Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Yếu tố tự truyện trong hồi kí và tiểu thuyết một mình một ngựa của ma văn kháng (LV00930)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.61 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

BÙI THỊ MÁT

YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG HỒI KÝ
VÀ TIỂU THUYẾT MỘT MÌNH MỘT NGỰA
CỦA MA VĂN KHÁNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

BÙI THỊ MÁT

YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG HỒI KÝ
TIỂU THUYẾT MỘT MÌNH MỘT NGỰA
CỦA MA VĂN KHÁNG
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện

HÀ NỘI, 2013




LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.Nguyễn Ngọc
Thiện, người đã tận tình chỉ dạy, cung cấp cho tôi những kiến thức nền tảng, trực
tiếp để tôi hoàn thành luận văn này. Thầy cũng là người đã giúp tôi ngày càng tiếp
cận và có niềm say mê khoa học trong suốt thời gian được làm việc cùng thầy.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, các cô ở Phòng Sau Đại học, ở Khoa
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ
đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu về chuyên môn
cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong thời gian qua.
Cuối cùng, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia
đình, bạn bè đã luôn giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình học tập và hoàn thiện luận văn này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2013

Bùi Thị Mát


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Bùi Thị Mát, học viên Cao học khóa 2011 - 2013, chuyên
ngành Lý luận văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan đề tài: “Yếu tố tự truyện trong hồi ký và tiểu thuyết Một
mình một ngựa của Ma Văn Kháng ”, là công trình nghiên cứu độc lập của tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện. Các vấn đề triển khai
trong luận văn này là trung thực, đảm bảo tính khoa học. Các tài liệu tham khảo đều
có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, tháng 6 năm 2013

Bùi Thị Mát



MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................
2. Lịch sử vấn đề.....................................................................................................
3. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................
4. Nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................................
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................
6. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................
7. Dự kiến đóng góp của luận văn...........................................................................
8. Cấu trúc luận văn................................................................................................
NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Lý thuyết về thể tài tự truyện...........................................................................
1.2. Thể tài hồi ký - tự truyện.................................................................................
1.2.1. Thể tài hồi ký................................................................................................
1.2.2. Thể tài hồi ký - tự truyện...............................................................................
1.3. Tiểu thuyết có yếu tố tự truyện .......................................................................
1.3.1. Tiểu thuyết ...................................................................................................
1.3.2. Tiểu thuyết có yếu tố tự truyện.....................................................................
Chương 2: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG HỒI KÝ- TỰ TRUYỆN NĂM
THÁNG NHỌC NHẰN, NĂM THÁNG NHỚ THƯƠNG CỦA MA VĂN KHÁNG
2.1. Cái tôi tác giả trong hồi ký..............................................................................
2.1.1 .Cái tôi giàu nhiệt huyết, say mê cống hiến...................................................
2.1.2 .Cái tôi uyên bác và tài hoa............................................................................
2.1.2.1. Am hiểu kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau...................................
2.1.2.2. Tài hoa trong cách cảm nhận và diễn đạt...................................................
2.1.3. Cái tôi giàu tình yêu thương và trách nhiệm.................................................
2.2. Các chặng đường đời của tác giả thể hiện trong hồi ký...................................
2.2.1. Chặng đường 21 năm đầu gắn bó với đồng bào vùng Tây Bắc.....................

2.2.2.Chặng đường sống và làm việc ở Hà Nội.......................................................
2.3. Cái nhìn nghệ thuật ( của người kể chuyện) trong hồi ký................................
2.3.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật......................................................................
2.3.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Ma Văn Kháng .................................
2.3.2.1. Cái nhìn khách quan, chân thực.................................................................
2.3.2.2. Cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường.................
2.3.2.3. Cái nhìn chiêm nghiệm, lý giải nhìn nhận lại............................................

Trang
1
3
8
9
9
9
10
10
12
12
12
16
16
19
22
22
25
31
31
31
34

34
38
42
46
47
49
52
52
54
54
59
62


Chương 3: YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
66
MỘT MÌNH MỘT NGỰA CỦA MA VĂN KHÁNG
3.1. Một chặng đường đời của tác giả trong tiểu thuyết..........................................
66
3.2 .Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết.................................................................
72
3.2.1. Hình bóng tác giả trong nhân vật trung tâm của tiểu thuyết.........................
72
3.2.2. Những hình tượng nghệ thuật có tính điển hình trong tiểu thuyết................
77
3.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết...........................................
82
3.3. So sánh yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn
Kháng với yếu tố tự truyện trong Những lời bộc bạch (J.J. Rousseau), Thép đã tôi 87
thế đấy (N.A.Ostrovsky), Biết đâu địa ngục thiên đuờng (Nguyễn Khắc Phê)

3.3.1. Với Những lời bộc bạch (J.J. Rousseau).......................................................
87
3.3.2. Với Thép đã tôi thế đấy (N.A. Ostrovsky)....................................................
92
3.3.3. Với Biết đâu địa ngục thiên đường (Nguyễn Khắc Phê)...................... 96
3.4. So sánh vai trò của yếu tố tự truyện trong hồi ký – tự truyện và trong tiểu thuyết
101
có yếu tố tự truyện.
106
KẾT LUẬN
111
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt từ sau thời kì đổi mới (1986) thể
hiện những thay đổi quan trọng trong tư duy nghệ thuật, trong quan niệm nghệ thuật
về hiện thực và con người, quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ với tác phẩm,
với công chúng và với chính mình. Văn học chuyển từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu
thuyết, thể tài đời tư và thể tài đạo đức - thế sự phát triển mạnh mẽ và dần dần trở
thành chính yếu. Văn học hướng đến con người cá nhân, con người của những số
phận riêng tư, con người được nhìn nhận nhiều chiều hơn, đa diện hơn, phức tạp
hơn. Mỗi nhà văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu giải phóng tư tuởng, bộc lộ
cái tôi cá nhân của mình. Đó chính là những cơ sở khiến thể loại hồi ký, đặc biệt là
hồi ký cá nhân có chỗ đứng quan trọng trong các loại hình nghệ thuật. Đáng chú ý
là sự thâm nhập của thể ký vào “lãnh địa” của tiểu thuyết đã tạo nên dòng tiểu
thuyết tự truyện có sức hút lớn trong đời sống văn học đương đại. Có thể nói, sự

xuất hiện của khuynh hướng tự truyện đã thể hiện khá rõ sự đổi mới trong tư duy
nghệ thuật. Nó thể hiện rõ cảm hứng tự vấn, tự nhận thức lại đời sống, hướng tới số
phận cá nhân và cái tôi của nhà văn trong hàng loạt tác phẩm văn xuôi. Việc tìm
hiểu khuynh hướng tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại có ý nghĩa rất quan
trọng, gắn với vấn đề cái tôi tác giả- sự khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ trong
thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, sự tương tác và dung nạp lẫn nhau giữa các
thể loại. Có thể thấy đây là hướng đi rộng mở, đang ngày càng chiếm được sự quan
tâm của giới nghiên cứu lý luận phê bình bởi những mối liên hệ đa chiều của nó với
các ngành khoa học khác như tâm lý học, xã hội học với các hướng nghiên cứu như
phân tâm học, hậu hiện đại,...
1.2. Sự nghiệp đổi mới văn học đã được khẳng định, trong đó có sự đóng góp tích
cực của cây bút “điềm đạm mà quyết liệt”- nhà văn Ma Văn Kháng. Thuộc thế hệ
thứ ba của nhà văn hiện đại Việt Nam, Ma Văn Kháng từng được mệnh danh là
“người khuấy động văn đàn Việt Nam hiện đại”(Lưu Khánh Thơ) xứng danh là một
trong những ngọn cờ tiên phong đổi mới với những tác phẩm được coi là “tiền


