). Chẳng hạn như chúc mừng, cám ơn, mời, hứa, van, xin, ra
lệnh, kết tội, đánh cược, phản bác, đề nghị, gợi ý, v.v…” [1; tr.18]. Hành động trong
lời là hành động có chủ định (intentional), mang tính quy ước (conventional) và tính
chế định (constitutional), mặc dù những quy ước và chế định về việc sử dụng hành
động trong lời là bất thành văn, và được mọi người trong một cộng đồng ngôn ngữ
tuân thủ không tự giác. Hành động trong lời làm thay đổi tư cách của người nghe hay
người nói so với trước đó.
Hành động qua lời (perlocutionary act = per + locutionary act, per: xuyên qua)
là “hành động mà người nói thực hiện thông qua hành động trong lời, nhằm gây ra
những hiệu quả nào đó đối với xúc cảm, suy nghĩ và hành động của người nghe, của
chính người nói hay người khác một cách có chủ định, có mục đích”[1; tr.21]. Hành


động qua lời có chủ định, có mục đích như hành động trong lời, nhưng không có quy
ước và chế định của xã hội.
Tác động mà hành động qua lời gây ra trong thực tế là hiệu lực qua lời
(perlocutionary force). Nhưng theo ý kiến riêng của tác giả Chim Văn Bé “không phải
hành động qua lời nào cũng gây ra hiệu lực qua lời như ý định chủ quan của người
nói. Những phản ứng không đúng với ý định của người nói không phải là hiệu lực qua
lời mà là phản hiệu lực” [1; tr.22].
Trong tác phẩm văn chương tự sự, nhiều nhà văn đã khai thác các phản hiệu lực
qua lời trong hội thoại của nhân vật để từng bước đẩy kịch tính, xung đột lên đỉnh
điểm một cách hợp lô – gích, tạo nên sức lôi cuốn và thuyết phục mạnh mẽ đối với
người đọc.
Ví dụ (1):
Trong Mùa lạc, khi Huân đến phòng Duệ, thấy cô làm nũng, muốn vỗ về nhưng
Huân hơi ngại vì có mặt Đào. Huân thở dài rất nhỏ, nhìn Đào nói gượng một câu:
- Chị không đi chơi một lúc cho đỡ buồn.
Ở câu này, ta thấy hành động tạo lời của Huân là sự kết hợp các từ, ngữ để tạo
nên câu nói “Chị không đi chơi một lúc cho đỡ buồn”. Hành động trong lời của Huân

là khuyên Đào nên “đi chơi” “cho đỡ buồn”. Đồng thời, Huân muốn nhờ Đào tránh
mặt “một lúc” để Duệ không ngại ngùng khi trò chuyện với Huân. Đó là điều mà Huân
muốn thực hiện ở hành động qua lời.
Hiểu được ý Huân muốn đuổi mình, đôi mắt hẹp của Đào loang loáng nhìn sang
Duệ, cặp môi như mím chặt lại, gò má lại càng dồ lên đanh đá:
- À, khi buồn non nước cũng buồn. Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui.
Ở câu này, hành động tạo lời của Đào sử dụng tình thái từ “À” và câu tục ngữ
“khi buồn non nước cũng buồn. Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui”, để tạo nên câu
nói của mình. Hành động trong lời của Đào là xác nhận (với Huân) một sự thật: Khi
con người “buồn” thì “non nước cũng buồn”, thiên nhiên cũng buồn theo tâm trạng
con người, khi con người “vui” thì “gánh đá lên nguồn cũng vui”, có cực khổ tới đâu
thì họ cũng vui vẻ, hài lòng. Qua đó, Đào muốn nói với Huân rằng: nếu có buồn thì đi
đâu cũng chẳng hết buồn, cùng lúc đó, Đào từ chối lời khuyên của Huân. Đó là hành
động qua lời. Câu trả lời của Đào ít nhiều cho ta thấy được sự đanh đá, chua ngoa chị.


Cũng qua câu trả lời này, ta thấy hành động qua lời của Huân chưa đạt được hiệu lực.
Hay nói khác đi, những phản ứng của Đào, nhìn từ góc độ Huân thì nó là phản hiệu lực
qua lời.

