Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.74 KB, 66 trang )

Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHOÁ HỌC : 2010-2014
Đề tài:
QUAN HỆ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1.1.1.1.1.1.1

Giảng viên hướng dẫn:
Ths Bùi Thị Mỹ Hương
Bộ môn: Luật thương mại

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Văn Kha
MSSV: 5105961
Lớp: LK1064A1-K36

Cần Thơ, tháng 12/2014

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 1

SVTH: Nguyễn Văn Kha



Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
ll

LỜI CẢM ƠN


Được học tập và hoạt động dưới mái trường Đại học Cần Thơ
là một niềm vinh hạnh rất lớn đối với tôi. Trong suốt quá trình
học tập đã gặp không ít gian nan và thách thức nhưng với sự giúp
đỡ của thầy cô và bạn bè tôi đã vượt qua được những rào cản
thách thức đó để trang bị hành trang bước vào tương lai. Thành
quả trong suốt quá trình rèn luyện của tôi dưới mái trường Đại
học ngày hôm nay được đúc kết bằng một luận văn tốt nghiệp,
đây là công trình nghiên cứu của bản thân, là tiêu chí để đánh giá
năng lực học tập của tôi dưới mái trường Đại học. Vì đây là lần
đầu nghiên cứu mặc dù đã cố gắng rất nhiều vẫn không thể tránh
khỏi những thiếu sót nên rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy, cô và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Nay tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy, cô Khoa Luật,
cố vấn học tập đã truyền đạt những kiến thức hữu ích cho em trên
giảng đường Đại học.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Bùi Thị Mỹ
Hương, người đã hướng dẫn tận tình, sửa chữa những khuyết
điểm và cho tôi nhiều lời khuyên bổ ích để tôi hoàn thành luận
văn tốt nghiệp của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, tháng 12 năm 2014
Nguyễn Văn Kha

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 2

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................


Cần thơ, ngày... tháng... Năm 2014

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 3

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU .........................................................................................................1
Lý do chọn đề tài .......................................................................................................2
Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................2
Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................2
Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................2
Kết cấu đề tài .............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI ...................................................................................................................... 3
1.1 Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế
có yếu tố nước ngoài ................................................................................................. 3
1.1.1 Giai đoạn pháp lệnh 1990 được ban hành đến trước ngày Bộ luật Dân sự 1995
có hiệu lực ............................................................................................................. .3
1.1.2 Giai đoạn Bộ luật Dân sự 1995 có hiệu lực đến trước ngày Bộ luật Dân sự
2005 có hiệu lực ..................................................................................................... 4
1.1.3 Giai đoạn Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực đến nay ....................................... 5
1.2 Khái niệm về thừa kế có yếu tố nước ngoài và các đặc trưng cơ bản .............. 6
1.2.1 Khái niệm về thừa kế có yếu tố nước ngoài ................................................... 6

1.2.2 Đặc trưng của quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài..................................... 8
1.2.2.1 Về chủ thể .............................................................................................. 8
12.2.2 Về khách thể.......................................................................................... 12
12.2.3 Về sự kiện pháp lý ................................................................................. 13
1.3 Xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài ...................................... 13
1.3.1 Định nghĩa xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài .................. 13
GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 4

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
1.3.2 Nguyên nhân của hiện tượng xung đột pháp luật ......................................... 14
1.3.3 Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài .... 14
1.4

Nguyên tắc chọn luật áp dụng cho quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài . 15

1.4.1 Nguyên tắc Luật quốc tịch .......................................................................... 15
1.4.2 Nguyên tắc Luật nơi cư trú.......................................................................... 16
1.4.3 Nguyên tắc Luật nơi có vật ......................................................................... 16
1.4.4 Nguyên tắc Luật Toà án .............................................................................. 17
1.4.5 Nguyên tắc Luật nơi thực hiện hành vi ........................................................ 17
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI ....................................................................................................... 18
2.1 Thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài ..................................................... 18
2.1.1 Về năng lực lập di chúc ................................................................................ 18
2.1.2 Về hình thức di chúc ................................................................................... 23

2.1.2.1 Di chúc bằng văn bản .......................................................................... 24
2.1.2.2 Di chúc miệng ...................................................................................... 29
2.1.3 Về nội dung di chúc .................................................................................... 32
2.1.4 Về hiệu lực di chúc ..................................................................................... 34
2.2 Thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài ................................................. 35
2.2.1 Những trường hợp thừa kế theo pháp luật Việt Nam ................................... 36
2.2.2 Diện thừa kế................................................................................................. 39
2.2.3 Hàng thừa kế ............................................................................................... 41
2.3 Thẩm quyền giải quyết quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài ...................... 44
2.3.1 Những trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án Việt Nam ....... 44
2.3.2 Những trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết cua Toà án Việt Nam
............................................................................................................................. 48

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 5

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUAN HỆ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM............... 50
3.1 Thực tiễn của pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài50
3.1.1 Về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài ngoài....................... 50
3.1.1.2 Hình thức di chúc .................................................................................. 50
3.1.1.2 Năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc .................................... 51
3.1.1.3 Người lập di chúc, di chúc miệng............................................................ 52
3.1.2 Về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài ............................. 53
3.1.2.1 Vấn đề chọn luật áp dụng ....................................................................... 53

3.1.2.2 vấn đề hàng thừa kế ................................................................................ 55
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
................................................................................................................................. 55
3.2.1 Về quan hệ thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài ................................ 55
3.2.2 Về quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài ............................. 57
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 6

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật về thừa kế đã có từ xa xưa và gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội
loài người. Tuy có những đặc thù riêng nhưng dân tộc nào, đất nước nào và từng con
người cụ thể nào đều chịu sự tác động của quan hệ thừa kế. Với ý nghĩa và tầm quan
trọng như vậy nên trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng là
một trong các chế định quan trọng trong pháp luật của mỗi quốc gia. Nó là cơ sở cho
việc duy trì tài sản giữa các thế hệ trong gia đình-xã hội và là hình thức pháp lý chủ
yếu bảo vệ quyền của công dân (quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế tài sản). Chính
vì thế, để hoàn thiện hơn pháp luật quốc gia cũng như vươn tầm ra thế giới pháp luật
thừa kế trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã không
ngừng phát triển và hoàn thiện chế định thừa kế để bảo vệ quyền lợi của công dân
mình.