2

trạm” như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời…Với sự
chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn hiện thực đa diện, đa chiều, phức tạp
nhà văn đã cảm nhận cuộc sống qua nhiều cung bậc tốt-xấu, trắng-đen, thiện-ác.
Đối với Ma Văn Kháng, viết văn trước tiên là câu chuyện về số phận con người, sự
đấu tranh của mỗi người để hướng tới cái đẹp, cái thiện. Thấp thoáng trong các
trang sách, người đọc có thể nhìn ra nỗi buồn, nỗi đau đời của riêng ông, nhưng trên
tất cả, đó là những ưu tư của ông trước nhân tình thế thái. Ông thực sự muốn dùng
sức mạnh ngòi bút của mình để mang tới những giá trị nhân văn cho con người và
vì con người ở nghĩa rộng lớn nhất. Ông quan niệm vì một điều rất đơn giản: “Con
người sống không chỉ là để làm đẹp cho cuộc sống, không chỉ để ra nụ ra hoa mà
sống còn là để chịu thương tích nữa. Tôi không muốn một cái đẹp dễ dãi. Cái đẹp

ấy phải mang màu sắc bi tráng. Cái đẹp ấy đều trải qua những mất mát, thiệt thòi,
thậm chí hi sinh, bị vùi dập đến mức không còn chỗ đứng, thế nhưng họ vẫn vươn
lên khẳng định nhân cách chính mình. Đó chính là cái đẹp rất cơ bản”. Nửa thế kỉ
cầm bút phụng sự cái đẹp, lấy cái đẹp làm lý tưởng để theo đuổi, với rất nhiều
“nhọc nhằn và thương nhớ” nhà văn đã tạo dựng nên những chế phẩm văn chương
hoàn thiện mà ông coi đó là những tòa lâu đài nguy nga tráng lệ của mình. Trong
những năm gần đây không tự bằng lòng với mình, với khát khao kiếm tìm cái mới,
với những gắng gỏi trên sức của một người đã ngoài tuổi 70, Ma Văn Kháng đã thể
hiện những cách tân táo bạo về tư duy nghệ thuật, tạo phong cách mới độc đáo. Đó
là cách diễn đạt bằng một kiểu tự truyện khiến cho việc nắm bắt và lí giải hiện thực
trở nên có sức thuyết phục hơn. Hồi ký Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ
thương và tiểu thuyết Một mình một ngựa là những tác phẩm mới, có vị trí đặc biệt
quan trọng trong sáng tác của Ma Văn Kháng, thể hiện sự nhất quán trong phong
cách của ông. Đồng thời, đó cũng là những tác phẩm mang dáng dấp một tự truyện.
Vì có cảm giác mỗi tác phẩm đã được xuyên suốt bằng những điều gan ruột nhất,
những hình ảnh sâu sắc nhất, những trạng thái tình cảm, tâm lý đã được đẩy lên
đỉnh cao nhất của chính tác giả. Với việc thể hiện những yếu tố tự truyện trong tác
phẩm của mình, Ma Văn kháng đã góp thêm một tiếng nói trong dòng văn học


3

hướng nội hôm nay. Tìm hiểu hồi ký mang dáng dấp tự truyện và tiểu thuyết có
khuynh hướng tự truyện của ông giúp độc giả không chỉ nhận diện con người tác
giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu sử, cuộc đời thật mà còn qua những
trải nghiệm sống và sự bộc bạch chân thành.
1.3. Ở phương diện thực tiễn nghiên cứu, có thể khẳng định rằng nhà văn Ma Văn
Kháng đang có mặt như một ngọn cờ đổi mới có sức vẫy gọi. Ông đã có được sự tin
cậy, khâm phục của đông đảo bạn đọc, bạn viết, đặc biệt những người viết trẻ.
Chính vì vậy, đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm Ma

Văn Kháng với nhiều kiến giải sâu sắc, song các công trình đi sâu tìm hiểu yếu tố tự
truyện trong sáng tác của ông còn rất ít ỏi, hoặc ở mức sơ lược chỉ trong giới hạn
một bài báo, một bài tham gia hội thảo. Xuất phát từ thực tế này, người viết luận
văn kế thừa những công trình nghiên cứu của các tác giả đồng thời tiếp tục đi sâu
tìm hiểu yếu tố tự truyện trong hồi kí và tiểu thuyết Một mình một ngựa với mong
muốn độc giả sẽ có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về phong cách nhà văn Ma Văn
Kháng. Từ đó khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà văn đối với nền văn
học đương đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về tác giả Ma Văn Kháng
Hơn nửa thế kỉ cầm bút không ngừng nghỉ, nhà văn Ma Văn Kháng đã có
một sự nghiệp văn chương đồ sộ cả về số lượng tác phẩm và thành tựu: 15 tiểu
thuyết, 25 tập truyện ngắn, 1hồi ký. Chính ông cũng đã làm tốn nhiều giấy mực của
những người yêu quý mình, đặc biệt những người làm công tác nghiên cứu văn học
như: PGS-TS. La Khắc Hòa (Khi nhà văn đào bới vào bản thể và tâm hồn), GS.
Phong Lê (Trữ lượng Ma Văn Kháng), PGS-TS. Nguyễn Ngọc Thiện (Nhà giáo,
nhà văn Ma Văn Kháng) hay PGS-TS. Nguyễn Đăng Điệp, Trần Đăng Xuyền, Đỗ
Ngọc Thạch, Hồ Anh Thái… Họ đã đưa ra nhiều nhận định đáng chú ý về những
sáng tác của Ma Văn kháng. Một số tiểu luận, luận văn, luận án chuyên ngành văn
học lấy đối tượng là tác phẩm của Ma Văn Kháng để nghiên cứu như: Phạm Mai
Anh(1997), Đào Tiến Thi (1999), Dương Thị Thanh Hương, Lê Văn Chính, Lê