1.2. Lí thuyết hội thoại
1.2.1. Khái niệm về hội thoại
Giao tiếp là hành động tiếp xúc giữa con người với con người trong xã hội
thông qua một phương tiện nhất định, trong đó ngôn ngữ là phương tiện quan trọng
nhất. Giao tiếp có thể diễn ra ở dạng nói hoặc dạng viết, tuy nhiên dạng nói là phổ biến
và chủ yếu. Trong giao tiếp dạng nói thì hội thoại là hình thức giao tiếp phổ biến.
Về khái niệm hội thoại, có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng để vận dụng vào đề
tài của mình, người viết tạm chấp nhận với khái niệm sau đây: “Khái niệm hội thoại có
liên quan mật thiết với khái niệm giao tiếp, tuy nhiên hẹp hơn khái niệm giao tiếp. Nếu
giao tiếp có thể diễn ra một chiều hay hai chiều, có thể ở dạng nói hay viết, thì hội

thoại là hoạt động giao tiếp diễn ra hai chiều ở dạng nói”[16; tr.66]. Như vậy, hội
thoại được coi là một phần cơ bản, quan trọng của giao tiếp, có người nói, người nghe
và có nội dung xác định, diễn ra hai chiều, có sự luân phiên lượt lời.
Xét trong mối quan hệ với chủ thể phát ngôn, có các dạng hội thoại: song thoại,
tam thoại và đa thoại. Tuy nhiên, song thoại là hình thức giao tiếp quan trọng và phổ
biến nhất.

1.2.2. Cấu trúc hội thoại
Bàn về cấu trúc hội thoại, các tác giả đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Theo
Nguyễn Đức Dân, cấu trúc hội thoại gồm những yếu tố: lượt lời, mở thoại, cặp thoại.
Còn theo Đỗ Hữu Châu, có ba trường phái khác nhau về cấu trúc hội thoại. Đó là
trường phái phân tích hội thoại (conversation analysis) ở Mĩ, trường phái phân tích
diễn ngôn (discourse analysis) ở Anh, và trường phái lí thuyết hội thoại ở Thụy Sĩ và
Pháp.
Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của một số tác giả kết hợp với việc xem
xét hội thoại trong thực tiễn, chúng tôi quan niệm cấu trúc hội thoại gồm: cấu trúc tĩnh
và cấu trúc động.


1.2.2.1. Cấu trúc tĩnh của hội thoại
Nếu xem hội thoại như một sản phẩm có sẵn của hoạt động giao tiếp ta sẽ có
cấu trúc tĩnh của hội thoại. Theo trật tự tôn ti, cấu trúc tĩnh của hội thoại gồm có:

1.2.2.1.1. Ngôn bản hội thoại
Ngôn bản hội thoại là đơn vị lớn nhất của hội thoại, bao gồm nhiều cuộc thoại,
có nội dung hoàn chỉnh, xoay quanh một đề tài và một chủ đề nhất định.

1.2.2.1.2. Cuộc thoại
Cuộc thoại là đơn vị lớn thứ hai của hội thoại, là toàn bộ cuộc đối đáp giữa các
nhân vật từ khi khởi động hội thoại cho đến khi chấm dứt. Dựa vào những cơ sở khác

nhau có thể chia: cuộc thoại nghi thức – cuộc thoại không nghi thức, cuộc thoại có
người điều khiển – không có người điều khiển. Tiêu chí để xác định một cuộc thoại
thông thường là: nhân vật hội thoại, tính chỉnh thể về thời gian và địa điểm, tính chỉnh
thể về nội dung, các dấu hiệu bắt đầu và kết thúc. Cuộc thoại có thể có một hay nhiều
đoạn thoại. Đơn vị tối giản của cuộc thoại là cặp thoại.

1.2.2.1.3. Đoạn thoại
Đoạn thoại là một bộ phận của cuộc thoại, là một mảng diễn ngôn do một số
cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa và ngữ dụng. Dựa vào nội dung,
có thể phân biệt đoạn thoại có cặp thoại chủ hướng và đoạn thoại không có cặp thoại
chủ hướng. Trong cuộc thoại, có thể có nhiều đoạn thoại, khi chuyển từ một vấn đề
này sang một vấn đề khác, hay từ một nhân vật này sang một nhân vật khác, nhưng
không có sự đứt quãng, không có sự thay đổi về không gian, thời gian, ta có đoạn thoại
khác.

