Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thuế thu nhập cá nhân kinh nghiệm quốc tế và việc thực thi ở việt nam luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------***--------

PHẠM THỊ PHƢƠNG MAI

THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN: KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VÀ VIỆC THỰC THI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÍ MẠNH HỒNG

HÀ NỘI – 2008

MỤC LỤC


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................3
Chương 1: Thuế thu nhập cá nhân và kinh nghiệm quốc tế về thực thi thuế thu
nhập cá nhân .....................................................................................................9
1.1.Những vấn đề chung về thuế thu nhập cá nhân ............................................9
1.1.1. Thu nhập cá nhân ............................................................................9
1.1.2. Thuế thu nhập cá nhân .................................................................. 14
1.2. Thuế TNCN trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............. 24
1.2.1. Thuế thu nhập cá nhân và xu hướng cải cách thuế thu nhập cá
nhân trên thế giới............................................................................................. 24
1.2.2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................... 35


Chương 2: Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam giai đoạn 1991 - 2007 ............ 37
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển thuế TNCN ở Việt Nam ........................ 37
2.2. Đánh giá tình hình thực thi thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam giai đoạn
1991 - 2007 ..................................................................................................... 42
2.2.1 Những thành tựu đạt được ............................................................. 42
2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại ............................................................ 47
2.2.3. Nguyên nhân ................................................................................. 64
2.3.Luật thuế thu nhập cá nhân ........................................................................ 67
2.3.1. Những điểm mới và tính khả thi của Luật thuế TNCN .................. 68
2.3.2. Những vấn đề đặt ra của Luật thuế thu nhập cá nhân .................... 77
Chương 3: Một số quan điểm, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.............................................................. 81
3.1. Bối cảnh kinh tế nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với hiện
trạng thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam ......................................................... 81

1


3.2. Quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi của thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam ............................................................................................. 83
3.2.1. Đáp ứng được yêu cầu về sự công bằng xã hội ............................. 83
3.2.2. Đảm bảo tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước ......................... 84
3.2.3. Đáp ứng được yêu cầu hiệu quả của chính sách ............................ 86
3.2.4. Cơ cấu chính sách thuế phải đơn giản ........................................... 86
3.2.5. Đảm bảo yêu cầu cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác
quản lý thu thuế ............................................................................................... 87
3.2.6. Phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở thuận lợi cho quá trình hội
nhập ................................................................................................................ 88
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi thuế thu nhập
cá nhân ở Việt Nam ......................................................................................... 89

3.3.1. Hoàn thiện sắc thuế thu nhập cá nhân ........................................... 89
3.3.2. Nâng cao hiệu quả quản lý thuế thu nhập cá nhân ......................... 94
3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giải đáp chính sách thuế ..... 104
Kết luận ......................................................................................................... 105
Tài liệu tham khảo ......................................................................................... 107

MỞ ĐẦU

2


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ quá độ chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy, tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước, thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng được sử dụng như
một công cụ kinh tế hữu hiệu của nhà nước để điều tiết các hoạt động kinh tế
và có vai trò rất quan trọng để phân phối lại thu nhập và đảm bảo công bằng
xã hội.
Thuế thu nhập cá nhân ra đời rất lâu trong lịch sử thuế khóa và được
coi là loại thuế quan trọng nhất để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. Cho
đến nay, thuế thu nhập cá nhân đã trở thành một loại thuế cơ bản, giữ vai trò
trung tâm trong hệ thống thuế của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các
nước phát triển. Bởi ngoài mục tiêu phân phối lại, thuế thu nhập cá nhân còn
là hình thức thuế có tỷ trọng đóng góp cao trong tổng nguồn thu ngân sách
của nhà nước.
Ở Việt Nam, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã
được Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành từ năm 1991 - hình thức thuế thu
nhập cá nhân có phạm vi áp dụng hẹp và đến nay đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ
sung. Qua một thời gian áp dụng Pháp lệnh, bên cạnh những mặt tích cực
không thể phủ nhận, cũng nhận thấy những bất cập nhất định: thiếu công

bằng, chưa hiệu quả… nên đã hạn chế vai trò rất quan trọng của thuế thu nhập
cá nhân. Hơn thế nữa, sau hơn 20 năm đổi mới kinh tế, tình hình và điều kiện
kinh tế Việt Nam đã có những biến đổi to lớn:
Thứ nhất, việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với việc hội nhập sâu rộng vào kinh
tế khu vực và thế giới đã tạo những điều kiện cũng như những tiền đề cần
thiết để nâng cao mức thu nhập, mức sống của các tầng lớp dân cư trong xã
hội. Bên cạnh đó, nó cũng tạo ra và làm giãn cách mức chênh lệch ngày càng