Ngày nay, do quá trình giao lưu, hợp tác giữa các nước trên thế giới diễn ra mạnh
mẽ và đa dạng nên quan hệ thừa kế không chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc gia mà
đã vượt qua biên giới của một quốc gia- quan hệ đó là thừa kế có yếu tố nước ngoài.
về nguyên tắc các vấn đề nảy sinh trong lĩnh vực thừa kế ở phạm vi một quốc gia thì sẽ
do pháp luật quốc gia đó điều chỉnh. Thế nhưng, các hệ thống pháp luật của những
quốc gia khác nhau lại có những quy định khác nhau về thừa kế có yếu tố nước ngoài
hoặc có những qui định giống nhau nhưng cách giải thích khác nhau. Điều này dẫn đến
việc giải quyết về vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài gặp nhiều khó khăn và phức
tạp, chính các xung đột pháp luật đó đã tạo rào cản không nhỏ cho việc giao lưu hợp
tác giữa các nước. Để khắc phục yếu điểm đó pháp luật Việt Nam đã có những quy
định cụ thể về chế định thừa kế có yếu tố nước ngoài trong phần thứ bảy của Bộ luật
Dân sự 2005. Chừng bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ để điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu
tố nước ngoài vốn đa dạng và phức tạp. mặc khác cũng đã để lại không ít những vướng
mắc, những hạn chế nhất định trong thực tiễn áp dụng pháp luật về quan hệ thừa kế có
yếu tố nước ngoài. Điều này, đã ảnh hưởng ít nhiều đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, gây ra những bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng đồng
và xã hội. Đòi hỏi Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện hơn để đưa ra
các giải pháp nhằm giải quyết một cách triệt để hơn pháp luật về quan hệ thừa kế có
yếu tố nước ngoài là rất cần thiết. Với những lí do vừa nêu góp phần tạo thêm động lực
cho tôi chọn đề tài “Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp
luật Việt Nam”. Để nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 7

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam

2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã tìm hiểu và khai thác một số vấn
đề khái quát chung về thừa kế bao gồm thừa kế trong nước và thừa kế có yếu tố nước
ngoài, đưa ra các quy định chọn luật áp dụng của pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa
kế có yếu tố nước ngoài. Người viết cũng phân tích các quy định của pháp luật nước ta
về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, bao gồm thừa kế theo di chúc và thừa kế theo
pháp luật có yếu tố nước ngoài. Qua đó, người viết tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp
luật trong các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài và
nêu lên một số giải pháp hoàn thiện.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trong xu thế hội nhập và phát triễn toàn cầu như hiện nay, thì quan hệthừa kế có
yếu tố nước ngoài cũng từng bước hình thành và phát triển. Do đó việc nghiên cứu để
ngày một hoàn thiện pháp luật về thừa kế là điều hết sức cần thiết. Vì vậy, đề tài mà
tôi nghiên cứu nhằm mục tiêu giúp tôi hiểu sâu, hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật
về thừa kế có yếu tố nước ngoài. Việc nghiên cứu giúp người viết thấy những thiếu sót
trong các quy định của pháp luật và đưa ra một vài đề xuất nhằm hoàn thiện hơn pháp
luật nước nhà.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn, người viết đã vận dụng các
phương pháp phân tích, diễn dịch, so sánh…thu thập và rút gọn những thông tin trên
sách, báo, tạp chí…nhằm giới thiệu một cách khái quát nhất về đề tài nghiên cứu cũng
như làm rõ một cách sâu sắc nhất, chi tiết nhất đề tài nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Chương 3: Thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quan hệ thừa kế có yếu
tố nước ngoài tại Việt Nam.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 8

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

1.1 Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế có yếu tố
nước ngoài
Pháp luật Việt Nam quy định về thừa kế có yếu tố nước ngoài đã trải qua một
chặng đường phát triển. Dưới đây là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
- Pháp lệnh thừa kế 1990 ngày 30 tháng 8 năm 1990.
- Bộ luật dân sự 1995, được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995, có hiệu lực
ngày 01/7/1996.
- Bộ luật dân sự 2005, Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực thi hành từ
01/1/2006.
Đây là hệ thống những văn bản pháp luật điều chỉnh những quan hệ về thừa kế nói
chung và quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nói riêng. Những quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật này thể hiện một cách rỏ nét chặng đường pháp triển của
pháp luật nước ta trong việc điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
1.1.1 Giai đoạn pháp lệnh 1990 được ban hành đến trước ngày Bộ luật Dân sự
1995 có hiệu lực
Trước ngày 01/7/1996, các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ việc về thừa kế
có yếu tố nước ngoài được đề cập trong một số điều của Pháp lệnh thừa kế ngày
30/8/1990 và quyết định số 22/CP quyết định của chính phủ. Các quy định của hai văn
bản này đã xác định nguyên tắc chung của nhà nước Việt Nam là:

Tại Điều 37 Pháp lệnh 1990 quy định về quyền thửa kế của người nước ngoài như
sau:“Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền thừa kế của người
nước ngoài đối với tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam theo quy chế về người nước
ngoài tại Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận”.
Như vậy Pháp lệnh thừa kế 1990 đã xác định nguyên tắc chung là: Nhà nước Việt
Nam bảo đảm người nước ngoài được hưởng thừa kế đối với di sản thừa kế có trên
lãnh thổ Việt Nam để lại và việc thừa kế của công dân Việt Nam đối với tài sản ở nước
ngoài do người thân của họ để lại ở nước ngoài cũng được cho phép bảo hộ.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 9