1.2.2.1.4. Cặp thoại
Cặp thoại là hai lượt lời có quan hệ với nhau về chức năng, về nội dung và có
thể liền kề nhau hay gián cách. Hay nói cách khác, một trong những vận động của hội
thoại là tương tác, trong tương tác bằng lời, mỗi lượt lời đều có quan hệ với lượt lời
trước nó, và định hướng cho lượt lời sau nó theo dạng: hỏi – trả lời, xin lỗi – chấp
nhận lời xin lỗi, chào – chào, yêu cầu – đáp ứng, trao – nhận. Tuy nhiên, cũng có khi
lượt lời thứ nhất và lượt lời thứ hai có sự gián cách, tức bị xen bởi lượt lời khác. Có
hai loại:


1.2.2.1.4.1. Cặp thoại phi hồi đáp
Cặp thoại phi hồi đáp là cặp thoại không có sự hưởng ứng hồi đáp từ phía người
nghe.
Ví dụ (2):
Đứng trước cổng nhà cả hai đều dừng lại và cứ đứng im lặng bên nhau rất lâu.

Rồi Tùng nói trước, giọng nói hổn hển, đứt quãng như người siễng:
- Anh thật lòng không muốn xa em, muốn mãi mãi được sống bên em. Chả biết
em nghĩ thế nào ?
Lượm mím chặt môi… (Nguyễn Khải: Đất mỏ)
Ở cặp thoại trên ta thấy có sự trao lời của Tùng, nhưng không có sự hồi đáp của
Lượm. Những cặp thoại như thế là cặp thoại phi hồi đáp hay còn gọi là cặp thoại hẫng.

1.2.2.1.4.2. Cặp thoại trao - đáp
Cặp thoại trao – đáp là cặp thoại gồm hai lượt lời, một của người nói, một của
người nghe. Lượt lời thứ nhất có chức năng trao lời, lượt lời thứ hai có chức năng hồi
đáp:
Ví dụ (3):
Ông lão hỏi nhỏ vợ:
- Bạn gái thằng Tùng đấy à?
Bà vợ cười:
- Người quen của thằng Trí, cô ấy ở đây ít hôm đợi việc làm. (Nguyễn Khải:
Đất mỏ)
Ở cặp thoại trên, ta thấy có sự trao lời của bố Tùng và sự hồi đáp của mẹ Tùng.
Đó là cặp thoại trao – đáp.

1.2.2.1.5. Lượt lời
Lượt lời là sản phẩm ngôn từ mà người giao tiếp nói trong một lần nói liên tục.
Mỗi lượt lời có thể có một hay nhiều phát ngôn có quan hệ với nhau về chức năng và
nội dung.
Ví dụ (4):
Lượm đứng lên, nói lễ phép:
- Em chào anh, em là Lượm.


- Chúng tôi xin cảm ơn cô đã đến đây. Có cô thì cái nhà này sẽ vui hơn nhiều.

(Nguyễn Khải: Đất mỏ)
Trong cặp thoại giữa Lượm và Tùng, ta thấy có hai lượt lời, lượt lời thứ nhất:
“Em chào anh, em là Lượm” là lượt lời của Lượm, lượt lời thứ hai: “Chúng tôi xin cảm
ơn cô đã đến đây. Có cô thì cái nhà này sẽ vui hơn nhiều” là lượt lời của Tùng.

1.2.2.1.6. Phát ngôn
Phát ngôn là đơn vị nhỏ nhất của cấu trúc hội thoại, là một câu cụ thể trong thực
tiễn giao tiếp.
Ví dụ (5):
Tôi hỏi cô
- Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?
Cô trả lời:
- Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh
của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng. (Nguyễn Khải: Một người Hà Nội)
Trong cặp thoại trên, lượt lời thứ nhất có một phát ngôn (1 câu). Lượt lời thứ
hai có hai phát ngôn (2 câu).
Ở cấu trúc tĩnh, ta thấy ngôn bản hội thoại được hiện thực hóa bằng cuộc thoại,
cuộc thoại được hiện thực hóa bằng đoạn thoại, đoạn thoại được hiện thực hóa bằng
cặp thoại, cặp thoại được hiện thực hóa bằng lượt lời, lượt lời được hiện thực hóa
bằng phát ngôn. Như vậy, trong cấu trúc tĩnh, các đơn vị cấu trúc quan hệ với nhau
bằng quan hệ hiện thực hóa.
Trong đó, ngôn bản hội thoại, cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại là những đơn vị
cơ sở trong cấu trúc hội thoại, còn lượt lời và phát ngôn là những đơn vị tạo cơ sở
trong cấu trúc hội thoại. Chúng tôi phân biệt như thế bởi vì hội thoại là giao tiếp hai
chiều ở dạng nói, nên đòi hỏi tối thiểu của nó là phải có một cặp thoại, nếu không tạo
ra được một cặp thoại, ta sẽ không có hội thoại. Vì lẽ đó mà chúng tôi gọi cặp thoại,
đoạn thoại, cuộc thoại và ngôn bản hội thoại là đơn vị cơ sở của hội thoại. Bên cạnh
đó, muốn tạo ra một cặp thoại, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò của những
đơn vị cấp dưới: lượt lời và phát ngôn. Nếu không có lượt lời và phát ngôn thì sẽ



không có cặp thoại. Chính vì vậy, chúng tôi tạm gọi lượt lời và phát ngôn là những
đơn vị tạo cơ sở.

