Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TèM HIỂU XUNG đột KỊCH TRONG đoạn TRÍCH VĨNH BIỆT cửu TRÙNG đài (TRÍCH vũ NHƯ tễ của NGUYỄN HUY TƯỞNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.94 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HÀ TĨNH
-----oOo-----

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
®Ò TµI:
TÌM HIỂU XUNG ĐỘT KỊCH TRONG ĐOẠN TRÍCH "VĨNH
BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI"
(TRÍCH VŨ NHƯ TÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG)
LĨNH VỰC: NGỮ VĂN THPT

TÁC GIẢ ĐỀ TÀI: TRẦN THỊ LAM
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG THPT CHUYÊN HÀ TĨNH

HÀ TĨNH 2014
1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lịch sử văn học xét đến cùng là lịch sử hình thành và tiêu vong của
các thể loại. Chính vì thế, cấu tạo chương trình ngữ văn THPT nhất là phần văn
học đã coi trọng sự phát triển của loại thể. Tìm hiểu tác phẩm qua đặc trưng thể
loại là hướng khám phá có hiệu quả để nhận chân những giá trị tư tưởng và nghệ
thuật của một tác phẩm văn học.
1.2. Nếu tình huống là hạt nhân của truyện ngắn thì xung đột chính là linh
hồn, là xương sống của một vở kịch. Nắm được xung đột kịch tức là chúng ta đã
có được chiếc chìa khóa để mở cánh cửa bước vào thế giới nghệ thuật của một
vở kịch.
1.3. Vũ Như Tô là vở bi kịch hiếm hoi của văn học Việt Nam hiện đại.
Thể loại văn học và sân khấu này có quá nhiều nét ngoại biệt, không thấy ở các
thể loại khác. Tác phẩm được chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường với đoạn


trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Tuy nhiên việc khám phá chiều sâu nội dung tư
tưởng qua xung đột kịch chưa thật sự được chú ý. Bởi vậy, đề tài của chúng tôi
hướng đến một cách tiếp cận còn nhiều khoảng trống, đó là tìm hiểu đoạn trích
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài qua xung đột bi kịch. Việc tìm hiểu xung đột kịch
trong đoạn trích còn có ý nghĩa thực tiễn: Giúp ta tìm ra phương pháp tiếp cận
thích hợp với những văn bản kịch còn lại trong chương trình trung học phổ
thông. Đó chính là lý do chọn đề tài của chúng tôi.
2. Phạm vi đề tài
Do khả năng của người viết cũng như do qui mô của một bản sáng kiến
kinh nghiệm, đề tài này chỉ đi sâu tìm hiểu một phương diện là xung đột bi kịch
trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.
3. Phương pháp thực hiện
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp và phương pháp so sánh, đối chiếu.
4. Đóng góp mới của đề tài (Ý nghĩa khoa học và thực tiễn)
2


Về mặt lí luận, đề tài này đưa đến một cách tiếp cận mới đối với đoạn
trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, đó là tiếp cận từ phương diện xung đột bi kịch.
Thông qua xung đột bi kịch để thấy được những vấn đề lớn lao mà nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng đặt ra trong tác phẩm Vũ Như Tô.
Về mặt thực tiễn, đề tài này sẽ giúp cho giáo viên và học sinh trong việc
khám phá, giảng dạy và học tập các văn bản thuộc thể loại kịch trong nhà
trường. Từ đó, có phương pháp tiếp cận thích hợp với các tác phẩm văn học
cùng thể loại.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm ba phần chính:
1. Giới thuyết về thể loại bi kịch.
2. Giới thuyết về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch Vũ Như Tô.

3. Tìm hiểu xung đột bi kịch trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

B. PHẦN NỘI DUNG

1. Giới thuyết về thể loại bi kịch
1.1. Khái niệm
Bi kịch là một thể loại kịch, thường được coi như là trái với hài kịch. Nếu
truyện ngắn và tiểu thuyết phản ánh đời sống qua các sự kiện biến cố thì bi kịch
phản ánh đời sống thông qua các xung đột không thể điều hòa được giữa cái
thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn diễn ra trong một tình huống cực kì
căng thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm gây
nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ.
Bi kịch ra đời từ rất sớm ở Hy lạp cổ đại. Vào thế kỷ V tr.CN, bi kịch là
một thể loại sân khấu rất thịnh hành với những tác giả nổi tiếng như Etsilơ,
Xôphôklơ với những tác phẩm bất hủ còn lưu lại đến ngày nay như Prômêtê bị
xiềng, Ăngtigôn... Từ bấy đến nay bi kịch trải qua nhiều bước thăng trầm và
không ngừng đổi mới về hình thức và nội dung nghệ thuật để ngày một hoàn
thiện hơn về mặt thể loại. Ở Việt Nam không có bi kịch như một thể loại văn
3


học - sân khấu theo quan niệm cổ điển mà chỉ có một số vở tuồng hoặc kịch hiện
đại mà nội dung tư tưởng nghệ thuật có chứa đựng yếu tố bi kịch. Vở kịch Vũ
Như Tô có thể coi là một vở bi kịch hiếm hoi của dân tộc. Nó đáp ứng đầy đủ và
khá hoàn hảo mọi yêu cầu, mọi tiêu chí của thể loại bi kịch - một thể loại được
coi là khó nhất và cao quí nhất của văn học.
1.2. Một số đặc trưng thi pháp của thể loại bi kịch
1.2.1. Xung đột bi kịch
Kịch bản (có thể nói rộng hơn: văn bản nghệ thuật) trở thành tác phẩm bi
kịch không phải mỗi khi nó kết thúc một cách bi thảm, mà khi nó được kết cấu