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
Cho ta thấy Pháp lệnh 1990 còn thiếu những quy định chi tiết, nhất là những quy
phạm xung đột làm cơ sở để giải quyết những vụ việc cụ thể về thừa kế có yếu tố nước
ngoài. Nên trong thời gian này việc giải quyết các quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngoài gặp nhiều khó khăn.
1.1.2 Giai đoạn Bộ luật Dân sự 1995 có hiệu lực đến trước ngày Bộ luật Dân
sự 2005 có hiệu lực
Trước những thiếu sót của Pháp lệnh 1990 và đòi hỏi có những quan hệ thừa kế có
yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều hơn. Yêu cầu đặt ra là một hệ thống pháp luật điều
chỉnh vấn đề này chính xác hơn. Trước yêu cầu đó nhà nước ta đã ban hành BLDS (Bộ
luật Dân sự) 1995 (Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995). Chế định thừa kế nói chung
và thừa kế có yếu tố nước ngoài nói riêng được quy định rỏ hơn trong phần thứ tư và
một số điều khác của BLDS 1995.
- Tại khoản 3 và 4 Điều 15 BLDS 1995 quy định: “3. Bộ luật dân sự được áp

dụng đối với các quan hệ dân sự có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia tại
Việt Nam, trừ một số quan hệ dân sự mà pháp luật có quy định riêng; 4. Bộ luật dân
sự cũng được áp dụng đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ trường
hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác”.
- Tại Điều 826 BLDS 1995 cũng quy định rõ: “Trong Bộ luật này quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan hệ dân sự có người nước ngoài, pháp
nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát
sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài ”.
Theo những quy định nêu trên thì các điều khoản của BLDS 1995 liên quan đến
chế định thừa kế đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để áp dụng giải quyết các vụ việc về
thừa kế có yếu tố nước ngoài xảy ra. Nhà nước ta đã đảm bảo quyền bình đẳng về thừa
kế, mỗi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản
của mình cho người thừa kế theo pháp luật… đây là nguyên tắc chung trong lĩnh vực
thừa kế cũng được áp dụng đối với các trường hợp khi các quan hệ đó có yếu tố nước
ngoài và mặc nhiên có nghĩa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền
thừa kế của người nước ngoài đối với tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam.
So với Pháp lệnh 1990 thì BLDS1995 đã có hàng loạt các quy định về quan hệ
thừa kế có yếu tố nước ngoài như: (quan hệ về quyến sở hữu tài sản, hợp đồng dân sự,

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 10

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
quyền tác giả, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quyền sở hữu công nghiệp…)1.
Ngoài ra bộ luật còn chỉ ra nguyên tắc chung áp dụng điều ước quốc tế và pháp luật

nước ngoài để giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nhưng chế định thừa
kế có yếu tố nước ngoài còn để trống.
1.1.3 Giai đoạn Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực đến nay
Ngày 14/6/2005 BLDS (Bộ luật Dân sự) được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ
ngày 01/1/2006 thay thế BLDS 1995. Bộ luật này đã quy định quan hệ thừa kế có yếu
tố nước nước ngoài trong phần thứ bảy cụ thể hơn tại Điều 767 và 768: “Thừa kế theo
pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc
tịch trước khi chết; Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của
nước nơi có bất động sản đó; Di sản không có người thừa kế là bất động sản thuộc về
Nhà nước nơi có bất động sản đó; Di sản không có người thừa kế là động sản thuộc về
Nhà nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết. Năng lực lập di
chúc, thay đổi và huỷ bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà người lập di
chúc là công dân; Hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di
chúc”.
Điểm mới của BLDS 2005 là cụ thể hoá được nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Một điểm mới nữa của BLDS 2005
so với BLDS 1995 là quy định quy tắc chọn luật trong giải quyết tranh chấp về thừa kế
tương đối rõ ràng hệ thuộc luật được sử dụng trong pháp luật Việt Nam để giải quyết
tranh chấp về thừa kế là hệ thuộc luật quốc tịch. Bộ luật này cũng phân chia tài sản
thành hai loại là động sản và bất động sản là căn cứ hợp lý, chính xác để giải quyết
xung đột pháp luật.
Nhìn chung hệ thống pháp luật Việt Nam qua từng thời kì cũng đã từng bước được
hoàn thiện hơn nhưng với sự ra đời của BLDS 2005 là một bước tiến dài trong việc
xây dựng các quy phạm điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Bộ luật
này đã góp phần chám vào lỗ hỏng mà các văn bản pháp luật trước để lại, tạo thuận lợi
lớn trong việc giải quyết xung đột pháp luật.

1

Quy định ở các Điều từ 833 đến 838 Bộ luật Dân sự 1995.


GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 11

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
1.2 Khái niệm về thừa kế có yếu tố nước ngoài và các đặc trưng cơ bản
1.2.1 Khái niệm về thừa kế có yếu tố nước ngoài
Thừa kế chính là sự dịch chuyển tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân
người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng di sản thừa kế2. Theo đó, trong
quan hệ thừa kế có ít nhất hai chủ thể đó là chủ thể để lại di sản và chủ thể được hưởng
di sản. chủ thể hưởng thừa kế trở thành chủ sở hữu tài sản thừa kế.
Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống, do đó quan
hệ thừa kế phát sinh từ thời điểm người để lại di sản chết hoặc đã được toà án tuyên bố
là đã chết bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Bên cạnh đó, việc người thừa kế
không nhận phần di sản thừa kế không đủ để thanh toán nghĩa vụ của người để lại di
sản thì quan hệ thừa kế sẻ không phát sinh.
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình
cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Nên
thừa kế có hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Về nguyên tắc thì tất cả các quan hệ nảy sinh trong lĩnh vực thừa kế trong phạm vi
của quốc gia nào thì sẽ do pháp luật quốc gia đó điều chỉnh. Tuy nhiên, trong điều kiện
hội nhập, giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển như hiện nay thì có rất
nhiều quan hệ thừa kế phát sinh vượt ngoài phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật
trong nước. Đó là những quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật đưa ra khái niệm thế nào về thừa kế có yếu tố
nước ngoài mà chỉ quy định quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là một trong những

quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do đó, tại Điều 758 BLDS 2005 quy định:
“Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên
tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt
Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Từ việc quy định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Điều 758 của BLDS 2005.
Ta có thể thấy, quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài cũng được nhìn nhận như các
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

2

Phùng trung tập: Thừa kế theo pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2004,
trang 9.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 12

