Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.85 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học hiếm thấy của nền văn học Việt
Nam. Không chỉ tài hoa xuất chúng mà cả thơ văn lẫn cuộc đời của bà cũng đã
làm tốn không biết bao nhiều là giấy mực của giới nghiên cứu. Giáo sư Lê Đình
Kỵ khi bàn về Hồ Xuân Hương đã từng có câu nhận xét như sau: “Thơ Xuân
Hương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - không phải khẩu
khí mà là huyết khí, với khí chất riêng của mình”. Chính vì mang một cốt cách
riêng, khí khái riêng mà ẩn chứa trong thơ Xuân Hương là sức sống tiềm tàng
mãnh liệt, luôn chực chờ tuôn trào trong từng câu chữ và một trong những thứ
tạo nên cốt cách riêng ấy, chính là nghệ thuật trào phúng trong thơ của Hồ Xuân
Hương.
2. Mục đích nghiên cứu

Việc tìm hiểu kỹ hơn về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương sẽ
giúp chúng ta hình dung rõ nét hơn về con người và cá tính trong thơ của bà,
đồng thời hiểu được lý do vì sao thơ văn của Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớn
đến thế đối với nền văn học nước nhà.
3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ
Xuân Hương.

1


4. Phạm vi nghiên cứu


Phạm vi nghiên cứu đề tài này xoay quanh các tác phẩm thơ của Hồ Xuân
Hương.
5. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp phân tích – tổng hợp.
Phương pháp liệt kê.
Phương pháp so sánh….

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO
PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG:
1. Khái niệm “Trào phúng”

“Trào phúng” bản thân nó là từ Hán - Việt. Nếu tách riêng từng chữ thì “trào” là
cười cợt, chế giễu; “phúng” là lời bóng gió để châm biếm, đả kích. Nghệ thuật trào
phúng là cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích những thói
hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội.
Người ta thường chia trào phúng thành ba loại chính: loại khôi hài, cười cợt; loạt
phê phán, đả kích và loại châm biếm chế giễu. Đặc trưng cơ bản của thơ trào phúng
là yếu tố gây cười, yếu tố hài hước trong văn bản được thể hiện về mặt nội dung lẫn
hình thức và ta có thể cảm nhận rõ điều này trong thơ của Hồ Xuân Hương.
2. Đối tượng trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương nhìn ra những ung nhọt của xã hội và đưa vào thơ mình, tiếng
chửi của bà cất lên đầy hả hê khiến người nghe cũng phải cười thích thú. Đối tượng
lên án của bà rất đa dạng nhưng đều có đặc điểm chung là những tên “bụng đầy kinh
sách” hay những hạng “quyền cao chức trọng” nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ thanh cao.
Đó là những tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, đã ham ghẹo gái lại còn võ vẽ làm thơ,
lại còn thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ:


2


“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống, đem vôi quét trả đền”
(Bọn Đồ Dốt)
Bà truy ra tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa bất cứ ai, kể cả lũ vua chúa ,
quan lại, hiền nhân quân tử... luôn cho mình có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí
thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội nhưng con người thật của chúng không chỉ hám
danh, hám lợi mà còn đam mê tửu sắc:
“Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này”
(Vịnh quạt)
Nếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào cái thói háo sắc nhưng
thích “giả vờ” thì với đám quan thị, bà đánh vào cái cuộc sống trái lẽ tự nhiên của
bọn chúng: “Quan thị”. Ngoài ra, sư sãi cũng là một trong những đối tượng được
nhắc đến không ít lần trong thơ Xuân Hương. Trong cái xã hội rối ren, nhà chùa đã
không còn giữ được vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào đó là những
tên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hiện những hành vi giả dối đồi bại: “Sư
hổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”….
Tuy được nhắc đến nhiều nhất và trọng tâm nhất vẫn là những “anh hùng quân
tử”, nhưng Xuân Hương cũng không bỏ qua những tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa,
xem tình cảm của những cô gái ngây thơ là trò chơi để rồi khi “no xôi chán chè”,
chúng thẳng tay rũ bỏ:
“Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?