3


tăng trong thu nhập của các tầng lớp dân cư. Việc duy trì chính sách thuế thu
nhập cá nhân như cũ sẽ tạo nên sự bất bình đẳng ngày càng tăng trong phân
phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư đồng thời tạo nên sự thất thu ngân
sách khá lớn về thuế thu nhập cá nhân.
Thứ hai, xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân là tiền đề để nhà nước
thực hiện việc quản lý các nguồn thu nhập trong xã hội, hạn chế những khoản
thu nhập ngầm, thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Thứ ba, xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân còn là yêu cầu của quá
trình toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế quốc dân, làm cho chính sách
thuế của Việt Nam phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho nuớc
ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Do vậy, việc tiếp tục hoàn thiện thuế thu nhập cá nhân được đặt ra
trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay là vấn đề thời sự
cấp thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới cơ chế chính sách tài
chính quốc gia nói chung và phục vụ thiết thực cho công cuộc cải cách thuế
đạt kết quả cao. Việc xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân đã được xác định
tại các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và X, Chiến lược cải cách thuế
đến 2010 đã được Bộ chính trị thông qua: “Áp dụng thuế thu nhập cá nhân

thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, đảm bảo công bằng xã
hội, tạo động lực phát triển”. Tháng 9/2006, Bộ tài chính và Tổng cục thuế đã
ban hành Dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân. Tháng 11/2007, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật thuế thu nhập cá
nhân và sẽ chính thức có hiệu lực vào tháng 01/2009. Việc ban hành Luật
thuế thu nhập cá nhân là một bước tiến trong nỗ lực cải cách thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam nhưng việc thực thi Luật như thế nào để vừa phát huy tính
hiệu quả vừa đảm bảo tính công bằng của thuế thu nhập cá nhân là một vấn đề
gây nhiều tranh cãi trong các nhà kinh tế cũng như toàn xã hội.

4


Vì những lý do trên, “Thuế thu nhập cá nhân: kinh nghiệm quốc tế và
việc thực thi ở Việt Nam” được chọn làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế ra đời rất sớm trong lịch sử thuế
khóa nhưng ở Việt Nam, nó mới chỉ được ban hành dưới dạng Pháp lệnh thuế
thu nhập cho người có thu nhập cao từ năm 1991. Vì vậy, cho đến nay chưa
có nhiều công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này. Qua tìm hiểu, tác
giả thấy có 2 công trình nổi bật nghiên cứu về thuế thu nhập cá nhân
- Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện, Luận
án Phó tiến sỹ khoa học của tác giả Vũ Xuân Trường, 1995
- Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới và định hướng vận dụng ở Việt
Nam, tác giả PGS. TS. Lê Văn Ái, TS. Đỗ Đức Minh, NXB Tài chính, 2002.
Hai công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá tình
hình thực thi Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao – phạm
vi áp dụng hẹp của thuế thu nhập cá nhân, chưa phân tích đầy đủ nội dung của
sắc thuế thu nhập cá nhân và thời gian nghiên cứu từ năm 2001 trở về trước,

trong tình hình hiện nay không còn phù hợp. Ngoài ra, còn có một số công
trình nghiên cứu khác nhưng chỉ ở dạng những bài báo đăng trên các báo tạp
chí, những báo cáo trong hội thảo khoa học. Những bài báo từ năm 2006 trở
về trước chỉ nghiên cứu về Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao và sự cần thiết phải xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân. Nhìn chung,
các công trình này đã đề cập đến thuế thu nhập cá nhân nhưng do đã nghiên
cứu trong thời gian trước, chưa phản ánh hết tác động của thuế thu nhập cá
nhân đến nền kinh tế trong những biến đổi của điều kiện hoàn cảnh của nước
ta. Những bài báo từ năm 2007 đến nay, chủ yếu phân tích những nội dung
trong Luật thuế thu nhập cá nhân, chưa đề cập một cách hệ thống việc thực thi

5


Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Hơn thế nữa, các công trình này chủ
yếu xem xét thuế thu nhập cá nhân dưới góc độ phân tích chính sách tài chính
của nhà nước.
Bản thân tác giả có khóa luận tốt nghiệp về vấn đề này, song trong
khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp, chưa thể phân tích hết và thấu đáo những nội
dung của thuế thu nhập cá nhân. Hơn thế nữa, tháng 09/2006, Bộ tài chính đã
công bố Dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm thay thế cho Pháp lệnh
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành. Việc Bộ Tài chính
công bố dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân là một sự kiện thu hút sự quan
tâm của dư luận xã hội trong suốt thời gian qua bởi tính nhạy cảm đặc biệt
của nó. Tháng 11/2007, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân và chính thức được áp dụng vào
tháng 01/2009. Đây là một bước tiến đáng khích lệ trong việc xây dựng một
chính sách thuế thu nhập bảo đảm tính khoa học, công bằng, minh bạch, phù
hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nước ta.
Cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu và đánh giá đầy đủ

về Luật này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài đề ra các giải pháp hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả thực thi thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong thời gian tới
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa vấn đề cơ bản của thuế thu nhập cá nhân từ góc
độ lý luận và thực tiễn.
- Phân tích xu hướng áp dụng và cải cách thuế thu nhập cá nhân
ở một số nước trên thế giới
- Thực trạng thực thi thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và
những vấn đề đặt ra.

6


- Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thực thi thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn
áp dụng thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị và
kinh tế học công cộng, không nghiên cứu những vấn đề có tính chất tác
nghiệp trong quá trình hành thu thuế thu nhập cá nhân.
Phạm vi nghiên cứu: Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam từ năm 1991
đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được vận dụng trong đề tài là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp như: phương pháp kết
hợp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh… trong quá trình
nghiên cứu

6. Những đóng góp mới của luận văn
- Khái quát kinh nghiệm thực thi thuế thu nhập cá nhân ở một số quốc
gia cũng như xu hướng cải cách thuế thu nhập cá nhân trên thế giới, trên cơ sở
đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phân tích thực trạng thực thi thuế thu nhập cá nhân ở nước ta kể từ khi
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được ban hành, chỉ ra
những mặt đạt được, những mặt hạn chế cũng như những nguyên nhân của
những hạn chế này.
- Phân tích, đánh giá Luật thuế thu nhập cá nhân đã được Quốc hội
thông qua trên cơ sở so sánh với những Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao đã ban hành.