trên cơ sở xung đột hay mâu thuẫn bi kịch. Trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng ta thấy chỉ có Vũ Như Tô chứa đựng mâu thuẫn bi kịch như là một yếu tố
nền của tác phẩm, còn những trước tác khác của ông viết trước cũng như sau
Cách mạng, cả kịch bản lẫn tiểu thuyết (Bắc Sơn và Những người ở lại, Ðêm hội
Long Trì và An Tư), mặc dù chúng có nội dung bi thương hay bi hùng, nhưng
không kết cấu và triển khai trên cơ sở xung đột hay mâu thuẫn bi kịch, cho nên
không thể gọi là những tác phẩm bi kịch theo nghĩa khoa học chặt chẽ của từ ấy.
Mâu thuẫn bi kịch, như chúng ta biết, là mâu thuẫn: a) mang tính nội tại; b) có ý
nghĩa xã hội to lớn; c) không thể giải quyết; d) mọi cách khắc phục mâu thuẫn
đều dẫn đến sự diệt vong những giá trị quan trọng. Các nhân vật của bi kịch
thường chỉ có thể thoát ra khỏi xung đột bằng cái chết bi thảm.
1.2.2. Nhân vật bi kịch
Nhân vật bi kịch thường có hai đặc điểm. Thứ nhất họ thường là những
người anh hùng không bao giờ chịu khuất phục hoàn cảnh, là một con người
quá khổ. Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, cũng như Hamlet, như vua Lia
không phải là người tốt theo nghĩa thông thường. Con người tốt bụng, con người
hiền từ hay mềm yếu, mà sự mềm yếu là "phản chỉ định" đối với nhân vật bi
kịch. Con người hiền từ yếu đuối, thụ động hứng chịu, quằn quại rên xiết dưới
những đòn đánh không hiểu nổi của số phận là đối tượng của kịch cải lương. Vũ
Như Tô, nhân vật bi kịch, bị lịch sử kết án chung thân làm một anh thợ vô danh

4


tiểu tốt. Nhưng Vũ Như Tô đã chủ động vùng dậy chống lại số phận, thách thức
số phận xây Cửu Trùng Ðài.
Thứ hai, họ mang trong mình không chỉ những khát vọng lớn lao mà
cả những lầm lạc trong suy nghĩ và hành động. Đây là đặc trưng cơ bản của
nhân vật bi kịch. Triết gia và nhà văn hiện sinh chủ nghĩa Kierkegaard từng
khẳng định: "Nếu con người hoàn toàn vô tội, bi kịch mất hết lý thú, bởi vì sẽ

mất đi sức mạnh của xung đột bi kịch; mặt khác, nếu nhân vật tự nó có lỗi hoàn
toàn, thì nó sẽ không thể khiến ta quan tâm, xét từ quan điểm bi kịch". Cho nên,
nhân vật bi kịch phải vừa có tội vừa không có tội, vừa đáng thương vừa đáng
trách.
1.2.3. Hiệu ứng bi kịch
Aristote cho rằng hiệu ứng tâm lý của bi kịch là gây nên sự sợ hãi và xót
thương. Nhưng cái đó chưa đủ và không phải là cái chính. Hành động bi kịch
phải dẫn đến sự thanh tẩy những cảm xúc ấy. Sự thanh tẩy này đạt được bằng và
nhờ sự giác ngộ cái lẽ sâu kín của những khổ đau bất hạnh đã đến với các nhân
vật kịch. Ðây cũng là điểm quan trọng khu biệt bi kịch với kịch cải lương. Ở
những thể loại này, hiệu ứng xót thương đến trào nước mắt, đến ngất xỉu là đặc
trưng và tự đủ. Vũ Như Tô, tác phẩm bi kịch, không làm ta rơi nước mắt, nhưng
nó bắt ta suy ngẫm về cái lẽ, cái nghĩa sâu xa của những gì ta đã đọc hoặc đã
thấy (trên sân khấu).
Một trong những hiệu ứng tâm lý quan trọng nữa của bi kịch là ưu tư bi
kịch. Bi kịch được viết không phải để truyền cho ta niềm vui sống hay an ủi ta
trong những khổ đau, có những thể loại khác phục vụ những nhu cầu ấy. Bi kịch
khiến chúng ta lo lắng cho vận mệnh của những giá trị lớn của xã hội và con
người. Vũ Như Tô là một tác phẩm như thế.
Dĩ nhiên trong khuôn khổ một bản sáng kiến kinh nghiệm chúng tôi
không có tham vọng tìm hiểu đầy đủ các phương diện thi pháp nói trên của bi
kịch mà chỉ xin đi sâu tìm hiểu một khía cạnh đó là xung đột bi kịch trong đoạn
trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

5


2. Giới thuyết về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch Vũ Như Tô
2.1. Về tác giả Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn nặng lòng với lịch sử dân tộc. Ông thường

day dứt, suy tư trước lẽ hưng vong và suy tàn của quốc gia. Nhìn vào lịch sử
nước nhà, Nguyễn Huy Tưởng nhận thấy lịch sử dân tộc thì rất hoành tráng với
những chiến công hiển hách nhưng chúng ta lại chưa có tác phẩm nghệ thuật nào
xứng tầm với nó. Trong lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã
trăn trở: "Mải vật lộn quên đài cao mộng lớn, công ông cha hay là nỗi thiệt thòi".
Bởi vậy, ông luôn khao khát viết được những tác phẩm có qui mô lớn, dựng lên
những bức tranh, bức tượng hùng tráng về lịch sử bi hùng của dân tộc, nói lên
những vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người và cuộc sống. Ông thường hay
quan tâm đến quá khứ dân tộc, phát hiện trong những câu chuyện quá khứ
những vấn đề mang tính thời đại, soi sáng cho cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Nhưng ông không phải là một nhà “khảo cổ”, bản lĩnh nghệ sĩ vẫn bộc lộ trọn
vẹn khi nhà văn phát hiện trong câu chuyện quá khứ những thông điệp dành cho
hôm nay và thậm chí cả muôn đời. Vở kịch Vũ Như Tô là ví dụ tiêu biểu cho
điều đó.
2.2. Về vở kịch Vũ Như Tô
Nguyễn Huy Tưởng viết vở bi kịch Vũ Như Tô vào năm 1941, khi đó ông
chưa đầy 30 tuổi. Vở kịch gồm 5 hồi, viết về một sự kiện có thật xảy ra ở kinh
thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Nhân vật chính của vở kịch là Vũ Như Tô,
một kiến trúc sư thiên tài có khát vọng nghệ thuật cao cả. Lê Tương Dực, một
hôn quân bạo chúa sai Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài để làm nơi vui chơi với
các cung nữ. Vũ Như Tô đã từ chối dù bị đe dọa kết tội tử hình. Song Đan
Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ Như Tô nhận lời
xây Cửu Trùng Đài vì đây là cơ hội để họ Vũ đem tài ra phục vụ đất nước, "Ông
cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi sẽ mât đi
nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh
6


