Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Quá trình leo thang chiến tranh của mĩ tại việt nam (1954 1969)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 147 trang )

1

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .............................................................

Trang
3

MỞ ĐẦU .................................................................................................. 4
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ........................................... 4
2. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................... 20
3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................ 24
4. Cách tiếp cận đề tài ............................................................................. 24
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 24
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 25
7. Đóng góp của đề tài ............................................................................. 25
8. Nội dung nghiên cứu ........................................................................... 26
Chương 1. Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của Mĩ (1945 – 1954) ..... 27
1.1. Tình hình thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai .............................. 27
1.2. Sự ra đời chiến lược toàn cầu của Mĩ ................................................... 28
1.3. Mĩ triển khai chiến lược toàn cầu với mục tiêu “châu Âu trước hết”... 32
1.4. Mĩ mở rộng chiến lược toàn cầu sang châu Á ...................................... 36
1.5. Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của Mĩ (1945 – 1954) ................. 41
Chương 2. Sự can thiệp trực tiếp của Mĩ vào Việt Nam dưới thời
Tổng thống D. Eisenhower và J. Kennedy (1953 – 1963).......... 51
2.1. Tổng thống D.Eisenhower và chính sách “đẩy lùi cộng sản” ............. 51
2.1.1. Sự thất bại của “giải pháp Bảo Đại”............................................ 51
2.1.2. Mĩ với “Giải pháp Ngô Đình Diệm”............................................. 55
2.1.3. Quân và dân miền Nam đánh bại chiến lược của Eisenhower ..... 60
2.2. Việt Nam – “Hòn đá tảng” trong chiến lược toàn cầu của Kennedy ở
châu Á ............................................................................................... 62


2.2.1. Mĩ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” tại miền Nam ... 62
2.2.2. Quân và dân miền Nam đánh bại chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ và chính quyền Sài Gòn. .............. 69
Chương 3. Việt Nam trong chính sách của Lydon B.Johnson
(1963 – 1969) ............................................................................... 72
3.1. Quá trình “leo thang” quân sự” của Mĩ tại Nam Việt Nam ................. 72
3.1.1. Tình hình miền Nam sau đảo chính Ngô Đình Diệm .................... 72


2

3.1.2. Mĩ tiến tới tham chiến trực tiếp tại Nam Việt Nam ....................... 73
3.1.3. Sự “leo thang” quân sự của Mĩ ở miền Nam Việt Nam ................ 77
3.1.4. Quân và dân miền Nam đánh bại “chiến tranh cục bộ” của Mĩ .. 87
3.2. Chính sách của Mĩ đối với Việt Nam Dân chủ cộng hòa ..................... 89
3.2.1. Mĩ “leo thang” ném bom miền Bắc Việt Nam .............................. 89
3.2.2. Quân và dân miền Bắc Việt Nam đánh bại chiến tranh phá hoại
bằng không quân của Mĩ .............................................................. 100
3.3. Quá trình Mĩ tìm một “giải pháp phù hợp” cho
chiến tranh Việt Nam .......................................................................... 103
3.3.1. Những cuộc thương lượng “gián tiếp” giữa Mĩ – VNDCCH
s(1964 – 1965): chính sách “cây gậy và củ cà-rốt” .................... 103
3.3.2. Những “sáng kiến hòa bình” của Johnson (1965-1967) ............ 106
3.4. Quá trình “xuống thang” chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam ................ 118
3.4.1. Nguyên nhân Mĩ phải “xuống thang chiến tranh” ở Việt Nam .. 118
3.4.2. Hội đàm Mĩ-Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Paris năm 1968 .... 126
KẾT LUẬN ................................................................................................... 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 138



3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ANZUS

Khối hiệp ước quân sự Australia-New Zealand-Mĩ

CHND

Cộng hòa Nhân dân

CIA

Cơ quan Tình báo Trung ương Mĩ

MAAG

Phái bộ cố vấn viện trợ quân sự Mĩ

MACV

Bộ chỉ huy quân sự Mĩ tại miền Nam Việt Nam

MTDTGPMNVN Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
NATO

Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương

NSAM


Bị vong lục Hành động An ninh Quốc gia

NSC

Nghị Quyết Hội đồng An ninh Quốc gia

OPLAN 34A

Kế hoạch tác chiến 34A bí mật chống lại Bắc Việt Nam

OSS

Cơ quan Tình báo chiến lược

ROK

Đại Hàn Dân Quốc

SANE

Nhóm hoạt động vì hoà bình

SCAP

Tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh

SEATO

Khối quân sự Đông Nam Á


SKILA

Nghị viện Lập pháp quá độ Nam Triều Tiên

UNTCOK

Ủy ban lâm thời Liên Hiệp Quốc về Triều Tiên

USAMGIK

Chính phủ quân quản Mĩ tại Triều Tiên

VNCH

Việt Nam Cộng hòa

VNDCCH

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa


4

MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh dài ngày nhất trong lịch sử nước
Mĩ. Từ năm 1954-1969, các tổng thống Mĩ từ Eisenhower, Kennedy đến L.B.Johnson
đã từng bước can dự vào Việt Nam. Đặc biệt, thời kì cầm quyền của Tổng thống
L.B.Johnson (từ tháng 11-1963 đến ngày 20-1-1969) được xem là thời kì “leo thang”

chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam. Chiến tranh đã vượt ra khỏi phạm vi miền Nam và
lan rộng ra Bắc Việt Nam. Đây cũng là thời kì mà người Mĩ vừa tăng cường sự hiện
diện về quân sự, vừa tăng cường viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn và vừa mở
rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Đồng thời, Mĩ cũng thực hiện cuộc
vận động ngoại giao tìm cách thương lượng với Hà Nội để kết thúc chiến tranh.
Nhưng cuối cùng, những âm mưu của Mĩ đã bị nhân dân Việt Nam đánh bại hoàn
toàn bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Từ đó, Johnson
buộc phải “xuống thang” chiến tranh tại Việt Nam. Việc một cường quốc số một thế
giới lại chịu thất bại tại một chiến trường Việt Nam xa xôi đã không những tác động
mạnh mẽ đến tình hình nước Mĩ mà còn thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học trên thế giới.
1.1. Nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam
Về nguyên nhân Mĩ thay Pháp và quyết định tiếp tục chính sách xâm lược và
cho quân đội Mĩ, đồng minh của Mĩ sang tham chiến trực tiếp ở Nam Việt Nam, mở
rộng các hoạt động đánh phá Bắc Việt Nam cũng có nhiều cách lý giải khác nhau.
Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Hồ Chí Minh
(1976), Vì độc lập tự do, vì Chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội đã tập hợp những
bài nói và viết cơ bản nhất của Hồ Chí Minh từ năm 1920 – 1969. Trong đó, từ trang
253 – 339 là tập hợp các bài phát biểu của Hồ Chí Minh từ năm 1964 đến năm 1969.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều nhận định, phân tích về các nguyên nhân Mĩ xâm lược
Việt Nam, phê phán những âm mưu, thủ đoạn của Mĩ thực hiện ở Việt Nam và khẳng
định quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược của nhân dân Việt Nam. Trong Báo cáo
tại Hội nghị chính trị đặc biệt ngày 27 và 28-3-1964, Người đã cho rằng “Mĩ và bè lũ
tay sai đã phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, chia cắt nước ta, gây ra cuộc chiến tranh tàn
khốc ở miền Nam”[59, tr.254]. Mục tiêu của Mĩ là “biến miền Nam Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự của Mĩ, để chia cắt lâu dài nước ta..”[59,
tr.276].


5


Bên cạnh đó, Viện Mac-Lênin (1985), Một số văn kiện của Đảng về chống Mĩ,
cứu nước, tập 1 (1954-1965), NXB Sự thật, Hà Nội đã tập hợp những văn kiện Đảng
về phân tích tình hình và chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng từ năm 1954 –
1965. Trong đó, từ trang 159 – 172 cũng đã đề cập đến tình hình miền Nam từ sau
khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Theo đó, Trung ương Đảng khóa III tháng 12-1963 đã
đưa ra những đánh giá về cuộc chiến tranh của Mĩ ở Nam Việt Nam và xác định loại
hình chiến tranh Mĩ tiến hành là “Chiến tranh đặc biệt”. Mĩ xâm lược nước khác là
phụ thuộc vào “những nhân tố khách quan sau đây: lực lượng so sánh chung trên thế
giới và ở nơi đó; tính chất của những quyền lợi của đế quốc Mĩ và tính chất của những
mâu thuẫn mà Mĩ phải đương đầu ở nơi đó”[86, tr.164]. Sau đó, Hội nghị Trung ương
Đảng khóa III tháng 3-1965 cũng khái quát tình hình cuộc chiến ở miền Nam và Mĩ
đã “từng bước đưa lực lượng chiến đấu của Mĩ và chư hầu vào miền Nam để quyết
giữ một số vùng chiến lược quan trọng, ngăn chặn sự tan rã của quân đội tay
sai…đồng thời, chúng mở rộng hoạt động không quân, ném bom bắn phá miền Bắc
để gây áp lực hòng làm cho ta giảm sức tiến công chúng ở miền Nam, hạn chế sự chi
viện của miền Bắc cho miền Nam…và chiến tranh đã vượt ra khỏi phạm vi miền Nam
lan đến miền Bắc”[86, tr.213]. Như vậy, Trung ương Đảng khóa III đã nêu lên được
mục đích và quy mô chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam năm 1965.
Phạm Văn Đồng (1975), Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, NXB Sự thật,
Hà Nội là một tập văn kiện lịch sử quan trọng để giúp người đọc nhìn nhận quá trình
xâm lược Việt Nam một cách hệ thống thông qua những báo cáo, diễn văn quan trọng
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong Báo cáo trước Quốc hội ngày 8-4-1965 (trang
70 – 127), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tố cáo tội ác của Mĩ ở Việt Nam. Ông cũng
vạch ra được những nét khái quát về quá trình xâm lược Việt Nam của Mĩ từ năm
1954 – 1965. Theo đó, nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam là “hòng biến miền Nam
thành một căn cứ quân sự và một thuộc địa kiểu mới của Mĩ, chuẩn bị một cuộc chiến
tranh mời để xâm lược miền Bắc nước ta và cả khu vực Đông Nam Á”[23, tr.74].
Lê Mậu Hãn (cb) (2003), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, NXB Giáo dục,
Hà Nội. Đây là một giáo trình dùng để giảng dạy, nghiên cứu cho giảng viên, sinh