7


- Đưa ra các quan điểm, các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Thuế thu nhập cá nhân và kinh nghiệm quốc tế về thực thi
thuế thu nhập cá nhân
Chương 2: Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam giai đoạn 1991 - 2007
Chương 3: Một số quan điểm, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thực thi thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam

8


CHƢƠNG 1: THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

VỀ THỰC THI THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

1.1.Những vấn đề chung về thuế thu nhập cá nhân
1.1.1. Thu nhập cá nhân
1.1.1.1. Khái niệm
Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa thu nhập
trong các công trình nghiên cứu. Mặc dù Joseph E. Stiglitz cho rằng "quan
niệm thu nhập về lý thuyết dường như là là khá đơn giản" [13, tr.459] nhưng
đến nay vẫn chưa có một quan điểm thống nhất, đầy đủ và tổng quát về khái
niệm thu nhập. Tùy theo mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế học và các nhà
nghiên cứu đã đưa ra những khái niệm khác nhau về thu nhập.
Hai nhà kinh tế học người Anh là R. M. Haig và H.C. Simons vào đầu
thế kỷ XX đã đưa ra khái niệm về thu nhập - Định nghĩa Haig - Simons: "Thu
nhập là giá trị tiền tăng thực tế trong khả năng từng cá nhân để tiêu dùng
trong suốt một khoảng thời gian nào đó" [1, tr.7]. Đây được coi là một cách
tính thu nhập lý tưởng và hoàn thiện. Việc cộng thêm vào thu nhập được tính
đến bởi vì chúng thể hiện sự tăng lên của khoản thu nhập tiềm tàng nhưng khó
thực hiện được trong thực tế vì giá trị tăng thêm mới chỉ dừng lại dưới dạng
tiềm năng và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Nhà kinh tế học G. S. Chant cho rằng "thu nhập là một khả năng kinh tế
sẽ được bổ sung cho một người nào đó trong một khoảng thời gian nhất định,
không kể khoản này có lặp lại hay không, được cấu thành như thế nào và anh
ta được tùy ý sử dụng". Như vậy, theo định nghĩa này, thu nhập là mọi khoản

9


thu nhập ròng từ các nguồn đã khấu trừ các chi phí để tạo ra thu nhập ròng.
Nhà kinh tế học người Mỹ Samuelson cũng đưa ra định nghĩa về thu nhập
một cách đầy đủ hơn: "thu nhập là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được

trong một khoảng thời gian nhất định, (thường là 1 năm)". Trong các định
nghĩa này, mặc dù chưa phản ánh đầy đủ các khía cạnh của thu nhập nhưng
tổng hợp lại cho thấy thu nhập có một số đặc điểm chung: thu nhập thuộc về
một chủ thể trong xã hội - tính sở hữu của thu nhập, được xác định trong một
khoảng thời gian nhất định, được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và được
hình thành thông qua quá trình phân phối và phân phối lại do thị trường và
nhà nước thực hiện.
Qua phân tích những đặc điểm trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng
quát về thu nhập: "Thu nhập là tổng các giá trị nhận được, thu được trong một
khoảng thời gian nhất định". Các giá trị ở đây được biểu hiện bằng tiền tệ, giá
trị các hình thức vật chất, phi vật chất, không phân biệt nguồn hình thành thu
nhập là từ lao động hay từ tài sản. Từ khái niệm này có thể rút ra "thu nhập cá
nhân là tổng các giá trị nhận được, thu được trong một khoảng thời gian
(thường là 1 năm) của một cá nhân nào đó, không phân biệt nguồn phát sinh
thu nhập.
Thu nhập cá nhân là một bộ phận rất quan trọng trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của một quốc gia vì đại bộ phận thu nhập quốc dân sau quá
trình phân phối và phân phối lại sẽ được phân chia cho các thành viên trong
xã hội dưới hình thức bằng tiền, bằng hiện vật hay các phúc lợi xã hội.
Tùy thuộc vào yêu cầu quản lý và mục đích nghiên cứu mà thu nhập
được chia thành nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào nguồn tạo ra thu nhập có thể phân chia thành: thu nhập từ
lao động (tiền công, tiền lương, tiền thưởng…) và thu nhập không từ lao động

10


(thu nhập từ tài sản, thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ đầu tư, thu nhập từ
thừa kế, chuyển nhượng, thu nhập từ quyền sở hữu vốn, quà biếu, quà tặng…)
Căn cứ vào tính chất phát sinh thu nhập đều đặn hay không mà người ta

phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ phát sinh thu nhập có thu nhập phát sinh
trong nước và thu nhập phát sinh ở nước ngoài.
Căn cứ vào tính pháp lý của thu nhập mà chúng ta có thể chia thành thu
nhập hợp pháp và thu nhập không hợp pháp. Thu nhập hợp pháp là thu nhập
được tạo ra từ hoạt động hợp pháp và được nhà nước bảo vệ. Thu nhập bất
hợp pháp là thu nhập được tạo ra từ hoạt động bất hợp pháp nên nhà nước
không thể kiểm soát được và do đó không được pháp luật bảo vệ.
Mặc dù có nhiều loại thu nhập nhưng không phải thu nhập nào cũng là
đối tượng điều chỉnh của thuế thu nhập cá nhân. Phần thu nhập chịu thuế phụ
thuộc vào chính sách thuế của mỗi quốc gia quy định.
1.1.1.2. Sự bất bình đẳng về thu nhập
Trong xã hội mà nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì sự bất
bình đẳng về thu nhập là một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến cần được
nghiên cứu để nhà nước với chức năng tác động và điều chỉnh cần can thiệp ở
mức độ hợp lý nhằm thiết lập công bằng xã hội.
Sự bất bình đẳng về thu nhập là hiện tượng phổ biến và gắn liền với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường. Một trong những cách tiếp cận mối quan
hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế và sự bất bình đẳng về thu nhập được
thể hiện trên đồ thị:

11


Mức
độ
bất
bình
đẳng


Phát triển kinh tế

Hình 1.1: Mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế và mức độ bất bình đẳng về thu nhập
Nguồn:Hình
Kinh1.1
tế học
Joeseph
Stiglitz
NXBtếKhoa
kỹtriển,
thuật,đang
1995
chocông
thấy cộng
trong- giai
đoạnE.đầu,
nền-kinh
đanghọc
phát

trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa, nền kinh tế bắt đầu có tăng trưởng,
mục tiêu của nền kinh tế là gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, huy động mọi
nguồn lực cho mục tiêu này. Trong thời gian này, các quốc gia có thể chấp
nhận sự bất bình đẳng và chưa thể phân phối lại, người nào sở hữu nhiều
nguồn lực hơn sẽ có thu nhập cao hơn. Vì vậy, sự bất bình đẳng về thu nhập
có thể ngày càng gia tăng do mục tiêu tăng trưởng kinh tế thường được ưu
tiên đặt lên hàng đầu. Nhưng khi nền kinh tế đã đạt đến một trình độ phát
triển nhất định thì nền kinh tế càng phát triển, cơ hội gia tăng thu nhập cao
hơn cho mọi người dân và nhà nước có điều kiện phân phối lại nhiều hơn nên

mức độ bất bình đẳng về thu nhập sẽ giảm xuống.
Sự bất bình đẳng về thu nhập trong nền kinh tế thị trường do nhiều
nguyên nhân:
Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường thì mọi hoạt động phân phối đều
thông qua cơ chế tự điều tiết theo các quy luật kinh tế của thị trường. Nói một
cách cụ thể, trong điều kiện cơ chế thị trường, các yếu tố sản xuất thông qua
thị trường (thuê, mua) để tham gia vào quá trình sản xuất, và rồi sau đó, các
kết quả của quá trình sản xuất lại được phân phối cho các yếu tố sản xuất theo

12


mức độ mà chúng tham gia (năng suất biên hay sản phẩm biên của mỗi yếu tố
sản xuất) trong kết quả đó. Điều này nghĩa là tổng sản phẩm xã hội sẽ được
phân phối theo mỗi loại yếu tố sản xuất như vốn, lao động, đất đai… tùy theo
năng lực tham gia của chúng vào kết quả cuối cùng. Phương thức phân phối
này là động lực thúc đẩy người sở hữu cũng như sử dụng phải lựa chọn và
phát huy hiệu quả tối ưu của mỗi yếu tố sản xuất - điều kiện bắt buộc để nền
kinh tế thị trường có thể phát triển hiệu quả. Song do nhiều điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội và lịch sử khác nhau mà các thành viên trong xã hội không
phải ai cũng có tình trạng như nhau về các yếu tố sản xuất. Chẳng hạn, đối với
yếu tố lao động, bản thân từng cá nhân có sự khác nhau đáng kể về khả năng
nhận thức, thể lực, trình độ giáo dục, đào tạo, hoàn cảnh, năng lực, vị trí công
tác… Thêm vào đó, mỗi cá nhân trong xã hội cũng rất khác nhau trong việc
sở hữu những của cải và tài sản sinh lợi. Những khác nhau này cùng với
nguyên tắc bình đẳng trong các giao dịch thị trường và phân phối kết quả hoạt
động kinh tế đã đưa đến hệ quả là sự khác biệt trong thu nhập và sự bất bình
đẳng giữa người này và người khác, tầng lớp xã hội này với tầng lớp xã hội
khác.
Thứ hai, những nhân tố có tính chất xã hội, khách quan tác động đến tất

cả người lao động và tài sản của họ cũng gây ra hiện tượng bất bình đẳng về
thu nhập. Trình độ phát triển chung của quốc gia, các biện pháp hành chính
mà nhà nước sử dụng để can thiệp vào việc phân phối thu nhập: chính sách
trợ cấp xã hội, quy định mức lương tối thiểu… cũng ảnh hưởng rất lớn đến
thu nhập của từng cá nhân trong xã hội.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển, nếu không có sự can thiệp của
nhà nước thì sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng lớn và khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội càng sâu sắc, tác động tiêu cực đến sự phát triển
của mỗi quốc gia. Hình 1.1 cho thấy, đối với các quốc gia đang phát triển như