1.2.2.2. Cấu trúc động của hội thoại
Trong hội thoại, người nói và người nghe luôn có sự hợp tác chặt chẽ, luân
phiên lượt lời với nhau, để tạo nên sự vận động và diễn tiến cho hội thoại. Quá trình đó
có hai vận động chính là sự trao lời và sự đáp lời. Đồng thời, sự trao và đáp cũng
không ngừng tác động qua lại, cùng nhau duy trì và thúc đẩy hội thoại tiến về phía
trước. Như vậy, ta nói trong quá trình vận động của hội thoại có sự tương tác giữa các
vận động trao lời và đáp lời.
Nếu xem hội thoại là một quá trình vận động như trên, thì ta có cấu trúc động
của hội thoại. Trong cấu trúc động, đơn vị cơ sở của hội thoại là hành động trong lời
và hành động qua lời. Chính hành động trong lời và hành động qua lời đã tạo nên sự
tương tác, thúc đẩy quá trình vận động của hội thoại. Và sự tương tác đó lại tạo nên
tính mạch lạc cho cuộc thoại.
Cấu trúc động của hội thoại bao gồm:

1.2.2.2.1. Sự trao lời
Trao lời là vận động mà người nói nói lượt lời của mình ra và hướng lượt lời
của mình về phía người nghe, nhằm làm cho người nghe nhận biết được rằng lượt lời
được nói ra đó là dành cho người nghe.
Ví dụ (6):
An đã nằm xuống gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với:
- Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé.
- Ừ, em cứ ngủ đi. (Thạch Lam: Hai đứa trẻ).
Ở cặp thoại trên, An đã nói lượt lời của mình ra và hướng lượt lời về phía Liên.
Khi trao lời An mong nhận được câu trả lời của Liên.

1.2.2.2.2. Sự hồi đáp

Sau khi tham khảo quan niệm của một số nhà nghiên cứu, chúng tôi quan niệm:
Sự hồi đáp là sự ứng đáp của người nghe đối với một lượt lời mà người nói vừa trao
cho.


Sự hồi đáp có thể mang tính tích cực hay tiêu cực. Dựa vào tính tích cực hay
tiêu cực của sự hồi đáp, chúng ta có Lời hồi đáp tích cực và lời hồi đáp tiêu cực.

1.2.2.2.2.1. Lời hồi đáp tích cực
Lời hồi đáp tích cực là lời hồi đáp cung cấp thông tin đúng theo yêu cầu của
đối tác. Trong lời hồi đáp tích cực, ta có lời hồi đáp tích cực trực tiếp và lời hồi đáp
tích cực gián tiếp.
Lời hồi đáp tích cực trực tiếp là lời hồi đáp cung cấp thông tin đúng theo yêu
cầu của đối tác một cách trực tiếp.
Lời hồi đáp tích cực gián tiếp là lời hồi đáp cung cấp thông tin đúng theo yêu
cầu của đối tác một cách gián tiếp.
Ví dụ (7):
Liên đếm lại những phong thuốc lào, xếp vào hòm các bánh xà phòng còn lại,
vừa lẩm nhẩm tính tiền hàng. Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì. Liên
hỏi:
- Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không?
An ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Vâng, bà ta mua hai bánh còn bà cụ Thi lấy nửa bánh nữa. (Thạch Lam:
Hai đứa trẻ)
Ở cặp thoại này, lời hồi đáp của An đã trực tiếp cung cấp thông tin đúng theo
yêu cầu của Liên. Đó là một lời hồi đáp tích cực trực tiếp.
Ví dụ (8):
Trong Một thời gió bụi của Nguyễn Khải, sau khi nghe Đồi khuyên nên sống ở
thành phố cho sướng, Tú liền nói:
- Ở quê mà giàu như chú không sướng à?