viên các trường đại học. Tác phẩm này bao gồm toàn bộ Lịch sử Việt Nam từ năm
1945 – 2000. Trong đó, các tác giả dành từ trang 171 – 220 để trình bày cuộc đấu
tranh chống Mĩ của nhân dân miền Nam Bắc. Theo đó, Johnson can thiệp trực tiếp
vào Việt Nam là vì muốn “nắm chắc được chính quyền Sài Gòn” và “nhanh chóng
tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực có thể áp đảo được chủ lực của ta bằng chiến lược
quân sự mới “tìm-diệt”, có giành lại thế chủ động trên chiến trường”[30, tr.201].


6

Năm 2010, tác giả Nguyễn Đình Lê trong Lịch sử Việt Nam 1954 – 1975, NXB
Giáo dục Việt Nam cũng cho rằng nguyên nhân Johnson tiếp tục chiến tranh là “để
cứu vãn tình thế, Mĩ tiếp tục mở bước phiêu lưu quân sự mới…Mĩ cho rằng, quân đội
Mĩ sẽ nhanh chóng đè bẹp lực lượng yêu nước của Việt Nam trong một thời gian
ngắn”[53, tr.156] nên Johnson quyết định tiến hành chiến tranh Cục bộ ở Nam Việt
Nam. Hay như tác giả Nguyễn Đình Ước (2010), Mục tiêu của Hoa Kì và Việt Nam
trong chiến tranh, trích trong Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước: những mốc son
lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã cho rằng “từ năm 1955 đến năm 1975,
Hoa Kì đã dùng mọi biện pháp để chia cắt lâu dài nước Việt Nam, áp đặt ở miền Nam
Việt Nam một chế độ, một bộ máy cai trị hoàn toàn lệ thuộc vào Hoa Kì [37, tr.312].
Cũng đồng quan điểm trên, Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam đã
cho tái bản Bộ Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 – 1975 với 9 tập (3.800
trang sách) để nói về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam từ năm
1954 – 1975. Trong đó, Tập 3: Đánh thắng chiến tranh đặc biệt, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội đã trình bày những âm mưu, thủ đoạn của Mĩ và tay sai và những thành
tựu của nhân dân hai miền Nam Bắc trong việc đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mĩ.
Từ trang 327 – 337 trình bày về những chủ trương của chính phủ Mĩ đối với Nam
Việt Nam kể từ khi Johnson lên làm Tổng thống. Theo đó, Mĩ tiếp tục chính sách
chiến tranh ở Việt Nam và “hành động trước mắt của Mĩ là gia tăng các hoạt động
quân sự…nhằm giúp đỡ nhân dân và chính phủ Nam Việt Nam giành thắng lợi trong

cuộc đấu tranh của họ…”[10, tr.329].
Bên cạnh đó, Bộ Miền Nam giữ vững thành đồng gồm 6 tập để trình bày cuộc
đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Miền Nam từ năm 1954 đến cuối năm 1969. Trong
đó, có các tập liên quan đến thời kì cầm quyền của Johnson như sau:
Trần Văn Giàu (1968), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền
Nam đấu tranh chống Mĩ và tay sai, Tập III. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội đã trình
bày tình hình Nam Việt Nam từ sau ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ cho đến kết thúc
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1963 – 1965). Từ trang 5 – 165 nói về tình hình
chính trị của chính quyền Sài Gòn. Đây là một giai đoạn xáo trộn nghiêm trọng, hàng
loạt cuộc đảo chính, lật đổ diễn ra trong nội bộ chính quyền Sài Gòn. Từ trang 166 –
329 trình bày về các chiến lược quân sự của Mĩ ở hai miền Nam-Bắc Việt Nam.
Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền
Nam đấu tranh chống Mĩ và tay sai, Tập IV. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội đã trình
bày giai đoạn từ khi Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở Việt Nam (7-1965) cho
đến trước ngày Tổng tiến cộng nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Theo đó, từ trang


7

302 – 349 nói về tình hình khủng hoảng trầm trọng của chính quyền Sài Gòn trong
những năm 1965 – 1967. Từ trang 5 – 38 lý giải nguyên nhân và chứng minh quá
trình “leo thang” chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam. Hoàn cảnh buộc Mĩ phải chuyển từ
chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ ở Việt Nam.
Nhìn chung, ở Việt Nam cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, những công trình còn nhiều vấn
đề cần phải tiếp tục làm rõ như:
Một là các công trình chủ yếu tiếp cận “chính sách chiến tranh” của Mĩ đối với
Việt Nam. Hầu hết các công trình đều tiếp cận đến góc độ quân sự: sự xâm lược của
Mĩ và cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam mà chưa chú trọng đến
những vấn đề khác. Sự tập trung quá nhiều vào quân sự vô hình chung đã làm cho

người đọc sẽ hiểu là “chính sách của Mĩ với Việt Nam chỉ chủ yếu là mục tiêu quân
sự”, điều này cần phải tiếp tục làm rõ.
Hai là các công trình trên thường xuất phát từ quan điểm của Việt Nam để nhìn
nhận, đánh giá về chính sách của Mĩ nên chưa có những tư liệu, văn kiện gốc từ chính
phủ Mĩ. Điều này dễ dẫn đến sự chủ quan trong đánh giá sự kiện. Do đó, chúng tôi
nhận thấy phải có sự bổ sung tài liệu từ phía Mĩ để chúng ta có cách nhìn nhận, đánh
giá khách quan và toàn diện hơn.
Ba là các công trình nghiên cứu trên tập trung phần lớn vào thành quả công cuộc
kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam mà chưa phân tích được những động
lực, mục tiêu chính sách mà chính phủ Johnson thực hiện ở Việt Nam.
Từ những lý do đó, chúng tôi nhận thấy cần phải dựa trên nguồn tư liệu gốc của
Mĩ để tiếp tục bổ sung, làm rõ hơn về nguyên nhân Mĩ tiếp tục xâm lược Việt Nam
từ 1954-1969.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trong nước, một số nhà khoa học Việt
Nam ở hải ngoại cũng đã cho xuất bản nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến
nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam như: Nguyễn Phú Đức (2009), Tại sao Mỹ thua
ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hùng dịch, NXB Lao Động, Hà Nội là một tài liệu tham
khảo có giá trị về những chính sách của Mĩ đối với Việt Nam trong thời kì 1954 –
1975 vì tác giả là người trong cuộc và cập nhật được nhiều nguồn tư liệu từ Mĩ. Từ
trang 69 – 106, tác giả đã trình bày về sự kiện Mĩ lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm
và tình hình miền Nam trong những năm đầu thập niên 60. Tác giả cũng nêu lên
Thuyết Domino để lý giải quá trình Mĩ can thiệp sâu vào Việt Nam. Theo đó, “để
ngăn cản cộng sản miền Bắc Việt Nam kiểm soát hoàn toàn miền Nam Việt Nam mà
Mĩ coi là thành lũy chiến lược của thế giới tự do, bây giờ, Mĩ bắt buộc phải trực tiếp


8

tham gia vào cuộc chiến..”[21, tr.93]. Như vậy, tác giả cho rằng nguyên nhân chính
để Mĩ xâm lược trực tiếp Việt Nam là vì nhân tố chính trị chứ không phải quân sự.