4

Thanh Ngọc (2004), Đỗ Phương Thảo (2007), Lê Thị Kim Liên (2010), Đỗ Thanh
Hương, Hoàng Mai Hương (2011)…Chiếm số lượng nhiều nhất là các bài viết dưới
dạng bình luận đánh giá về phương diện cụ thể nào đó, một tác phẩm cụ thể nào đó
trong sáng tác của Ma Văn Kháng ở cấp độ này hay cấp độ khác.
Bài viết của Mai Thị Nhung “Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời

kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng”, Nghiên cứu văn học số 10/2008 đã khẳng định tiểu
thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới đã đem đến nhiều sắc thái giọng điệu và yếu
tố thẩm mỹ như: giọng điệu trữ tình thiết tha sâu lắng, giọng điệu triết lý suy tư,
giọng điệu hài hước mỉa mai, giọng điệu suồng sã. Chính vì vậy, nhà văn đã có điều
kiện đi sâu vào bản chất của cuộc sống, từ đó góp phần khẳng định giá trị nhân văn
sâu sắc trong toàn bộ tiểu thuyết của nhà văn thời kỳ đổi mới.
Bài viết “Phong cách văn xuôi miền núi của Ma Văn kháng”, tạp chí Diễn
đàn Văn nghệ Việt Nam, tháng 8/2009, tác giả Phạm Duy Nghĩa cho rằng: “Ma
Văn Kháng là nhà văn có phong cách rõ nét, ổn định, không lẫn với mọi cây bút
khác”. Nét nổi bật nhất của ông khi viết về miền núi là cảm hứng trước vẻ phồn
thực, cường tráng, bản tính hồn nhiên cùng sự phân cực sâu sắc của con người và
cuộc đời trần thế.
Tác giả Nguyễn Thanh Tú có bài viết “Vốn sống, tài năng và tâm huyết (Từ
trường hợp nhà văn Ma Văn Kháng với tập Trốn nợ- NXB phụ nữ 2008)”, tạp chí
Văn nghệ quân đội số 696, tháng 3/ 2009. Bài viết là sự đánh giá bản lĩnh nghệ sĩ
của một nhà văn lão thành với tài quan sát, chiêm nghiệm, cách kể, tả, dựng cảnh.
Bên cạnh việc đánh giá tài năng và tâm huyết bài viết cũng chỉ ra những hạn chế
trong những lời thuyết giáo, dẫn dắt của nhà văn gây cảm giác nặng nề với người
đọc.
Tác giả Đào Thủy Nguyên có bài “Ngôn từ nghệ thuật của Ma Văn Kháng
trong truyện ngắn viết về miền núi”, tạp chí Nhà văn, tháng 5/ 2010. Bài viết đi sâu
tìm hiểu chất miền núi trong ngôn từ nghệ thuật của nhà văn như những điểm nhấn
quan trọng góp phần làm nên thành công của Ma Văn Kháng ở những truyện ngắn
viết về miền núi


5

Tác giả Nguyễn Ngọc Thiện có bài “Nhà giáo, nhà văn Ma Văn Kháng” báo
Người Hà Nội số 47, ra ngày 19/11/2010. Bài viết khẳng định Ma Văn Kháng “đã là

một gạch nối, tiếp sau Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, ông là nhà
giáo - nhà văn của thế hệ mới, để lại một mảng tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc, có
sức hấp dẫn lâu bền đối với người đọc - từ những hình tượng nhân vật giàu sức biểu
hiện và khái quát cao về ngành giáo dục qua những thăng trầm của lịch sử dân tộc,
vẫn rạng rỡ những nét đẹp trong nhân cách kẻ sĩ nơi Người Thầy khả kính!”
Tác giả Vũ Quỳnh Trang có bài “Nhà văn Ma Văn Kháng, sống đã rồi hãy
viết”, tạp chí Nhà văn số11/ 2011. Theo tác giả, trong đời sống văn học Việt Nam,
Ma Văn Kháng là một trong không nhiều nhà văn có được cả hai điều khó khăn, là
viết nhiều tác phẩm và có nhiều tác phẩm được chú ý. Ông cũng là nhà văn đã giành
hàng chục giải thưởng văn học trong đó có những giải thưởng cao quý như Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Văn học Đông Nam á, Giải thưởng
Nhà nước về Văn học nghệ thuật…
Phải kể đến các bài viết của tác giả Đoàn Trọng Huy, bài “Ma Văn Kháng
viết như tiếng gọi khẩn thiết của cuộc sống”, báo Văn nghệ số 25 ngày 23/6/2012.
Tác giả khẳng định, tích cực nhập cuộc, dấn thân, Ma Văn Kháng là một trong số ít
ỏi chiến sĩ Một mình một ngựa dáng dấp “oai vũ”, “cô đơn” xung trận từ thời trước
Đổi mới. Cũng là một trong những ngọn cờ cách tân văn xuôi hiện đại đang còn
tiềm ẩn nhiều xung lực. Tiếp đến là bài “Ma Văn Kháng ngọn cờ đổi mới có sức
vẫy gọi”, báo Văn nghệ quân đội số 756, tháng 9/2012. Theo tác giả sự đổi mới văn
xuôi của nhà văn đã đạt những hiệu quả nghệ thuật rõ rệt, mang lại nhiều cảm thụ
thẩm mỹ mới, có giá trị của một phong cách đa dạng mà nhất quán, tạo nên “thương
hiệu” Ma Văn Kháng. Nhà văn có được sự tin cậy, khâm phục của đông đảo bạn
đọc, bạn viết, đặc biệt những người viết trẻ. ảnh hưởng của Ma Văn Kháng với thế
hệ cầm bút thứ tư là một hiện thực, bởi rất gần gũi với những tâm hồn trẻ, Ma Văn
Kháng đang có mặt như một ngọn cờ đổi mới có sức vẫy gọi.
Như vậy là từ góc độ tác giả, cùng với bề dày thời gian Ma Văn Kháng ngày
càng được đề cao.


6


2.2. Về hồi ký Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương
Trước hết phải kể đến các luận văn thạc sĩ nghiên cứu về tác phẩm này, đó là
luận văn của Lê Thị Kim Liên (Thể hồi kí-tự truyện trong hồi kí của Ma Văn Kháng
và Đặng Thị Hạnh) và luận văn của Hoàng Mai Hương (Nghệ thuật tự sự trong hồi
ký- tự truyện Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng).
Tiếp đến là những bài đánh giá, phê bình đăng trên các báo hoặc trang Web,
đó là: Bài viết của Hồ Anh Thái “Ma Văn Kháng con đường hồi ức” ngày
17/10/2009 trên internet. Bài viết thể hiện sự nhận xét tinh tế về nội dung và cách
viết của cuốn sách: “từ số phận một cá thể soi chiếu qua lịch sử người đọc có thể
hình dung ra một thời đại”, và cách viết “nhu đấy nhưng bên trong là thép tôi rừng
rực”.
Tác giả Nguyễn Ngọc Thiện có bài “Ma Văn Kháng và cuốn hồi ký - tự
truyện mới”, tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 178 tháng 11/2009. Tác giả đã
chỉ ra quá trình thai nghén, ra đời rất kì khu, tâm huyết của tác phẩm trong vòng bốn
năm ròng. Đồng thời tác giả bài viết cũng cho rằng đây là tác phẩm hồi ký - tự
truyện đặc sắc bởi lẽ nhà văn không chỉ kể mà còn tả, dựng lại một cách sống động
tài tình, với ngôn từ và bút pháp của một cây bút văn xuôi tài hoa lão thực.
Bài viết“Ma Văn Kháng với hồi kí Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ
thương”của tác giả Bùi Bình Thi, báo Văn nghệ Công an số 18, tháng 12/ 2009 đã
chỉ ra hành trình cuộc đời và động cơ viết của nhà văn.
Đinh Hương Bình có bài“Thấy bóng dáng văn nhân”, báo An ninh Thủ đô,
tháng 12/2009. Tác giả bài viết nhận xét Ma Văn Kháng là một người luôn sống rất
“nhân ái, có tình” với cách viết “không chọn hình thức thể hiện kiểu cách, cầu kỳ,
viết như vừa tâm sự, vừa kể chuyện, viết để giãi bày chứ không phải viết để câu
khách”.
Tiếp đến là bài của Thi Thi “Văn trong hồi kí và hồi kí một nhà văn”, báo
Hà Nội Mới số 14701 ngày 19/1/2010. Tác giả cho rằng sức hấp dẫn của tác phẩm
chính là ở chất liệu đời sống phong phú và tâm tình nhẹ nhàng của nhà văn toát lên
qua từng trang sách.



