Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật việt nam trong mối tương quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 104 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục………………………………………………………………………..1
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...4
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận cơ bản của việc giải quyết xung đột
pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài…………………………………7
1.1. Khái niệm xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài…………7
1.1.1. Khái niệm quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài……………………...7
1.1.2. Định nghĩa xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài..........15
1.1.3. Nguyên nhân xuất hiện xung đột pháp luật..........................................16
1.1.4. Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước
ngoài................................................................................................................19
1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế yếu tố nước ngoài có ở một số
nước trên thế giới.............................................................................................23
1.2.1. Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu
tố nước ngoài ở một số nước trên thế giới.......................................................23
1.2.2. Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có
YTNN ở một số nước trên thế giới..................................................................27
Chƣơng 2. Thực trạng của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột
pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài..................................................29
2.1.

Quá trình phát triển pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp

luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài...............................................................29
2.1.1. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo
pháp luật Việt Nam..........................................................................................29
2.1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo các
điều ước quốc tế mà Việt Nam đó ký kết hoặc tham gia.................................37


1


2.1.3. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo các hiệp định tương trợ

pháp.................................................................................................................38
2.1.4. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo các hiệp định lãnh
sự.....................................................................................................................46
2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật về thừa
kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài..............................................................50
2.2.1. Hình thức di chúc..................................................................................50
2.2.2. Năng lực lập, thay đổi và hủy bỏ di chúc..............................................54
2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật về thừa
kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài...........................................................57
2.3.1. Theo quy định của pháp luật Việt Nam................................................59
2.3.2.

Theo

quy

định

tại

các

hiệp

định


tương

trợ



pháp................................63
2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết vấn đề di sản không người
thừa kế có yếu tố nước ngoài...........................................................................66
Chƣơng 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải
quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài.......................70
3.1. Những quan điểm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột
pháp

luật

về

thừa

kế

theo

pháp

luật




yếu

tố

nước

ngoài...............................70
3.2. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung
đột

pháp

luật

về

thừa

kế

theo

pháp

luật



yếu


tố

nước

ngoài.........................74
3.2.1. Phương hướng của việc chọn giải pháp cho xung đột pháp luật về thừa
kế

theo

pháp

luật

trong



Nam.........................................74

2

pháp

quốc

tế

Việt



3.2.2. Giải pháp hoàn thiện những quy phạm xung đột về thừa kế theo pháp
luật



yếu

tố

nước

ngoài.................................................................................77
3.2.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết
xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài...................88
3.2.4. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết di
sản

không

người

thừa

kế




yếu

tố

nước

ngoài................................................92
KẾT LUẬN ...................................................................................................96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................97

3


MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự:
Trong suốt quá trình phát triển của xã hội thì trong hai thế kỷ trở lại
đây, do xu hướng toàn cầu hóa cùng với sự phát triển về kinh tế chính trị dẫn
đến một sự hội nhập giao lưu vô cùng sâu rộng, các mối quan hệ không chỉ bó
hẹp trong lãnh thổ quốc gia mà nó càng ngày càng phát triển. Từ việc phát
triển của công pháp quốc tế kéo theo sự phát triển của tư pháp quốc tế, từ
những vấn đề kinh tế thương mại dẫn đến nảy sinh những vấn đề về lao động,
hôn nhân gia đình, thừa kế…là những mối quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài. Xuất phát từ việc các quốc gia muốn bảo vệ quyền lợi của các công
dân nước mình đến việc các quốc gia muốn thu hút sự giao lưu đặc biệt mục
tiêu phát triển kinh tế…Từ nhu cầu đó các quốc gia đã tích cực xây dựng
những điều ước song phương và đa phương trong lĩnh vực tư pháp quốc tế.
Mặc dù vậy trong lĩnh vực thừa kế có yếu tố nước ngoài vẫn còn thiếu những
điều ước điều chỉnh thu hút nhiều quốc gia làm thành viên. Ngoài một số điều
ước đã được ban hành cách đây khá lâu và lượng thành viên tham gia không
nhiều như: Công ước LaHay năm 1892 (được sửa đổi năm 1894, 1900, 1925,


4


1928, 1964), Công ước Bustamante, Công ước xung đột pháp luật liên quan
đến hình thức định đoạt tài sản bằng di chúc 1961…Chủ yếu các quốc gia
thiên về việc xây dựng các điều ước song phương đơn lẻ. Ngay cả trong pháp
luật quốc gia những quy định về tư pháp quốc tế về thừa kế cũng chưa được
xây dựng một cách đầy đủ để giải quyết những xung đột pháp luật về thừa kế
trên thực tế. Nhưng về cơ bản một số quốc gia có những cách giải quyết xung
đột giống nhau, cách lựa chọn áp dụng luật giống nhau, điều đó giúp việc thực
thi và áp dụng được dễ dàng hơn rất nhiều.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mặc dù có quá trình xây
dựng hệ thống pháp luật rất ngắn nhưng cũng đã xây dựng cho mình những
quy định cụ thể trong lĩnh vực tư pháp quốc tế. Cùng với đó là ký kết một số
điều ước quốc tế song phương với các quốc gia như: Trung Quốc, Lào,
….Xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu về pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài
của Việt Nam và một số nước tiêu biểu trên thế giới tôi đã lựa chọn đề tài
“Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định
của pháp luật Việt Nam trong mối tương quan so sánh với pháp luật một số
nước trên thế giới”.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận chung được sử dụng là phương pháp luận duy vật
biện chứng. Trên nền tảng phương pháp đó, tác giả áp dụng các phương pháp
cụ thể sau: phân tích, tổng hợp, hệ thống, lịch sử và so sánh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích luận văn là đề xuất các kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố
nước ngoài.
Với mục đích trên, tác giả đặt ra việc giải quyết các nhiệm vụ sau:


5


- Phân tích những vấn đề lý luận của việc giải quyết xong đợt pháp luật về
thừa kế có yếu tố nước ngoài;
- Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật về
thừa kế có yếu tố nước ngoài.
4. Cơ cấu của luận văn:
Luận văn có cơ cấu như sau: Phần mở đầu, ba chương, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo.
Nội dung chính bao gồm ba chương:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản của việc giải quyết xung đột pháp
luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài
- Chương 2. Thực trạng của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp
luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài
- Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải
quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA VIỆC GIẢI
QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI

1.1. Khái niệm xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố
nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài:

- Khái niệm: “Thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
sự truyền lại tài sản của người đã chết cho những người khác theo di chúc
hoặc theo quy định của pháp luật”.
Thừa kế là một quyền cơ bản của mỗi công dân hay còn được gọi là kế
vị hay thừa tự - Điều 631 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005:
+

Cá nhân có quyền lập di chúc để lại tài sản của mình cho những

người thừa kế.
+

Nếu người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì di sản thừa kế

được chia theo pháp luật.
+

Cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

7


Quyền thừa kế là một trong những vấn đề thuộc luật dân sự, căn cứ vào
luật đó một mối quan hệ tổng hòa về các chuẩn mực được nhận thức sâu hơn,
các mối quan hệ phố biến có liên đới tới sự tiến triển của các quyền sở hữu.
Sự thừa kế là một trong những vấn đề phát sinh quan trọng nhất của sự tiến
triển quyền sở hữu giữa quyền thừa kế và quyền sở hữu tồn tại một mối liên
quan chặt chẽ quyền thừa kế chấp nhận nội dung của nó từ quyền sở hữu có
thể xem như là quyền sở hữu về vật chất cũng như các quyền sở hữu về tài
sản khác trong số đó có cả các quyền đòi hỏi hoặc yêu cầu yêu sách.

Quyền sở hữu có sự chấp thuận về quan hệ đối với quyền thừa kế. Đặc
điểm phát sinh của sự thừa kế được dẫn tới không chỉ trong luật dân sự, mà
còn trong một bộ phận của luật các quan hệ sở hữu và các quan hệ thừa kế
quốc tế hiện hành trong một cấp độ có liên quan tương hỗ mang ý nghĩa quan
trọng.
Các dạng thể thừa kế như thừa kế theo chúc thư (di chúc) và thừa kế
theo luật định. Thừa kế theo chúc thư thuộc loại thừa kế cơ bản. Sự khởi đầu
thừa kế theo chúc thư được tìm thấy đó là căn cứ vào hiến pháp và luật phổ
biến nhất, là mối tương hòa của hai nguyên tắc cơ bản: quyền tự do được diễn
đạt trong di chúc và bảo vệ lợi ích gia đình. Một điều thực tế là, trong tất cả
các nhà nước khác, di chúc một mặt được coi như là tâm nguyện, mặt khác
được coi như là hành động ý chí của người viết chúc thư. Chính các hình thái
của bản di chúc đã được phân biệt mang tính nguyên tắc theo luật định của
các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, luật thừa kế cũng như luật gia đình, trong
một cấp độ rất lớn lao, có nhiều mối liên quan rất phức tạp đối với các truyền
thống dân tộc cũng như các phong tục, tập quán của nó và cũng bởi vì rất khó
khăn để đi tới thống nhất hóa.

8


Sự thừa kế theo luật định có một tầm quan trọng đặc biệt. Về cơ bản mà
nói; nó được thực hiện khi không có di chúc; trong trường hợp thừa nhận sự
vô hiệu của nó; sự phủ nhận của người thừa kế theo di chúc từ bản di chúc
được chấp nhận; trong trường hợp các di chúc về các phần tài sản thực tế mà
nói, ở tất cả các quốc gia vốn tồn tại một khái niệm về nghĩa vụ tất yếu, đó là
nguyên tắc tự do di chúc bị hạn chế nhằm có lợi cho các thành viên gia đình
của người thừa kế. Sự ban hành luật của nhiều nước khác nhau cũng khẳng
định khác nhau sự quay vòng của thừa kế theo luật định và vòng xoay tất yếu
của những người được hưởng thừa kế.

Ngoài ra, những sự khác nhau mang tính nguyên tắc vẫn tồn tại trong
vấn đề - thừa kế động sản và bất động sản. Trong luật của phần lớn các quốc
gia, các mức độ mang tính mệnh lệnh về quyền thừa kế bất động sản. Trong
luật của phần lớn các quốc gia, các mức độ mang tính mệnh lệnh về quyền
thừa kế bất động sản vẫn được xác lập một cách kiên định sự thừa kế tài sản
như thế được khẳng định bởi luật của Nhà nước về nơi xuất sinh của nó.
Trong luật thừa kế có khẳng định chế độ tài sản phụ thuộc vào những phạm
trù của riêng nó. Nhìn chung, nhiều nguyên tắc khác nhau được vận dụng để
khẳng định quyền được thừa nhận.
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công
dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm theo dõi và
bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa
với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do
đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán,
tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó khiến không ít người bỏ qua việc
bảo đảm quyền để lại di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho
những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải

9


nhờ đến cơ quan pháp luật phân xử hộ làm giảm sút mối quan hệ tình cảm
thân thuộc vốn có.
Một số nguyên tắc cơ bản của chế định thừa kế:
Nguyên tắc đầu tiên là nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền
thừa kế: Pháp luật thừa kế luôn tôn trọng ý chí của những người tham gia
trong quan hệ thừa kế. Nếu như người để lại di sản mà có để lại di chúc thì
việc phân chia di sản theo di chúc bao giờ cũng được ưu tiên giải quyết trước,
phần tài sản chia cho những người thừa kế cũng tùy thuộc vào di chúc mà
người chết để lại. Đó chính là sự tôn trọng ý chí của người để lại di sản. Và

ngược lại, những người thừa kế có quyền đồng ý nhận toàn bộ di sản được
thừa hưởng hoặc chỉ nhận một phần hoặc khước từ việc thừa hưởng di sản từ
người chết đó là sự tôn trọng ý chí của người thừa kế.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về quyền thừa kế:
Mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và mọi cá
nhân đều có quyền bình đẳng trong việc thừa hưởng tài sản theo di chúc tức là
bất kỳ cá nhân nào cũng được nhận tài sản theo ý chí của người chết. Còn sự
bình đẳng trong việc hưởng di sản là tất cả những người thừa kế theo quy định
của pháp luật đều có quyền hưởng phần tài sản bằng nhau.
Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở
thừa kế: Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản
giữa người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên
phải là người còn sống. Việc dịch chuyển di sản từ người chết này sang người
chết khác là không thực hiện được. Tiếp đó là việc người còn sống đó phải
còn sống ở thời điểm mở thừa kế, có thể người thừa kế đã chết nhưng khi mở
thừa kế thì ông ta còn sống hoặc đã chết hay mất tích nhưng chưa bị tuyên bố
là đã chết hoặc ngày tuyên bố người đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó

10


việc chuyển giao di sản cho ông ta vẫn được thực hiện và nó sẽ được tính vào
tài sản của người đó.
Người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại: Quyền
luôn luôn đi kèm với nghĩa vụ. Do đó những người thừa kế có quyền thừa
hưởng di sản để lại từ người chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, phần di
sản họ được hưởng có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau tùy theo ý chí của
người chết. Đồng thời họ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại, nghĩa vụ tài sản họ phải thực hiện sẽ tùy theo phần mà họ được hưởng.
Nếu người thừa kế khước từ hoặc không được nhận phần di sản để lại của

người chết thì họ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết.
Vấn đề pháp luật về thừa kế nhìn chung mỗi quốc gia có những quy
định riêng có khi là không giống nhau. Đặc biệt cùng với đó là quá trình hội
nhập càng ngày càng trở lên sâu rộng, khiến những quan hệ tư pháp liên quan
đến quan hệ thừa kế cũng càng ngày càng đa dạng, phức tạp.
Trong khoa học tư pháp quốc tế của các quốc gia, quan điểm chung cho
rằng các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài thuộc lĩnh vực quan hệ được
điều chỉnh bởi tư pháp quốc tế - * một ngành pháp luật đặc biệt được tách ra từ
lĩnh vực pháp luật dân sự theo nghĩa rộng.
Thực tiễn điều chỉnh của pháp luật các quốc gia cho thấy rằng chỉ bằng
các biện pháp của tư pháp quốc tế các quốc gia mới bảo vệ được tốt nhất lợi
ích chính đáng của các bên (cá nhân và pháp nhân của mình và của các quốc
gia khác) trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Và vì vậy thúc đẩy sự
phát triển hợp tác kinh tế, văn hoá với các quốc gia khác ở các cấp độ khác
nhau. Vì thế, nếu các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nào đó ở một
quốc gia nhất định mà chưa được điều chỉnh bởi các quy phạm tư pháp quốc
tế, thì quốc gia đó phải tìm cách khắc phục ngay.

11


Vấn đề đặt ra ở đây là các quan hệ đó có đặc điểm gì?
Thứ nhất, trong mối quan hệ đó có thể có một bên là quốc gia (hoặc các
chủ thể được phái sinh từ các quốc gia đó - các tổ chức quốc tế liên chính
phủ), còn phía bên kia là các cá nhân và pháp nhân. Sự khác biệt về mặt pháp
lý giữa các chủ thể tham gia trong quan hệ đó chính là ở chỗ quốc gia tham
gia với tư cách là chủ thể đặc biệt của các quan hệ pháp luật ấy. Tính đặc biệt
này cần được chú ý tới bởi quốc gia là chủ thể luôn luôn có chủ quyền. Chính
từ yếu tố chủ quyền đó đã hình thành nên nét đặc trưng riêng khác với các
quan hệ thừa kế thông thường - quyền miễn trừ tư pháp quốc tế của quốc gia.

Thứ hai, trong các mối quan hệ đó thường có các công dân và pháp
nhân của các quốc gia khác nhau. Đây là các mối quan hệ mang tính chất dân
sự. Các chủ thể tham gia trong các mối quan hệ này không có chủ quyền và vì
vậy, địa vị pháp lý của họ hoàn toàn bình đẳng với nhau. Về nguyên tắc,
quyền năng chủ thể của những chủ thể này phụ thuộc chủ yếu vào pháp luật
của quốc gia mà họ mang quốc tịch. Những quan hệ này đòi hỏi cần phải có
sự điều chỉnh pháp luật mang tính đặc trưng riêng cho những quan hệ đó.
Trong tư pháp quốc tế các vấn đề chủ yếu được đặt ra để giải quyết bao
gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của các thể nhân và pháp
nhân nước ngoài; các vấn đề về sở hữu của các thể nhân và pháp nhân nước
ngoài; các vấn đề trong lĩnh vực kinh tế-thương mại như quan hệ tài chính, tín
dụng, ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư ...; các vấn đề trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
(quyền tác giả và sở hữu công nghiệp ...); vận chuyển hàng hóa quốc tế; các
vấn đề về thừa kế, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; các vấn đề tố
tụng (toà án và trọng tài) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thể nhân
và pháp nhân nước ngoài v.v. Khoa học pháp lý xếp những quan hệ mang tính
tài sản và những quan hệ nhân thân không mang tính tài sản của các thể nhân