Để khẳng định quan điểm này, tác giả còn cho rằng “…đối phương chủ yếu của Mĩ
lúc đó là Trung Hoa Cộng sản” và “Mĩ không dám tính đến các cuộc hành quân trên
bộ ngoài miền Nam”[21, tr.106].
Bùi Diễm (2000), Gọng kìm lịch sử, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, Paris
đã trình bày những vấn đề chính sách của Mĩ đối với Việt Nam. Trong đó, tác giả đề
cập nhiều đến tình hình Nam Việt Nam, những quyết định của Mĩ đối với Việt Nam.
Trong đó, từ trang 195 – 210, 241 – 256 trình bày về thực trạng tình hình chính trị và
quân sự tại Nam Việt Nam. Tác giả đi sâu vào phân tích những mâu thuẫn gay gắt và
bất ổn của chính quyền Sài Gòn. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên thái độ của
Washington đối với Sài Gòn và cho rằng tình trạng khủng hoảng trầm trọng ở Nam
Việt Nam là do chính sách can thiệp nửa vời của Mĩ. Tác giả còn cho rằng giữa “Mĩ
và VNCH không thực sự hiểu nhau nên ít thông cảm cho nhau”[18, tr.216]. Thậm
chí, Mĩ còn thái độ ngập ngừng khi can thiệp vào Việt Nam.
Nguyễn Kỳ Phong (2006), Vũng lầy của Bạch Ốc: Người Mĩ và chiến tranh Việt
Nam 1945 – 1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương, USA trình bày về đường lối của chính
phủ Mĩ khi thực thi những quyết định về chiến tranh Việt Nam. Trong đó, chương 2
từ trang 51 – 94 trình bày về nguồn gốc chiến tranh Việt Nam của Mĩ. Chương 5 từ
trang 191 – 226 cũng cung cấp thêm tư liệu về những quyết định của tổng thống Mĩ
như Bị vong lục về hành động an ninh quốc gia của Tổng thống Johnson như NSAM
273, NSAM 288. Theo đó, NSAM 273 đã “đưa đến một sự thay đổi toàn diện của
chính phủ Mĩ đối với cuộc chiến ở Việt Nam”[70, tr.192]. NSAM 288 “cho phép
chính phủ Mĩ viện trợ thêm vũ khí cho 55 ngàn tân binh của VNCH, Mĩ cho VNCH
một ngân khoản viện trợ khác được chấp thuận thêm để giúp VNCH ổn định thế lục
chính trị ở miền Nam”[70, tr.202]. Các bị vong lục này đánh dấu sự tiếp tục chiến
tranh và can thiệp ngày càng sâu vào Việt Nam của Mĩ.
Như vậy, một số nhà khoa học Việt Nam ở hải ngoại đã không hoàn toàn thống
nhất với các nhà khoa học trong nước về nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam. Họ đề
cập nhiều khía cạnh của vấn đề hơn nhưng vẫn tập trung vào lý giải nguyên nhân
chính trị quan trọng hơn quân sự. Do đó, chúng tôi thấy cần thiết phải làm rõ vấn đề
này.

Ngoài những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, chiến tranh
Việt Nam cũng dành được sự quan tâm, nghiên cứu của một nhà khoa học, chính trị
thế giới như: H.Y.Schandler (1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ:


9

L.Johnson và Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hà dịch, NXB TP.HCM. Đây là mộ công trình
nghiên cứu khá toàn vẹn về giai đoạn cầm quyền của Tổng thống Johnson. Những
quyết định điều chỉnh chiến lược của Johnson đã được thể hiện khá rõ trong công
trình. Từ trang 27 – 73 lý giải về nguyên nhân quá trình Tổng thống L.Johnson ra các
quyết định can thiệp trực tiếp của Mĩ vào Nam Việt Nam trong năm 1964 – 1965.
Tác giả đã trình bày thực trạng khủng hoảng trầm trọng của Nam Việt Nam và những
chính sách của Johnson về Việt Nam như các Bị vong lục về hành động an ninh quốc
gia (NSAM 288, NSAM 328) và Kế hoạch OPLAN 34A về phá hoại Bắc Việt Nam.
Theo đó, “giới lãnh đạo Mĩ đã bắt đầu thấy rõ thêm mà trước đây chưa thấy rằng tình
hình Việt Nam đang suy sụp quá tồi tệ đến mức nỗ lực đầu tư Mĩ vào đấy từ trước
đến nay không thể thay đổi được chiều hướng”[29, tr.28].
George Herring (1996), America`s Longest War: The United States and
Vietnam, 1950-1975, Third Edition, McGraw-Hill, Inc. Đây là công trình nghiên cứu
về vai trò của người Mĩ tại Việt Nam từ 1950-1975. Theo đó, nguyên nhân để Mĩ tiến
hành xâm lược Việt Nam là “nếu khu vực này (Đông Dương) bị chủ nghĩa cộng sản
kiểm soát, "chúng ta sẽ phải gánh chịu một thất bại thảm hại về mặt chính trị mà ảnh
hưởng của nó sẽ lan tràn trên toàn thế giới"[100, tr.15]. Từ trang 139 – 182 trình bày
về tình hình miền Nam Việt Nam sau đảo chính Ngô Đình Diệm. Cuối 1963, Johnson
lên làm Tổng thống và tiếp tục chính sách của Kennedy với mục tiêu cứ làm như
trước nhưng hiệu quả lớn hơn. Do đó, Johnson quyết định tăng cường viện trợ kinh
tế và tăng lực lượng cố vấn quân sự Mĩ ở Sài Gòn lên một mức độ mà ông cho là “đủ,
nhưng không quá nhiều”. Johnson đã phê chuẩn việc đưa quân sang tham chiến trực
tiếp ở miền Nam và tiến hành những cuộc không kích phá hoại Bắc Việt Nam. Sự

kiện này đánh dấu quá trình sa lầy kéo dài của Mĩ ở Việt Nam và cũng góp phần làm
cho sự nghiệp của ông phải kết thúc vào năm 1968. Tuy nhiên, tác giả chưa tiếp cận
nhiều đến tài liệu gốc từ phía Mĩ và việc nhìn nhận, đánh giá vấn đề còn nhiều hạn
chế. Tác giả chưa lý giả rõ nguồn gốc của sự kiện vịnh Bắc Bộ cũng như tính chất
xâm lược của Mĩ tại Việt Nam. Do đó, những vấn đề này cần tiếp tục làm rõ.
Robert S.McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học
về Việt Nam, Hồ Chính Hạnh, Huy Bình, Thu Thủy, Minh Nga dịch, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Đây là cuốn sách McNamara định không bao giờ viết ra vì đề cập
đến nguyên nhân Mĩ xâm lược và thất bại tại Việt Nam. Tác giả cho rằng chiến tranh
Việt Nam là “sai lầm, sai lầm khủng khiếp” của Mĩ. Từ trang 99 – 135 trình bày về
thực trạng miền Nam sau khi Diệm bị lật đổ và quá trình chính quyền Johnson tiếp
tục cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Tình hình đen tối ở Nam Việt Nam là một trong


10

những nguyên nhân chính để chính phủ Mĩ sâu hơn vào Việt Nam trong những tháng
đầu cầm quyền của Johnson vì “Xu thế hiện nay, trừ khi có thể đảo ngược trong hai
- ba tháng tới, tốt nhất thì sẽ dẫn đến trung lập hoá, hoặc có nhiều khả năng hơn là sẽ
dẫn đến một quốc gia do cộng sản kiểm soát”[72, tr.116]. Hoặc trong báo cáo ngày
15-5-1965, CIA đã gửi một đánh giá tình báo đặc biệt về Việt Nam và cho rằng “tình
hình bao trùm ở Nam Việt Nam là cực kỳ mỏng manh… Nếu chiều hướng đang xấu
đi này không bị chặn lại vào cuối năm nay, thì vị trí chống cộng của Nam Việt Nam
sẽ không thể đứng vững”[72, tr.129]. Do đó, chính quyền Johnson tiếp tục chính sách
của Kennedy và cho quân sang tham chiến trực tiếp tại Nam Việt Nam.
Frances Fitzgerald (2004), Lửa trong lòng hồ, Lê Sỹ Giảng, Nguyễn Nam Sơn
dịch, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội. Đây là một trong số ít công trình của người
Mĩ nghiên cứu về Việt Nam dưới nhiều góc độ chính trị, quân sự, kinh tế và đặc biệt
là văn hóa của người Việt. Tác giả đã phác họa được sự khác biệt về ý thức chính trị
của người Việt Nam. Tác giả lý giải về nền chính trị của Việt Nam và những ảnh

hưởng của sự hiện diện quân Mĩ tại đây. Ttừ trang 338 – 408 đã trình bày khái quát
tình hình miền Nam Việt Nam và quá trình Mĩ nhảy vào tham chiến. Sự hiện diện của
quân Mĩ và đồng minh của Mĩ tại Nam Việt Nam đánh dấu sự “leo thang” chiến tranh
của Mĩ. Theo đó, Johnson cho rằng “việc mất Việt Nam ảnh hưởng xấu đến lợi ích
của Mĩ và là điều không thể chấp nhận được đối với công chúng Mĩ”[25, tr.393].
Ngoài ra, tác giả cũng cung cấp một số tư liệu về phát biểu của Johnson năm 1965,
1966, của McNamara năm 1964, M.Taylor năm 1964. Đây cũng là những tư liệu cần
thiết để tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam giai đoạn này.
Ép-ghê-ni Đê-ni-xốp (1972), Đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, Bản Tiếng Việt, NXB
Thông tấn xã Nô-vô-xti, Mat-xcơ-va. Đây là công trình nghiên cứu có giá trị vì tiếp
cập được với nhiều nguồn tư liệu phong phú từ Mĩ. Tác giả đã khái quát được những
mục tiêu của Mĩ ở Đông Nam Á và việc triển khai lực lượng quân sự của Mĩ ở khu
vực này. Điều khác biệt nữa là tác giả cũng nêu lên được chiến lược về kinh tế và xã
hội của Mĩ thực hiện ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, với dung lượng 160 trang mà tác
giả nêu rất nhiều vấn như vậy nên chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát. Tác giả chưa
đánh giá hết được vị trí địa chiến lược, địa chính trị, địa kinh tế của Việt Nam nói
riêng và Đông Nam Á nói chung.
Joe Allen (2009), Việt Nam: Cuộc chiến thất bại của Mĩ, Đào Tuấn dịch, NXB
Công an Nhân dân, Hà Nội đã đề cập đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm
cho đến cuộc tiến công nổi dậy tết Mậu Thân 1968, sự ra đời của phong trào chống
chiến tranh đến năm 1968…trình bày về hoàn cảnh lịch sử miền Nam, chính sách của


11

Mĩ và vai trò của phong trào phản chiến đối với chiến tranh Việt Nam. Theo đó, tác
giả cho rằng nguyên nhân Johnson mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam vì “bất
kì điều gì ít hơn một chiến thắng tổng thể của chủ nghĩa đế quốc Mĩ đều bị coi như là
mộ thất bại” và “sự đầu hàng ở bất kỳ nơi nào đe dọa sự thất bại ở mọi nơi” [47,
tr.61].