Đồi nói:
- Tiền còn có nhưng sống không còn ra con người. Làm hơn con trâu còn ăn
không bằng con chó…
Ở cặp thoại này, ta thấy để hồi đáp câu hỏi của Đồi đã cung cấp đúng thông tin
mà Tú cần biết. Nhưng lẽ ra, để cung cấp đúng thông tin mà Tú muốn biết, Đồi có thể
trực tiếp nói Sống ở quê không sướng đâu anh, nhưng Đồi lại gián tiếp khẳng định
điều đó thông qua việc khẳng định mình “sống không còn ra con người” và việc so


sánh mình với “con trâu”, “con chó”. Do đó, lời hồi đáp của Tú là lời hồi đáp tích cực
gián tiếp.

1.2.2.2.2.2. Lời hồi đáp tiêu cực
Lời hồi đáp tiêu cực là lời hồi đáp không cung cấp thông tin đúng theo yêu cầu
của đối tác. Trong lời hồi đáp tiêu cực, có lời hồi đáp tiêu cực trực tiếp và lời hồi đáp
tiêu cực gián tiếp.
Lời hồi đáp tiêu cực trực tiếp là lời hồi đáp không cung cấp thông tin đúng
theo yêu cầu của đối tác một cách trực tiếp.
Lời hồi đáp tiêu cực gián tiếp là lời hồi đáp không cung cấp thông tin đúng
theo yêu cầu của đối tác một cách gián tiếp.
Ví dụ (9):
Rồi đến một hôm, quản ngục mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn:
- Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là một
người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài giữ kín cho. Sợ đến tai
lính tráng họ biết, thì phiền lụy riêng cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài có cần thêm gì nữa
xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất.
Ông đã trả lời quản ngục:
- Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây. (Nguyễn Tuân: Chữ người tử tù)
Ở lời hồi đáp của Huấn Cao, ta thấy ông đã trực tiếp cung cấp thông tin không

đúng theo yêu cầu của viên quản ngục. Đó là lời hồi đáp tiêu cực trực tiếp.
Ví dụ (10):
Giờ nghỉ sáng nay có thêm một rá lạc luộc. Cả hai, ba tổ cùng kéo lại ăn chung
trò chuyện cho vui. Lâm ngồi dạng chân, tay tách lạc, mắt nhìn Đào nhấp nháy:
- Thế nào cô em, có bao giờ cô em về dưới xuôi cho tôi gởi nhờ cái này.
Đào vênh hẳn một bên mặt, môi chúm lại, mắt đưa đẩy:
- Về là về cửa về nhà. Một trăm năm nữa mới đà về quê. (Nguyễn Khải: Mùa
lạc)
Trong lời hồi đáp của Đào, ta thấy Đào đã từ chối lời nhờ vả của Lâm. Đó là lời
hồi đáp tiêu cực. Tuy nhiên, Đào không trực tiếp từ chối lời nhờ của Lâm, mà chị đã


mượn nội dung của một câu nói bóng bẩy, giàu tính nhạc của dân gian để từ chối. Do
đó, đây là lời hồi đáp tiêu cực gián tiếp.

1.2.2.2.3. Sự tranh lời (xen lời)
Sự tranh lời là sự ngắt lời của người đối thoại khi người đối thoại chưa kết thúc
lượt lời của họ.
Ví dụ (19):
Xuân đã chợt thấy bóng bà Văn Minh thấp thoáng ở trong nhà. Nó bèn rón rén
vào:
- Lạy bà ạ.
- Thế anh này anh hỏi gì?
Xuân lúng túng xoa tay:
- Bẩm… bẩm… bà lớn Phó Đoan, hôm qua…
Với câu nói ấp úng, lấp lửng của Xuân, Văn Minh cắt lời ngay:
- Im! Anh phải gọi là bà Phán, không thì bà ấy không bằng lòng. (Vũ Trọng
Phụng: Số đỏ)
Trong đoạn thoại trên, ta thấy Văn Minh đã tranh lời Xuân tóc đỏ bằng cách
“cắt lời ngay” và xen vào đó lượt lời của mình.