7

2.3. Về tiểu thuyết Một mình một ngựa
Một mình một ngựa, cuốn tiểu thuyết gần như áp chót trong các sáng tác của
Ma Văn Kháng vừa được Nxb. Phụ nữ ấn hành thì trên báo Người đại biểu nhân
dân số ra ngày 13/5/2009 , nhà phê bình văn học rất có uy tín Hoài Nam đã có bài
giới thiệu “Một mình một ngựa, cuốn sách có từ một đoạn đời”. Hoài Nam viết:
Nhà văn Ma Văn kháng từng làm thầy giáo nhiều năm ở Lào Cai. Sau lại có thời
gian ngắn ông được điều sang làm thư ký cho bí thư tỉnh ủy Lào Cai. Hai chi tiết
thuộc về tiểu sử tác giả này đã được ông gắn vào tiểu sử nhân vật Toàn, nhân vật
chính trong cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông: Một mình một ngựa. Về mặt nào
đó, Một mình một ngựa là cuốn tiểu thuyết ít nhiều mang tính tự truyện. Nó là ánh
hồi quang của quá khứ trong hiện tại. Đồng thời, cuốn tiểu thuyết này có cái nét
ngậm ngùi rất khó lẫn. Cái ngậm ngùi của người đã kinh qua sóng gió cuộc đời, cái
ngậm ngùi của một người biết quá rõ sự bất toàn của quá khứ và cũng là người hiểu
thấu rằng đó chính là một phần không thể tách rời ký ức của mình.
Tiếp đó, Hoàng Thị Huế, Tiến sỹ, giảng viên ĐHSP Huế và Nguyễn Thị
Khánh Thu, sinh viên Khoa Ngữ văn ĐHSP Huế trong bài “Hình tượng người kể
chuyện trong tiểu thuyết mới của Ma Văn Kháng”, tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt
Nam, số 190, tháng 11/ 2010 đã đi vào khai thác yếu tố tự truyện của cuốn tiểu
thuyết. Bài viết cho rằng trong tiểu thuyết Một mình một ngựa, ý thức viết tiểu
thuyết bị chi phối bởi tinh thần tự truyện. Cái tôi tác giả không lộ diện mà được đại
diện bởi nhân vật Toàn. Nhân vật được khách quan hóa nhưng xuyên qua lớp vỏ đó
lại là sự chủ quan hóa chân thành giàu biểu cảm...Với hình tượng người kể chuyện
vừa khách quan, ở bên ngoài với diện nhìn rộng hơn so với các nhân vật, biết hết
mọi chuyện và người kể chuyện vốn là nhân vật trong truyện, có điểm nhìn đồng
nhất với nhân vật, Một mình một ngựa của Ma Văn kháng đã thực sự đem lại
những đóng góp cho việc đa dạng hóa thể tài văn xuôi Việt Nam đương đại.

Bàn luận thêm về tính tự truyện của Một mình một ngựa, trên tờ Văn nghệ
tháng 9/2009, tiến sỹ Đỗ Hải Ninh viết: Một mình một ngựa tiếp nối nguồn mạch
tự thuật được khơi dòng từ các tiểu thuyết trước nó, Đám cưới không có giấy giá


8

thú, Ngược dòng nước lũ nhưng dường như có cái nhìn thể tất nhân tình hơn. Với
cái nhìn khoan dung, nhân bản hơn, Ma Văn Kháng đã lấy chiêm nghiệm từ chính
bản thân cái tôi của mình để mà cảm thông chia sẻ... Đi từ cái cá thể đến tính phổ
quát, với ý thức tạo dựng thế giới hình ảnh, nhà văn đã đem lại cho câu chuyện kể
về đời mình những màu sắc của tiểu thuyết trong sự kết hợp hài hòa với tự truyện.
Tính tự truyện trong Một mình một ngựa thể hiện rõ nét từ chính lời thú
nhận của nhà văn Ma Văn Kháng “Một mình một ngựa là đoạn đời mà bây giờ tôi
mới viết ra để mọi người có thể hình dung đầy đủ về bản thân tôi”. Trong bài “Khát
vọng về một cái đẹp”, báo Văn nghệ quân đội số 743, tháng 2/ 2012 và trong nhiều
bài phỏng vấn đăng trên các báo trước đó ông đã thú nhận:“Cuốn sách tái hiện
quãng thời gian tôi làm thư ký cho Bí thư tỉnh ủy Lào Cai. Nó có dáng dấp một tự
truyện của tác giả”. “Tiểu thuyết được tôi cố gắng thực hiện bằng một nghệ thuật
trần thuật có dụng ý phác thảo một loạt chân dung một lớp người, một thế hệ cán
bộ ở một thời điểm nhất định của đất nước”.
Qua những thống kê trên, có thể khẳng định sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Ma Văn Kháng là đối tượng khảo sát tiềm tàng của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
văn học. Những bài viết này mặc dù chưa đi sâu nghiên cứu sáng tác của Ma Văn
Kháng dưới góc độ tự truyện nhưng đó là những nhận xét, đánh giá khách quan, thể
hiện thái độ trân trọng đối với nhà văn và sự nghiệp sáng tác của ông. Điểm lại
những bài nghiên cứu, phê bình viết về hồi ký Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng
nhớ thương và tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận
thấy hướng tiếp cận dưới góc độ tự truyện qua hai tác phẩm trên đã bước đầu được
chú ý đến. Ở mức độ tham khảo thì những tài liệu trên sẽ là những gợi ý, những

định hướng và là nguồn tư liệu phong phú trong quá trình nghiên cứu bản luận văn
này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách hệ thống yếu tố tự truyện trong hồi ký và tiểu thuyết
Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, đề tài nhằm đạt tới các mục đích sau:


9

- Khai thác những biểu hiện của tự truyện thể hiện trong hai tác phẩm trên,
qua đó khẳng định vai trò của yếu tố tự truyện trong sáng tác của Ma Văn Kháng.
- Để thấy được những đặc sắc trong phong cách của Ma Văn Kháng chúng
tôi đặt yếu tố tự truyện trong tương quan so sánh giữa hai thể tài ở hai tác phẩm nêu
trên với nhau và trong tương quan so sánh với các tác giả khác. Từ đó khẳng định
những đóng góp của nhà văn ở thể loại hồi ký mang dáng dấp tự truyện và ở tiểu
thuyết có khuynh hướng tự truyện.
- Từ kết quả nghiên cứu đã đạt được luận văn góp phần khẳng định tài năng,
vị trí của nhà văn Ma Văn Kháng trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định các khái niệm công cụ: Tự truyện, hồi ký, hồi ký - tự truyện, tiểu
thuyết có yếu tố tự truyện, vai trò của tự truyện...
- Khảo sát các tác phẩm thuộc đối tượng nghiên cứu của luận văn.
- Vận dụng các kiến thức, phương pháp nghiên cứu chuyên ngành để khảo
sát, phân tích, khái quát các luận điểm của yếu tố tự truyện, đặc biệt khẳng định vai
trò của yếu tố tự truyện trong hai tác phẩm trên của nhà văn Ma Văn Kháng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là cuốn hồi ký - tự truyện Năm
tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương và tiểu thuyết Một mình một ngựa của
Ma Văn Kháng. Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát một số tác phẩm của các tác giả

khác như: tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy của Nicolai Ostrovski (Nga), tiểu thuyết
Biết đâu địa ngục thiên đường của Nguyễn Khắc Phê, tác phẩm tự truyện Những
lời bộc bạch của J.J. Rousseau (Pháp). Chúng là đối tượng liên hệ, so sánh khi cần
thiết.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của một luận văn bước đầu chúng tôi tìm hiểu về yếu tố tự
truyện qua hai tác phẩm nói trên của Ma Văn Kháng. Đó là những tác phẩm đoạt
giải hoặc là tác phẩm được dư luận chú ý, đánh giá cao. Trong quá trình tìm hiểu


10

chúng tôi có liên hệ, so sánh với một số tác phẩm của các tác giả khác, với mong
muốn đánh giá sâu sắc hơn, toàn diện hơn phong cách viết tự truyện của Ma Văn
Kháng.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp được tiến hành đầu tiên, có tác dụng cung cấp những dữ
kiện, những số liệu chính xác tạo cơ sở thực tế tin cậy cho những kết quả có tính
chất khái quát. Sử dụng phương pháp thống kê, chúng tôi tiến hành phân loại, tổng
hợp, phân tích những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của luận văn. Đơn vị thống
kê nhỏ nhất là chi tiết và lớn nhất là tác phẩm.
6.2. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp quan trọng để đi đến làm nổi bật đặc điểm nội dung và
hình thức của các tác phẩm thuộc đối tượng nghiên cứu của luận văn. Đối tượng so
sánh là những tác phẩm của nhà văn thuộc hai thể tài khác nhau (hồi ký và tiểu
thuyết) và so sánh với tác phẩm của một số nhà văn tên tuổi trong và ngoài nước.
Từ đó khẳng định những nét độc đáo, riêng biệt trong tác phẩm của Ma Văn Kháng.
6.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Để khái quát lý thuyết, chúng tôi tiến hành phân tích các tác phẩm thuộc đối

tượng nghiên cứu của luận văn theo hướng làm sáng tỏ nghệ thuật tự truyện, sau đó
tổng hợp các kết quả đã phân tích. Từ đó chứng minh cho các luận điểm của luận
văn.
Ngoài những phương pháp chính như trên, để làm phong phú, sáng tỏ thêm ở
nhiều phương diện, chúng tôi vận dụng những yếu tố hỗ trợ của các phương pháp
nghiên cứu văn học khác như phương pháp phân tích cảm thụ tác phẩm văn học,
phương pháp tổng hợp hệ thống hóa, phê bình văn học, lý thuyết tiếp nhận văn
học... Sự vận dụng những yếu tố của các phương pháp này chỉ hỗ trợ trong những
trường hợp cần thiết.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn


11

Luận văn góp phần đáng kể vào việc tái hiện lại diện mạo của yếu tố tự
truyện qua hồi ký và tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, một vấn
đề lâu nay chưa được quan tâm một cách có hệ thống. Từ đó khẳng định ý nghĩa
quan trọng của vấn đề tự truyện trong văn xuôi đương đại nói chung và trong sáng
tác của Ma Văn Kháng nói riêng.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần vào thành quả nghiên cứu nói chung phục
vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy chuyên ngành văn học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo cấu trúc luận văn
được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Một số khái niệm cơ bản
Chương 2: Yếu tố tự truyện trong hồi ký - tự truyện Năm tháng nhọc nhằn, năm
tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng
Chương 3: Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn
Kháng.



12

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Thể loại văn học là hiện tượng phân loại hình thức và dạng văn học, đề cập
đến một kiểu tổ chức cấu trúc tác phẩm, một cách tiếp xúc với đời sống hiện thực,
một kiểu thể hiện chủ thể trong sáng tác, một kiểu giao tiếp để tạo nên tác phẩm. Sự
hình thành và phát triển của thể loại văn học phản ánh sự hình thành và phát triển
của văn học qua các giai đoạn. Theo quy luật của sự phát triển các thể loại văn học
luôn trong quá trình vận động, tìm ra hình thức biểu đạt mới hoặc thâm nhập nhau,
mượn các thủ pháp của nhau để tự làm mới mình. Sự “tiến hóa” của thể loại đôi khi
dẫn đến sự “lỗi mốt” của lý thuyết. Nếu đem lý thuyết cứng nhắc để quy chiếu chắc
chắn sẽ có nhiều tác phẩm không được xếp vào bất cứ loại thể nào của văn học, nhất
là những thể tài nhỏ trong một thể loại văn học gần nhau cả về nội dung và hình
thức thể hiện. Do đó, phải xác định giới hạn của sự giao thoa giữa hai thể loại để
phân biệt, tạo ra cách tiếp cận đúng hướng. Đồng thời, có cái nhìn linh hoạt hơn
trong cách đánh giá nhìn nhận về một thể loại văn học. Với quan điểm như vậy,
trong phạm vi của luận văn này chúng tôi xin đề cập đến sự giao thoa giữa các thể
loại văn học với nhau, cụ thể hơn là sự thâm nhập của yếu tố tự truyện đối với thể
hồi ký và tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
1.1. Lý thuyết về thể tài tự truyện
Thuật ngữ tự truyện trong tiếng Pháp viết là Autobiographie, được tạo ra từ
ba gốc từ Hi Lạp: autos nghĩa là chính mình, bios nghĩa là cuộc đời, graphein nghĩa
là viết. Tự truyện hay cái nhìn về bản thân, có thể coi là một đặc sản của văn minh
phương Tây. Nó có hai nguồn gốc chính: từ nền văn minh Hi Lạp qua câu ngạn ngữ
nổi tiếng “connais- toi toi-même” (ý nói kẻ thông thái phải biết về cá nhân mình),
và từ truyền thống Thiên chúa giáo qua lệ “tự vấn lương tâm”. Trong các nền văn
hóa khác, nó chỉ tồn tại một cách hiếm hoi, thậm chí bị cấm, như trong các nước
theo đạo Hồi. Ngay tại châu Âu, ý muốn kể lại đời mình cũng không phải dễ chấp

nhận. Pascal, triết gia thế kỷ XVII, tuyên bố : "Cái tôi thật đáng ghét". Vì vậy, tự
truyện chỉ thực sự xuất hiện ở thế kỷ ánh sáng, vào buổi sơ khai của dòng Lãng