12


và pháp nhân là đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự theo nghĩa rộng. Ở
đây chúng ta thấy các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
và pháp luật dân sự theo nghĩa rộng không có yếu tố nước ngoài không phải là
đồng nhất. Tư pháp quốc tế không điều chỉnh tất cả các mối quan hệ mang
tính tài sản mà chỉ là những mối quan hệ mang tính tài sản có yếu tố nước
ngoài, trong đó có quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Cũng cần phải hiểu một cách đầy đủ rằng quan hệ thuộc đối tượng điều
chỉnh của tư pháp quốc tế là quan hệ cùng một lúc phải thỏa mãn hai điều
kiện là có tính quốc tế và phải là quan hệ dân sự theo nghĩa rộng.

Để xem xét vấn đề này trong pháp luật Việt Nam, trước hết cần xác
định thế nào là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài (?).
Theo đúng tên gọi của mình các quan hệ này có hai đặc điểm: 1- Đặc điểm là
các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, 2- Là các quan hệ có yếu tố nước ngoài.
Có hai vấn đề cần giải quyết ở đây là: Thế nào là các quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng (?), thế nào là các quan hệ có yếu tố nước ngoài (?).
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng
là các quan hệ mà ở đó các chủ thể bình đẳng với nhau trong việc thiết lập,
kết thúc quan hệ, tự định đoạt khi có tranh chấp phát sinh và trong quá trình
giải quyết tranh chấp. Các quan hệ này khác với các quan hệ thuộc lĩnh vực
hành chính và hình sự.
Các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài rõ ràng có các đặc điểm trên.
Vấn đề tiếp theo là yếu tố nước ngoài có ở các quan hệ trên, trong các
trường hợp nào (?). Hay nói một cách khác, khi nào có thể nói rằng các quan
hệ thừa kế đó là có yếu tố nước ngoài (?). Theo quan điểm phổ biến hiện nay,
các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là các quan hệ thừa kế có ít nhất

13


một trong ba yếu tố nước ngoài sau: yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể, yếu tố
nước ngoài về mặt khách thể, yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý.
Yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể được thể hiện trong trường hợp một
bên hoặc các bên có quốc tịch hoặc nơi cư trú ở nước ngoài (điều này không
phụ thuộc vào việc tài sản đối tượng của quan hệ hoặc sự kiện pháp lý làm
phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra ở đâu). Ví dụ, cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam cần phải giải quyết vụ việc thừa kế giữa công dân
Việt Nam hoặc với một công dân nước ngoài, hoặc với người không quốc
tịch, hoặc với công dân Việt Nam khác cư trú ở nước ngoài hoặc giữa công
dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, hoặc công dân Việt Nam cư trú

ở nước ngoài với công dân nước ngoài hoặc với người không quốc tịch hoặc
với công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài.
Yếu tố nước ngoài về mặt khách thể được thể hiện trong trường hợp khi
tài sản đối tượng của quan hệ thừa kế ở nước ngoài (điều này không phụ thuộc
vào việc các chủ thể là ai, cư trú ở đâu, hoặc sự kiện pháp lý làm pháp sinh,
thay đổi hay chấm dứt quan hệ xảy ra ở đâu). Ví dụ, toà án Việt Nam giải
quyết vụ tranh chấp về thừa kế đối với động sản ở nước ngoài giữa hai công
dân Việt Nam cùng cư trú ở Việt Nam (hoặc giữa các chủ thể trên với nhau).
Yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý được thể hiện khi sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt mối quan hệ thừa kế xảy ra ở
nước ngoài (điều này không phụ thuộc vào việc người để lại di sản và người
thừa kế di sản là ai, cư trú ở đâu, hoặc di sản thừa kế ở Việt Nam hay ở nước
ngoài). Ví dụ, toà án Việt Nam giải quyết một vụ thừa kế theo di chúc được
xác lập ở nước ngoài.
Trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nói riêng cũng như quan
hệ thừa kế nói chung, người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản do người

14


chết để lại: quyền luôn luôn đi kèm với nghĩa vụ. Do đó những người thừa kế
có quyền thừa hưởng di sản để lại từ người chết theo di chúc hoặc theo pháp
luật, phần di sản họ được hưởng có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau tùy
theo ý chí của người chết. Đồng thời họ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại, nghĩa vụ tài sản họ phải thực hiện sẽ tùy theo phần mà
họ được hưởng. Nếu người thừa kế khước từ hoặc không được nhận phần di
sản để lại của người chết thì họ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản
của người chết.
Vấn đề pháp luật về thừa kế nhìn chung mỗi quốc gia có những quy
định riêng có khi là không giống nhau. Đặc biệt cùng với đó là quá trình hội

nhập càng ngày càng trở lên sâu rộng, khiến những quan hệ tư pháp liên quan
đến quan hệ thừa kế cũng càng ngày càng đa dạng, phức tạp.
Trong điều kiện giao lưu và hợp tác quốc tế như hiện nay một số quan
hệ thừa kế vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật một quốc
gia. Đây cũng là một trong những chế định trong tư pháp quốc tế hay xảy ra
xung đột pháp luật.