diện", "Trước mắt người ta có thể oán ông nhưng sau này hậu thế sẽ hiểu cho
ông". Vũ Như Tô đã nhận lời và ra sức xây dựng Cửu Trùng Đài. Đài xây cao

bao nhiêu đời sống của nhân dân điêu linh khốn khổ bấy nhiêu. Kết quả là dân
chúng nổi dậy giết chết Vua Lê Tương Dực, truy sát Vũ Như Tô, Đan Thiềm và
tiêu hủy Cửu Trùng Đài.
Một nửa thế kỷ sau khi ra đời, chỉ những năm gần đây vở kịch Vũ Như Tô
của Nguyễn Huy Tưởng mới thực sự trở thành đối tượng của sự nghiên cứu
chuyên sâu, sự trao đổi ý kiến cởi mở, hào hứng với nhiều khám phá mới. Nhiều
ý kiến, luận điểm mới mẻ được phát biểu về những vấn đề mấu chốt của tác
phẩm: thể tài, hình tượng nhân vật chính Vũ Như Tô và tính chất của mâu thuẫn
kịch. Về thể tài của vở kịch hiện cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Một số người
muốn xem đây như một vở kịch lịch sử, một số khác có xu hướng xem đây là bi
kịch. Vở kịch Vũ Như Tô có nhiều yếu tố lịch sử nhưng nó không có ý định
dựng lại, làm sống dậy một sự thật lịch sử nên cũng khó xem đây là một vở kịch
lịch sử theo đúng nghĩa của nó. Qua Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đặt ra
những vấn đề sâu xa hơn liên quan đến nhiều mối quan hệ như nghệ sĩ và nhân
dân, cái thiện và cái đẹp, đam mê và tội lỗi... Những bài viết có giá trị gần đây
nhất về Vũ Như Tô đều có xu hướng xem vở kịch này là một bi kịch. Đây cũng
là quan điểm của chúng tôi. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi muốn đề
cập đến một bình diện cơ bản của bi kịch Vũ Như Tô là xung đột kịch (thông
qua đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài).
3. Xung đột bi kịch trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
3.1. Diện mạo của xung đột
Xung đột kịch bao giờ cũng được xây dựng dựa trên các mâu thuẫn. Khi
các mâu thuẫn tương tác với nhau thì sẽ nảy sinh xung đột. Trong đoạn trích
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, xung đột kịch được xây dựng dựa trên hai mâu thuẫn
cơ bản:

7


Mâu thuẫn thứ nhất: Mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa của hôn quân bạo

chúa và cuộc sống điêu linh khốn khổ của nhân dân. Quá trình phát triển của
mâu thuẫn này chỉ ra tính tất yếu của hồi V. Tóm tắt vở kịch cho thấy vua Lê
Tương Dực không phải là một ông vua thương dân, vì nước. Vua cho xây Cửu
Trùng Đài để làm chỗ vui chơi với các cung nữ. Để xây Cửu Trùng Đài vua ra
sức bắt thuế, tróc thợ. Dân đói khát điêu đứng vì mất mùa, vì vua đòi thuế một
thì quan lại bổ gấp đôi. Thợ làm việc vất vả, bị ăn chặn nên chết vì đói khát,
bệnh dịch, tai nạn. Vua ăn chơi trên xương máu mồ hôi của nhân dân nên loạn
biến là tất yếu. Đây là lúc tức nước vỡ bờ, dân nổi can qua. Mâu thuẫn phát triển
thành xung đột kịch. Kết quả là vua Lê Tương Dực bị giết, hoàng hậu nhảy vào
lửa, lũ cung nữ bị nhục mạ, Cửu Trùng Đài hiện thân cho tham vọng ăn chơi của
vua Lê Tương Dực bị đốt thành tro.
Đây không phải là mâu thuẫn bi kịch bởi vì nó chỉ mang tính thời đại mà
không mang tính muôn thủa. Nó chỉ xảy ra ở thời đại của hôn quân bạo chúa còn
trong thời đại của đấng minh quân nó sẽ bị triệt tiêu. Mâu thuẫn này có thể được
giải quyết mà không làm tổn thương đến các giá trị quan trọng. Đây là mâu
thuẫn làm nền để trên đó Nguyễn Huy Tưởng triển khai mâu thuẫn thứ hai - mâu
thuẫn bi kịch.
Mâu thuẫn thứ hai: Mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật thuần túy của
người nghệ sĩ và lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân. Khát vọng nghệ
thuật của Vũ Như Tô là xây một tòa đài Cửu Trùng "cao cả huy hoàng", "nóc
vờn mây", "bền như trăng sao". Xây công trình Cửu Trùng Đài ấy, người nghệ sĩ
không thèm so tài với con người mà muốn đua tài cùng thượng đế, "tranh tinh
xảo với hóa công". Tuy nhiên để xây công trình ấy phải tốn rất nhiều tiền của.
Vũ Như Tô không có điều kiện nên ông đã mượn bàn tay của bạo chúa để thực
hiện giấc mơ lãng mạn của mình. Đài Cửu trùng xây cao bao nhiêu thì đời sống
của nhân dân lại điêu linh khốn khổ bấy nhiêu. Vũ Như Tô quyết thực hiện giấc
mơ của mình bằng mọi giá. Nhân dân cũng cương quyết không chấp nhận những