Như vậy, các nhà nghiên cứu nước ngoài phần lớn đều thống nhất quan điểm
với nhau về nguyên nhân để chính phủ Johnson tiếp tục chính sách chiến tranh và
mở rộng cuộc xâm lược, phá hoại Bắc Việt Nam là xuất phát từ mục tiêu địa chính
trị của Việt Nam trong chiến lược toàn cầu ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản của Mĩ.
Còn việc tăng viện trợ, quân sự là những giải pháp để thực hiện thắng lợi mục tiêu đề
ra của Mĩ.
Tóm lại, về nguyên nhân chính quyền Johnson xâm lược Việt Nam hiện còn
nhiều quan điểm và cách lý giải dưới nhiều góc độ khác nhau. Do đó, chúng tôi nhận
thấy việc dựa trên những Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mĩ đã
được giải mật trong thời gian quan để làm rõ vấn đề này là một việc làm cần thiết.
Qua đó, chúng tôi cập nhật được những quan điểm “chính thống” của người Mĩ và
hiểu hơn về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mĩ.
1.2. Chính sách của Mĩ đối với miền Nam Việt Nam
Từ năm 1954-1969, các tổng thống Mĩ tiếp tục thực hiện chính sách với Việt
Nam và thực hiện nhiều sự điều chỉnh chiến lược đối với Việt Nam. Do đó, việc tìm
hiểu chính sách của Mĩ đối với Việt Nam cũng có nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận với
những góc độ khác nhau.
Ở Việt Nam, chính sách của Mĩ đối với Nam Việt Nam đã được đề cập nhiều
đến trong các công trình nghiên cứu như Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt
Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 – 1975, tập 4: Cuộc đụng
đầu lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu của
những nhà khoa học có rất nhiều kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Các
tác giả đã trình bày cuộc kháng chiến chống chiến tranh cục bộ của nhân dân hai miền
Nam Bắc. Từ trang 18 – 33 (tập 4) trình bày về những nghị quyết của chính phủ
Johnson trong vấn đề Việt Nam. Trong đó, đáng lưu ý là Bị vong lục về hành động
an ninh quốc gia (NSAM 328) về việc quyết định tăng cường lực lượng Mĩ tại Việt
Nam và thay đổi mục tiêu chiến đấu của quân Mĩ ở Việt Nam và “làm thay đổi về
chiến lược của Mĩ tại Việt Nam từ chỗ cố vấn, hậu thuẫn đến tham chiến trực tiếp”[11,
tr.20]. Bên cạnh đó, các tác giả cũng nêu lên chương trình Hợp tác do Tướng
Westmoreland đề xuất ngày 1-5-1965, xác định nhiệm vụ của lực lượng Mĩ ở Nam



12

Việt Nam. Từ trang 227 – 232 có nêu về phản ứng của chính phủ Mĩ sau thất bại
trong Mùa khô 1965 – 1966. Theo đó, Mc Namara cho rằng “thực chất chúng ta (Mĩ)
tự thấy mình không khá hơn và có lẽ tồi tệ đi” nên đã đề ra một Bị vong lục về những
kiến nghị của McNamara với những giải pháp “cần thiết” để Mĩ có thể tìm một giải
pháp giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Dựa vào sức mạnh về lực
lượng quân sự, Mĩ tiến hành những cuộc hành quân, càn quét và tìm diệt vào những
vùng giải phóng của ta.
Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền
Nam đấu tranh chống Mĩ và tay sai, Tập IV. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội đã trình
bày giai đoạn từ khi Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở Việt Nam (7-1965) cho
đến trước ngày Tổng tiến cộng nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Theo đó, từ trang
302 – 349 nói về tình hình khủng hoảng trầm trọng của chính quyền Sài Gòn trong
những năm 1965 – 1967. Từ trang 5 – 38 và từ trang 151 – 202 trình bày việc Mĩ thực
hiện chiến tranh cục bộ bằng lực lượng quân sự Mĩ tại Nam Việt Nam. Chương trình
càn quét, tìm-diệt và bình định của Mĩ đã diễn ra ác liệt trên toàn miền Nam. Tuy
nhiên, âm mưu nguy hiểm của Mĩ – Sài Gòn đã bị nhân dân miền Nam đánh bại. Đây
là một công trình nghiên cứu công phu của tác giả về chương trình càn quét, bình
định của Mĩ ở Việt Nam. Tuy nhiên, các sự kiện vẫn còn mang tính chủ quan do mục
đích ra đời của tác phẩm. Do đó, cần phải tiếp tục bổ sung, làm rõ hơn từ nguồn tư
liệu của Mĩ.
Nguyễn Xuân Tú (2003), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước thời kì 1965 – 1975,NXB Lao Động, Hà Nội là công
trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân
dân Việt Nam từ 1965-1975. Tác giả dành nhiều công sức làm nổi bật lên vai trò,
đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta đã đưa nhân dân Việt Nam giành
thắng lợi quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Trong đó, từ trang 5 – 15 trình

bày về âm mưu và quá trình đẩy mạnh chiến tranh của Tổng thống Johnson ở Việt
Nam. Theo tác giả, “chính quyền Giôn-xơn (Johnson) cho rằng áp dụng chiến lược
chiến tranh cục bộ là biện pháp tốt nhất để cứu nguy chính quyền Sài Gòn… Thực
hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, Mĩ không dám đánh ồ ạt một lúc mà buộc phải áp
dụng chiến lược “leo thang” từ từ..”[79, tr.7]. Tuy nhiên, tác giả chỉ dành phần lớn
nội dung nói về cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam từ 1965 – 1968.
Tường Hữu (2005), Sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam, NXB Công an Nhân
dân, Hà Nội đã cung cấp thêm nhiều thông tin mới về các chủ trương, chính sách và
quá trình xâm lược Việt Nam của Mĩ. Torng đó, từ trang 166 – 270 cung cấp thêm tư


13

liệu về tình hình miền Nam trong những tháng đầu năm 1964. Sự bất ổn của chính
quyền Sài Gòn là nhân tố quan trọng để người Mĩ nhảy vào miền Nam nhanh hơn,
nhiều hơn. Tháng 6-1964, Hội nghị Honolulu đã diễn ra “để cảnh cáo các nước cộng
sản là Mĩ đã sẵn sàng đi đến một hành động cương quyết hơn, mức độ can thiệp hơn
hiện nay nhằm trợ giúp chế độ Sài Gòn nếu cộng sản cứ tiếp tục lấn chiếm tại Nam
Việt Nam và Lào”[43, tr.183]. Từ năm 1965, số lượng quân Mĩ vào Nam Việt Nam
tăng ồ ạt và chiến dịch không kích Bắc Việt Nam cũng được tiến hành vì “đó là giải
pháp duy nhất để nâng cao tinh thần chiến đấu của quân đội tại Sài Gòn”[43, tr.199].
Đặc biệt, Tường Hữu còn đặt chiến tranh Việt Nam trong sự tác động của quan hệ Mĩ
– Liên Xô – Trung Quốc, sự viện trợ của Liên Xô cho Bắc Việt Nam.
Như vậy, các tác giả Việt Nam đã tiếp cận chính sách của Mĩ ở Nam Việt Nam
chủ yếu dưới góc độ những hoạt động quân sự của Mĩ. Tuy nhiên, các tác giả cũng
dành phần lớn nội dung nghiên cứu để nói về thành tựu và những chiến công hiển
hách của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Do đó, chưa đề cập
nhiều đến chính sách về kinh tế, chính trị của Mĩ đối với Nam Việt Nam. Mặc dù vậy,
nhưng vẫn có một số ít tác giả nghiên cứu về những tác động của chính sách Mĩ đối
với kinh tế, xã hội Nam Việt Nam như: Phạm Văn Đồng (1975), Thắng lợi vĩ đại,

tương lai huy hoàng, NXB Sự thật, Hà Nội từ trang 128 – 141 đã phân tích những tác
động về kinh tế, chính trị do chính sách của Mĩ mang lại và những hoạt động quân sự
của Mĩ. Theo đó, “về chính trị, sự có mặt của quân đội viễn chinh Mĩ đã phơi bày bản
chất cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ…Về kinh tế, đội quân viễn chính Mĩ vào miền
Nam đương gây ra một tai họa trầm trọng về nhiều mặt…phá hoại nền kinh tế què
quặt của miền Nam”[23, tr.130-131]. Tuy nhiên, tác giả chỉ phân tích những tác động
tiêu cực theo góc nhìn của người Việt Nam và có phần phục vụ cho mục đích chính
trị lúc đó. Đồng thời, tác giả cũng chưa có những tư liệu gốc để chứng minh.
Nguyễn Đình Lê (2010), Lịch sử Việt Nam 1954 – 1975, NXB Giáo dục Việt
Nam từ trang 79 – 124, 131 – 135 và 135 – 169 để trình bày về tình hình miền Nam
trong những năm 60. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu tập trung vào tình hình kinh tế, chính
trị, văn hóa-giáo dục của miền Nam và công cuộc chiến đấu chống chiến lược chiến
tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ của nhân dân miền Nam. Tác giả chỉ trình bày sơ
lược có tính chất minh họa về những chính sách của Mĩ ở Việt Nam. Do đó, những
cơ sở và chính sách của cụ thể của chính quyền Johnson đối với Việt Nam cũng cần
phải tiếp tục làm rõ hơn.
Đặng Phong (2004), Kinh tế miền Nam thời kì 1955 – 1975, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội. Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện về kinh tế, guồng máy kinh