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
Vậy quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là các quan hệ thừa kế có ít nhất một
trong ba yếu tố nước ngoài sau: Yếu tố về mặt chủ thể, Yếu tố nước ngoài về mặt
khách thể, Yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý3. Yếu tố nước ngoài về mặt chủ
thể được thể hiện trong trường hợp một bên hoặc các bên có quốc tịch hoặc nơi cư trú
ở nước ngoài (điều này không phụ thuộc vào tài sản đối tượng của quan hệ hoặc sự
kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra ở đâu). Yếu tố nước
ngoài về mặt khách thể được thể hiện trong trường hợp khi tài sản đối tượng của quan

hệ thừa kế ở nước ngoài (điều này không phụ thuộc vào việc chủ thể là ai, cư trú ở đâu
hoặc sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra ở đâu). Yếu
tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý được thể hiện khi những căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ thừa kế đó theo pháp luật nước ngoài (điều này không phụ
thuộc vào việc chủ thể là ai, cư trú ở đâu hoặc di sản thừa kế ở Việt Nam hay ở nước
ngoài).
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài
như sau: quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là quan hệ mà trong đó có ít nhất một
trong các bên tham gia vào quan hệ đó là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc quan hệ thừa kế giữa các bên tham gia là
công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó
theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó (di sản thừa kế) ở nước ngoài.
1.2.2 Đặc trưng của quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài
1.2.2.1 Về chủ thể
Chủ thể là yếu tố cơ bản trong ba yếu tố góp phần quyết định quan hệ thừa kế là
một quan hệ thừa kế đơn thuần hay là một quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Pháp
luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận chủ thể của quan hệ thừa kế
có yếu tố nước ngoài bao gồm: cá nhân, pháp nhân, quốc gia.
Thứ nhất, Cá nhân: Thông qua dấu hiệu về quốc tịch và nơi cư trú cá nhân được
chia thành cá nhân trong nước (cá nhân Việt Nam) và người nước ngoài.
Công dân Việt Nam: Mỗi cá nhân đều gắn với một quốc gia nhất định về quyền và
nghĩa vụ, có những cá nhân sẽ mang nhiều quốc tịch có những cá nhân lại không mang
quốc tịch nào. Chủ thể có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định một quan hệ thừa kế
3

Phạm Thành Tài: giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật
Việt Nam trong mối tương quan so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới. luận văn Thạc sĩ ngành luật,
năm 2011.


GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 13

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
có nước ngoài hay không. Có thể nói quan hệ giữa những cá nhân (người để lại di sản,
người thừa kế) mang quốc tịch khác nhau cũng chính là quan hệ thừa kế có yếu tố
nước ngoài. Ở nước ta vấn đề quốc tịch được quy định trong luật quốc tịch được Quốc
hội khoá XII, kì họp thứ tư thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, trong đó quy định
tiêu chí xác định người có quốc tịch Việt Nam.
Để xác định một chủ thể có có phải là công dân Việt Nam hay không nước ta căn
cứ vào quốc tịch mà người đó được hưởng, “công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”4. Vấn đề đặt ra là người như thế nào
thì được hưởng quốc tịch Việt Nam? Mỗi cá nhân phải có những quyền và nghĩa vụ
nhất định với một quốc gia nhất định vì vậy việc hưởng quốc tịch nước nào là điều
quan trọng đối với mỗi cá nhân để mỗi người có được những quyền và lợi ích liên
quan đến quốc tịch ấy, cũng như thực hiện những nghĩa vụ liên quan. Ở Việt Nam,
quốc tịch của công dân Việt Nam được quy định rõ trong Luật quốc tịch 2008. Theo
đó một người có quốc tịch Việt Nam phải thuộc vào một trong các trường hợp sau đây:
Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là
công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh
thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là
người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có
quốc tịch Việt Nam. Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn
người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận
bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con. Trường hợp trẻ em
được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn

quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ
Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi
thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt
Nam mà khi sinh ra có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt
Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em
được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì có quốc tịch Việt
Nam5.
Người Việt Nam khi muốn tham gia vào quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa
kế nói riêng thì cá nhân đó phải có tư cách chủ thể (năng lực pháp luật và năng lực
hành vi) của người đó. Theo khoản 1 Điều 14 BLDS 2005 quy định: “Năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
4
5

Khoản 1 Điều 17 Hiến pháp 2013
Điều 15,16,17 và khoản 1 điều 18 Luật quốc tịch 2008.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 14

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau”. Ngoài năng lực pháp luật
BLDS 2005 cũng đề cập đến, Điều 17 Năng lực hành vi dân sự của cá nhân: “Năng
lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác
lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Đáp ứng được nhu cầu về tư cách chủ thể theo
BLDS 2005 công dân Việt Nam có dủ tư cách tham gia vào quan hệ thừa kế trong tư

pháp quốc tế”.
Người nước ngoài: Người nước ngoài là một trong những chủ thể cơ bản của tư
pháp quốc tế nói chung và quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nói riêng. Do đó,
thuật ngữ người nước ngoài được sử dụng rộng rãi trong pháp luật của các nước trên
thế giới. hầu hết các nước đều lấy dấu hiệu quốc tịch làm căn cứ để định nghĩa người
nước ngoài.
Theo pháp luật Việt Nam, tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 138/2006/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành các quy định của BLDS 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài thì: “người nước ngoài là người không quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có
quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch”. Ngoài ra, theo khoản 1 và 2 Điều 3
Luật quốc tịch 2008 cũng quy định: “Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước
khác không phải là quốc tịch Việt Nam. Người không quốc tịch là người không có
quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài”. Phân tích những điều
luật trên ta có thể hiểu quy định của pháp luật Việt Nam về người nước ngoài như sau:
người nước ngoài là người người không có quốc tịch Việt Nam, họ có thể là người có
quốc tịch của một nước khác, một vài nước khác hoặc không mang quốc tịch của một
nước nào.
Về vấn đề xác định năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của
người nước ngoài, pháp luật Việt Nam quy định tại Điều 761 BLDS 2005: “Năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của
nước mà người đó có quốc tịch. Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại
Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quy định khác”.
Điều 762, Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài: “Năng lực
hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của
nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có quy định khác. Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện
các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài
được xác định theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tuy nhiên cũng
GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 15