1.2.2.2.4. Sự tương tác
Trong quá trình trao đáp của hội thoại, sự tương tác thể hiện ở chỗ các nhân vật
ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại với nhau làm cho hội thoại biến đổi. Trước khi
có hội thoại, các nhân vật tham gia hội thoại thường có sự khác biệt, thậm chí trái
ngược về các mặt. Nhưng trong quá trình hội thoại, do sự tương tác, những khác biệt
ấy có thể giảm đi hoặc mở rộng ra, đôi khi căng lên thành một xung đột. Sự tương tác
này thể hiện ở hai mặt:

1.2.2.2.4.1. Sự tự hòa phối
Sự tự hòa phối là sự tự điều chỉnh hành động, thái độ, lượt lời của người nói
theo từng bước của cuộc thoại, sao cho khớp với những biến đổi của đối tác và tình
huống hội thoại đang diễn ra, phù hợp với mục tiêu giao tiếp mà mình đã định.
Ví dụ (11):
Nhiều bạn bè cũng tỏ ý ngờ vực:


- Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?
Cô tôi trả lời thật nhẹ nhàng:
- Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết. (Nguyễn Khải: Một người
Hà Nội)
Đây là cặp thoại của bạn cô Hiền với cô Hiền. Ở cặp thoại này, ta thấy để trả lời
câu hỏi của bạn mình, cô Hiền phải điều chỉnh thái độ sao cho “thật nhẹ nhàng”, đặc
biệt là cô phải lựa chọn lượt lời hồi đáp sao cho phù hợp với câu hỏi của bạn mình,
cũng như phù hợp với tình huống và mục đích giao tiếp của cô. Để có được nội dung
và hình thức của lời hồi đáp “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”, tự bản
thân cô Hiền phải có sự tác động qua lại giữa hành động tạo lời, hành động trong lời,
hành động qua lời. Đó chính là sự tự hòa phối của cô Hiền trong quá trình hội thoại.

1.2.2.2.4.2. Sự liên hòa phối

Sự liên hòa phối là sự phối hợp sự tự hòa phối của từng nhân vật. Nói cách
khác, sự liên hòa phối là sự phối hợp của người nói và người nghe trong quá trình trao
đáp, sao cho phù hợp với tình hình diễn biến của cuộc thoại. Sự liên hòa phối có thể
diễn ra theo hai trục: trục nối tiếp và trục đồng thời. Ở trục nối tiếp: mỗi nhân vật hội
thoại có sự biến đổi cách ứng xử của mình một cách thích ứng sau khi đối tác đã thực
hiện một biến đổi nào đấy; còn biểu hiện của sự liên hòa phối trên trục đồng thời là cả
hai người tham gia hội thoại cùng thực hiện sự tự hòa phối trong quá trình trao và đáp.
Ví dụ (12):
Tùng kể xong rồi cười. Cô bạn gái của anh không cười chỉ hỏi:
- Các anh ở mỏ hay đánh bạc lắm à?
- Không đánh bài thì còn biết chơi gì?
- Các anh cũng hay ăn cắp than của nhà nước à?
- Tiền lương cuối tháng mới có, có dạo mỏ nợ vài tháng mới trả lương. Nếu
không ăn cắp than lấy đâu tiền hàng ngày mua gạo cho người mua cám cho lợn.
- Các anh cũng hay đánh vợ nhỉ?
- Thi thoảng thôi, chứ không phải ngày nào cũng đánh. (Nguyễn Khải: Đất
mỏ).
Ở cuộc thoại trên, để tạo ra lượt lời của mình, Lượm phải tự điều chỉnh hành
động, thái độ, và nội dung thông tin mà mình muốn giao tiếp, Tùng cũng thế. Tuy


nhiên, sự tự hòa phối của riêng Lượm hoặc riêng Tùng chưa có thể thúc đẩy cuộc thoại
tiến về phía trước. Để cho cuộc thoại trên được liên tục, cần có sự kết hợp sự tự hòa
phối của Lượm và Tùng. Sự kết hợp sự tự hòa phối ấy chính là sự liên hòa phối của
Lượm và Tùng.
Như vậy, nếu trong cấu trúc tĩnh của hội thoại các đơn vị quan hệ với nhau
bằng quan hệ hiện thực hóa thì trong cấu trúc động của hội thoại, các đơn vị quan hệ
với nhau bằng quan hệ tương tác.
Trong các tác phẩm văn chương tự sự, qua vận động hội thoại trong các cuộc
hội thoại của nhân vật, chúng ta ít nhiều nhận thấy được sự vận động nội tâm cũng như

tính cách nhân vật.