14

tế và những vận động kinh tế của cả VNCH lẫn trong vùng giải phóng ở Nam Việt
Nam từ năm 1955 – 1975. Tác giả luôn đặt kinh tế và nhìn kinh tế trong khung cảnh
chung của chính trị, xã hội, văn hóa. Trong đó, từ trang 150 – 424 để nói về tình hình
kinh tế và đời sống của nhân dân trong vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Tác
giả cũng nói về quá trình viện trợ thương mại của Mĩ cho Sài Gòn. Theo đó, “chức
năng của viện trợ thương mại Mĩ là: 1-tạo điều kiện để cung cấp phần lớn hàng nhập
khẩu cho miền Nam Việt Nam, 2- thông qua đó, tạo ra bộ phận quan trọng nhất trong
nguồn thu ngân sách của chính quyền Sài Gòn”[65, tr.158]. Ngoài ra, tác giả còn cung

cấp thêm một số bản thống kê về những khoản viện trợ của Mĩ cho VNCH .
Cũng đồng tình với những quan điểm trên, một số nhà khoa học Việt Nam ở hải
ngoại cũng nghiên cứu về chính sách của Mĩ với Việt Nam như: Bùi Diễm (2000),
Gọng kìm lịch sử, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, Paris từ trang 211 – 239, 257 –
274 đã nêu lên quá trình can thiệp trực tiếp của Mĩ vào Nam Việt Nam. Sau đó, Hội
nghị Honnolulu giữa Mĩ và VNCH để khẳng định sự ủng hộ của Mĩ cho Sài Gòn là
muốn thấy những kết quả cụ thể từ Việt Nam. Từ trang 355 – 366, tác giả nói về sự
thay đổi chính sách của Mĩ đối với Nam Việt Nam. Đây cũng là thời kì gọi là “xuống
thang” chiến tranh của Johnson và bắt đầu hòa đàm với VNDCCH tại Paris.
Nguyễn Kỳ Phong (2006), Vũng lầy của Bạch Ốc: Người Mĩ và chiến tranh Việt
Nam 1945 – 1975, Tủ sách Tiếng Quê Hương, USA từ trang 227 – 270 trình bày khá
chi tiết về cơ chế tổ chức, hoạt động và vai trò của các lực lượng quân sự Mĩ. Đặc
biệt, tác giả cung cấp thêm tư liệu để hiểu rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ và sự điều
hành các lực lượng Mĩ tại Việt Nam. Đây cũng là một khía cạnh ít được quan tâm khi
nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam của Mĩ. Từ trang 271 – 308 trình bày về sự
tham chiến quân sự trực tiếp của Mĩ ở Nam Việt Nam. Đồng thời, tác giả cung cấp
thêm tư liệu về những hành động phá hoại Bắc Việt Nam bằng không quân, hải quân
của Mĩ từ 1964 – 1968. Từ trang 309 – 356 đã trình bày về các quyết định quan trọng
của Johnson trong năm 1968. Theo đó, ba vấn đề quan trọng được đưa ra là: 1- sự
tăng viện khẩn cấp lực lượng quân sự cho Nam Việt Nam; 2-tuyên bố ngừng ném
bom miền Bắc và chấp nhận cử người đến đàm phán với Bắc Việt Nam tại Paris; 3Johnson không ra tranh cử tổng thống nhiệm kì II. Những quyết định này đã làm thay
đổi cục diện chiến tranh và hay được gọi là “xuống thang” chiến tranh ở Việt Nam.
Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ tập trung vào “sự sa lầy quân sự” của chính quyền Johnson
ở Việt Nam mà chưa đề cập đến những mục tiêu khác của Mĩ đối với Việt Nam. Trên
cơ sở những nhận định, đánh giá và đối chiếu với tài liệu gốc của Mĩ, chúng tôi sẽ
làm rõ hơn về chính sách của chính quyền Johnson đối với Việt Nam.


15


Nguyễn Phú Đức (2009), Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hùng
dịch, NXB Lao Động, Hà Nội từ trang 133 – 147 đã trình bày quá trình Mĩ đưa quân
tham chiến trực tiếp tại miền Nam Việt Nam và tác động của cuộc Tổng tiến công
nổi dậy Mậu Thân 1968 của lực lượng giải phóng miền Nam Việt Nam. Từ trang 125
– 132 đã trình bày về cuộc tiến công chiến lược phá hoại Bắc Việt Nam bằng không
quân của Mĩ. Tuy nhiên, tác giả chưa lý giải được nguồn gốc và nguyên nhân của
cuộc ném bom Bắc Việt Nam. Quan trọng hơn là tác giả chưa cập nhật được nguồn
tư liệu gốc từ phía Mĩ về chiến dịch “Sấm Rền” cũng như sự kiện Vịnh Bắc bộ năm
1964.
Nguyễn Khắc Viện (2007), Việt Nam một thiên lịch sử, Diệu Bình dịch, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội cũng đã dành từ trang 404 – 408 và từ trang 415 – 420 để
nói về sự “leo thang” chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam cũng như cuộc đấu tranh anh
dũng của nhân dân ta chống Mĩ. Từ trang 408 – 413 trình bày về mục tiêu việc Mĩ
mở rộng ném bom Bắc Việt Nam và thành quả cuộc chiến đấu chống Mĩ ở miền Bắc
Việt Nam. Tác giả cũng đề cập đến vai trò của Liên Xô và sự thay đổi trong đường
lối đối ngoại của Trung Quốc đối với VNDCCH đã tác động đến cuộc chống Mĩ của
Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ dừng lại ở việc cung cấp sự kiện lịch sử mà
chưa có nguồn tư liệu để chứng minh. Mặt khác, tác giả cũng là người “có nhiều kinh
nghiệm tuyên truyền đối ngoại”. Tác giả cũng là một nhà văn, nhà báo, nhà khoa học
và nghiên cứu về rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, tác giả chưa đi sâu phân tích
được bản chất chính sách của Mĩ và chưa tiếp cận được tài liệu gốc về chiến tranh
Việt Nam nên công trình vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục làm rõ.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu của Việt Nam, một số tác giả nước ngoài
cũng dành nhiều thời gian nghiên cứu về quá trình thực hiện chính sách của Mĩ ở Việt
Nam như: H.Y.Schandler (1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ: L.Johnson
và Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hà dịch, NXB TP.HCM những chính sách của Johnson
về Việt Nam như các Bị vong lục về hành động an ninh quốc gia (NSAM 288, NSAM
388) và Kế hoạch OPLAN 34A về phá hoại Bắc Việt Nam. Từ trang 75 – 141, tác
giả đã trình bày quá trình đi tìm kiếm một giải pháp chiến lược cho vấn đề Việt Nam
của Mĩ. Theo đó, từ 1965 – 1968, Mĩ phải tiến hành cùng lúc hai nhiệm vụ: 1- tăng

cường lượng quân sự và tiến hành những cuộc hành quân tìm-diệt ở Nam Việt Nam;
2- tăng cường áp lực đối với Hà Nội bằng không quân và hải quân để ngăn chặn sự
chi viện cho phong trào giải phóng dân tộc ở Nam Việt Nam. Từ trang 143 – 193 nói
về những chính sách của Mĩ ở Việt Nam sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968. Mĩ đã tăng
quân khẩn cấp cho Nam Việt Nam và tăng cường các hoạt động động quân sự ở Việt


16

Nam. Từ trang 411 – 416 nói về quyết định của Tổng thống Johnson về việc ngừng
ném bom Bắc Việt Nam và “xuống thang” chiến ở Việt Nam.
Robert S.McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học
về Việt Nam, Hồ Chính Hạnh, Huy Bình, Thu Thủy, Minh Nga dịch, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội từ trang 173 – 209 đã nêu lên khá chi tiết quá trình “leo thang”
chiến tranh của chính quyền Johnson. Từ tháng 1-1965 đến tháng 7-1965 là giai đoạn
Mĩ can thiệp quân sự ồ ạt vào Nam Việt Nam. Từ trang 151 – 209 lý giải cho những
quyết định can thiệp ngày càng sâu vào Việt Nam của Mĩ. Sự thất bại liên tiếp của
quân đội Sài Gòn về quân sự và sự phá sản của chương trình Ấp chiến lược buộc Mĩ
phải có những hành động mới. Sau cuộc bầu cử tổng thống 1964, Johnson đẩy mạnh
quá trình “leo thang” quân sự ở Nam Việt Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại Bắc
Việt Nam. Theo đó, “Nam Việt Nam tỏ ra suy sụp nhanh chóng, mà phương thuốc
duy nhất là sự nhảy vào ồ ạt của quân Mĩ” và McNamara đã “chấp nhận đề nghị tăng
thêm hai tiểu đoàn của Westmoreland và Oley, và quan trọng hơn là đã nhất trí thay
đổi nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho căn cứ của quân lính thủy đánh bộ sang thường
trực chiến đấu. Mặc dù chúng tôi cắt giảm triển khai quân, nhưng chúng tôi đã nới
rộng đáng kể nhiệm vụ của họ. Lính bộ binh của Mĩ sẽ trực tiếp tham chiến”[72,
tr.183].
Như vậy, phần lớn các công trình nghiên cứu đề tập trung vào quá trình Mĩ can
thiệp vào Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ở mỗi góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu
đưa ra những nhận định đánh giá theo từng góc độ khác nhau và còn chưa thống nhất