13

mạn, khi chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh. Đó cũng là lúc người ta không cho
rằng thời gian là một chuyển động có tính chu kỳ nữa, mà lịch sử là sự không lặp
lại, vì vậy mỗi cá nhân phải viết tự truyện để giữ lại dấu ấn trên thế gian. Tác phẩm
Những lời bộc bạch (Confessions) của Jean Jacques Rousseau, in năm 1782, bốn
năm sau ngày mất của ông, được coi là tác phẩm tự truyện đầu tiên. Theo Lê Hồng
Sâm trong lời giới thiệu cuốn sách Những lời bộc bạch do chính bà dịch và giới
thiệu, Nxb.Tri thức, năm 2012 thì với Những lời bộc bạch, Rousseau sáng tạo nên
một thể loại văn chương mới mẻ, thể tự truyện của thời hiện đại. Những định nghĩa
sau này của các từ điển, của các nhà nghiên cứu, khái niệm “giao ước tự thuật” nổi
tiếng của Philippe Lejeune, xác định loại “truyện kể hồi cố bằng văn xuôi do một
con người có thực kể về cuộc sống của chính mình, khi người đó nhấn mạnh vào
tầm quan trọng của đời sống cá nhân, đặc biệt vào lịch sử hình thành nhân cách
mình”, chính là căn cứ vào tác phẩm của Rousseau. Xuất phát từ đó mà có rất nhiều
cách hiểu về thể loại tự truyện:
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia thì “tự truyện là những tác phẩm văn
học thuộc thể loại tự sự, thường được viết bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể lại
và miêu tả cuộc đời mình trong tác phẩm”.
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên 1997, Nxb. Đà Nẵng nhận định
khái quát về tự truyện “là truyện tác giả tự viết về chính bản thân mình”. Nói rõ hơn
về thể loại này Từ điển văn học, Nxb. Thế Giới, năm 2004 viết: “Tự truyện là một
tác phẩm văn học thuộc loại truyện do các nhà văn viết về cuộc đời thực của mình
nhằm những mục đích khác nhau. Các nhà văn khi viết tự truyện thường chỉ chọn
lấy một hay vài quãng đời nào đó đã để lại cho mình những ấn tượng sâu sắc nhất,
có ảnh hưởng quan trọng quyết định đối với hướng đi của đời mình, và dựng lại cả

một bức tranh toàn cảnh sinh động, chân thực về cuộc sống mà trong đó bản thân
con người tác giả là nhân vật hoạt động chính. Trong tác phẩm tự truyện những
biến cố, sự việc, nhân vật... đều được lấy từ cuộc đời thực của tác giả, không hư cấu
thêm, hoặc nói cách khác là không có sự hư cấu tự do như trong các tác phẩm khác
thuộc loại truyện. Trong tác phẩm tự truyện, tác giả thường đặt ra qua cuộc đời
mình và bằng ngôn ngữ nghệ thuật những vấn đề xã hội rộng lớn, sâu sắc. Vì vậy, ý


14

nghĩa của tác phẩm tự truyện thường vượt ra ngoài phạm vi của một bản tự thuật
đơn thuần và có tầm khái quát nghệ thuật rộng lớn”.
Còn theo nhà lý thuyết Pháp Philippe Lejeune định nghĩa về thể loại tự
truyện, đó là “một câu chuyện mà một người có thật ngược dòng thời gian, kể lại
đời mình, nhấn mạnh tới cuộc sống cá nhân, đặc biệt tới sự hình thành tính cách”
(Le pacte autobiographique, 1975). Vậy một tác phẩm chỉ có thể coi là tự truyện
khi tác giả, người kể chuyện và nhân vật chính là một. Philippe Lejeune còn lưu ý
trong tự truyện bao giờ cũng có một hợp đồng ngầm giữa tác giả và người đọc: tác
giả cam kết sẽ chỉ kể sự thật. Dường như có một câu nói cất lên ngay từ lúc mở đầu
tác phẩm: “Tôi tên là X, tôi sẽ kể cho các bạn nghe sự thật đời tôi…”
Trong thực tế tự truyện bao gồm cả yếu tố truyện (hình thức, một thể loại tự
sự) và yếu tố tự thân (nội dung, bản thân) của người viết truyện. Tác phẩm tự truyện
thường có thiên hường lí giải cuộc sống đã qua của tác giả như một chỉnh thể, tạo
nên những đường nét mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Người viết tự
truyện có khi vận dụng hư cấu, thêm thắt hoặc sắp xếp lại các chi tiết của cuộc đời
mình. Do luôn là hành vi khắc phục cái thời gian đã qua, thể hiện mưu toan quay lại
với thời tuổi trẻ, tuổi thơ, làm sống lại những quãng đời nhiều kỉ niệm nhất, hình
thức tự truyện thường được viết khi tác giả đã trưởng thành, đã trải qua phần lớn
các chặng đường trong cuộc đời mình và nhìn lại những gì đã qua như một sự
chiêm nghiệm. Trong tác phẩm tự truyện, yếu tố đời tư là chất liệu hiện thực được

tác giả sử dụng với nhiều mục đích nghệ thuật khác nhau. Các nhà văn lãng mạn ở
thế kỉ XVIII sử dụng đời tư của bản thân như chất liệu để nhận thức, khám phá toàn
bộ sự đa dạng và phức tạp trong hoạt động tâm lý và đời sống tình cảm của mỗi cá
nhân con người. Song viết về cái tôi của mình ở thời kỳ này chưa phải là hoàn toàn
được xã hội tiếp nhận. Người ta chỉ coi đó như là quyền xưng tội của các tín đồ
Thiên chúa giáo. Còn nói về mình trong tác phẩm đó chẳng hay ho gì. Nhà văn
muốn bộc lộ những điều riêng tư của mình phải kín đáo bằng cách này hay cách
khác. Banzắc đã “rải” vào tiểu thuyết của mình những yếu tố riêng. Huygô cũng
phải “vung vãi, xé vụn, phân chia” rồi mới ban phát cuộc đời mình cho các nhân vật,
các địa điểm trong tiểu thuyết của mình. Nhà văn hiện thực thế kỉ XIX lại viết về bản thân để