Mảnh tình một khối thiếp xin mang”
3


(Không chồng mà chửa)
Trào phúng trong thơ Xuân Hương được thể hiện bằng nhiều cung bậc cảm xúc
khác nhau. Hả hê có, thích thú có nhưng đắng cay có, chua xót cũng nhiều. Tiếng
cười mang ý nghĩa sâu sắc và ẩn chứa trong đó là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt
và không chỉ trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương còn rất đậm đà chất trữ tình đặc sắc.
CHƯƠNG II: NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG
THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
1. Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể (điệu bộ, cử chỉ, tính cách)

Để góp phần tạo nên thành công trong việc xây dựng nghệ thuật trào phúng,
chúng ta không thể không nhắc đến tài năng khắc họa hình tượng nhân vật của Hồ
Xuân Hương. Bà đã phác nên những nét rất riêng cho các nhân vật của mình một
cách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình bằng những từ ngữ, câu thơ
dài dòng. Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật và thông qua đó biểu lộ thái độ của bản
thân:
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ”
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!”
(Lũ ngẩn ngơ)
Trong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, một ngày kia, Hồ Xuân
Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, bà đang lững thững đi bên bờ hồ Tây thì có vài
tên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa ra hòng trên ghẹo. Xuân Hương vẫn
lặng thinh không nói, nhưng đến khi nghe cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịu
được, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho bài thơ. Chỉ với một từ “ngẩn ngơ” ngay
câu đầu tiên đã phác họa toàn bộ dáng vẻ của những tên văn sĩ nửa mùa nhưng hay

tỏ vẻ. Chúng tuy mang tiếng chữ nghĩa đầy mình nhưng khi thốt ra cũng chẳng khác
4


gì “lũ ngẩn ngơ”, không biết gì, để đến nỗi một cô gái trẻ phải “dạy” lại. Hồ Xuân
Hương gọi chúng là “dê cỏn” chứ không phải dê con, vì dê con là dê còn nhỏ, còn
ngây thơ, “dê cỏn” là hạng dê mới lớn, có cái vẻ ngang ngược, tự đắc. Cách gọi
“ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể hiện rất thành công bản chất ti
toe của những anh nửa trẻ con nửa người lớn. Bọn chúng chỉ là những kẻ “ngựa non
háu đá”, hợm hĩnh chứ thực chất không có một chút học thức thật sự nào. Có thể
nói, cái thú vị, hóm hỉnh của Xuân Hương khiến chúng ta bật cười, cười vì thích thú
xen lẫn nể phục vì tuy là nữ nhi, nhưng tài nghệ văn chương của bà còn hơn hẳn cái
thứ mang danh “thầy” nửa mùa ấy.
Hay trong bài “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo chúng ta hay nghĩ
tới mỗi khi nhắc đến chùa chiền, Phật giáo đã không còn thấy trong thơ bà nữa:
“ Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vải núp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên Sư cụ,
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.”
(Sư hổ mang)
Đầu trọc thì rất đỗi bình thường, sư nào mà đầu chẳng trọc? Thế nhưng khi đi
kèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư hiện lên đầy vẻ
thấy mỉa mai, đùa cợt. Ban ngày cũng như bao nhà sư khác, cũng cúng dường,“oản
dâng” Phật rất bình thường, ấy thế mà ẩn sau đó, cái “sắc dục” vẫn quẩn quanh , vây
hãm lấy nhà sư. Không chỉ thế, chùa chiền vốn là chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, ấy
vậy mà sao sư với vãi cứ như đang chơi trò chơi của đám con nít?! Ở chùa chỉ có