với nhau giữa các nhà khoa học trong nước với nước ngoài. Vì vậy, chúng tôi nhận
thấy cần có một cách nhìn nhận tổng thể hơn để có cách đánh giá khách quan về chính
sách của Mĩ đối với Nam Việt Nam.
1.3. Chính sách của Mĩ đối với Việt Nam Dân chủ cộng hòa
1.3.1. Về quân sự
Trong thời gian cầm quyền của Johnson, song song với việc tiến hành can thiệp
trực tiếp vào Nam Việt Nam, Mĩ còn mở rộng việc gây chiến tranh phá hoại Bắc Việt
Nam. Đây là một trận tuyến vừa công khai, vừa bí mật chống lại Hà Nội của Mĩ và
Sài Gòn. Do đó, hiện nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Ở Việt Nam, hiện nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu được công bố và
tiêu biểu là các công trình như: Phạm Văn Đồng (1975), Thắng lợi vĩ đại, tương lai
huy hoàng, NXB Sự thật, Hà Nội từ trang 45 – 49 đánh giá về Kế hoạch Stalay-Taylor
của Mĩ về việc lập Ấp chiến lược và đưa quân vào chiến đấu trực tiếp ở miền Nam
Việt Nam. Trong diễn văn đọc ngày 2-9-1964 (trang 61 – 69), Thủ tướng Phạm Văn


17

Đồng đã nêu lên bản chất của sự kiện Vịnh Bắc Bộ và tố cáo Mĩ đã lừa bịp dư luận
thế giới vì vừa cho người liên lạc với ta để thương lượng, vừa mở rộng chiến tranh
phá hoại miền Bắc Việt Nam.
Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự (1982), Chiến tranh nhân dân đánh
thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, tập I, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội
đã trình bày lại cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Hà Nội nói riêng và miền Bắc
nói chung trong cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại của Mĩ. Theo đó, từ trang 34
– 39, 45 – 49, 54 – 60, 66 – 70, 79 – 82 đã trình bày những âm mưu và quá trình tiến
hành các cuộc không kích Bắc Việt Nam của đế quốc Mĩ từ năm 1964 – 1968. Theo
đó, mục tiêu cụ thể của việc tiến hành chiến tranh phá hoại Bắc Việt Nam của Mĩ là:
“1- Ngăn chặn nguồn viện trợ từ bên ngoài vào miền Bắc và sự chi viện từ miền Bắc
vào miền Nam…2- Phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá hoại công cuộc xây

dựng CNXH ở miền Bắc…3- Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mĩ
cứu nước của nhân dân ta, buộc ta phải nhân nhượng, chấm dứt chiến tranh theo điều
kiện của Mĩ”[8, tr.34].
Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến
chống Mĩ cứu nước 1954 – 1975, Tập 3 và Tập 4 cũng đã trình bày về những chính
sách của Mĩ đối với Bắc Việt Nam. Theo đó, Mĩ đã dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ và
tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc với kế hoạch 34A. Quá trình Mĩ tiếp
tục cuộc chiến tranh phá hoại Bắc Việt Nam với chiến dịch Sấm Rền (Rolling
Thunder) và cho rằng “Mĩ đã chơi một ván cờ thua ở Việt Nam”. Tuy nhiên, tác giả
cũng chỉ tập trung làm rõ cuộc đấu tranh, đánh bại Mĩ của nhân dân Bắc Việt Nam
mà chưa đi sâu vào phân tích mục đích chính sách của Mĩ.
Trần Văn Giàu (1970), Miền Nam giữ vững thành đồng: Lược sử đồng bào miền
Nam đấu tranh chống Mĩ và tay sai, Tập IV, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội từ trang
39 – 62 nói về quá trình mở rộng chiến tranh ra Bắc Việt Nam của Mĩ. Đặc biệt, tác
giả đã tập trung lý giải mục tiêu và đặc điểm của cuộc chiến tranh phá hoại bằng
không quân, hải quân Mĩ ở Bắc Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng khái quát quá trình
đánh bại chiến tranh phá hoại của Mĩ.
Vũ Đình Hiếu (2011), Cuộc chiến bí mật: Hồ sơ lực lượng biệt quân Ngụy,
NXB Thời đại, Hà Nội là công trình nghiên cứu về những hoạt động của một lực
lượng đặc biệt trong chiến tranh Việt Nam – lực lượng biệt kích của chính quyền MĩSài Gòn. Họ là những người được đào tạo bài bản và huấn luyện tốt, nhiệm vụ trọng
tâm của họ là phá hoại Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, họ hầu hết đều rơi vào tay của nhân
dân ta. Do đó, đây cũng là một tư liệu chứng minh sự chống phá miền Bắc Việt Nam


18

của Mĩ. Mặc dù vậy, tác giả cũng chỉ dừng lại ở mức độ tập hợp tư liệu mà chưa đi
sâu phân tích, đánh giá cũng như chưa đặt cuộc chiến tranh phá hoại này trong bối
cảnh lịch sử cụ thể lúc đó.
Cảnh Dương, Đông A (2007), Bí mật các chiến dịch không kích của Mỹ vào

Bắc Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội đã trình bày khá tỉ mĩ, chi tiết về các
cuộc không kích của Mĩ vào Bắc Việt Nam từ tháng 8-1964 đến tháng 12-1972. Đây
là một công trình nghiên cứu công phu về việc Mĩ sử dụng các loại phương tiện chiến
tranh như Chiến hạm, máy bay…để tấn công Bắc Việt Nam. Đồng thời, các tác giả
cũng làm nổi bật lên cuộc chiến đấu anh dũng của nhân đã đánh bại âm mưu của Mĩ.
Nhìn chung, ở Việt Nam, các tác giả tập trung làm sáng tỏ công cuộc chiến đấu
đánh bại chiến tranh phá hoại của Mĩ ở Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả Việt Nam
chưa đề cập nhiều đến những mục đích, chủ trương, quyết định của Washington về
việc ném bom phá hoại Bắc Việt Nam. Đặc biệt, một số công trình chưa được bổ
sung, cập nhật từ những nguồn tư liệu gốc để làm rõ chính sách của Mĩ đối với Bắc
Việt Nam. Đây là vấn đề cần tiếp tục bổ sung, làm rõ.
Bên cạnh các công trình trong nước, các nhà khoa học nước ngoài cũng có nhiều
công trình nghiên cứu đã được công bố như: Charles Fourniau (2007), Việt Nam như
tôi đã thấy (1960 – 2000), Trần Thị Lan Anh, Vũ Thị Minh Hương, Tạ Thị Thúy
dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội từ trang 122 – 180 đã phác họa lại chi tiết bức
tranh đau thương của Bắc Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
của Mĩ. Nhà báo Pháp đã ghi nhận lại Sự kiện Vịnh Bắc bộ cũng như hậu quả nặng
nề và thành tựu của nhân dân miền Bắc Việt Nam từ 1964 – 1968. Theo đó, “Lợi
dụng sự kiện đó (Vịnh Bắc Bộ), Tổng thống Johnson ngay lập tức đề nghị Quốc hội
cho phép sử dụng các biện pháp trả đũa đối với Việt Nam”[13, tr.122]. Đồng thời, tác
giả cũng nêu lên tình hình đời sống chính trị của VNDCCH và lập trường 4 điểm của
chính phủ VNDCCH trong cuộc đấu tranh ngoại giao với Mĩ. Tuy nhiên, tác giả chỉ
tường thuật, ghi nhận lại thực tế miền Bắc mà chưa phân tích, nghiên cứu những mục
tiêu, thủ đoạn của Mĩ đối với Bắc Việt Nam.
H.Y.Schandler (1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ: L.Johnson và
Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hà dịch, NXB TP.HCM từ trang 411 – 416 nói về quyết
định của Tổng thống Johnson về việc ngừng ném bom Bắc Việt Nam và “xuống
thang” chiến ở Việt Nam. Từ trang 461 – 494 nói về quá trình Tổng thống Johnson
đề nghị tiến hành đàm phán với Hà Nội để tìm ra một giải pháp phù hợp kết thúc
chiến tranh ở Việt Nam.