8



đòi hỏi hy sinh từ phía người nghệ sĩ. Mâu thuẫn này phát triển đến cao trào dẫn
đến xung đột trong đoạn trích. Đây là mâu thuẫn bi kịch vì những lẽ sau:
Đây là mâu thuẫn có ý nghĩa xã hội to lớn. Nó không chỉ có ý nghĩa ở
thời đại của vua Lê Tương Dực mà là mâu thuẫn của nhiều thời đại trong nhiều
thế kỉ nối tiếp nhau. Nếu ta hình dung hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ là
thực hiện mệnh lệnh của cái Đẹp, bảo vệ lợi ích thiết thực của quần chúng nhân
dân là thực hiện mệnh lệnh của cái Thiện thì đây chính là mâu thuẫn giữa cái
Đẹp và cái Thiện. Nếu cái Đẹp mà Vũ Như Tô tôn thờ là một tòa đài nóc vờn
mây kỳ vĩ, trác tuyệt và siêu đẳng thì cái Thiện mà nhân dân theo đuổi lại rất sơ
đẳng, chỉ là cơm ăn và áo mặc. Cái Đẹp Vũ Như Tô hướng tới là một công trình
nghệ thuật "bền như trăng sao", tức là cái Đẹp vĩnh cửu muôn đời thì cái Thiện
mà nhân dân khao khát lại là những cái nhất thời ngay trước mắt để đảm bảo sự
sống. Cho nên xét đến cùng thì đây chính là xung đột giữa các giá trị, giữa cái
Đẹp và cái Thiện, cái siêu đẳng và cái sơ đẳng, cái nhất thời và cái muôn đời.
Xung đột giá trị là xung đột có ý nghĩa xã hội rộng lớn, là lỗi lầm cơ bản
của con người từ cổ chí kim và từ đông sang tây. Một trong những lỗi lầm cơ
bản của con người và loài người là chúng ta thường tuyệt đối hóa một giá trị mà
coi thường và rẻ rúng một giá trị khác. Chúng ta từng đề cao bổn phận mà coi rẻ
tự do, đề cao trinh tiết mà rẻ rúng tình yêu, đề cao cái siêu đẳng mà coi thường
những cái sơ đẳng... hoặc ngược lại. Chẳng hạn, để xây nên những Kim tự tháp
bền như trăng sao các Pha-ra-ong của Ai-cập cổ đại đã hi sinh của cải, sức lực,
sinh mệnh của hàng triệu nô lệ. Ở Trung quốc cổ đại để xây nên công trình Vạn
lí trường thành, Tần Thủy Hoàng cũng đã hi sinh tính mệnh và của cải của hàng
triệu người dân Trung Hoa. Châu Âu thời trung cổ đề cao tôn giáo mà rẻ rúng
khoa học, đề cao đức tin mà coi rẻ trí tuệ, phương Đông thời trung đại đề cao
bổn phận mà coi rẻ khát vọng cá nhân... Như vậy, Nguyễn Huy Tưởng đã đặt ra
trước mắt chúng ta một vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn không chỉ của một thời
mà của nhiều thời.


9


Đây cũng là mâu thuẫn có tính chất nội tại. Nó nằm ngay trong bản thân
nhân vật. Nghĩa là bất kể thế nào thì bi kịch vẫn có thể xẩy ra. Giả dụ Vũ Như
Tô không sống ở thời của hôn quân Lê Tương Dực mà sống ở thời của đấng
minh quân Lê Thánh Tông bi kịch có xẩy ra không? Bi kịch vẫn xẩy ra nhưng
theo một cách khác lặng lẽ, âm thầm, sử sách không ghi lại. Là một minh quân
vua Lê Thánh Tông thì sẽ không bao giờ ra lệnh xây Cửu Trùng Ðài. Là ông vua
sùng đạo Nho, tâm niệm lời dạy của thánh hiền, nhớ gương tầy liếp của Kiệt Trụ, Hồng Ðức không ăn chơi xa xỉ, không nghĩ đến chuyện xây cung điện nguy
nga chín tầng trăm nóc làm hao tổn ngân khố, thiệt hại tài sản và tính mạng của
dân, để dân oán giận và có thể nổi dậy lật đổ ông. Ðộc tôn Khổng - Nho và bài
Phật, bài Lão, Lê Thánh Tông cũng sẽ không cho xây đền chùa miếu mạo với
quy mô to lớn như thời Lý - Trần; thành thử nếu họ Vũ sống dưới triều Lê
Thánh Tông thì cũng sẽ không có việc làm. Vũ Như Tô sẽ tất yếu phải chôn vùi
tài năng cùng với những cao vọng sáng tạo của mình để hoặc vui vầy với nhà
tranh vách đất, với củ khoai củ sắn, hoặc nếu không chịu đựng được cuộc sống
thực vật ấy thì tìm cách tự kết liễu cuộc đời mình, như bao nhiêu người tài bất
đắc chí vẫn làm ở mọi châu lục và mọi thời đại.
Mâu thuẫn này cũng không thể giải quyết bởi mọi cách giải quyết mâu
thuẫn đều dẫn đến sự diệt vong của những giá trị quan trọng. Kết cục của vở
kịch mang tính bi kịch bởi vì đã băng hoại những giá trị lớn: Cả Vũ Như Tô và
Cửu Trùng Đài đều đã bị diệt vong, cả cái Tài và cái Đẹp đã bị tiêu hủy. Đây
không phải là cái Tài cái Đẹp bình thường mà là cái Tài và cái Đẹp siêu đẳng
trác tuyệt. Người thợ có tài trong lịch sử đã được Nguyễn Huy Tưởng cường
điệu phóng đại để trở thành "thiên tài ngàn năm chưa dễ có một". Nghĩa là nếu
Vũ Như Tô chết thì phải một nghìn năm nữa nhân dân mới có thể sản sinh ra
một Vũ Như Tô mới, nhiều công trình kỳ vĩ có thể được xây cất, nhưng không
phải Cửu Trùng Ðài tuyệt diễm mà chỉ Vũ Như Tô mới có thể làm nên. Vũ Như
Tô và Cửu Trùng Đài là những giá trị hiếm hoi siêu việt, là một giá trị quan