13


Việt Nam, hiện tượng bất bình đẳng về thu nhập sẽ ngày càng gia tăng cùng
với tốc độ phát triển kinh tế. Hiện tượng này chỉ giảm dần khi nền kinh tế đạt
đến một trình độ phát triển cao nhất định trên hình 1.1. Khi đó, của cải vật
chất được sản xuất ra đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người và
những khuyết tật của thị trường cũng dần được giải quyết.
Bất bình đẳng về thu nhập gây ra hiện tượng mất công bằng trong xã
hội. Theo quy luật độ thỏa dụng giảm dần, bất bình đẳng về thu nhập sẽ làm
giảm lợi ích chung của toàn xã hội. Mặt khác, bất bình đẳng về thu nhập vừa
là hậu quả song cũng là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng về giáo dục và
đào tạo, duy trì "chu kỳ nghèo khổ", cản trở sự phát triển của đất nước và gây
mất ổn định xã hội. Phân phối lại và giải quyết bất công sẽ góp phần nâng cao
độ thỏa dụng toàn xã hội.
Tình hình nói trên khiến mỗi nhà nước cần thiết phải can thiệp vào nền
kinh tế để giảm thiểu sự bình đẳng về thu nhập. Một công cụ rất quan trọng và
mang lại hiệu quả cao để giải quyết vấn đề này là thuế thu nhập cá nhân. Các
chính phủ sử dụng thuế thu nhập cá nhân để phân bổ gánh nặng thuế giữa các
tầng lớp, nhóm dân cư khác nhau trong xã hội theo khả năng chi trả của họ để

thiết lập sự bình đẳng về thu nhập và tạo nguồn để chính phủ thực hiện các
chương trình công cộng khác.
1.1.2. Thuế thu nhập cá nhân
1.1.2.1. Khái niệm
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của mỗi
cá nhân trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định.
Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ rất lâu ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Cho đến nay, trên thế giới đã có khoảng trên 180 quốc gia và vùng
lãnh thổ áp dụng thuế thu nhập cá nhân. Các quốc gia có nền kinh tế thị
trường phát triển đều coi thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế

14


có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực
hiện phân phối công bằng xã hội và góp phần điều tiết nền kinh tế.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của thuế thu nhập cá nhân do 3 nguyên
nhân cơ bản:
Thứ nhất, thuế thu nhập cá nhân ra đời bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo
sự công bằng trong phân phối thu nhập. Điều này là thật sự cần thiết trong nền
kinh tế thị trường bởi sự tồn tại phổ biến của sự bất bình đẳng về thu nhập
ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Mặt khác, việc áp
dụng thuế gián thu mới chỉ đảm bảo sự công bằng theo chiều ngang. Thuế thu
nhập cá nhân là loại thuế trực thu, thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của người
nộp thuế và điều tiết thu nhập của người nộp thuế theo khả năng của họ. Vì
thế, thuế thu nhập cá nhân còn đảm bảo sự công bằng theo chiều dọc. Hơn thế
nữa, một trong những lý thuyết của Keynes về tính hữu dụng giảm dần của
thu nhập cho rằng mức thu nhập càng cao thì tính hữu dụng của nó càng thấp.
Việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân sẽ giúp làm tăng phúc lợi xã hội bằng
cách điều tiết bớt thu nhập của những người có thu nhập cao và phân phối lại

cho những người có thu nhập thấp hơn.
Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân ra đời còn bắt nguồn từ nhu cầu chi tiêu
ngày càng tăng của nhà nước cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng
gia tăng của mỗi quốc gia. Trước xu thế toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, sự
giảm dần hàng rào thuế quan do yêu cầu của tự do hóa thương mại là một tất
yếu, ảnh hưởng và làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách nhà nước. Bên
cạnh đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách cũng
thay đổi theo hướng nguồn thu tích lũy từ trong nước tăng dần và chiếm tỷ
trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước.Vì vậy, nguồn thu chủ
yếu cho ngân sách quốc gia là từ thuế hàng hóa, thuế thu nhập doanh nghiệp
và thuế thu nhập cá nhân. Trong đó, thuế thu nhập cá nhân là nguồn tài chính

15


lớn, góp phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định thu ngân sách nhà
nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

1.1.2.2. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Thứ nhất, thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo
công bằng xã hội.
Một trong những khuyết tật của kinh tế thị trường là sự phân phối
không công bằng và đi cùng với nó là quá trình phân hóa giàu nghèo và sự bất
bình đẳng về thu nhập trong xã hội. Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức
thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập nhận được của các cá nhân. Thuế
thu nhập cá nhân chỉ đánh vào thu nhập của cá nhân sau khi đã trừ đi khoản
thu nhập để bù đắp chi phí cần thiết để đủ nuôi sống bản thân và gia đình.
Phương pháp đánh thuế thu nhập cá nhân theo biểu thuế lũy tiến đảm bảo yếu
tố công bằng, khi thu nhập càng cao thì tỷ lệ thu thuế cũng tăng thêm. Thông
qua thuế thu nhập cá nhân, nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập của những

người có thu nhập cao, san bằng tương đối sự chênh lệch về thu nhập giữa các
cá nhân trong xã hội.
Để thấy rõ vai trò của thuế thu nhập cá nhân tác động đến sự phân phối
công bằng trong xã hội, có thể xem xét đường cong Lorenz:

16


GDP %

Thu nhập được phân
phối công bằng

Thu nhập trước thuế

Thu nhập sau thuế

Dân cƣ %
Hình 1.2: Ảnh hƣởng của thuế đến sự công bằng
trong phân phối thu nhập
Nguồn: Kinh tế học công cộng - Joeseph E. Stiglitz - NXB Khoa học kỹ thuật,
1995

Trên đồ thị, đường cong Lorenz càng gần đường phân giác thì càng
phản ánh sự công bằng trong phân phối thu nhập. Thuế thu nhập cá nhân với
phương pháp đánh thuế lũy tiến sẽ có vai trò điều tiết thu nhập của các cá
nhân trong xã hội, đẩy đường cong phân phối thu nhập vào phía trong như
hình 1.2, và do đó sẽ góp phần đảm bảo giảm bớt sự bất bình đẳng về thu
nhập trong xã hội.
Hơn thế nữa, thông qua khoản thu từ thuế thu nhập cá nhân cho ngân

sách nhà nước, các chính phủ còn thể hiện được chức năng đảm bảo công
bằng trong xã hội bằng việc thực hiện chi ngân sách cho các công trình công
cộng, bảo đảm an sinh xã hội, trợ cấp cho người có thu nhập thấp. Hay nói
cách khác, các chính phủ dùng nguồn thu từ thuế thu nhập của các cá nhân có
thu nhập cao trong xã hội để thực hiện công bằng xã hội.