19

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên cũng đã làm nổi được vấn đề là công
cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mĩ vào
Bắc Việt Nam. Sự thắng lợi của nhân dân miền Bắc đóng vai trò quan trọng cho thắng
lợi quân sự của nhân dân Nam Việt Nam. Tuy nhiên, các tác cũng tập trung nhiều vào
việc phân tích những kết quả, nguyên nhân thắng lợi từ phía Việt Nam mà thôi. Do
đó, bản chất và mục tiêu từ phía Mĩ vẫn cần phải được làm rõ.
1.3.2. Vấn đề “tìm kiếm một giải pháp phù hợp” để kết thúc chiến tranh
Song song với việc tăng cường các hoạt động quân sự, từ năm 1965, chính phủ
Johnson cũng hô hào, kêu gọi đàm phán để tìm một giải pháp phù hợp kết thúc chiến
tranh. Quá trình này đã được đề cập trong những công trình nghiên cứu như:
Trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt ngày 27 và 28-3-1964, Hồ Chí
Minh đã cho rằng “chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường đoàn
kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em…kiên quyết đấu tranh chống chính sách
xâm lược và gây chiến của đế quốc Mĩ, thực hiện chung sống hòa bình giữa các nước
có chế độ chính trị và xã hội khác nhau”[59, tr.265]. Đồng thời, Hồ Chí Minh (1976),
Kế hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản, NXB Sự thật, Hà Nội đã
phân tích tính chất cuộc chiến tranh chống Mĩ của Việt Nam. Người cũng nêu lên bản
chất của Mĩ là “vừa tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam, vừa rêu
rao “thiện chí hòa bình”, “sẵn sàng thương lượng không điều kiện” hòng lừa bịp dư
luận thế giới và dư luận nhân dân Mĩ”[58, tr.179]. Hồ Chí Minh cũng kêu gọi sự ủng
hộ, giúp đỡ của nhân dân các nước anh em và thế giới ủng hộ, giúp đỡ cho cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam.
Mai Văn Bộ (1986), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật, NXB TP.HCM đã
ghi nhận lại tình hình miền Nam Việt Nam trong những năm 60 và vạch rõ những âm
mưu, thủ đoạn của Mĩ ở Việt Nam. Đồng thời, ông cũng trình bày tỉ mĩ về các cuộc
tiếp xúc bí mật với đại diện của chính phủ Johnson tại Pháp. Tập hồi ký là một tài

liệu giúp ta hiểu hơn về cuộc đấu tranh bí mật trên mặt trận ngoại giao của Việt Nam
từ năm 1967 đến trước khi Hiệp định Paris được ký kết (1973). Tuy nhiên, hai tác
phẩm trên đây cũng chỉ là hồi ký của tác giả và như tác giả đã nói “chỉ xin cố gắng
ghi lại những gì mà tôi đã sống, với những phân tích, nhận định và đánh giá cần thiết
về những nhân vật và sự kiện quan trọng mà tôi (Mai Văn Bộ) đã từng chứng kiến”[6,
tr.8]. Do đó, cần phải có những tư liệu từ phía Mĩ và phía Việt Nam để có cách nhìn

nhận bản chất sự kiện khách quan hơn.
Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ (1990), Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa Kì trước
Hội nghị Pa-ri, Viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội đã trình bày lại những sự kiện liên


20

quan đến chủ trương thương lượng của chính quyền Johnson về vấn đề Việt Nam.
Các sự kiện trong sách giúp người đọc có cái nhìn khái quát về các hoạt động ngoại
giao của Mĩ trong cuộc chiến tranh Việt Nam và lập trường của Việt Nam trong cuộc
thương lượng với Mĩ. Theo đó, Hồ Chí Minh đã nói “sẵn sàng đi bất cứ đâu, gặp bất
cứ ai..."[55, tr.104] để thương lượng, tìm giải pháp kết thúc chiến tranh trong những
điều kiện có thể. Ngược lại, Tổng thống Johnson lại cho rằng "Hà Nội không quan
tâm gì đến một giải pháp hoà bình hay một sự thoả hiệp nào. Họ đã đóng sầm cánh
cửa đối với đề nghị hoà bình của Hoa Kỳ"[55, tr.30]. Rõ ràng, quan điểm hai bên
khác xa nhau. Do đó, tác phẩm góp phần làm rõ hơn cuộc đấu trí cam go giữa Việt
Nam và Mĩ. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ mới liệt kê lại các sự kiện lịch sử mà chưa
có những văn kiện, tư liệu chính thức từ phía Mĩ. Do đó, cần phải được tiếp tục bổ
sung để làm sáng tỏ vấn đề hơn.
Như vậy, những công trình trên tập trung phản ánh quan điểm, lập trường của
VNDCCH trong hoạt động đối ngoại với Mĩ từ 1965-1968. Các tác giả nhấn mạnh
đến tinh thần yêu hòa bình của Việt Nam và “sự thiếu trung thực” của Mĩ trong việc
kêu gọi hòa đàm với Việt Nam. Vậy thực chất vấn đề này như thế nào? Phía Mĩ có

phản ứng ra sao? Do đó, chúng tôi nhận thấy cần làm rõ thái độ của Mĩ dựa trên
những văn kiện, tài liệu gốc vừa được giải mật của Mĩ là điều cần thiết.
Tóm lại, hiện nay còn nhiều nhận định, đánh giá chưa thống nhất nhau về chính
sách của chính phủ Mĩ đối với Việt Nam từ 1954-1969. Vì vậy, việc dựa vào những
tài liệu gốc của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và những tài liệu nghiên cứu từ phía
Mĩ để tìm hiểu, lý giải toàn diện hơn quá trình can thiệp, “leo thang” và “xuống
thang” chiến tranh Việt Nam của Mĩ là phù hợp, cần thiết.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh dài ngày nhất và hao người tốn của
nhất trong lịch sử nước Mĩ. Trải qua sáu đời tổng thống Mĩ với thiệt hại về người và
của gấp hai lần so với chiến tranh Triều Tiên. Đặc biệt, dưới thời kì cầm quyền của
Tổng thống Lyndon B.Johnson, người Mĩ đã tham chiến trực tiếp vào Việt Nam với
số lượng lớn về quân đội viễn chinh Mĩ. Người Mĩ dựa vào ưu thế tuyệt đối về vũ
khí, phương tiện chiến tranh để đàn áp phong trào cách mạng Việt Nam. Nhưng cuối
cùng, Mĩ đã phải kí Hiệp định Paris (1973) và rút quân về nước. Do đó, chiến tranh
Việt Nam của Mĩ đã thu hút rất nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học
ở Việt Nam, Mĩ và trên thế giới. Tuy nhiên, hiện nay cũng nhiều quan điểm không
thống nhất với nhau về cuộc chiến tranh Việt Nam của Mĩ.


21

Thứ nhất, về nguyên nhân Mĩ xâm lược trực tiếp vào Việt Nam, các nhà khoa
học Việt Nam thường thống nhất với nhau rằng Mĩ xâm lược Việt Nam là muốn biến
miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ và muốn chia cắt lâu dài Việt
Nam. Mặt khác, Mĩ rất cần nguồn tài nguyên, nhiêu liệu của Việt Nam như cao su,
dầu mỏ, vôn-pham, sắt, thiếc….Một số tác giả cũng đề cập đến khía cạnh vị trí địa
chính trị và địa kinh tế của Việt Nam trong khu vực châu Á Thái Bình Dương.
Ngược lại, một số nhà khoa học của Mĩ cũng như các nhà hoạch định chính sách
của Mĩ thì lại cho rằng Mĩ phải giúp Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống lại sự

bành trướng của chủ nghĩa cộng sản xuống vùng Đông Nam châu Á. Người Mĩ còn
cho rằng Việt Nam là “chốt chặn”, là “quân bài chủ chốt” trong Thuyết Domino để
ngăn chặn sự sụp đổ của các nước nước tự do trong sự xâm lược của chủ nghĩa cộng
sản. Do đó, Mĩ phải giữ vai trò lãnh đạo “thế giới tự do” chống lại chủ nghĩa cộng
sản và Nam Việt Nam là một vị trí quan trọng trong chiến lược đó. Vì vậy, Mĩ đã phải
đưa sức người, sức của để giúp nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đó. Thậm chí,
tháng 2-1965, chính phủ Mĩ còn công bố Sách Trắng về Việt Nam và xác định nhiệm
vụ của Mĩ ở Việt Nam.
Như vậy, về nguyên nhân Mĩ xâm lược Việt Nam đang tồn tại rất nhiều luồng
ý kiến, quan điểm khác nhau. Tùy vào góc độ của các nhà khoa học mà mỗi người có
một cách lý giải cho vấn đề. Hiện nay, rất nhiều tài liệu mật của Bộ Quốc phòng và
Bộ Ngoại giao Mĩ trong giai đoạn cầm quyền của Tổng thống Johnson đã được công
bố, giải mật. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ việc tiếp cận với nguồn tài liệu gốc này để
có cách nhìn nhận, đánh giá lại nguyên nhân chính quyền Johnson quyết định trực
tiếp xâm lược Việt Nam là vấn đề cần thiết.
Thứ hai, về quá trình thực hiện chính sách của các tổng thống Mĩ đối với Việt
Nam cũng có nhiều điểm còn tranh luận.
Các nhà khoa học Việt Nam xuất phát từ tính chính nghĩa của cuộc cách mạng
dân tộc, dân chủ nên tập trung nghiên cứu vào khía cạnh hoạt động quân sự của Mĩ.
Hầu hết các công trình nghiên cứu ở Việt Nam đều tập trung làm rõ quá trình triển
khai các chiến lược quân sự của Mĩ tại Việt Nam và những thành tựu vĩ đại trong
cuộc kháng chiến, đánh bại các chiến lược quân sự của Mĩ dưới thời Eisenhower,
Kennedy và Johnson như “chiến tranh đơn phương”, “chiến tranh đặc biệt”, “chiến
tranh đặc biệt” tăng cường (1963-1965), “chiến tranh cục bộ” (1965-1968). Đồng
thời, các công trình cũng nhấn mạnh đến những nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa
lịch sử đối với Việt Nam mà chưa có tiếp cận với vấn đề từ phía chính phủ Mĩ.