1.1.2. Định nghĩa xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế liên quan tới hệ thống pháp
luật của hai hoặc nhiều quốc gia. Bởi vậy trong quá trình xác định thẩm
quyền và nghĩa vụ của các bên luôn luôn đặt ra một vấn đề - hệ thống pháp
luật của quốc gia nào trong số các hệ thống pháp luật có liên quan cần được
áp dụng để điều chỉnh. Ví dụ: khi giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế giữa
hai công dân Việt Nam với nhau, về một tài sản ở nước ngoài, vấn đề đặt ra ở
đây là áp dụng pháp luật Việt Nam (pháp luật của quốc gia mà hai công dân

15


trên có quốc tịch) hay pháp luật của quốc gia nơi có tài sản (đối tượng của vụ
tranh chấp ).
Tình hình như vậy cũng đặt ra khi xuất hiện các quan hệ trái vụ, hôn
nhân gia đình,... có yếu tố nước ngoài. Lịch sử tư pháp quốc tế cho thấy rằng,
ngay từ thế kỷ thứ V sau công nguyên các quan toà của quốc gia La Mã đã
từng giải quyết vấn đề lựa chọn pháp luật như vậy. Bởi thế, trong trường hợp
điều chỉnh các quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài bao giờ
cũng xuất hiện một tình huống mà người ta gọi là xung đột pháp luật. Do vậy,
xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài được hiểu là hiện tượng
pháp luật của hai, hay nhiều quốc gia cùng có thể được áp dụng để điều
chỉnh một mối quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.

Hiện tượng này xảy ra trong tri thức các quan toà, các nhà chức trách
có thẩm quyền và các bên tham gia quan hệ.
Đối với các quan toà, vấn đề xung đột pháp luật đặt ra, vì để xác định
quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên (trên cơ sở đó các tranh chấp sẽ được
giải quyết), các quan toà sẽ phải căn cứ vào một hệ thống pháp luật xác định
trong các hệ thống pháp luật có liên quan.
Ví dụ: một công dân Việt Nam kiện một công dân nước ngoài về việc
chia di sản thừa kế, song công dân nước ngoài bác đơn kiện với lý do di sản
thừa kế thuộc về mình trên cơ sở pháp luật của quốc gia mà công dân trên có
quốc tịch. Rõ ràng để giải quyết vụ kiện, các quan toà Việt Nam phải xác định
xem pháp luật Việt Nam hay pháp luật nước ngoài cần được áp dụng để giải
quyết.
Đối với các bên khi ký kết hợp đồng, khi thực hiện hợp đồng và khi
giải quyết tranh chấp, vấn đề đặt ra với họ cũng như vậy - quyền và nghĩa vụ
cụ thể cần căn cứ theo pháp luật của quốc gia nào?

16


1.1.3. Nguyên nhân xuất hiện xung đột pháp luật
Có hai nguyên nhân làm xuất hiện xung đột pháp luật về thừa kế có yếu
tố nước ngoài: 1) Pháp luật nội dung (hay còn gọi là pháp luật vật chất) về
thừa kế của các quốc gia hữu quan khác nhau; 2) Có sự phát triển các quan
hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài.
Đó là hai điều kiện cần và đủ để xuất hiện xung đột pháp luật. Nguyên
nhân thứ nhất luôn luôn tồn tại bởi vì pháp luật các quốc gia khác nhau luôn
được xây dựng không giống nhau. Ví dụ: trong lĩnh vực thừa kế, có quốc gia
quy định hai hàng thừa kế có quốc gia quy định ba hàng thừa kế; có quốc gia
quy định thừa kế thế vị có quốc gia không thừa nhận; các yêu cầu pháp luật về
hình thức và nội dung di chúc cũng có thể khác nhau.

Do vậy trong các trường hợp đó việc áp dụng pháp luật của quốc gia
này hay quốc gia khác sẽ cho các kết quả khác nhau. Cụ thể, nếu áp dụng
pháp luật quốc gia A thì công dân X được hưởng di sản thừa kế, nhưng nếu áp
dụng pháp luật quốc gia B thì công dân trên không được hưởng.
Nếu pháp luật dân sự của các quốc gia, về mặt nội dung giống nhau thì
vấn đề xung đột pháp luật không đặt ra vì tình huống pháp luật của hai hay
nhiều quốc gia cũng có thể điều chỉnh một mối quan hệ sẽ không làm phiền
lòng các quan toà, hoặc không làm các bên phải bận tâm (bởi áp dụng pháp
luật của quốc gia nào trong trường hợp đó đều cho một kết quả như vậy).
Điều này giải thích tại sao tư pháp quốc tế của Anh phát triển muộn hơn so
với tư pháp quốc tế của Pháp và Ý. Pháp là quốc gia đơn nhất về mặt cơ cấu,
tuy nhiên, các tỉnh của Pháp vào thế kỉ XVI có các tập quán pháp khác nhau.
Trong khi giải quyết các tranh chấp dân sự có liên quan tới ít nhất hai tỉnh,
các quan toà của Pháp tìm cách áp dụng các phạm trù của tư pháp quốc tế.