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
như công dân Việt Nam, khi người nước ngoài tham gia vào quan hệ thừa kế có yếu tố
nước ngoài thì không đòi hỏi người đó phải có năng lực chủ thể đầy đủ. Do đó, khi
người nước ngoài tham gia vào quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài thì chúng ta
không cần xét đến năng lực chủ thể của họ.
Thứ hai, Pháp nhân: ngoài cá nhân được pháp luật các nước quy định có tư cách
chủ thể trong tư pháp quốc tế nói chung và thừa kế có yếu tố nước ngoài nói riêng thì
pháp nhân là tổ chức của con người, được pháp luật nhà nước quy định có quyền năng
chủ thể. Cũng như thể nhân, pháp nhân cũng được chia thành pháp nhân Việt Nam và
pháp nhân nước ngoài.
Pháp nhân Việt Nam: Như đã nói trên pháp nhân là một tổ chức của con người,
pháp nhân được pháp luật nhà nước quy định có quyền năng chủ thể tuy nhiên không
phải bất kỳ tổ chức nào cũng được công nhận có tư cách chủ thể6. Theo quy định của
BLDS 2005 thì tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng đủ các điều kiện
sau: Được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá
nhân tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, nhân danh mình tham gia
vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập7.
Môt tổ chức có đầy đủ các điều kiện nêu trên sẽ đương nhiên trở thành pháp nhân
hợp pháp thế nhưng để có thể tham gia quan hệ thừa kế trong tư pháp quốc tế thì pháp
nhân ấy phải có năng lực pháp luật dân sự, Điều 86 BLDS 2005 quy định: “Năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ
dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình. Năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập và chấm dứt từ thời điểm
chấm dứt pháp nhân”. Nói cách khác, năng lực pháp luật dân sự, điều kiện và thủ tục

thành lập, hợp nhất, sát nhập, chia, tách, giải thể pháp nhân thanh lý tài sản sau khi giải
thể pháp nhân do pháp luật Việt Nam quy định. Các pháp nhân Việt Nam trong tư
pháp quốc tế bất kể dù hoạt động trong nước hay ngoài nước điều tự chịu trách nhiệm
dân sự trong phạm vi tài sản của mình, nhà nước Việt Nam chỉ bảo hộ về mặt ngoại
giao đối với quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân.
Pháp nhân nước ngoài: Thông thường pháp nhân phải mang quốc tịch của một
nước nhất định và được tổ chức, hoạt động theo pháp luật của nước mà pháp nhân đó
mang quốc tịch, khi hoạt động với tư cách là pháp nhân nước ngoài ở nước nào đó,
năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân trên lãnh thổ nước sở tại tuỳ thuộc vào quy
6
7

Giáo trình tư pháp quốc tế Đại học luật Hà Nội-NXB Tư pháp, trang 95.
Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 16

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
định của pháp luật sở tại. Tuy nhiên, những vấn đề về tổ chức nội bộ, giải thể thanh lý
tài sản khi giải thể vẫn phải tuân thủ theo pháp luật mà pháp nhân đó mang quốc tịch.
Như vậy cùng một lúc pháp nhân nước ngoài phải tuân theo hai hệ thống pháp luật là
pháp luật của nước sở tại và pháp luật của nước mà pháp nhân đó mang quốc tịch.
Còn tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 5 Điều 2 Nghị định 138/2006/NĐ-CP
thì: “pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước ngoài”.
Việc áp dụng pháp luật để xác định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước

ngoài tuân theo quy định tại Điều 765 BLDS 2005 quy định: “Năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân
đó được thành lập, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Trong trường hợp
pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng
lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác định theo pháp luật Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. Lúc này năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài
được xác định như pháp nhân trong nước và được xác định theo Điều 86 BLDS 2005.
Cũng mang đặc điểm chung của hầu hết pháp luật của các nước, Việt Nam cũng căn
cứ vào hai hệ thuộc để xác định năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài: hệ
thuộc luật quốc tịch của nước nơi pháp nhân đăng ký thành lập và hệ thuộc nơi thực
hiện hành vi.
Thứ ba, Quốc gia chủ thể đặc biệt trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Quốc gia là một chủ thể đặc biệt tham gia vào quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài,
khi tham gia vào bất cứ quan hệ dân sự nào trong tư pháp quốc tế thì quốc gia đều
được hưởng quy chế pháp lý đặc biệt. Một chủ thể chỉ được gọi là quốc gia khi đáp
ứng đủ các điều kiện sau: lãnh thổ, dân cư và chính quyền. Chính vì vậy, quốc gia này
hoặc cơ quan có thẩm quyền bất kỳ không có quyền xét xử quốc gia khác nếu bỏ qua
nguyên tắc này sẽ dẫn đến tình trạnh chà đạp chủ quyền xúc phạm danh dự và phẩm
giá của quốc gia. Nói đến quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia trong tư pháp quốc tế
tức là nói đến quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia quyền này bao gồm các
quyền sau:
Quyền miễn trừ xét xử: không có bất kỳ toà án nào có quyền xét xử quốc gia đồng
thời cá nhân và tổ chức cũng không có quyền gửi đơn kiện quốc gia nếu quốc gia
không tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ xét xử của mình trong trường hợp các tranh chấp
giữa cá nhân hay tổ chức với quốc gia đều được giải quyết bằng con đường ngoại giao,
thương lượng.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 17


SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
Quyền được miễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế đảm bảo sơ bộ đối với đơn
kiện hoặc bảo đảm thi hành phán quyết của toà án nước ngoài: Toà án nước ngoài chỉ
được phép áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó trong trường hợp quốc gia cho phép,
ta có thể hiểu một cách gián tiếp là tài sản của quốc gia cũng được hưởng quyền bất
khả xâm phạm.
Quốc gia có quyền đứng tên nguyên đơn trong vụ tranh chấp với cá nhân cũng như
pháp nhân nước ngoài: trong tình huống đó Toà án nước ngoài được phép giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên bị đơn là cá nhân, pháp nhân nước ngoài chỉ được phép phản
kiện khi quốc gia đồng ý.
Quốc gia là một chủ thể rất đặc biệt trong quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngoài nói chung và trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nói riêng, thế
nhưng trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện chưa có quy định đề cập vấn đề này.
1.2.2.2 Về khách thể
Ngoài các chủ thể được nêu ở phần trên thì khách thể của quan hệ thừa kế là một
yếu tố xác định quan hệ có thể là quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài hay không?
Điều 758 BLDS 2005 quy định “quan hệ dân sự có tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngoài thì đó là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”. Điều 163 BLDS 2005 quy
định tài sản bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Điều 181 BLDS
2005 cũng quy định: “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển
giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Trong quan hệ thừa kế tài sản
chính là di sản thừa kế, di sản bao gồm: “tài sản riêng của người chết, phần tài sản
của người chết trong tài sản chung với người khác” (Điều 634 BLDS 2005). Qua đó ta
thấy di sản thừa kế có mối quan hệ với quyền sở hữu, quyền sở hữu tài sản của cá nhân
là cơ sở chủ yếu dể xác định được di sản thừa kế.
Để điều chỉnh những tranh chấp xung quanh vấn đề di sản có yếu tố nước ngoài,