trọng, bởi những thiên tài ở cấp cao giá trị của nó bao giờ cũng đồng đẳng với
10


dân tộc hoặc cao hơn dân tộc. Nhưng ta thử giả định một kết cục khác: Cửu
Trùng Ðài hoàn thành, nhưng lúc ấy sẽ không còn người nào, trừ Vũ Như Tô và
Ðan Thiềm, để thưởng ngoạn nó, bởi lẽ những Lê Tương Dực với lũ cung nữ
với những Nguyễn Vũ đâu phải là những con người chân chính. Nhân dân sẽ bị
diệt vong và dân tộc có nguy cơ tuyệt diệt. Khi một dân tộc huy động đến vắt
kiệt những tiềm lực của mình để sáng tạo nên những cái Đẹp hoành tráng, kì vĩ,
trác tuyệt, siêu đẳng thì dân tộc đó có nguy cơ đứng bên bờ vực của sự suy vong.
Những nền văn minh đã tử vong như Ăng-co hay đất nước Chiêm Thành đã
minh chứng cho điều đó. Mâu thuẫn này cũng không thể giải quyết theo cách
hòa giải. Bởi cơ hội hòa giải chỉ có thể xảy ra khi nhân dân và Vũ Như Tô thấu
hiểu cho nhau và khi đó Cửu Trùng Đài cũng sẽ không được sinh ra. Nghĩa là,
bất kể giải quyết theo cách nào thì cũng sẽ làm diệt vong những giá trị quan
trọng.
3.2. Diễn biến của xung đột
Mâu thuẫn bi kịch phát triển mỗi lúc một căng thẳng và dẫn đến xung đột
ở hồi V. Diễn biến của xung đột xoay quanh số phận của Vũ Như Tô và sinh
mệnh của Cửu Trùng Đài.
Là người nghệ sĩ mơ mộng và lãng mạn Vũ Như Tô đã đắm chìm trong
giấc mơ của đời mình mà mù lòa trước thực tế. Bởi vậy, khi Trịnh Duy Sản cấu
kết với thợ thuyền nổi lên giết chết Lê Tương Dực, truy sát Vũ Như Tô, ông
vẫn không hề tỉnh ngộ. Trong khi Đan Thiềm hốt hoảng chạy đến báo tin "loạn
đến nơi rồi" và khuyên Vũ Như Tô chạy trốn, bởi hơn ai hết, bằng cái nhìn tỉnh
táo Đan Thiềm ý thức được rằng nhân dân không thừa nhận lí tưởng của Vũ
Như Tô: "Ai cũng cho ông là thủ phạm, vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là
vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán hận là vì ông, thần nhân trách
móc là vì ông. Cửu Trùng Đài họ có cần đâu, họ dấy nghĩa cốt để giết ông, phá

Cửu Trùng Đài". Thế nhưng Vũ Như Tô vẫn ngơ ngác không hiểu. Ông không
nghĩ việc mình xây Cửu Trùng Đài lại bị nhân dân xem là tội ác. Ông vẫn
11


nguyên vẹn một niềm tin ngây thơ và lầm lạc: "Tôi không có tội! Việc tôi làm là
chính đại quang minh". Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài là mộng lớn, là toàn bộ
lẽ sống của đời ông và ông quyết tâm bảo vệ nó bằng mọi giá: "Tôi sống với
Cửu Trùng Đài và chết cũng với Cửu Trùng Đài. Cửu Trùng Đài ở đây thì tôi
chạy đi đâu". Vũ Như Tô đã đồng nhất sinh mạng của đời mình với sinh mạng
của nghệ thuật, coi Cửu Trùng Đài là giá trị duy nhất có ý nghĩa trong cuộc đời
và sẵn sàng hi sinh tất cả cho nó. Ngược lại nhân dân coi Cửu Trùng Đài là tội
ác, Vũ Như Tô là tội đồ, là nguyên nhân của mọi nỗi thống khổ và họ quyết tâm
hủy diệt Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài bằng mọi giá: "Cửu Trùng Đài họ có cần
đâu. họ dấy nghĩa cốt để giết ông phá Cửu Trùng Đài".
Khi tình hình trở nên căng thẳng hơn, giữa tiếng quân reo và lửa cháy,
tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, tên nội giám thông báo Vua bị giết,
Hoàng hậu nhảy vào lửa, Cửu Trùng Đài kẻ phá người đốt, nhân dân hò reo truy
sát Vũ Như Tô: "Còn thằng Vũ Như Tô đem phân thây trăm mảnh", Vũ Như Tô
vẫn đấu lí với cuộc đời với số phận: "Vô lí", "Họ tìm tôi nhưng có lí gì họ giết
tôi. Tôi có gây oán thù gì với ai". Vũ Như Tô từng tranh tinh xảo với hóa công,
giờ lại tranh phải trái với số phận. Cơn biến loạn với những biến cố dồn dập ập
đến nhưng Vũ Như Tô nhìn mà không thấy, nghe mà không biết, toàn bộ tâm trí
bị cuốn hút bởi cảnh quan tráng lệ của Cửu Trùng Ðài. "Khi con người ở trong
nghệ thuật, nó vắng mặt ở trong cuộc đời, và ngược lại" - đó là trạng thái bi kịch
muôn thuở của nhân sinh, được phản ánh trong vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng.
Khi quân phản loạn đã ập vào nội cung, cả Vũ Như Tô và Đan Thiềm
đều bị bắt, nhân dân nhân danh công lí kết tội ông: "Mày không biết mấy nghìn
người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta
oán mày hơn oán quỷ". Thậm chí trong mắt của nhân dân, Vũ Như Tô chỉ là