15

phơi bày các mối quan giữa người và người, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh
xã hội. Ở thế kỉ XX, nhiều nhà văn thuật lại cuộc đời của chính mình để qua đó
phản ánh số phận của dân tộc, cộng đồng và thời đại. Như vậy, tự truyện có thể bao
quát hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự và sử thi.
Do đặc trưng của thể tài tự truyện là đề cập đến cái "tôi" một cách trực diện,
khi viết tự truyện, tác giả phải công khai tên tuổi, tự do nói những điều mình nghĩ,
rọi xuống cuộc đời mình một cái nhìn riêng, nên trong văn học Việt thể loại này
không mấy phát triển. Xuất phát từ văn hóa truyền thống của người Việt, đó là "cái
tôi vốn không trực diện"(theo Văn Chinh), nhà văn thường thể hiện bản thân trong
tác phẩm một cách kín đáo. Văn học thời trung đại là nền văn học có khuynh hướng
thiên về cái “vô ngã”. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, do yêu cầu
của thời đại, văn học tập trung vào những vấn đề chung (tình cảm chung, suy nghĩ
chung). Do vậy cái tôi cá nhân một lần nữa ít được nhắc đến trong văn học. Nhưng
đến thời kỳ đổi mới, văn học thể hiện sự thay đổi trên nhiều phương diện, cái
“ tôi ” lại quay về chiếm lĩnh văn đàn, qua tác phẩm của Dương Thu Hương, Phạm
Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh, Thuận,… Hiện tượng

này phản ánh một nhu cầu mới của xã hội Việt Nam ở đó cái “ tôi ” đang lên ngôi:
nhu cầu nói về mình. Đặc biệt, cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, con người ngày càng
ý thức về bản ngã và càng khao khát tìm kiếm bản ngã. Với nhiều nhà văn viết tác
phẩm trở thành một hành trình tìm kiếm chính mình, chăm chú vào bí ẩn của cái
tôi, lật xới vấn đề muôn thuở cái tôi là gì ? Bằng cách nào nắm bắt được cái tôi ?
Do vậy khuynh hướng tự truyện trong văn học đương đại đang dần trở nên gây chú
ý. Cũng như bất kì một khuynh hướng nghệ thuật mới nào, khuynh hướng tự truyện
hiện nay trong văn học đương đại Việt Nam phải đối diện với cả hai khả năng: sự
khuyến khích của giới phê bình chuyên nghiệp và cả sự phản ứng của người đọc do
thói quen tiếp nhận cũ. Tuy nhiên, nó sẽ vượt qua và có khả năng đẩy văn học Việt
Nam vào một cuộc cách tân có ý nghĩa.
Có thể thấy rằng tự truyện đã trở thành một dạng của thể loại văn học (thể
ký) dù nó xuất hiện muộn hơn nhiều thể loại khác. Xoáy sâu vào cái “ tôi ”, tự
truyện vẫn không tách rời những vấn đề lớn của thời đại. Trong khi đi tìm cái
“ tôi ”, tác giả viết tặng chúng ta một tác phẩm văn học. Đọc nó ta biến thành kẻ


16

khác. Đúng như Angot nói :“văn học cho phép giao tiếp, để nhà văn tự nói với
mình rằng anh ta không đơn độc, để nhà văn nói với độc giả rằng họ không đơn
độc”. Hugo cũng nói :“Các bạn không thấy là tôi đang nói với các bạn à ?”. Do
vậy tự truyện không chỉ là “ tôi ”, mà qua “tôi” đạt đến “chúng ta”.
1.2. Thể tài hồi ký - tự truyện
1.2.1. Thể tài hồi ký
Hồi ký là một thể tài thuộc thể loại ký văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên, hồi ký
(mesmoires: tiếng Pháp) là “một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã
xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến”[9, tr.127]. Nó
ra đời rất sớm, từ thời cổ Hy Lạp. Hồi ức của Kxênophôn và Xôcrát và những ghi

chép của ông về các cuộc hành quân của người Hy Lạp (thế kỷ V trước CN) thường
được coi là những tác phẩm hồi kí cổ xưa nhất.
150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân chủ biên cho rằng: tác phẩm hồi
kí là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả (tôi tác giả không phải là tôi hư cấu ở một
số tiểu thuyết, truyện ngắn) kể về những sự kiện có thực trong quá khứ mà tác giả
tham gia hoặc chứng kiến. Cùng quan điểm như vậy, tác giả Phương Lựu đã đưa ra
đặc điểm của hồi kí: “chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc, kể lại những sự
việc trong quá khứ. Hồi kí có thể nặng về người hoặc việc, có thể theo dạng kết cấu
- cốt truyện hoặc dạng kết cấu liên tưởng”[24, tr.436].
Theo L.I.Timôfeep trong cuốn Nguyên lý lý luận văn học (tập 2) viết: “Một
trong hàng loạt hình thức của văn học nghệ thuật, mà cơ sở là những sự kiện lịch
sử đã tồn tại trong thực tế. Đó là những hồi kí (Quá khứ và ý nghĩa) của Gecxen đã
khái quát hóa và miêu tả theo quan điểm mỹ học những sự kiện thực trong đời sống
của tác giả. ở đây cốt truyện dựa vào các biến cố đã được biết trước, nhiệm vụ của
tác giả chỉ là trình bày nó ra một cách cụ thể và giải thích nó theo quan điểm mỹ
học... những điều mà tác giả cho là gần gũi đối với mỹ cảm của tác giả ”[41,
tr.182].
Hồi ký được viết theo nhiều hướng khác nhau: có tác phẩm chủ yếu nhằm
miêu tả mối liên hệ của bản thân mình với cuộc sống thông qua những bức tranh xã


17

hội rộng lớn; có tác phẩm lại tập trung miêu tả cuộc sống với những điều gần gũi và
trực tiếp của bản thân mình trong quá khứ... Nhưng dù được viết dưới dạng nào, hồi
ký cũng phải là những trang viết chân thành, nghiêm khắc và khách quan, trong đó
tác giả tự đánh giá để soi lại những hành vi, suy nghĩ, việc làm trong những chặng
đường của quá khứ. Khác với các sử gia và nhà viết tiểu sử, người viết hồi ký chỉ
tiếp nhận và ghi chép phần hiện thực mà tác giả nhìn rõ hơn cả dựa trên cơ sở
những ấn tượng và hồi ức riêng trực tiếp của mình. Hơn nữa, bản thân người viết

hồi ký luôn luôn được mô tả, trình bày ở bình diện thứ nhất. Hồi ký thường khó
tránh khỏi tính phiến diện và ít nhiều chủ quan của thông tin, tính không đầy đủ của
sự kiện, song sự không đầy đủ của nó do sự diễn đạt sinh động trực tiếp của cá nhân
tác giả lại có một giá trị như là một tài liệu xác thực đáng tin cậy.
Theo giáo sư G.N.Pospelov trong cuốn giáo trình Dẫn luận nghiên cứu văn
học (tập 1), trong hồi ký xuất hiện những hình ảnh mà tác giả của chúng đặt ra một
nhiệm vụ khác và miêu tả các hiện tượng đời sống không phải vì tính điển hình của
chúng, mà là vì tính cá biệt không lặp lại của chúng, nếu như tính cá biệt ấy có ý
nghĩa về một mặt nào đó. Đó là các hình tượng ghi chép sự thực (faktographya).
Thông thường các hình tượng ấy được tạo ra là để ghi lại các sự kiện của cuộc sống
riêng, của sinh hoạt gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với con người. Có khi chúng
được xây dựng để ghi nhớ các sự kiện của đời sống xã hội. Các hình ảnh ghi chép
sự thực có một cái gì chung với các hình ảnh minh họa. Nhà ký sự ghi chép việc
thật cũng cần phải bảo đảm tính chính xác khi truyền đạt các chi tiết cá biệt của sự
kiện xảy ra, về đạo lí, anh ta không có quyền xuyên tạc hay bịa đặt chúng. Anh ta có
thể biểu thị thái độ đối với các nhân vật và sự kiện được miêu tả bằng cách lựa chọn
và nhấn mạnh một vài chi tiết có ý nghĩa quan trọng đối với anh ta mà thôi. Như
vậy, các hình ảnh ghi chép sự thực chỉ tái hiện các hiện tượng đời sống đáng kể
trong tính cá biệt của chúng. Cũng giống như các hình ảnh minh họa, các hình ảnh
ghi chép sự thực không biến đổi tính cá biệt của các hiện tượng, trình bày chúng
đúng như là chúng vốn có trong hiện thực.
Ở nước ta xuất hiện nhiều tập hồi ký cách mạng có giá trị như: Những năm
tháng không thể nào quên của Võ Nguyên Giáp, Bất khuất của Nguyễn Đức
Thuận, Hồ Chí Minh qua kí ức các nhân chứng lịch sử của Đinh Chương, Con