chuông, mõ mà đây lại có đủ thứ nhạc khí như một phường bát âm: "Khi cảnh, khi
5


tiu, khi chũm chọe". Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng nào thì đổi: "Giọng
hì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ bằng một vài hình ảnh cùng cử
chỉ, giọng điệu thôi nhưng đã toát hình tượng một nhà sư mà người đời kính trọng
trở nên biến chất về mặt đạo đức đến mức nào trong cái xã hội lúc bấy giờ.
Cách khắc họa nhân vật của Hồ Xuân Hương vô cùng đơn giản nhưng lại toát lên
hương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ của bà. Chỉ bằng một vài nét
chấm phá, hình tượng con người hiện lên với đầy đủ những đặc điểm, tính chất
mà Xuân Hương muốn đề cập đến. Đó không phải là điều mà bất cứ nhà thơ nào
cũng có thể thực hiện được, nhưng ta thấy rất rõ nét trong nhiều bài thơ của “bà chúa
thơ Nôm” Hồ Xuân Hương.
2. Cách sử dụng từ ngữ

Nếu như so sánh các kiểu lựa chọn từ ngữ của Bà Huyện Thanh Quan với cách
sử dụng từ ngữ của Hồ Xuân Hương, ta sẽ thấy có sự đối nghịch rõ nét giữa hai
người. Cùng là miêu tả về đèo nhưng câu chữ của Bà Huyện Thanh Quan sang
trọng, mực thước và mang phóng cách thơ văn “quý tộc”:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang)
Trong khi đó, Đèo Ba Dội của Hồ Xuân Hương vô cùng gần gũi, thân thuộc hơn
rất nhiều. Nếu đứng về phương diện ý nghĩa thanh nhã mà so sánh thì bài thơ của Bà
Huyện Thanh Quan như là một bức hình đen trắng bằng phẳng còn bài Đèo Ba Dội
như là một bức tranh nổi ba chiều sống động đầy màu sắc và âm thanh.Hồ Xuân
Hương không chiêm nghiệm cuộc sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởng

tất cả âm thanh, màu sắc, hình khối… của vạn vật trong trạng thái sung mãn nhất
6


của nó. Nữ thi sĩ tài hoa đã khai thác triệt để khả năng tu từ phong phú của ngôn ngữ
dân tộc và hơn bao giờ hết, nghệ thuật trào phúng cũng được bà mài giũa bén nhọn
hơn. Tài năng về mặt ngôn ngữ không chỉ biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnh
vật thiên nhiên, mà khi muốn trào lộng một ai đó, bà còn có thể khiến chúng, dù cho
có là bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay thậm chí là bậc “vua”, “chúa” đi
nữa cũng phải mất đi cái vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần những kẻ giả dối mà
luôn khoác lên thân chiếc áo đạo đức cao sang . Cả cái tiếng xưng hô với thần thánh
“đây”, “đấy” của bà khi đứng trước Đền Sầm Nghi Đống cũng nghe đầy vẻ kể cả,
xách mé:
“Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!”
(Đền Sầm Nghi Đống)
Không chỉ thế, việc sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới lạ, cách thức dùng cũng rất
“Xuân Hương”. Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng: “cửa son”, “bậc đá”,
“lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… càng làm tác động
mạnh lên thần kinh cảm giác của người đọc, buộc người đọc không muốn hình dung
cũng phải hình dung. Trong thơ của Hồ Xuân Hương luôn tràn ngập những động từ
mạnh, có những từ bản thân nó đã là động từ mạnh nhưng có lẽ nữ thi sĩ cũng chưa
vừa ý, bà còn gắn thêm vào nó những phó từ bổ nghĩa mà ta có thể thấy trong bài Tự
tình (III):
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
(Tự tình III)
Từ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe và động tác trở nên
“ngọt” hơn, cũng như “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nó đâm
vút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc cả bầu trời, mà như không có gì có


7


thể ngăn cản nổi. Sự thêm thắt đầy sáng tạo này tạo nên chất mạnh mẽ trong thơ Hồ
Xuân Hương.
Có lẽ đặc biệt nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là cách sử dụng từ láy rất mới lạ.
Những từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, thế luồn lách, chông chênh, những
cử động nhanh mạnh như “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, …
Chỉ một từ thôi mà có thể diễn tả các chiều của không gian, rộng và sâu hun hút:
“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom”
(Động Hương Tích)