17


Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu
quan trọng của nhà nước.
Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức tạo ra nguồn thu quan trọng
của ngân sách nhà nước ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước
phát triển. Hiện nay, ở nhiều nước phát triển trên thế giới, thuế thu nhập cá
nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách của nhà nước:
Mỹ

(52,2%),

Nhật

Bản

(69,4%),

Canada

(53,68%),

Australia


(62,05%)…(Nguồn: Báo cáo của tổng cục thuế năm 2006). Đối với các nước
đang phát triển, thuế thu nhập cá nhân chiếm tỷ trọng nhỏ hơn so với các
nước phát triển nhưng cũng đang tăng dần lên cùng với sự phát triển của nền
kinh tế các quốc gia này: Thái Lan (32,4%), Trung Quốc (48,35%)… (Nguồn:
Báo cáo của tổng cục thuế năm 2006).
Ở Việt Nam, thuế thu nhập cá nhân hiện nay tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng thu ngân sách nhà nước song trong điều kiện phát triển kinh tế
nhanh, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ thì tỷ trọng của
thuế thu nhập cá nhân trong tổng thu ngân sách nhà nước trong tương lai sẽ
ngày càng gia tăng nhanh.

1.1.2.3. Những yêu cầu của một hệ thống thuế thu nhập cá nhân
Một hệ thống thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng được
đánh giá là tốt khi đạt được 5 thuộc tính:
Thứ nhất, tính hiệu quả kinh tế. Hệ thống thuế thu nhập cá nhân có thể
tác động tiêu cực tới sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực. Việc đánh thuế thu
nhập với mức thu nhập tối thiểu chịu thuế quá thấp cộng thuế suất cao sẽ làm
cho các cá nhân tìm kiếm cơ hội phân bổ nguồn lực sang làm các việc làm
không chịu sự kiềm chế của thuế thu nhập. Điều này càng dễ dàng xảy ra ở
các nước đang phát triển, khi khu vực kinh tế phi chính thức rất phát triển và

18


chính phủ hầu như không thể kiểm soát được khu vực này. Vì thế, một hệ
thống thuế tốt phải là hệ thống ít gây ra tổn thất hiệu quả.
Thứ hai, tính đơn giản về mặt hành chính. Hệ thống thuế thu nhập cá
nhân phải đơn giản để dễ dàng quản lý và không tốn kém về mặt hành chính.
Sự đơn giản ở đây là đối với cả người nộp thuế, người thu thuế và ít tốn kém

chi phí. Những chi phí được tính đến ở đây bao gồm cả chi phí trực tiếp (chi
phí cho bộ máy quản lý) và chi phí gián tiếp (chi phí về thời gian và công sức
mà các cá nhân bỏ ra để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế). Trong một nền kinh tế
mà đa số các giao dịch được thực hiện bằng tiền mặt thì việc đánh thuế thu
nhập gặp rất nhiều khó khăn và chi phí trực tiếp cũng như gián tiếp sẽ tương
đối lớn. Đặc biệt, khi năng lực tổ chức bộ máy và năng lực của cán bộ thu
thuế không cao thì tính phức tạp sẽ tăng lên và theo đó, chi phí cũng lớn lên.
Thứ ba, tính linh hoạt. Hệ thống thuế phải có khả năng phản ứng dễ
dàng đối với những thay đổi trong hoàn cảnh kinh tế (mức tăng thu nhập, lạm
phát…). Thuế thu nhập cá nhân thường có độ trễ so với thay đổi GNP của nền
kinh tế, hệ thống thuế phải có khả năng thích ứng một cách dễ dàng, trong
một số trường hợp phải tự động thích ứng với những thay đổi của nền kinh tế.
Thứ tư, tính trách nhiệm về mặt chính trị. Hệ thống thuế thu nhập cá
nhân cần phải được xây dựng để xác lập quan hệ quyền và trách nhiệm của
giữa nhà nước và công dân một cách rõ ràng và minh bạch. Hành vi thu - nộp
thuế thu nhập cá nhân phản ánh mối quan hệ giữa công dân và nhà nước.
Thuế là công cụ để nhà nước thực thi vai trò điều tiết thu nhập giữa người
giàu và người nghèo để tạo lập và duy trì công bằng xã hội. Nhưng mặt khác,
việc nộp thuế thu nhập còn là cách người nộp thuế thể hiện trách nhiệm công
dân của mình. Ngoài ra, bằng việc nộp thuế để nuôi sống nhà nước, người
đóng thuế thể hiện quyền lực của mình đối với nhà nước: nhà nước do dân
(dân bầu ra nhà nước), của dân (dân nuôi nhà nước) và vì thế phải phục vụ