18

đường theo chân Bác của Hoàng Quốc Việt. Bên cạnh những tác phẩm hồi ký cách
mạng, hồi ký của các nhà văn (hồi ký văn học) cũng có một vị trí đặc biệt. Nhiều

nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Nguyên Hồng,
Tô Hoài, Huy Cận, Anh Thơ, Vũ Bằng... đã viết hồi ký văn học theo những cách
viết khác nhau. Hồi ký của nhà văn chính là một điểm tựa, một căn cứ quan trọng để
tìm hiểu sự nghiệp tác giả, hiểu khung cảnh xã hội và những người đương thời với
tác giả. Điểm nổi bật trong các tác phẩm hồi ký văn học là sự xuất hiện đậm đà của
“cái tôi” trần thuật. Sự thật cuộc sống được thể hiện trực tiếp qua sự cảm nhận của
tác giả. Tác giả chứng kiến trực tiếp hiện thực, lựa chọn và trình bày sự kiện. Tác
giả đóng vai trò “nhân chứng” trực tiếp dẫn dắt độc giả, giúp độc giả tin tưởng vào
những điều người viết trình bày, vì vậy mà vốn sống, kinh nghiệm và tài năng của
tác giả hồi kí quyết định giá trị của tác phẩm. Các nhà văn trong việc tự khám phá
bản thân mình trên từng chặng đường sáng tác nghệ thuật phải giải đáp được các
câu hỏi: “Tôi là ai? Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào? Tôi cùng các nhà văn
khác lao động, sống trong cùng một đời sống xã hội, văn học như thế nào?”. Những
cái tôi tinh túy, cái tôi tài năng cần được coi trọng. Họ phải tìm cho mình một con
đường đi bằng những nỗi khát khao lớn của nhà văn chân chính. Làm được như vậy
thì tác phẩm của họ sẽ tạo nên những tiếng vang nhất định. Những sự kiện văn học
trong quá khứ, những số phận văn chương sẽ được tái hiện theo một cách nhìn nhận
mới. Do vậy, hồi ký dần được định hình, vươn lên và được đánh giá cao hơn. Nhiều
người tìm đến hồi ký như một phương tiện để bộc lộ, để giãi bày.
Như vậy là một thể tài của thể ký, hồi ký mang trong mình những đặc điểm
chung của thể loại bao hàm nó, đồng thời nó cũng có những đặc trưng riêng của
mình. Điều đó giúp ta phân biệt giữa hồi ký với các thể tài khác của thể ký như ký
sự, phóng sự, nhật ký,... Đúng như G.S. Hà Minh Đức đã nhận xét về bản chất của
các thể ký này: “Ký sự nghiêm ngặt tái hiện những sự kiện phong phú của đời sống;
hồi ký ghi lại những diễn biến của câu chuyện theo bước đi của thời gian, qua sự
hồi tưởng; bút ký, tùy bút thể hiện một cách linh hoạt việc phản ánh cuộc sống
khách quan và bộc lộ những suy tưởng chủ quan”[8, tr.323]. Tuy nhiên, nằm trong
những đặc điểm chung của kí văn học, các thể trên cũng ảnh hưởng thâm nhập, tác
động đan xen lẫn nhau. Trong quá trình phát triển, vận động của thể loại, hồi kí



19

cũng nhận được sự thâm nhập, đan xen ảnh hưởng của những yếu tố cùng loại. Sự
ảnh hưởng có tính “phẩm chất” này khiến hồi kí có mối quan hệ mật thiết với các
thể loại kí trong văn học hiện đại.
1.2.2. Thể tài hồi ký - tự truyện
Với những giới thuyết ở trên, có thể thấy rằng hồi ký và tự truyện là những
thể loại rất gần nhau. Chúng đều là thể loại văn học viết về chính bản thân mình
(écriture de soi) bao gồm cả tự truyện, hồi ký, nhật ký, thư riêng. Trong giáo trình
Lý luận văn học (tập 2) do G.S. Trần Đình Sử chủ biên cũng cho rằng: hồi ký là
một dạng tự truyện của tác giả, cung cấp những tư liệu quá khứ mà đương thời chưa
có điều kiện nói ra được. Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia thì sự khó khăn
trong việc phân định loại thể của tự truyện so với hồi ký sẽ chỉ được các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học giải quyết với từng trường hợp cụ thể, tác phẩm nhấn mạnh ở
khía cạnh tự truyện hơn hay hồi ký hơn mà thôi. Ý thức được như vậy, chúng ta
thấy ranh giới giữa tự truyện và hồi kí rất khó xác định nhưng giữa chúng vẫn có
những điểm khác biệt. Trước hết là ở đối tượng trung tâm của tác phẩm. Hồi ký
không nhất thiết phải kể về cái tôi mặc dù “tôi” là người kể chuyện. Bên cạnh câu
chuyện về mình, hồi ký còn tập trung thể hiện bức tranh của thời đại hoặc đi sâu tìm
hiểu những mảnh đời khác nhau nhưng đều có liên quan với người kể chuyện trong
quá khứ. Trong trường hợp đó thì cái “tôi” chỉ là “chất dẫn” của mạch cảm hứng,
của mối quan hệ. Trong khi đó, tự truyện lại xoáy vào cá nhân người viết, là câu
chuyện của cái “tôi” tác giả - người kể chuyện. Người kể chuyện tự viết về cuộc đời
mình, tái hiện đoạn đời đã qua trong tính toàn vẹn, cụ thể cảm tính, phù hợp với lí
tưởng xã hội nhất định. Trong khi hồi ký không nhằm vào việc miêu tả quá trình
hình thành nhân cách của cá nhân trong tương quan với hoàn cảnh. Những câu
chuyện đời tư khi chưa nổi lên thành các vấn đề xã hội cũng không phải là đối
tượng quan tâm của hồi ký. Ngược lại, tự truyện chú trọng tới việc tìm hiểu, lí giải
cái “tôi”. Tại sao cái “tôi” trong quá khứ lại trở thành cái “tôi” của ngày hôm nay?

Sự kiện về tiểu sử của nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được sử dụng với những
mục đích nghệ thuật khác nhau. Hồi kí chú ý nhiều đến việc ghi chép chính xác sự
thực, không có hư cấu trong khi tự truyện quan tâm nhiều hơn đến những giá trị văn
chương nên cho phép hư cấu. Tác giả của hồi ký luôn có ý thức để đạt tới tính xác


×