Hay:
“Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom”
(Hang Cắc Cớ)
Để diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” trong hai bài
“Hang Cắc Cớ” và “Động Hương Tích”. Không phải là “hun hút”, “thăm thẳm” mà
là “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” càng làm mở rộng thêm độ
sâu tận cùng của hang, đồng thời cho thấy cả chiều rộng lẫn chiều cao của hang
động, càng kích thích trí tò mò của con người. Một từ thôi mà đã có thể diễn đạt
được đa chiều của không gian trong khi đó, khi nhìn lại các dòng thơ thời đại đổ về
sau, ta khó mà kiếm ra được những câu thơ đặc biệt đến vậy. Thơ của Huy Cận đã
tài tình rồi nhưng vẫn không tránh khỏi dùng nhiều từ chỉ không gian để dẫn giải về
các chiều không gian:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót.
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
(Tràng giang)

8


Xuân Hương không cần “xuống”, “lên”, “sâu”, cũng chẳng cần “dài”, “rộng”
mà chỉ một từ thôi cũng đã khiến người đọc hình dung rất rõ ba chiều không gian
của sự vật mà bà muốn nói đến.
Trong những bài thơ do Hồ Xuân Hương sáng tác, các từ láy được sử dụng với
tần suất cao, bao gồm những từ láy gợi âm thanh: “tỉ tì ti”, “hi ha”, “hu hơ”, “vo ve”,
…, từ láy gợi cảm giác, xúc giác: “xù xì”, “toen hoẻn”, “lam nham”,…, những từ
gợi tư thế vận động: “cheo leo”, “vắt vẻo”, “lom khom”, ngất nghểu,… hay những
từ tượng thanh gây tiếng động: khua lắc cắc, vỗ long bong, vỗ phập phòm, rơi thánh
thót, rơi lõm bõm… Ngay cả những từ láy tượng hình hóa nội tâm nhân vật trữ tình
trong bài “Tự tình” cũng có nét nghĩa vận động: “nổi nênh”, “lênh đênh”, “lai láng”,
…đều gợi sự trôi nổi, chơi vơi.
Thơ Xuân Hương thực sự rất cá tính mà không một nhà thơ nào có thể bắt chước
được. Bà đưa khẩu ngữ vào thơ mình một cách tự nhiên “tí con con”, “lại đây”,
“muốn sống”… và kể cả tiếng chửi: “bá ngọ”, “chém cha”, “cha kiếp”, “lũ ngẩn
ngơ”,… cũng mang đậm đặc trưng dân tộc. Không trau chuốt, tô vẽ, cái chất bình
dân mộc mạc ngấm sâu trong Hồ Xuân Hương tạo nên những tiếng cười thu hút,
gần gũi đại chúng.
Lê Hoài Nam trong bài viết "Hồ Xuân Hương" in trong cuốn Nghĩ về thơ Hồ
Xuân Hương Nxb GD (1998) đã nhận xét: "Xuân Hương có vốn ngôn ngữ rất phong
phú, rất chính xác, nhưng đồng thời cũng rất độc đáo. Điều đó không phải chỉ chứng
tỏ Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ của dân tộc, mà còn biểu hiện cá tính mạnh
mẽ của Xuân Hương. Có những tiếng như : hỏm hòm hom, trơ toen hoẻn, chín mõm
mòm, đỏ lòm lom, sáng banh, trưa trật...phải là người có bản lĩnh vững vàng như
Xuân Hương mới có thể đưa vào văn học, nhất là vào thi ca được. Nói chung thì
ngôn ngữ của Xuân Hương có một sức biểu hiện rất mạnh, bao giờ cũng xúc tích,
hình ảnh sinh động, nói như ngày xưa thì mỗi một tiếng là đắc một tiếng".
9



Cách sử dụng từ ngữ đầy tính gợi và sinh động là một trong những cách thức góp
phần tạo nên tiếng cười cho thơ văn của Hồ Xuân Hương. Không bình lặng mà luôn
nổi loạn, văn thơ Xuân Hương cũng giống như tính cách của con người bà, dẫu có
vài trăm, vài nghìn năm sau đi chăng nữa, nó vẫn làm “điêu đứng” giới thơ văn.