pháp luật các nước chủ yếu dựa vào các quy phạm xung đột. Đa số các quy phạm xung
đột pháp luật của các nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam đều xây dựng dựa vào
hệ thuộc luật nơi có vật. Theo khoản 1 Điều 766 BLDS 2005 quy định: “Việc xác lập,
thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài
sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp quy định
tại khoản 2 và khoản 4 Điều này”. Tài sản có thể được chia thành nhiều loại như tài
sản hữu hình, tài sản vô hình tuy nhiên trong quan hệ thừa kế hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều chia tài sản thành hai loại: động sản và bất động sản. Việc phân biệt tài

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 18

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài
sản điều này được quy định tại Điều 766 BLDS 2005.
1.2.2.3 Về sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là việc căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ thừa kế theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Ví dụ: Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế xảy ra ở nước ngoài: người
Việt Nam thường trú ở nước ngoài chết ở nước ngoài và để lại di sản ở Việt Nam hoặc
người nước ngoài thường trú ở Việt Nam chết ở Việt Nam và để lại di sản thừa kế ở
nước ngoài.
1.3 Xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài
1.3.1 Định nghĩa xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài
Mối quan hệ xã hội do tư pháp quốc tế điều chỉnh vượt ra ngoài phạm vi không

gian hiệu lực pháp luật của một quốc gia và liên quan đến ít nhất là từ hai quốc gia trở
lên, đến ít nhất hai hệ thống pháp luật. Trong trường hợp điều chỉnh các quan hệ xã hội
có yếu tố nước ngoài bao giờ cũng xuất hiện hiện tượng mà người ta gọi là xung đột
pháp luật. Trong tư pháp quốc tế hiện tượng xung đột pháp luật là hiện tượng pháp luật
của hai hay nhiều quốc gia khác nhau cùng có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ
xã hội có yếu tố nước ngoài.
Vậy từ hai quan điểm trên ta có thể định nghĩa xung đột pháp luật về thừa kế có
yếu tố nước ngoài như sau: “xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài là
hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều quốc gia khác nhau cùng có thể áp dụng để
điều chỉnh một quan hệ về thừa kế có yếu tố nước ngoài”.
1.3.2 Nguyên nhân của hiện tượng xung đột pháp luật
Có hai nguyên nhân làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật về thừa kế có yếu
tố nước ngoài.
- Pháp luật về nội dung, đó là cùng một mối quan hệ về thừa kế nhưng pháp luật
của hai hay nhiều quốc gia quy định khác nhau.
- Pháp luật về mặt hình thức, cũng là mối quan hệ về thừa kế phần nội dung pháp
luật của các nước giống nhau nhưng cách giải thích và áp dụng khác nhau.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 19

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
Vấn đề đặt ra ở đây thì pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để làm cơ sở xác định
quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như hình thức và biện pháp chế tài đối với bên
đương sự có hành vi vi phạm pháp luật.
1.3.3 Cách thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước

ngoài
Hiện tượng xung đột pháp luật đã và đang dược giải quyết theo hướng tìm ra hệ
thống pháp luật phù hợp với sự phát triển các quan hệ và bảo vệ lợi ích chính đáng của
các bên. Đó là việc áp dụng ba cách thức sau:
Cách thứ nhất: áp dụng các quy phạm xung đột là cách thức thông dụng hiện nay
trên thế giới trong vấn đề giải quyết xung đột pháp luật. Cách thức này cũng là cách
thức truyền thống trong lĩnh vực tư pháp quốc tế. Thông qua việc áp dụng cách thức
này các quy phạm xung đột trong lĩnh vực tư pháp quốc tế được xây dựng. Áp dụng
các quy phạm xung đột (quy phạm do từng quốc gia đơn phương xây dựng, hoặc quy
phạm xung đột do các quốc gia thoả thuận xây dựng trong các điều ước quốc tế, tập
quán quốc tế) sẽ tìm ra hệ thống pháp luật cần thiết trong số các hệ thống pháp luật
liên quan tới mối quan hệ ðể giải quyết vụ việc. Và nhý vậy, xung ðột pháp luật ðýợc
giải quyết. Các quốc gia có thể ký kết các điều ước quốc tế để xây dựng các quy phạm
xung đột nhằm mục đích giải quyết xung đột pháp luật. Các quy phạm xung đột như
vậy được gọi là các quy phạm xung đột được thống nhất hoá. Các quy phạm xung đột
được thống nhất hoá không chỉ giải quyết được xung đột pháp luật mà còn giải quyết
được hiện tượng xung đột của xung đột.
Cách thứ hai: áp dụng quy phạm thực chất được thống nhất hoá. Các quy phạm
này được ghi nhận trong các điều ước quốc tế, vì vậy, chúng sẽ thay thế cho các quy
phạm thực chất tương ứng của các quốc gia hữu quan để điều chỉnh mối quan hệ. Áp
dụng quy phạm thực chất thống nhất có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ không chỉ giải
quyết được xung đột pháp luật mà còn giải quyết được hiện tượng xung đột của xung
đột (giống như việc áp dụng quy phạm thống nhất hoá).
Cách thứ ba: áp dụng nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự. Trong
lĩnh vực tư pháp quốc tế, các nguyên tắc này được áp dụng theo hướng lựa chọn hệ
thống pháp luật nào có mối quan hệ mật thiết hơn cả mối quan hệ. Áp dụng các quy
phạm xung đột hoặc nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự (cách thứ nhất
và cách thứ ba) có ưu điểm là xác định hệ thống pháp luật phù hợp với truyền thống,
phong tục và trình độ phát triển (ví dụ: nguyên tắc quốc tịch hoặc nơi cư trú trong lĩnh
vực thừa kế..).