"quân điên rồ", "quân ngu muội", là "giống vật không biết nhục". Ngược lại, Vũ
Như Tô vẫn cho rằng: "Ta tội gì. Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất
nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách cả những công
trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công... ta không có tội và chủ tướng các
12


người sẽ cởi trói cho ta để ta xây nốt Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn
thủa". Rõ ràng, Vũ Như Tô là người nghệ sĩ mơ mộng và lãng mạn. Những biến
cố của cuộc đời thực không mảy may tác động vào giấc mơ của ông, toàn bộ
tâm trí của ông vẫn đắm chìm trong giấc mộng Cửu Trùng Đài kì vĩ và trác
tuyệt. Theo đuổi đến cùng cái đẹp siêu đẳng người nghệ sĩ đã không đếm xỉa
đến mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của nhân dân. Còn nhân dân, nhân danh
sự sống nhất thời không chấp nhận sự áp đặt giá trị với những đòi hỏi hy sinh từ
phía nghệ sĩ. Kết quả là họ đã nổi dậy tiêu diệt Vũ Như Tô và cả công trình kì
quan của ông.
Kết thúc vở kịch, tận mắt chứng kiến kinh thành phát hỏa, Cửu Trùng
Đài bị đốt cháy, ánh lửa sáng rực, cả tàn than bụi khói bay vào, Vũ Như Tô mới
rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng: "Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn
phần căm giận! Trời ơi! Trời phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan
Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!". Rơi xuống từ một Cửu Trùng Đài vời vợi độ cao
của mơ mộng và ảo vọng, nỗi đau vỡ mộng của Vũ Như Tô biến thành tiếng kêu
bi thiết, não nùng, khắc khoải thể hiện tâm trạng bàng hoàng, bi phẫn lẫn nỗi
đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng. Ánh lửa từ tro bụi Cửu Trùng Đài đã thiêu rụi
giấc mơ của Vũ Như Tô. Cùng một lúc Vũ Như Tô đón nhận hàng loạt sự đổ vỡ
ập xuống: giấc mơ tan vỡ, tri kỉ thành cát bụi, cái đẹp bị tiêu hủy. Là người nghệ
sĩ độc tôn cái đẹp, coi cái đẹp là lẽ sống cuộc đời mình, bởi thế khi Cửu Trùng
Đài đã tan thành tro bụi thì sống hay chết với Vũ Như Tô nào có ý nghĩa gì?
Cho nên ông bình thản đón nhận cái chết: “Thôi! Thế là hết! Dẫn ta đến pháp
trường". Người nghệ sĩ Vũ Như Tô đã chết trước khi đầu rơi ở pháp trường.

Ngược lại với nỗi đau đớn tuyệt vọng của Vũ Như Tô, nhân dân lại hả hê
reo mừng khi Cửu Trùng Đài bị đốt cháy: "Cửu Trùng Đài đã cháy", "Thực đáng
ăn mừng". Ðiệp khúc nguyền rủa Cửu Trùng Ðài vang lên song song với điệp
khúc ngưỡng vọng Cửu Trùng Ðài tạo nên một bản nhạc phức điệu nhưng đầy
hấp dẫn trong vở kịch Vũ Như Tô. Bản nhạc lạ tai được kết cấu chủ yếu bằng
phối hợp đối âm, trong thế cân bằng uyển chuyển và căng thẳng, hai bè hợp
13


xướng thuận nghịch, không để bè nào lấn át bè nào. Nhân dân reo mừng đốt phá
Cửu Trùng Đài và truy sát người nghệ sĩ tài năng. Còn Vũ Như Tô chỉ đau cho
mộng lớn của mình không thành hiện thực chứ không phải đau vì nhận thấy sai
lầm của mình. Ông thực sự là một nhân vật bi kịch điển hình với những khát
vọng lớn lao, những lầm lạc và cả "sự cứng đầu" cho đến khi chết.
Vũ Như Tô là người nghệ sĩ mơ mộng, lãng mạn có lý tưởng nghệ thuật
cao cả. Ông đã làm đúng thiên chức của người nghệ sĩ là sáng tạo ra cái Đẹp
nhưng ông đã sai lầm khi tuyệt đối hóa cái Đẹp mà bỏ rơi cái Thiện, đặt cái Đẹp
cao hơn mọi giá trị khác ở trên đời. Ðối với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Ðài quý hơn
tính mạng của chàng, điều đó thật đáng yêu và đáng phục. Nhưng Cửu Trùng
Ðài còn quý hơn hạnh phúc và sự sống của hàng trăm, hàng ngàn con người
khác thì lại đáng sợ rồi. Theo đuổi cái Đẹp thuần túy, biến nó không những
thành giá trị tự thân, mà còn thành thần tượng độc tôn, người nghệ sĩ thiên tài đã
phạm tội trước nhân dân, trước nhân loại, trước sự sống. Cái chết của Vũ Như
Tô, xét từ một góc độ nào đó là cái chết chuộc tội, mặc dù nhân vật kịch không
ý thức được điều đó.
Nhân dân ngược lại cũng cực đoan không kém Vũ Như Tô. Quần chúng
nhân dân cụ thể, chứ không trừu tượng ấy, trong lịch sử và trong kịch của
Nguyễn Huy Tưởng đã chọn không suy nghĩ đắn đo chỉ một cái Thiện như họ
hiểu nó, và chà đạp, hạ nhục không thương tiếc cái Ðẹp. Nhân vật đối kháng tập
thể, cũng hệt như nhân vật nguyên khởi, đã phạm tội lỗi bi kịch. Trong bi kịch

thực thụ không có người chiến thắng. Tính cao cả đặc biệt của bi kịch là ở chỗ
ấy.
3.3. Cách giải quyết xung đột
Các mâu thuẫn xung đột thường được giải quyết theo hai cách, hoặc triệt
tiêu một phía để phía kia toàn thắng hoặc hòa giải. Mâu thuẫn thứ nhất, mâu
thuẫn giữa đời sống xa hoa trụy lạc của hôn quân bạo chúa với cuộc sống điêu
linh khốn khổ của nhân dân, đã được giải quyết một cách thỏa đáng theo quan
14