1.2.3. Yếu tố kèm lời, yếu tố phi lời
1.2.3.1. Yếu tố kèm lời
Yếu tố kèm lời là những yếu tố siêu đoạn tính, gắn bó hữu cơ với những yếu tố
đoạn tính, đó là ngữ điệu, trọng âm, cường độ, đỉnh giọng,…
Ví dụ (13):
Không một hôm nào bà Hai ở quán về mụ không sấn đến vạch thúng ra xem.
- Ái chà! Nhà này có mớ cá ngon gớm, chiều tớ phải xin một bát mới được.
Thế là chiều mụ sai con bưng bát đến xin. Mụ đẩy lưng thằng bé:
- Con cứ xuống mà xin, tội gì. (Kim Lân: Làng)
Ở lượt lời thứ nhất của chủ nhà, ta thấy có câu “Ái chà!”, nếu nó được phát âm
với một ngữ điệu khác với bình thường, cường độ mạnh hơn bình thường thì nó chính
là yếu tố kèm lời trong lượt lời của mụ chủ nhà. Nhân vật giao tiếp thường sử dụng
yếu tố kèm lời nhằm mục đích bộc lộ tình thái hay kiểm giao. Ở đây, mụ chủ nhà đã sử
dụng yếu tố kèm lời trong lượt lời của mình nhằm mục đích biểu lộ tình thái.

1.2.3.2. Yếu tố phi lời:
Yếu tố phi lời là những yếu tố vật lí bên ngoài lời, có chức năng phụ trợ cho lời,
kích thích người nghe tích cực tham gia vào cuộc thoại. Nó được nhận ra bằng thị giác


như: cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, ánh mắt, cách ăn mặc,… Ngoài ra, còn kể đến những tín
hiệu âm thanh như: tiếng gõ, tiếng kéo bàn, xô ghế, tiếng huýt sáo, tiếng còi,…
Trong các cuộc cải vã, ngoài những lời lẽ không hay, thường kèm theo sự to
tiếng hoặc những tiếng đập bàn xô ghế, thể hiện mức độ xung đột giữa các nhân vật
hội thoại. Chính vì thế, tác giả Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán cho rằng hội thoại là
một hoạt động đa kênh. Bởi vì hội thoại không chỉ tiến hành bằng kênh thính giác mà
còn bằng các kênh: thị giác, xúc giác, khứu giác,… Như thế, chúng ta nói bằng cơ
quan cấu âm, nhưng chúng ta hội thoại với cả cơ thể của chúng ta.

Ví dụ (14):
- Giá thế này mãi thì thích nhỉ?
Thị không đáp nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. (Nam Cao: Chí
Phèo)
“Cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra” là yếu tố phi lời thể hiện sự mắc cỡ
của thị Nở trước lời khơi gợi của Chí Phèo về việc mà chị với Chí đã làm. Yếu tố phi
lời này nằm trong lời miêu thuật của tác giả.
Trong hội thoại, các yếu tố kèm lời, phi lời giúp các nhân vật hội thoại có thể
hiểu chính xác ý nghĩa của phát ngôn, đoán được mục đích hội thoại của đối tác. Đồng
thời, nó có thể làm tăng cường sự sinh động, hấp dẫn cho hội thoại, cũng như tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nhân vật hội thoại. Trong tác phẩm tự sự, các yếu
tố kèm lời và phi lời thường nằm trong lời dẫn truyện của tác giả, nó cũng góp phần
vào việc bộc lộ tâm lí, tính cách của nhân vật.

1.2.4. Các quy tắc hội thoại
Hội thoại diễn ra theo những quy tắc nhất định. Điều này tưởng chừng trái
ngược với vẻ bề ngoài tưởng chừng rất bất nguyên tắc và tùy tiện của các cuộc hội
thoại trong đời sống giao tiếp. Trong quá trình hội thoại, người nói và người nghe giữ
vai trò ngang nhau, đều có tác dụng nhất định quyết định đến diễn tiến của cuộc thoại.
Để hội thoại được tiến triển bình thường, cả hai không chỉ quan tâm đến nghi thức
giao tiếp mà còn phải cùng chú ý đến nội dung hội thoại. Muốn cho hội thoại thành
công, người tham gia hội thoại phải tuân thủ các quy tắc không thành văn của hội
thoại. Có ba nhóm quy tắc hội thoại:


(1) Quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời.
(2) Quy tắc cộng tác hội thoại.
(3) Quy tắc lịch sự trong giao tiếp.

1.2.4.1. Quy tắc luân phiên lượt lời

Cuộc hội thoại là sự kế tục, tiếp nối của các lượt lời của các nhân vật giao tiếp,
mỗi lượt lời có thể có một hay nhiều phát ngôn. Trong một cuộc thoại, các lượt lời
phải luân phiên nhau, nối tiếp nhịp nhàng, không giẫm đạp lên nhau và tốc độ phải vừa
phải. Muốn vậy thì người nói và người nghe phải chủ động, linh hoạt tham gia vào hội
thoại, người này nói xong rồi đến người kia, người này phải kết thúc lượt lời của mình
đúng lúc để nhường lời lại cho người kia. Hay nói khác đi, ở mỗi lượt lời, người nói
phải biết khi nào mở lời, khi nào giữ lời và khi nào nhường lời.