17


Trong khi đó ở Anh chỉ có một hệ thống pháp luật chung cho tất cả. Vì vậy,
nguyên nhân xung đột pháp luật bị triệt tiêu khi có các tranh chấp dân sự liên
quan tới hai hoặc nhiều tỉnh của Anh.
Khi mà các quan hệ mang tính chất dân sự chưa phát triển trong quan
hệ giữa các quốc gia, xung đột pháp luật xuất hiện như hiện tượng trong quan
hệ giữa các vùng lãnh thổ của một quốc gia. Và sau đó, hiện tượng ấy trở
thành hiện tượng xung đột pháp luật trong quan hệ quốc tế. Nguyên nhân thứ
hai là sự phát triển các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Ví dụ: việc
tranh chấp di sản thừa kế giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài;
tài sản của một vụ thừa kế ở nước ngoài…
Nếu có nguyên nhân thứ nhất mà không có nguyên nhân thứ hai cũng
không có xung đột pháp luật. Ví dụ, pháp luật về thừa kế của Việt Nam và

nước ngoài rất khác nhau về hàng thừa kế, về hình thức và nội dung di chúc,
nhưng các quan hệ thừa kế phát sinh không có yếu tố nước ngoài, thì rõ ràng
không xuất hiện tình trạng pháp luật của hai hay nhiều quốc gia (pháp luật
Việt Nam hay nước ngoài) cùng có thể điều chỉnh một mối quan hệ.
Vào thời Phong kiến, các quốc gia chủ yếu thực hiện chính sách kinh tế
tự cung, tự cấp, sự giao lưu dân sự khác cũng ít phát triển trong quan hệ giữa
các quốc gia, hiện tượng xung đột pháp luật không phát triển như một hiện
tượng thường xuyên. Tới thời kỳ tư bản chủ nghĩa-thời kỳ của sự phát triển
mạnh mẽ quan hệ thương mại trong phạm vi một quốc gia cũng như trên
phạm vi toàn thế giới, vấn đề xung đột pháp luật thường xuyên nảy sinh trước
các quan toà, các bên và, cuối cùng, các nhà làm luật.
Ngược lại, nếu chỉ có nguyên nhân thứ hai mà không có nguyên nhân
thứ nhất thì cũng không xuất hiện xung đột pháp. Ví dụ, có việc tranh chấp về
di sản thừa kế giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài, nhưng, giả

18


dụ, pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài đó đều quy định giống nhau
về hình thức cũng như nội dung di chúc, thì tình huống pháp luật của Việt
Nam hay pháp luật nước ngoài cần được áp dụng để điều chỉnh các vấn đề
trên không đặt ra trước các quan toà hoặc các bên, bởi khi đó áp dụng pháp
luật của bất kỳ quốc gia nào trong số quốc gia đó đều cho một kết quả giống
nhau. Tất nhiên, nguyên nhân thứ nhất bao giờ cũng tồn tại, bởi pháp luật các
quốc gia được hình thành trên nền tảng các truyền thống phong tục và các
điều kiện chính trị, kinh tế xã hội khác nhau. Bởi vậy, vấn đề khi nào xuất
hiện hiện tượng xung đột pháp luật chỉ còn phụ thuộc vào thời điểm xuất hiện
điều kiện thứ hai. Thời điểm này ở các quốc gia về từng vấn đề phụ thuộc vào
giai đoạn lịch sử chung của nhân loại, chính sách và các điều kiện khác nhau
của từng quốc gia. Vấn đề còn lại là các quốc gia giải quyết tình huống đó

(xung đột pháp luật) ra sao? Thực tiễn điều chỉnh pháp luật của các quốc gia
chứng minh rằng các quốc gia dù vô tình hay hữu ý cũng đều giải quyết vấn
đề theo những cách thức nhất định.

1.1.4. Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố
nước ngoài
Hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều quốc gia cùng có thể điều chỉnh
một mối quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài đặt ra vấn đề phải giải quyết sự
lựa chọn một trong số các hệ thống pháp luật trên. Đó là việc áp dụng hệ
thống pháp luật nào trong số hệ thống pháp luật có liên quan hoặc bộ phận
pháp luật khác thay thế cho cả các hệ thống ấy? Nếu không giải quyết hiện
tượng trên thì hoặc là các quan toà chỉ biết tới áp dụng pháp luật của mình (ví
dụ: như ở một số quốc gia không có tư pháp quốc tế phát triển), hoặc là từ

19


chối xét xử. Cách giải quyết như vậy sẽ trở nên kìm hãm sự phát triển các
quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài.
Vì thế hiện tượng xung đột pháp luật đã và đang được giải quyết theo
hướng tìm ra hệ thống pháp luật phù hợp với sự phát triển các quan hệ và bảo
vệ lợi ích chính đáng của các bên. Đó là việc áp dụng ba cách thức sau:
1) Áp dụng các quy phạm xung đột;
2) Áp dụng các quy phạm thực chất thống nhất;
3) Áp dụng nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự.
Cách thứ nhất: Áp dụng các quy phạm xung đột là cách thức thông
dụng hiện nay trên thế giới trong vấn đề giải quyết xung đột pháp luật. Cách
thức này cũng là cách thức truyền thống trong lĩnh vực tư pháp quốc tế.
Thông qua việc áp dung cách thức này các quy phạm xung đột trong lĩnh vực
tư pháp quốc tế được xây dựng.