điểm của nhân dân. Nhân dân nổi dậy tiêu diệt bạo chúa là xong. Nhưng mâu
thuẫn thứ hai, để tránh khỏi bi kịch chỉ có thể giải quyết theo cách hòa giải. Tuy
nhiên cơ hội duy nhất để hòa giải là Vũ Như Tô phải tạm thời trốn đi nhưng Vũ
Như Tô mù quáng và cố chấp nên cơ hội này đã bị bỏ qua. Cho đến phút bị
chém đầu, nhân vật anh hùng này vẫn đinh ninh: toàn bộ chân lý và lẽ phải
thuộc về một mình chàng với Ðan Thiềm, toàn bộ tội tầy trời thuộc về "đảng ác"
đã đốt phá Cửu Trùng Ðài. Mặt khác, dân chúng, binh sĩ nổi loạn cũng chỉ biết
hả hê là đã loại trừ được nguyên nhân trực tiếp của những tai họa của họ. Cái
Đẹp và cái Thiện đã không thể điều hòa và chung sống. Kết thúc vở kịch, Vũ
Như Tô không hiểu gì và cũng không quan tâm đến lợi ích của quần chúng nhân
dân. Và ngược lại, nhân dân trước sau cũng không hiểu gì về công việc sáng tạo
của người nghệ sĩ. Họ hủy diệt không thương tiếc cái Tài và cái Đẹp. Phá Cửu
Trùng Đài là đúng hay sai? Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Đó là
những câu hỏi đầy day dứt mà chính tác giả cũng không thể giải quyết một cách
rạch ròi dứt khoát. Nguyễn Huy Tưởng đã trực tiếp bày tỏ những băn khoăn của
mình qua lời đề từ: "Cửu Trùng Đài không thành nên mừng hay nên tiếc... Như
Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải. Ta chẳng biết cầm bút chẳng qua cùng
một bệnh với Đan Thiềm". Bi kịch, thể loại lớn của văn học và sân khấu, bao
giờ cũng đặt độc giả và khán giả trước những câu hỏi rất phức tạp, hóc búa và
nhức nhối của cuộc sống. Những câu hỏi ấy không chờ đợi những giải đáp vội

vã, dễ dãi, đơn giản.
Đây là mâu thuẫn có tính bi kịch khó có thể giải quyết một cách dứt
khoát, ổn thỏa, trọn vẹn vì nó mang tính muôn thủa và tầm nhân loại. Mâu thuẫn
này chỉ được giải quyết ổn thỏa khi đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được nâng cao để nhân dân có thể chia sẻ với khát vọng của người nghệ sĩ.
3.4. Ý nghĩa của xung đột
3.4.1. Qua xung đột kịch, Nguyễn Huy Tưởng muốn trình xuất một triết
lí: Các giá trị trong đời sống muốn tồn tại thì không được đối nghịch nhau
15


mà phải nâng đỡ nhau, bổ sung cho nhau. Mọi say mê của con người, nhất là
những say mê chính đáng, cao thượng, giàu tính nhân văn, càng nồng cháy bao
nhiêu thì càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rơi vào tội lỗi bi kịch bấy nhiêu. Lỗi lầm
của Vũ Như Tô trong kịch Nguyễn Huy Tưởng là như thế. Chàng rất cao thượng
trong khát vọng và ý chí sáng tạo của mình, nhưng chàng đã độc tôn cái Ðẹp
nghệ thuật, đặt nó lên trên mọi giá trị cơ bản khác, tuân thủ chỉ một mệnh lệnh
của cái Ðẹp và dửng dưng với mệnh lệnh của cái Thiện. Ðây là cốt lõi của tội lỗi
bi kịch ở nhân vật anh hùng này.
Chúng ta, những con người, luôn luôn lầm lạc trong hành động lẫn tư duy.
Bị câu thúc bởi thực tiễn xã hội, chúng ta thường đề cao cái Chân, cái Thiện, cái
Ðẹp như những giá trị cao nhất của nhân sinh, rất dễ xem chúng như những giá
trị độc lập, có thể tồn tại riêng biệt, cái này không có cái kia vẫn được. Từ đấy
mà ta lại càng dễ hy sinh, dễ thí giá trị này cho giá trị kia. Trong khi ấy trong
cuộc sống lý tưởng, tức là cuộc sống duy nhất xứng đáng với con người, mọi giá
trị phải tồn tại viên mãn, không lấn át mà nâng đỡ, bổ sung hài hòa cho nhau. Bi
kịch của Nguyễn Huy Tưởng nhắc nhở chúng ta về mối họa lớn của sự tách rời
và đối nghịch hóa các giá trị. Nó chứng minh đầy thuyết phục rằng cái Ðẹp tự
sát, khi nó nhảy múa trên thân thể quằn quại của cái Thiện, nhưng giết cái Ðẹp
vì cái Thiện cũng là giết luôn cả cái Thiện. Cái siêu đẳng và cái sơ đẳng phải

tương hỗ, nuôi dưỡng lẫn nhau. Không có cái siêu đẳng, cái sơ đẳng càng quảng
bá càng trở nên thô kệch. Nhưng cắt đứt quan hệ với cái sơ đẳng ("cái tự nhiên"
hay là "đất" của văn hóa), cái siêu đẳng tự làm cho mình mất đi nhựa sống.
Những giá trị cấp cao muốn tự bảo tồn và tỏa sáng không được quay lưng lại
những giá trị cấp thấp, như họ Vũ trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng làm,
nhưng phải biết liên thông và liên kết với chúng, mà vẫn không đánh mất bản
thân. Ðó là nhiệm vụ rất khó, nhưng là tương lai của nền văn minh con người.
Tuy nhận ra tính tất yếu và hợp lí của bi kịch Cửu Trùng Đài nhưng
chúng ta không khỏi đau xót: Chả nhẽ trên đời con người chỉ cần những cái thiết
thực và hữu ích hay sao? Chả nhẽ những dự án, công trình nghệ thuật lớn lao chỉ
16