19


dân (vì dân). Đóng thuế không đơn thuần là sự bắt buộc mà còn hàm nghĩa
"trách nhiệm" và "quyền lợi" của người dân. Đóng thuế tức là khẳng định
quyền của dân, là hành vi xác nhận tư cách công dân và trình độ dân chủ đích
thực của người dân. Ngược lại, khi hệ thống thuế thu nhập ra đời, cách thức

chi tiêu ngân sách của chính phủ cũng cần phải công khai, minh bạch và thực
sự mang lại lợi ích cho đa số dân chúng. Đây là thuộc tính rất quan trọng của
hệ thống thuế thu nhập cá nhân mà ở các nước đang phát triển chưa được hiểu
đầy đủ, thậm chí bỏ qua.
Thứ năm, tính công bằng. Hệ thống thống thuế phải đối xử công bằng
với các cá nhân bao gồm cả công bằng theo chiều ngang và công bằng theo
chiều dọc. Nghĩa là những người có thu nhập như nhau phải nộp thuế như
nhau, những người có thu nhập khác nhau phải nộp thuế khác nhau.
1.1.2.4. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân
Thứ nhất, đánh thuế trên cơ sở thu nhập hiện hữu
Mặc dù mỗi cá nhân có nhiều nguồn thu nhập khác nhau, nhưng trên
thực tế không phải toàn bộ thu nhập phát sinh đều là đối tượng điều chỉnh của
thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh phần thu nhập
chịu thuế. Thu nhập chịu thuế là phần thu nhập quy định cơ sở đánh thuế thu
nhập. Vì vậy, thu nhập chịu thuế được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập
nhận được sau khi miễn trừ một số khoản chi phí của người nộp thuế. Tùy
theo chính sách thuế của mỗi nước mà nội dung, phương pháp xác định các
khoản thu nhập phát sinh đều có khả năng xếp vào thu nhập chịu thuế theo
nguyên tắc:
Một là, về nguyên tắc, tất cả các khoản thu nhập phát sinh dù bằng tiền
hay hiện vật không phân biệt từ nguồn sản xuất hay kinh doanh hay từ lao
động, đầu tư đều có thể được xếp vào thu nhập chịu thuế sau khi loại bỏ đi
những khoản thu nhập được pháp luật quy định không phải chịu thuế thu

20


nhập. Nói cách khác, thu nhập chịu thuế phải gồm hầu hết các khoản thu nhập
chủ yếu phát sinh, không phân biệt hình thái và nguồn gốc của chúng.
Hai là, thu nhập chịu thuế phải là thu nhập ròng nghĩa là khoản thu

nhập sau khi trừ đi các chi phí để tạo ra nó và các khoản thu nhập được giảm
trừ.
Ba là, việc xác định thu nhập chịu thuế phải đảm bảo tính khả thi cho
công tác quản lý. Một số nhà kinh tế đưa ra quan điểm cho rằng nên đánh thuế
trên cơ sở thu nhập hoàn chỉnh: tức là thu nhập hiện hữu cộng lãi vốn dù là lãi
có thực hay mới chỉ là hứa hẹn. Tuy nhiên, ý tưởng này có tính khả thi kém
do sự phức tạp và không chắc chắn của việc xác định thu nhập chịu thuế. Do
đó, đa số các nhà hoạch định chính sách thuế đều nhất trí cho rằng thu nhập
chịu thuế chỉ nên giới hạn trong phạm vi thu nhập hiện hữu.
Ở hầu hết các nước thu nhập chịu thuế được xác định trong các trường
hợp cụ thể sau:
- Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường dưới
hình
thức tiền tệ
- Thu nhập phát sinh từ những giao dịch trên thị trường dưới
hình thức tiền tệ sau khi trừ đi các khoản chi phí khách quan gắn liền với quá
trình tạo ra thu nhập (cả chi phí sản xuất và chi phí khách quan khác). Tùy
theo điều kiện, hoàn cảnh của từng nước mà các khoản chi phí miễn trừ này
được quy định khác nhau.
Thứ hai, đánh thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, vì vậy, nó có vai trò điều
tiết đảm bảo sự công bằng xã hội. Muốn thực hiện vai trò đó, thuế thu nhập cá
nhân phải được thiết kế theo phương pháp lũy tiến. Phương pháp này một mặt
để bù lại tính lũy thoái của các loại thuế gián thu, mặt khác để hạn chế sự

21


phân hóa giàu nghèo và đảm bảo sự công bằng trong xã hội. Đây cũng chính
là đặc trưng quan trọng nhất của thuế thu nhập cá nhân. Thuế suất lũy tiến

đảm bảo tỷ lệ nộp thuế so với thu nhập càng tăng khi mức thu nhập tăng lên.
Thuế suất lũy tiến được coi là phương pháp hiệu quả nhất để đánh thuế theo
khả năng nộp thuế của cá nhân. Tuy nhiên để tính được mức thuế cho phù hợp
là không đơn giản.
Các nhà kinh tế học cuối thế kỷ XIX đều cho rằng khi thu nhập càng
tăng thì độ thỏa dụng biên của thu nhập càng giảm. Thuế thu nhập cá nhân và
sự phân phối lại thu nhập của nhà nước từ người giàu sang người nghèo làm
tăng tổng thu nhập biên của xã hội.
Tuy nhiên, xung quanh vấn đề áp dụng nguyên tắc lũy tiến đối với thuế
thu nhập cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tính lũy tiến
của thuế thu nhập cũng cần có giới hạn với mức thuế suất hợp lý theo mô hình
đường cong Laffer và khi áp dụng nguyên tắc lũy tiến cũng cần phân biệt
nguồn gốc của các loại thu nhập để phát huy vai trò điều chỉnh của thuế thu
nhập. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng làm như vậy sẽ gây phức tạp trong
việc thiết kế thuế suất và mâu thuẫn với nguyên tắc công bằng theo chiều
ngang. Vì vậy, không nên dùng các loại thuế suất khác nhau cho thu nhập
phát sinh từ các nguồn thu nhập khác nhau mà nên áp dụng các khoản miễn,
giảm thuế để đảm bảo chức năng của thuế thu nhập hoặc áp dụng thuế lũy tiến
từng phần.
Thứ ba, quy ước thời gian để xác định thu nhập chịu thuế
Việc tạo ra thu nhập có tính chất tương đối về mặt thời gian. Những
khoản thu nhập nhận được ở thời điểm hiện tại có thể là kết quả của các hoạt
động lao động hoặc đầu tư trong quá khứ, nhưng cũng có thể là thu nhập ứng
trước của các hoạt động hứa hẹn trong tương lai. Mặt khác, thu nhập phát sinh
tại những khoảng thời gian khác nhau có thể rất khác nhau. Do vậy, để đảm