3. “Tính dục” trong thơ Hồ Xuân Hương

Không chỉ tài tình trong cách khắc họa, xây dựng nhân vật và sử dụng từ ngữ độc
đáo, “tính dục” trong thơ Hồ Xuân Hương cũng là một trong những thứ góp phần
xây dựng thành công nghệ thuật trào phúng. Đã có rất nhiều ý kiến bàn cãi về thơ
Hồ Xuân Hương và cũng rất nhiều lời nhận định được đưa ra. Liệu thơ của bà có
hay không tồn tại yếu tố “dâm” và “tục”? Tuy thế, có một điều mà không ai có thể
phủ nhận được rằng, ẩn sâu dưới từng câu từng chữ trong thơ của bà là một cái gì đó
rất đỗi đặc biệt để rồi nhận ra nó, tiếng cười sẽ bật ra một cách vô cùng tự nhiên.
Hồ Xuân Hương đã rất khéo léo khi lồng ghép những ý tứ “thầm kín” dưới lớp
bề nổi của cái “thanh tao”:
“Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu”
( Đèo Ba Dội)
Đọc bài thơ ta có thể thấy rõ Hồ Xuân Hương đang miêu tả về vẻ đẹp của Đèo
Ba Dội. Một đèo Ba Dội với cỏ cây mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thì thấy đất đỏ
dưới chân, hang động cũng màu đỏ thì chẳng có gì khiến ta phải phân vân, nhưng
khi lí giải những dòng thơ của bà dưới góc độ phồn thực, chúng ta sẽ cảm thấy thú
vị bởi những hình ảnh tưởng chừng như chân thực ấy lại mang một tầng nghĩa sâu
xa, sống động đến kì lạ. Nói mà như không nói, tả mà như không tả mà để người đọc
tự khơi dậy trí tưởng tượng của mình. Bả không nói toạc ra những điều thầm kín

10


trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi
gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên. Trong thời đại Nho giáo
phong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thật
với tình yêu, hôn nhân,.. của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gò
bó theo lề lối. Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là Hồ
Xuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình
cảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầng
lớp thống trị mục nát.
Hay trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúng
ta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến cảnh chơi đu của trai, gái
thời xưa.:
“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song
Chơi xuân có biết xuân chăng tá
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không !”
(Đánh đu)
Sự khéo léo, nhịp nhàng của các cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không chỉ gợi sức hút về mặt thẩm mỹ mà còn thông qua đó, ta có
thể cảm nhận được niềm vui của đôi trai gái khi tham gia trò chơi đánh đu trong lễ
hội làng quê. Đặc biệt từ “cật” ở câu luận là một danh từ chỉ bộ phận cơ thể nhưng
đứng sau từ láy “khom khom” nó thường được hiểu là một động từ, vần “at” trắc cao
như các âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục... càng cho
thấy sự hào hứng khi chơi đu. Kông chỉ thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” được thi
11



sĩ phác họa hết sức sống động mà không bút vẽ của một họa sĩ nào có thể làm được.
Làm gì có ai vẽ được nên bức tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cái
hay là ở chỗ “đánh đu” mà lại không phải là đánh đu. Một bài thơ với nhiều lớp
nghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa,
chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn này.
Tính “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiền
nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng. Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìn
thấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày”:
“Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông”
thì:
“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Chỉ một từ láy “dùng dằng” thôi cũng đủ để lột tả sự phân vân, tranh đầu nội tâm
dữ dội: nên đi hay nên ở? Đi thì tiếc vì lỡ dịp may lạ lùng, được chiêm ngưỡng tấm
thân ngọc ngà nằm trên chõng kia ngàn năm mới có một. Ở thì không xong vì lỡ như
có người trông thấy, cũng có thể cô gái kia tỉnh lại, rồi tiếng lành đồn xa chịu sự chê
cười. Và cho đến cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định
“đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộn
không thể kìm chế được. Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìn
càng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được. Ôi oái oăm thay!
4. Biện pháp tu từ