là món hàng xa xỉ? Nếu thế thì phải chăng khát vọng hướng về cái đẹp là một lỗi
lầm lớn của con người? Thật tự nhiên khi ta đau xót đặt ra những câu hỏi đó là
ta đã đồng cảm cùng với tác giả: Vũ Như Tô phải hay những người giết Như Tô
phải? Câu hỏi dùng dằng ở trạng thái lưỡng phân đó là niềm trăn trở khôn nguôi
của chúng ta trong mọi thời đại. Nó cho ta cái nhìn đúng đắn về quyền và khả
năng chung sống của mọi giá trị tồn tại ở trên đời.
3.4.2. Qua xung đột kịch, Nguyễn Huy tưởng muốn đặt ra những vấn
đề sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ sĩ và nhân dân cái đẹp và cái thiện. Cái
Đẹp và cái Thiện phải gắn bó với nhau. Cái Đẹp chỉ thực sự tỏa sáng khi song
hành cùng cái Thiện. Cửu Trùng Ðài, đồ án mà Vũ Như Tô áp đặt cho vua Lê
Tương Dực, không cho sửa đổi một tí gì, theo ý tưởng của người thiết kế, là tác
phẩm của cái Ðẹp thuần túy, cái Ðẹp "vô ích", nó muốn đứng trên mọi lợi ích
thiết thực, lợi ích thấy được của cả nhân dân lẫn dân tộc nên cuối cùng nó đã bị
tiêu hủy. Xung đột kịch đã nhấn mạnh về tính quá ư không thiết yếu, tính xa xỉ
nguy hại cho quốc gia, dân tộc của những công trình như Cửu Trùng Ðài. Thế
nhưng vì sao khi dân chúng và binh sĩ nổi dậy đốt Cửu Trùng Ðài, giết Vũ Như
Tô, chúng ta lại đau xót đến thế? Hay là bởi vì không có cái đẹp vô ích, cái đẹp

xa xỉ thì quốc gia, dân tộc, nhân dân, con người cũng không sống được?
Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công
trình lớn lao nhưng mặt khác người nghệ sĩ phải giải quyết được đúng đắn mối
quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, gắn yêu cầu của nghệ thuật với đòi hỏi của
muôn dân, không thể nhân danh cái cái đẹp vĩnh cửu mà hy sinh không thương
tiếc quyền lợi của quần chúng nhân dân. Ngược lại, nhân dân cũng phải tự nâng
mình lên để có chung khát vọng, thấu hiểu và chia sẻ với khát vọng của người
nghệ sĩ, không thể nhân danh những giá trị đời sống bình thường mà rẻ rúng phá
hủy Cửu Trùng Đài - cái đẹp siêu đẳng trác tuyệt và vĩnh cửu.

17


KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Tìm hiểu xung đột kịch trong một văn bản kịch là một thao tác khá quan trọng
để khám phá nội dung tư tưởng và những thông điệp nghệ thuật mà nhà văn kí
thác. Vì vậy trong quá trình đọc hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, giáo
viên và học sinh nên đi chú trọng tìm hiểu về xung đột kịch bởi qua xung đột
kịch ta thấy được tầm tư tưởng và tài năng của nhà văn.
Trong đề tài này, chúng tôi đã lần lượt phân tích xung đột bi kịch trong
đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trên các phương diện: diện mạo của xung
đột, diễn biến của xung đột, cách giải quyết xung đột và ý nghĩa của xung đột.
Trong quá trình phân tích, chúng tôi đã có sự đối chiếu so sánh với các loại hình
sân khấu khác cũng như đặt nó trong môi trường văn hóa - xã hội để thấy được
những đóng góp lớn lao và tầm vóc tư tưởng của Nguyễn Huy Tưởng.
Đề tài cũng đã được chúng tôi kiểm nghiệm qua thực tiễn giảng dạy. Kết
quả cho thấy, các em học sinh rất hứng thú khi nhận ra những chân lí đời sống
được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng gửi gắm qua các hình tượng nghệ thuật. Đoạn
trích Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài là một đoạn trích hay và khó trong chương trình
THPT, chúng tôi hi vọng rằng, đề tài này sẽ cung cấp cho các thầy cô giáo và

các em học sinh một hướng khám phá để bước vào thế giới nghệ thuật của văn
bản.
Sáng tác văn học thường mang tính chủ quan còn tìm hiểu tác phẩm tuy
cần đến tính khách quan nhưng không thể và không nên thiếu phần chủ quan của
chủ thể tiếp nhận. Đến với mỗi tác phẩm ta có một tâm thế, một con đường
không lặp lại. Hướng tiếp cận văn học nói chung và tác phẩm kịch nói riêng bao
giờ cũng là một hướng tiếp cận mở chờ đợi những tấm lòng tri âm.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ chúng tôi rút ra trong quá trình
giảng dạy của mình. Nó mang tính chủ quan và chắc chắn không tránh khỏi

18


những hạn chế, hi vọng được sự góp ý của các thầy các cô và bạn bè đồng
nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán (chủ biện), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.
2. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
3. Phương Lựu, Lí luận văn học, NXB Giáo dục, 1997.
4. Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô, NXB Văn học, 2007.
5. Nhiều tác giả, Ngữ văn 11, nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, 2008.
6. Nhiều tác giả, Ngữ văn 11, nâng cao, tập 1, sách giáo viên, NXB Giáo dục,
2008.

19




×