22


bảo tính khả thi và sự công bằng trong đánh thuế, một sự phân đoạn có tính

quy ước về mặt thời gian cần phải được xác định thu nhập chịu thuế phát sinh
trong khoảng thời gian đó. Thông thường, thời gian tính thu nhập chịu thuế
trùng hợp với năm ngân sách hoặc năm kế toán và được quy định là một năm
làm cơ sở tính thuế. Những khoản thu nhập phát sinh trong khoảng thời gian
đó được coi là đối tượng chịu thuế thu nhập. Việc tính thuế thu nhập phát sinh
theo năm thực chất chỉ được coi là hình thức tạm tính. Số thuế chính thức phải
nộp sẽ được xác định trên cơ sở số thu nhập phát sinh "bù trừ" trong khoảng
thời gian quy ước đó (thường là một số năm nhất định).
Thứ tư, nguyên tắc trọng yếu khi xác định các căn cứ tính thuế và nghĩa
vụ thuế.
Mỗi cá nhân có nhiều nguồn thu nhập khác nhau. Có những khoản thu
nhập có tính chất thường xuyên, phổ biến, có những thu nhập có tính cá biệt
hoặc không thường xuyên. Để đảm bảo tính đơn giản và thuận tiện cho công
tác quản lý thuế, trong một số trường hợp nhất định, thuế thu nhập cá nhân có
thể không cần điều chỉnh những khoản thu nhập nhỏ, lặt vặt có tính chất cá
biệt, không phổ biến… mà vẫn không ảnh hưởng đến tính công bằng giữa các
đối tượng nộp thuế. Nguyên tắc trọng yếu có thể được áp dụng nhằm đảm bảo
tính rõ ràng, đơn giản của chính sách và tiết kiệm chi phí hành thuế. Theo
nguyên tắc này, trong một số trường hợp, việc xác định thu nhập phát sinh
hay các khoản chi phí được khấu trừ có thể được thực hiện bằng biện pháp
"khoán định mức" bằng tỷ lệ % thu nhập hay chi phí hoặc bằng một mức
tuyệt đối được quy định trong Luật thuế.
1.1.2.5. Phương pháp đánh thuế thu nhập cá nhân
Về lý thuyết, tồn tại 3 mô hình đánh thuế thu nhập cá nhân.

23


Thứ nhất, đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập. Đây là
phương pháp áp dụng một thuế suất tương ứng cho từng nguồn thu nhập phát

sinh. Tương ứng với mỗi nguồn thu nhập khác nhau, người ta tính các chi phí
được trừ của từng loại thu nhập và gán cho mỗi loại thu nhập đó các mức thuế
suất phân biệt. Số thuế phải nộp là tổng hợp số thuế thu nhập mà người nộp
thuế phải nộp theo từng nguồn. Các nhà kinh tế học cho rằng, phương pháp
này khó trốn thuế vì nó thu "theo sát từng nguồn thu nhập". Tuy nhiên, trên
thực tế, đánh thuế thu nhập theo phương pháp này gặp rất nhiều hạn chế. Một
là, việc chia thu nhập cá nhân thành từng phần thu nhập để chịu các mức thuế
suất khác nhau là một công việc phức tạp, không đảm bảo nguyên nguyên tắc
công bằng theo chiều ngang. Hai là, việc áp dụng thuế suất cho từng loại thu
nhập đòi hỏi phải phân loại thu nhập, gây khó khăn cho công tác quản lý và là
cơ sở để người nộp thuế dễ dàng trốn thuế. Nếu ranh giới giữa các loại thu
nhập không rõ ràng thì sẽ mất ý nghĩa công bằng của thuế thu nhập cá nhân.
Trong một chừng mực nào đó, cách đánh thuế này cũng không hiệu quả đối
với xã hội vì người nộp thuế có thể lựa chọn các hoạt động phi hiệu quả để
chịu mức thuế thấp nhất.
Thứ hai, đánh thuế trên tổng thu nhập. Phương pháp này tiến hành đánh
thuế trên tổng thu nhập, bao gồm tất các các khoản thu nhập nhận được mà
không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập và chi phí tạo ra thu nhập. Tổng thu
nhập và tổng chi phí sẽ được xem xét một cách tổng thể và đánh thuế trên
phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí. Phương pháp này đã khắc
phục được những hạn chế của phương pháp đánh thuế theo từng nguồn hình
thành thu nhập. Do ưu điểm đơn giản và dễ dàng áp dụng biểu thuế suất lũy
tiền khi đánh thuế nên phương pháp này đang được áp rụng rộng rãi ở nhiều
quốc gia, nhất là ở các nước phát triển.

24


×