Một trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân
Hương là biện pháp nói lái. Nói lái là biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âm
đầu, vần và thanh điệu giữa hai hay nhiều âm tiết để tạo nên những lượng ngữ nghĩa
mới bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui. Ðây là hình thức chơi chữ đặc biệt

12


của các ngôn ngữ phân tiết như tiếng Việt có từ rất lâu đời và thường thấy trong văn
học dân gian. Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa:
“Con cá đối nằm trong cối đá
Con mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo”

Hay:
Cam sành nhỏ lá thanh ương
Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh
Thanh ương là tuổi mong chờ
Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà.
(Ca dao)
Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệ
thuật rất đặc trưng trong thơ bà. Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từ
từng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người ta
chiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còn
cảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà
chất nghệ thuật trong tác phẩm của bà:
“Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Làm chi một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo”
(Sư hoạnh dâm)
Xét bề mặt ngữ nghĩa của từng từ đều có ý nghĩa, tạo nên một nội dung thống
nhất, hoàn chỉnh. “Lộn lèo” là dây lèo của thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngược
trở lại, “trái gió” là ngược gió. Tuy nhiên khi lái lại, bài thơ lại tạo nên một lớp nghĩa
khác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân nhưng mục đích vẫn là xoáy
sâu vào nhân vật được nhắc đến. Luận ra nghĩa thứ hai, các hoạt động đó cũng thuộc

13


về ông sư, bà vãi, chú tiểu… chứ còn ai vào đây? Tài tình ở chỗ những từ ngữ này
đều mang nghĩa và không quá sống sượng, chớt nhã, khiêu dục…
Ở một góc độ khác, sự tài tình của Hồ Xuân Hương thể hiện ở việc dùng các
từ thuộc cùng một trường từ vựng trong thơ. Bài thơ Khóc Tổng Cóc, trong 28 chữ
đã có 5 từ chỉ những con vật thuộc loài cóc: “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”,
“chẫu chuộc”, “cóc”. Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có rất nhiều từ chỉ các vị thuốc:
“cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả các từ
chỉ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc: “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bên
cạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ càng làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hình
cho bức tranh với những đường nét cơ bản mà Xuân Hương phác thảo nên. Mượn
hình ảnh ốc nhồi hay quả mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, tỏ vẻ thanh cao
nhưng thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm của những cô gái nhà lành và thông qua
đó, nữ thi sĩ cũng thể hiện ước mơ về hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn. “Bánh trôi nước”
mà nữ sĩ từng nhắc đến chính là vẻ đẹp hình thể, tâm hồn của người con gái thân
phận bé nhỏ, dù cho đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập thì “em vẫn giữ tấm lòng
son. “Tấm lòng son " là biểu hiện phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm lay
chuyển nó.
KẾT LUẬN
Hồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt Nam.
Có thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nói
những gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh. Ngôn ngữ
Xuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình dân.
Không chỉ thế, bằng ngòi bút xuất sắc của mình, nữ sĩ đã khéo léo đưa nghệ thuật
trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũng
thông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người
14



phụ nữ cũng được tái hiện lên. Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ,
cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau. Chính vì thế, thơ văn Hồ Xuân
Hương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng rất đậm đà.
Và nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác biệt.

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

Bắc Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Hương.
Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiện

tượng Hồ Xuân Hương.
3. Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương.
4. Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín

ngưỡng phồn thực.
5.
6.
7.
8.
9.

Kiều Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Hương.

Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương.
Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền luận.
Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ”.
Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân

Hương dưới góc độ so sánh.”
10. Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm.
11. Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ và đời, 2010.



×