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 20

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
1.4 Nguyên tắc chọn luật áp dụng quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài
Trong tư pháp quốc tế, khi chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài, chúng ta sẽ chọn hệ thống pháp luật có quan hệ mật thiết với loại quan hệ
cần giải quyết. Cụ thể ở đây là hệ thống pháp luật có quan hệ gắn bó với những vấn đề
của thừa kế có yếu tố nước ngoài. Thông thường, việc định hình hệ thống pháp luật có
quan hệ mật thiết với loại quan hệ cần điều chỉnh khá dễ dàng, ví dụ: pháp luật có
quan hệ mật thiết với tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng thường là pháp
luật nơi thực hiện hợp đồng.
Tuy vậy, trong lĩnh vực mà chúng ta đang đề cập việc định hình hệ thống pháp luật
có quan hệ mật thiết với những vấn đề của thừa kế có yếu tố nước ngoài lại khá phức
tạp, vì những vấn đề này có thể liên quan đến một vài hệ thống pháp luật khác nhau.
Khi chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh, chúng ta không nên bỏ qua các yếu tố sau
của quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
1.4.1 Nguyên tắc luật quốc tịch
Hệ thuộc luật quốc tịch được hiểu là luật của nước mà đương sự là công dân. Nó là
một dạng của hệ thuộc luật nhân thân. Trong quan hệ thừa kế thì hệ thuộc luật quốc
tịch chỉ áp dụng trong trường hợp thừa kế tài sản là động sản. Theo đó, khi một quan
hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài phát sinh giữa công dân nước nào thì pháp luật của
nước đó sẻ được đưa ra áp dụng để điều chỉnh. Như vậy, đặc điểm của nguyên tắc này
phải xác định được quốc tịch của công dân trong quan hệ thừa kế. Ở Việt Nam nguyên
tắc luật quốc tịch được ghi nhận trong một số văn bản, trong đó có một số quan hệ
thừa kế như: “Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để

lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết. Năng lực lập di chúc, thay đổi và huỷ bỏ
di chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân”8. Tóm
lại, nguyên tắc luật quốc tịch nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của công dân mình
không phụ thuộc vào nơi cư trú của công dân.
1.4.2 Nguyên tắc luật nơi cư trú
Đây cũng là một dạng của hệ thuộc luật nhân thân. Theo đó, hệ thuộc luật nơi cư
trú cũng là luật mà đương sự cư trú. Khi xét về mặt nội dung nơi cư trú trong luật của
các nước hoàn toàn không giống nhau, tùy điều kiện từng nước và tuỳ từng trường hợp

8

Điều 768 và 769 Bộ luật Dân sự 2005.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 21

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
cụ thể có thể luật nơi cư trú là luật nơi cư trú cuối cùng hoặc nơi cư trú cuối cùng của
đương sự.9
Đối với Việt Nam, ngoài việc áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch thì nguyên tắc luật
nơi cư trú cũng được pháp luật quy định trong một số trường hợp như người để lại di
sản không quốc tịch hoặc có hai hay nhiều quốc tịch. Tức khi các vấn đề về quan hệ
thừa kế có yếu tố nước ngoài phát sinh mà nguyên tắc luật quốc tịch không thể xác
định được hệ thống pháp luật nào được áp dụng để giải quyết vấn đề này thì ta sẽ áp
dụng nguyên tắc luật nơi cư trú để xác định pháp luật nước nào được áp dụng để giải
quyết quan hệ đó. Theo khoản 1, 2 Điều 760 BLDS 2005 “pháp luật áp dụng đối với

người không quốc tịch là pháp luật của nước nơi người đó cư trú; pháp luật áp dụng
đối với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài là pháp luật của nước
mà người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự; nếu người
đó không cư trú tại một trong các nước mà người đó có quốc tịch thì áp dụng pháp
luật của nước mà người đó có quộc tịch và có quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa
vụ công dân”.
1.4.3 Nguyên tắc luật nơi có vật
Theo nguyên tắc luật nơi có vật (tài sản) vật ở nước nào thì áp dung pháp luật ở
nước đó để giải quyết. Trong quan hệ thừa kế thì hệ thuộc luật nơi có vật được áp dụng
để giải quyết về thừa kế tài sản là bất động sản. Như vậy, theo nguyên tắc này thì việc
giải quyết thừa kế là bất động sản, phải căn cứ vào luật của nước nơi có bất động sản
đó. Pháp luật Việt Nam quy định, “quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo
pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”10. Bên cạnh đó hệ thuộc Luật nơi có vật
cũng áp dụng cả trong trường hợp thừa kế bất động sản mà không có người hưởng
thừa kế. Nhìn chung, trong trường hợp này các nước thường quy định tài sản đó thuộc
sở hữu Nhà nước.
Ngoài ra, nguyên tắc hệ thuộc Luật nơi có vật được áp dụng để định danh tài sản.
Trong quan hệ thừa kế việc định danh tài sản rất quan trọng, khi xác định được tài sản
đó là động sản hay bất động sản thì việc áp dụng pháp luật sẽ được dễ dàng hơn. Do
đó, trong trường hợp định danh tài sản pháp luật Việt Nam quy định: “việc phân định
tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có

9

Diệp Ngọc Dũng-Cao Nhất Linh: Tập bài giảng tư pháp quốc tế, Khoa Luật-Đại học Cần Thơ, năm 2002, trang
20.
10
Khoản 2 điều, 767, Bộ luật Dân sự 2005.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 22