22


Ngược lại, các nhà hoạch định chính sách của Mĩ thì lại chú trọng nhiều đến các
mục tiêu khác như chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự. Một số nhà khoa học lẫn
chính trị Mĩ thường xem quân sự chỉ là một giải pháp để thực hiện hiệu quả chính
sách đối ngoại của Mĩ với Việt Nam để xây dựng miền Nam Việt Nam thành một
“quốc gia tự do, dân chủ” và có thể tự đứng vững trong cuộc chiến chống chủ nghĩa
cộng sản ở châu Á. Do đó, Mĩ đã ra sức viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn,
xây dựng chương trình phát triển kinh tế, văn hóa nhằm ổn định chính trị, tăng cường
lực lượng quân đội Sài Gòn để cùng Mĩ thực hiện chiến lược toàn cầu của Mĩ.
Như vậy, tùy vào góc độ và mục tiêu nghiên cứu mà các nhà khoa học có những
nhận định, đánh giá chưa thống nhất với nhau về chính sách của Mĩ đối với Việt Nam.
Do đó, việc tìm hiểu, đánh giá toàn diện lại chính sách của các tổng thống Mĩ đối với
vấn đề Việt Nam cũng là một việc làm cần thiết.
Thứ ba, vấn đề “đi tìm một giải pháp phù hợp” để kết thúc chiến tranh của Mĩ
ở Việt Nam từ năm 1965-1968 cũng còn nhiều vấn đề tranh luận khác nhau.
Về phía Việt Nam, những cuộc tiếp xúc cũng như những chính sách trong hòa
đàm Việt-Mĩ từ 1965-1968 vẫn chưa được chú trọng nhiều và chỉ được đề cập đến
trong một số công trình nhất định. Các nhà khoa học và chính trị Việt Nam đều nhất
trí là “Johnson đã hô hào đàm phán không điều kiện” nhưng thực chất đó là một trò
“lừa bịp dư luận thế giới”. Mĩ đã không thực tâm muốn đàm phán mà còn mở rộng
chiến tranh ném bom phá hoại miền Bắc Việt Nam. Việt Nam đã nhiều lần “tố cáo”
Mĩ trước dư luận quốc tế để vạch rõ tội ác của Mĩ và vận động cuộc ủng hộ cho nhân
dân Việt Nam. Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng có một số rất ít nhà khoa học lại cho rằng
Việt Nam đã nhiều lần “từ chối” cơ hội đàm phán với Mĩ. Việt Nam luôn tin tưởng
vào khả năng đánh bại Mĩ nên không chấp nhận đàm phán với Mĩ.
Về phía Mĩ, các nhà nghiên cứu cũng như một số nhà chính trị và thậm chí là
Tổng thống Johnson lại cho rằng “Mĩ luôn muốn hòa bình” và chấp nhận đi bất cứ
nơi đâu, gặp bất cứ ai để đàm phán về vấn đề Việt Nam. Tuy nhiên, Mĩ đã không
nhận được tín hiệu tích cực từ Hà Nội. Do đó, Mĩ phải tiếp tục cuộc chiến tranh ở
Việt Nam với mức độ lớn hơn. Ngược lại, cũng có những nhà khoa học Mĩ lại cho
rằng Mĩ đã không trung thực trong việc thực hiện các tuyên bố của mình và chưa

thành tâm muốn tiếp xúc với Hà Nội để đàm phán, kết thúc chiến tranh.
Như vậy, về quá trình đàm phán Việt-Mĩ trước Hội nghị Paris cũng là vấn đề
còn rất nhiều tranh luận giữa các nhà khoa học ở Việt Nam và cả phía Mĩ. Vậy thực
chất quá trình hòa đàm Việt-Mĩ từ 1965-1968 như thế nào? Đó cũng là vấn đề cần
làm rõ khi tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam.


23

Tóm lại, cuộc chiến tranh Việt Nam dưới thời Tổng thống L.B.Johnson đã được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ, mục đích khác nhau nên còn nhiều vấn đề chưa được
làm sáng tỏ, rõ ràng. Những vấn đề các nhà nghiên cứu đưa ra phần lớn chưa tiếp cận
được với nhiều nguồn tư liệu gốc của Mĩ và do nhiều nguyên nhân khác nên vẫn còn
mang tính chủ quan và mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, việc căn cứ trên những tài liệu
gốc của Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mĩ về Việt Nam để làm sáng tỏ những vấn
đề trên là một việc làm cấp thiết vừa mang tính khoa học, vừa mang tính thực tiễn.
Do đó, chúng tôi chọn đề tài Quá trình “leo thang” chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam
(1954-1969) để làm sáng tỏ những vấn đề trên.


24

3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài sẽ góp phần tìm hiểu và lý giải một cách tương đối toàn diện quá trình
can thiệp của Mĩ vào Việt Nam từ sau năm 1954. Đặc biệt, đề tài sẽ góp phần làm rõ
những điều chỉnh chiến lược của các tổng thống Mĩ qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Quan trọng hơn là thời kì tổng thống Johnson đẩy mạnh việc “leo thang” và cuối cùng
phải “xuống thang” chiến tranh tại Việt Nam. Đồng thời, đề tài cũng tìm hiểu cách
nhìn nhận, đánh giá của chính giới Mĩ về vị trí và vai trò của Việt Nam trong chiến
lược toàn cầu của Mĩ ở Đông Nam Á. Từ đó, khôi phục lại bức tranh về chủ trương,

chính sách của Mĩ trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1954 – 1969.
4. Cách tiếp cận đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh giai cấp, về
chủ nghĩa đế quốc, về chức năng của Nhà nước. Ở đây, chúng tôi chú trọng đến tính
biện chứng, tác động của hoàn cảnh lịch sử đến sự hình thành chính sách đối ngoại
của Mĩ.
Trên cơ sở những tài liệu gốc của Bộ Quốc phòng Mĩ, Bộ Ngoại giao Mĩ đã
được giải mật thời gian qua và Tài liệu Mật của Lầu Năm Góc đã được công bố năm
1971 (ấn bản của New York Times) và ấn bản mới nhất của Gravel về những chủ
trương, chính sách của Mĩ đối với Việt Nam từ 1945-1967, chúng tôi tiến hành phân
tích, đối chiếu và so sánh với những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
và trên thế giới để đưa ra một cách nhìn nhận, đánh giá khách quan nhất. Qua đó, đề
tài sẽ làm rõ quá trình “leo thang” và “xuống thang” chiến tranh Việt Nam của Mĩ.
Đồng thời, đề tài cũng sẽ tiếp cận thêm một góc độ nữa là sụ sự tác động của xã
hội đối với việc hoạch định chính sách đối ngoại quốc gia. Phong trào phản chiến ở
Mĩ cũng đóng góp một phần vào sự “xuống thang” chiến tranh Việt Nam của tổng
thống Johnson.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên những phương pháp sau:
Phương pháp sưu tầm, xử lý tài liệu để tập hợp các tài liệu nghiên cứu từ nhiều
nguồn khác nhau như các tài liệu gốc được giải mã từ Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao
và Nhà Trắng để làm rõ nội dung của đề tài. Đây là nguồn tài liệu quan trọng nhất để
thực hiện đề tài. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sưu tầm các công trình nghiên cứu, các
bài viết trên tạp chí chuyên ngành, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế, một số
tài liệu cập nhật đáng tin cậy trên các Website có giá trị của Bộ Quốc phòng Mĩ, của


25


Nhà Trắng, các Thư viện của các trường đại học ở Mĩ… Sau đó, chúng tôi phân loại
các nguồn tư liệu ra thành nguồn tài liệu gốc, tài liệu nghiên cứu trực tiếp và tài liệu
nghiên cứu gián tiếp. Việc sưu tầm, xứ lý và phân loại tư liệu giúp chúng tôi có cái
nhìn tổng quan về đề tài nghiên cứu.
Phương pháp lịch sử là dựa trên những sự kiện lịch sử đã diễn ra ở Việt Nam và
những Văn kiện, Bị vong lục, Điện tín trao đổi giữa Mĩ và Việt Nam đã được giải
mật trong thời gian qua để tìm hiểu, mô tả lại quá trình đề ra và thực thi chính sách
đối ngoại của chính phủ Mĩ ở Việt Nam từ 1954-1969. Qua đó, chúng tôi khôi phục
lại bức tranh cuộc chiến tranh Việt Nam của Mĩ.
Phương pháp lô-gic được sử dụng để dựa trên những sự kiện đã xảy ra mà rút
ra được những kết luận mang tính quy luật và bản chất và những đặc điểm trong chính
sách đối ngoại của Mĩ cũng như quan hệ phức tạp giữa Mĩ – Việt Nam trong khoảng
thời gian này. Đặc biệt, chúng tôi cũng rút ra được những nguyên nhân thất bại của
Mĩ trong chiến tranh Việt Nam.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng một số phương pháp
liên ngành như phương pháp nghiên cứu của khoa học quan hệ quốc tế để đảm bảo
tính thống nhất về tư duy lô-gic và quan điểm lịch sử.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Những chủ trương, chính sách của chính phủ Mĩ đối với Việt Nam từ năm 19541969.
Quá trình chính phủ Mĩ triển khai thực hiện các chính sách cũng như những sự
điều chỉnh trong chính sách của Mĩ đối với Việt Nam. Qua đó, làm rõ quá trình “leo
thang” và “xuống thang” chiến tranh của Mĩ tại Việt Nam.
Những thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
6.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về mặt thời gian: đề tài nghiên cứu quá trình hoạch định và thực hiện chính
sách của Mĩ đối với Nam Việt Nam từ 1954 – 1969.
Về không gian nghiên cứu: Việt Nam trong chính sách của Mĩ.
Về phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung làm rõ những sự điều chỉnh chính sách
của Mĩ đối với Việt Nam qua các đời tổng thống Eisenhower, J.Kennedy, L.B.

Johnson.
7. Đóng góp của đề tài


×