1.2.4.1.1. Giai đoạn mở lời
Ở giai đoạn mở lời, người nói phải có những dấu hiệu khơi gợi để người nghe
nhận biết mình đang tham gia giao tiếp với anh ta. Ví dụ có thể dùng các từ sau: thưa
cô, anh này, chú ạ, bố ơi,…
Ví dụ (15):
Xuân ưỡn ngực nói với ông Phán mọc sừng:
- Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!
Ông Phán dây thép ôm lấy ngực ngã khụy xuống đất, khặc khừ kể lể:
- Cha mẹ ôi! Đã đẹp mặt tôi chưa? Vợ tôi ngủ với giai mà đến ai cũng biết, cả
bàn dân thiên hạ đều rõ! Rõ đau đớn khổ nhục chưa! (Vũ Trọng Phụng: Số đỏ)
Trong lượt lời của Xuân tóc đỏ, ta thấy thông qua từ “Thưa ngài”, Xuân đã
khơi gợi, ra tín hiệu để ông Phán nhận biết Xuân đang giao tiếp với ông ta. Sự khơi
gợi, ra tín hiệu đó nằm trong giai đoạn mở lời của Xuân.

1.2.4.1.2. Giai đoạn giữ lời
Ở giai đoạn giữ lời, người nói phải kiểm tra, nhắc nhở sự chú ý của người nghe.
Ví dụ có thể dùng những câu hỏi giữa chừng lượt lời của mình như: Phải không?, Hiểu
không?, Đồng ý chứ?, Anh hiểu chưa?…


Trong giai đoạn giữ lời, người nói đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm giao
hội thoại. Tuy nhiên, người nghe cũng phải có những dấu hiệu báo cho người nói biết

mình đang theo dõi cuộc thoại. Ví dụ người nghe có thể dùng các từ cảm thán như:
ghê thế, hay nhỉ, lạ nhỉ, …. Hay những câu hỏi xen vào: Thế à?, Chỗ này là như thế
nào?, Sao nữa?,…
Ví dụ (16):
Đây là đoạn thoại của ông Phán mọc sừng và Xuân tóc đỏ:
- Tôi xin làm phúc mà mách với quan bác rằng ông Typn hiện giờ đang ghen
tức bác vì bác đã làm cho vợ ông ta hư hỏng là một, tiếp khách khéo hơn ông ta là hai,
lại đã biết đo các phụ nữ may áo là ba, làm giảm thế lực của ông ta làm bốn. Bà Phó
Đoan cũng có vẻ hằn học với bác lắm, vì lẽ gì tôi chưa rõ. Còn chính vợ chồng ông
chủ thì không những ghét ngầm hờn mát bác mà thôi, mà còn coi bác là kẻ tử thù. Tại
sao? Bác có biết không? Tại bác đã làm cho cụ tổ khỏi hẳn bệnh là một, và làm cho
cô Tuyết nó hối hôn là hai, vậy quan bác phải coi chừng đó! Tôi xin lấy tình thân mà
bảo rõ cho bác biết để bác liệu… Thế thì, tôi đối với bác đã như vậy, mà bác không
chịu giúp tôi cái việc ấy hay sao?
- Thế bây giờ phải làm thế nào?
- Phải làm như tôi đã dặn. Làm như thế là nhất cử lưỡng tiện.
- Làm sao?
- Là như thể bác chuộc lại cái lỗi xưa, những người thù bác sẽ trở lại yêu bác.
(Vũ Trọng Phụng: Số đỏ)
Trong lượt lời của ông Phán mọc sừng, rõ ràng ta thấy ông Phán có sự kiểm tra,
nhắc nhở sự chú ý của Xuân tóc đỏ bằng câu hỏi giữa ngắn giữa lượt lời “Tại sao?
Bác có biết không?”. Sự kiểm tra, nhắc nhở ấy nằm trong giai đoạn giữ lời của ông
Phán.
Ví dụ (17):
Đoạn thoại giữa bà cụ Hồng và chồng:
- Ông có biết chúng nó làm gì với nhau không? Nào tắm, nào bơi, nào nhảy
đầm! Lại thuê chung một phòng trong cả một ngày nữa!
- Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!



×