Áp dụng các quy phạm xung đột (quy phạm do từng quốc gia đơn
phương xây dựng, hoặc quy phạm xung đột do các quốc gia thoả thuận xây
dựng trong các điều ước quốc tế, tập quán pháp quốc tế) sẽ tìm ra hệ thống
pháp luật cần thiết trong số các hệ thống pháp luật liên quan tới mối quan hệ
để giải quyết vụ việc. Và, như vậy, xung đột pháp luật được giải quyết.
Ví dụ, trong lĩnh vực quyền thừa kế có yếu tố nước ngoài, khi công dân
Việt Nam tranh chấp di sản thừa kế với công dân Nhật, vấn đề xung đột pháp
luật đặt ra ở đây là pháp luật của Việt Nam hay pháp luật của Nhật điều chỉnh
vấn đề phân chia di sản thừa kế. Để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật đó,
các quan toà Việt Nam sẽ áp dụng quy phạm xung đột về thừa kế có yếu tố
nước ngoài trong Bộ luật Dân sự của nước ta năm 2005 (giả dụ không có điều
ước quốc tế về vấn đề này).

20


Các quốc gia có thể ký kết các điều ước quốc tế để xây dưng các quy
phạm xung đột nhằm mục đích giải quyết xung đột pháp luật. Các quy phạm
xung đột như vậy được gọi là các quy phạm xung đột được thống nhất hoá.
Các quy phạm xung đột được thống nhất hoá không chỉ giải quyết đựơc xung
đột pháp luật mà còn giải quyết được hiện tượng xung đột của xung đột.
Hiện tượng xung đột của xung đột được hiểu là hiện tượng pháp luật
xung đột của hai hay nhiều quốc gia cũng có thể điều chỉnh một mối quan hệ
mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài.
Quy phạm xung đột như vậy là quy phạm xung đột được thống nhất
hoá vì nó được áp dụng để thay thế vị trí của quy phạm xung đột Việt Nam về
vấn đề trên.
Việc áp dụng các quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật
về thừa kế có yếu tố nước ngoài là phương thức phổ biến hiện nay trên thế
giới. Bởi phương thức này cho phép chúng ta giải quyết các vấn đề thừa kế có

yếu tố nước ngoài phù hợp với phong tục truyền thống của các quốc gia.
Cách thứ hai: Áp dụng quy phạm thực chất được thống nhất hoá. Các
quy phạm này được ghi nhận trong các điều ước quốc tế, vì vậy, chúng sẽ
thay thế cho các quy phạm thực chất tương ứng của các quốc gia hữu quan để
điều chỉnh mối quan hệ. Ví dụ: trong lĩnh vực bảo vệ quyền tác giả đối với
các tác phẩm văn học nghệ thuật, có quốc gia quy định thời hạn là 70 năm sau
khi tác giả chết, có quốc gia - thời hạn đó là 30 năm, trong khi đó Công ước
Bec Nơ 1886 quy định thời hạn đó là 50 năm. Như vậy trong trường hợp xuất
hiện xung đôt pháp luật về thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với các tác
phẩm văn học nghệ thuật, các quốc gia ký kết sẽ giải quyết theo cách áp dụng
thời hạn mà Công ước ấn định - 50 năm. Áp dụng quy phạm thực chất thống
nhất có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ không chỉ giải quyết được xung đột pháp

21


luật mà còn giải quyết được cả hiện tượng xung đột của xung đột (giống như
việc áp dụng quy phạm xung đột thống nhất hoá ).
Phương thức này ít được áp dụng trong lĩnh vực thừa kế có yếu tố nước
ngoài. Bởi vì việc giải quyết theo một mô hình thống nhất sẽ không thể phù
hợp với truyền thống phong tục khác nhau ở các quốc gia trong lĩnh vực này.
Cách thứ ba: Áp dụng nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội tương
tự. Trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, các nguyên tắc này được áp dụng theo
hướng lựa chọn hệ thống pháp luật nào có mối quan hệ mật thiết hơn cả với
mối quan hệ. Ví dụ: các quan toà của Pháp, khi điều chỉnh các quan hệ liên
quan tới quyền sở hữu đối với bất động sản ở nước ngoài, đã áp dụng nguyên
tắc nơi có tài sản để lựa chọn hệ thống pháp luật cần thiết mặc dù Bộ luật Dân
sự Pháp chỉ ghi nhận rằng các quan hệ sở hữu đối với bất động sản ở Pháp dù
thuộc người nước ngoài cũng được điều chỉnh theo pháp luật của Pháp. Như
vậy áp dụng theo cách đó đã xác định được hệ thống pháp luật phù hợp với

nguyên tắc lựa chọn pháp luật chung trong lĩnh vực quyền sở hữu - nguyên
tắc nơi có tài sản.
Áp dụng các quy phạm xung đột hoặc nguyên tắc điều chỉnh các quan
hệ xã hội tương tự (cách thứ nhất và cách thứ ba) có ưu điểm là xác định hệ
thống pháp luật phù hợp với truyền thống, phong tục và trình độ phát triển (ví
dụ: nguyên tắc quốc tịch hoặc nơi cư trú trong lĩnh vực thừa kế ...).
Tuy nhiên, cách thức này cũng có điểm hạn chế là khó xác định quyền
và nghĩa vụ cụ thể của các bên, bởi vì, các quan toà (hoặc các bên) phải thông
qua quy phạm xung đột mới xác định được hệ thống pháp luật cần thiết và
trên cơ sở hệ thống pháp luật đó, mới xác định được quyền và nghĩa vụ các
bên (đó là chưa kể tới các vấn đề khác phải giải quyết khi xác định hệ thống
pháp luật đó, như vấn đề điều bảo lưu trật tự công cộng, dẫn chiếu trở lại và

22


dẫn chiếu tới nước thứ ba...). Bởi vậy, cách thức này sẽ phát huy tác dụng
trong các lĩnh vực có liên quan mật thiết tới truyền thống phong tục của các
quốc gia.
Áp dụng các quy phạm thực chất thống nhất để giải quyết xung đột
pháp luật có ưu điểm nổi bật là dễ xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Ví
dụ, trong lĩnh vực bảo vệ quyền tác giả, các quốc gia cứ căn cứ theo thời hạn
quy định trong Công ước Bec nơ để tiến hành bảo vệ quyền tác giả mà không
cần phải chú ý tới các quy định của pháp luật các quốc gia hữu quan (kể cả
quy phạm thực chất cũng như quy phạm xung đột của quốc gia đó).
Tuy nhiên, áp dụng cách này cũng có nhược điểm là không phù hợp
với truyền thống phong tục của các quốc gia (khuôn mẫu chung khó có thể
phù hợp với truyền thống phong tục của hai quốc gia khác nhau...). Bởi vậy,
cách thức này sẽ thuận tiện trong các lĩnh vực ít liên quan tới truyền thống
phong tục (Ví dụ, trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, ngoại thương ...).