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
tài sản”11. Tóm lại, nguyên tắc hệ thuộc Luật nơi có vật áp dụng trong quan hệ thừa kế
tài sản bất động sản bảo vệ được lợi ích của công dân mình và tài sản của đất nước.
1.4.4 Nguyên tắc luật toà án
Hệ thuộc Luật Toà án là luật của nước nơi toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc.
Theo đó, khi Toà án của một nước nào thụ lý giải quyết thì toà án đó sử dụng chính
luật của nước mình để áp dụng. Như vậy, nếu Toà án Việt Nam thụ lý thì Toà án sẽ áp
dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết. Tuy nhiên, cũng có một số ngoại lệ không áp
dung nguyên tắc Luật Toà án: Khi các hiệp định quốc tế và luật trong nước có quy
định rằng có thể áp dụng hình thức tố tụng nước ngoài. Khi luật trong nước có quy
định năng lực hành vi tố tụng của những người trong các vụ án dân sự hoặc có thể xác
định theo Luật toà án hoặc có thể xác định theo Luật nhân thân12. Nhìn chung, trong
pháp luật các nước đều ghi nhận nguyên tắc này. Đây là nguyên tắc được sử dụng phổ
biến nhất trong việc giải quyết những vấn đề về tố tụng.
1.4.5 Nguyên tắc Luật nơi thực hiện hành vi
Nguyên tắc Luật nơi thực hiện hành vi được hiểu là hành vi thực hiện ở nước nào
sẽ được điều chỉnh theo pháp luật của nước đó. Trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngoài thì nguyên tắc luật nơi thực hiện hành vi thường được áp dụng để điều chỉnh về
thừa kế theo di chúc. Theo pháp luật Việt Nam quy định: hình thức của di chúc phải
tuân theo pháp luật nước nơi lập di chúc13. Như vậy, nếu di chúc lập tại Việt Nam thì
phải tuân theo pháp luật Việt Nam về hình thức của di chúc đó. Nhìn chung, việc áp
dụng hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi tạo điều kiện cho các nước có di chúc được
lập dễ dàng trong việc xác định tính hợp pháp của hình thức di chúc.
Trên đây là những nguyên tắc chọn luật điều chỉnh cơ bản trong quan hệ thừa kế

có yếu tố nước ngoài, mỗi nguyên tắc điều có quy định riêng về cách chọn luật nhưng
tất cả điều có quan hệ với nhau tạo cơ sở cho việc giải quyết xung đột về thửa kế giữa
các quốc gia với nhau.

11

khoản 3 điều 766 Bộ luật Dân sự 2005
Diệp Ngọc Dũng-Cao Nhất Linh: Tập bài giảng tư pháp quốc tế, Khoa Luật-Đại học Cần Thơ, năm 2002,
trang 22.
13
Khoản 2 điều 768, Bộ luật Dân sự 2005.
12

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 23

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

2.1 Thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết14. Một di chúc hợp pháp đúng các quy định hiện hành đồng thời thoả
mãn được ý chí, nguyện vọng của người để lại di chúc, tránh những phát sinh, tranh
chấp về sau thì di chúc đó phải tuân theo khuôn khổ pháp luật của một nước. Ở Việt

Nam, việc lập di chúc để lại tài sản cho một người khác (cá nhân việt nam hoặc người
nước ngoài) thì di chúc đó phải được pháp luật Việt Nam công nhận là hợp pháp về
năng lực lập di chúc, nội dung di chúc và hình thức di chúc. Theo đó, một di chúc
được xem là hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện sau: Người lập di chúc minh mẫn,
sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép; Nội dung di
chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của
pháp luật; Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải
được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý; Di chúc
của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm
chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.Di chúc bằng văn bản
không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện
được quy định tại khoản 1 Điều này. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm
chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì
di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực15.
Đáp ứng được các yêu cầu cơ bản trên về di chúc thì di chúc đó được xem là hợp
pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Để có một cách hiểu chi tiết hơn chúng ta sẽ đi vào phân
tích các quy định của pháp luật Việt Nam đối với vấn đề thừa kế theo di chúc.
2.1.1 Về năng lực lập di chúc
Tại Việt Nam, việc chọn luật áp dụng để xác định năng lực hành vi lập, hủy bỏ di
chúc, sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc được quy định tại khoản 1 Điều 768 BLDS
14
15

Điều 646, Bộ luật Dân sự 2005.
Điều 652, Bộ luật Dân sự 2005.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương


Trang 24

SVTH: Nguyễn Văn Kha


Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
2005: “ Năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của
nước mà người lập di chúc là công dân”. Nghị định 138/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
cũng đã hướng dẫn tại khoản 1 Điều 13: “Năng lực lập, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ
bỏ di chúc được xác định theo pháp luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch”.
Trong trường hợp người lập di chúc không có quốc tịch hoặc có hai hay nhiều quốc
tịch nước ngoài thì việc xác định pháp luật áp dụng về thừa kế theo di chúc tuân theo
quy định tại Điều 760 của Bộ luật dân sự và Nghị định này.
Như vậy, để giải quyết xung đột pháp luật về năng lực lập, thay đổi và hủy bỏ di
chúc, Việt Nam áp dụng pháp luật của nước mà người lập di chúc là công dân. Pháp
luật Việt Nam sẽ được áp dụng để xác định năng lực chủ thể khi công dân Việt Nam
lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc, định đoạt di sản thừa kế, bất kể di sản thừa kế là động
sản hay bất động sản. Ngược lại pháp luật Việt Nam sẽ không được áp dụng đối với
việc xác định năng lực chủ thể khi công dân nước ngoài lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc
định đoạt di sản thừa kế, kể cả khi hành vi này được thực hiện tại Việt Nam.
Tuy nhiên, đối với người không quốc tịch hoặc có hai hay nhiều quốc tịch thì
BLDS 2005 và các văn bản pháp luật khác mà nước ta dẫn chiếu đến việc áp dụng
pháp luật của nước mà người nước ngoài là công dân thì pháp luật áp dụng đối với
người không quốc tịch là pháp luật của nước nơi người đó cư trú. Nếu người đó không
có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp BLDS 2005 hoặc các
văn bản pháp luật khác mà nước ta dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nước mà
người nước ngoài là công dân thì pháp luật áp dụng đối với người nước ngoài có hai
hay nhiều quốc tịch nước ngoài là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư
trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự. Nếu người đó không cư trú tại một trong

các nước mà người đó có quốc tịch thì áp dụng pháp luật của nước mà người đó có
quốc tich và có quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài gắn bó nhất về quyền và nghĩa
vụ công dân16.
Có thể nói, chủ thể là một trong những yếu tố góp phần quyết định một quan hê
dân sự có yếu tố nước ngoài hay không? Vì vậy việc xác định năng lực chủ thể là rất
quan trọng và đó là căn cứ dể quyết định tính hợp pháp của di chúc. Năng lực chủ thể
khi lập di chúc là khả năng nhận biết được hành vi của mình trong quá trình lập di
chúc, là sự thể hiện ý chí của mình nhằm chuyền lại tài sản của mình cho người khác.
Do đó, chủ thể khi tham gia vào quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài phải có đủ năng
16

Khoản 1,2 Điều 760 Bộ luật Dân sự 2005.

GVHD: Bùi Thị Mỹ Hương

Trang 25

SVTH: Nguyễn Văn Kha


×