1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế yếu tố nƣớc ngoài
có ở một số nƣớc trên thế giới:
1.2.1. Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có
yếu tố nước ngoài ở một số nước trên thế giới:
Trên thế giới mỗi quốc gia vốn đã xây dựng cho mình hệ thống pháp
luật theo những tiêu chí riêng theo quan điểm riêng phù hợp với thể chế chính
trị của quốc gia mình. Vì vậy vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế
với từng quốc gia lại có sự lựa chọn và áp dụng khác nhau, điều này thể hiện
rõ ràng nhất tại quy phạm pháp luật xung đột quốc gia quy định trong Bộ luật
dân sự các nước.

23


a. Với pháp luật của Nhật Bản:
Nhật Bản là một quốc gia Châu Á cùng nhóm với một số nước như
Italia, Áo, Ba Lan, Anbani, Hungari, Liên bang Đức, Ai Cập…Các nước này
đều không phân định quyền thừa kế giữa động sản và bất động sản mà chủ
trương áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất. Việc thừa kế theo di chúc
quy phạm xung đột pháp luật lựa chọn hệ thuộc
\ Luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế.
\ Luật theo địa điểm nơi di chúc được lập.
\ Luật của nước nơi người để lại di chúc có quốc tịch tại thời điểm lập
di chúc hoặc tại thời điểm người này chết.
b. Với pháp luật của Pháp:
Luật của Pháp giống quy định của một số nước như Anh, Mỹ, Bỉ…quy
phạm pháp luật xung đột phân định theo loại di sản. Tức là di sản để lại là
động sản thì quy định lựa chọn pháp luật đối với hình thức và nội dung di
chúc, cũng như năng lực lập và hủy di chúc phải tuân theo pháp luật về người

(chủ yếu là pháp luật nơi cư trú của người để lại di sản). Đối với di sản là bất
động sản thì hệ thuộc luật được lựa chọn điều chỉnh là luật nơi có tài sản. Cụ
thể hơn theo Điều 999 Bộ luật Dân sự Pháp quy định Công dân Pháp đang ở
nước ngoài có thể lập di chúc bằng văn bản ký tứ theo quy định tại Điều 970
Bộ luật Dân sự Pháp hoặc bằng văn bản công chứng theo hình thức thường
dùng tại nơi người đó lập di chúc.
c. Với pháp luật của Hy Lạp:
Pháp luật của Hy Lạp cũng giống như của Bồ Đào Nha cùng quy định
theo hai tiêu chí là động sản và bất động sản nhưng với động sản hệ thuộc luật

24


được lựa chọn là nước mà người để lại di sản là công dân trước khi chết còn
với bất động sản thì hệ thống luật nơi có di sản thừa kế được áp dụng.
d. Với pháp luật của Nga:
Quyền thừa kế của những người nước ngoài ở Liên bang Nga và các
công dân Nga ở nước ngoài:
Quy tắc cơ bản của luật thừa kế ở Nga quy định tại Chương V Bộ luật
Dân sự Liên bang Nga. Trong luật của Nga quy định chế độ của Nhà nước đối
với những người thừa kế nước ngòai. Quy chuẩn này mang tính sắc lệnh và có
thể làm nền tảng cho những vấn đề khác. Tuy nhiên, trên thực tế chế độ Nhà
nước được thiết lập đều phù hợp với các thỏa hiệp quốc tế. Trên cơ sở chế độ
Nhà nước, các giải pháp khác được xem xét và quyết định. Trong bối cảnh
các quan hệ thừa kế, nguyên tắc của sự tham khảo các văn bản nước ngoài sẽ
được thực thi.
Quyền thừa kế đối với người nước ngoài ở Nga và các công dân Nga ở
nước ngoài chủ yếu được điều chỉnh theo hiến pháp cũng các điều ước khác
để hỗ trợ luật. Các tình huống thỏa thuận tay đôi của Liên bang Nga về việc
hỗ trợ luật nằm trong bối cảnh xung đột pháp luật quan hệ thừa kế. Theo đó:

- Các công dân, một mặt trong lĩnh vực thừa kế, hoàn toàn được bình
đẳng với các công dân khác, có nghĩa là đối với những người nước ngoài, khả
năng thừa kế vẫn phải tuân theo luật và chúc thư như các công dân khác; tài
sản thừa kế dành cho những người nước ngoài thừa kế vẫn phải tuân thủ các
điều kiện như đối với bất cứ ai; những người nước ngoài được sử dụng bình
đẳng khả năng pháp lý của di chúc trong quan hệ tài sản dành riêng cho
những người nước ngoài;
- Mức thuế trong lĩnh vực thừa kế đối với người nước ngoài được thực
hiện theo những điều kiện vẫn áp dụng cho mọi công dân nói chung;

25


×