Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Phát triển làng nghề truyền thống ở hà tây trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn luận vă

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.26 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BẠCH THỊ LAN ANH

PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Ở HÀ TÂY TRONG QUÁ TRÌNH CƠNG NGHIỆP HỐ,
HIỆN ĐẠI HỐ NƠNG NGHIỆP NƠNG THƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Đình Khang

HÀ NỘI - 2004


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng ta nhấn mạnh, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là vấn đề quan
trọng hàng đầu, bởi vì nơng thơn Việt Nam chiếm hơn 70% lao động và gần
80% dân số.
Một trong những nội dung quan trọng của CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn là phát triển các làng nghề nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập ở nơng
thơn, góp phần xố đói giảm nghèo, góp phần thực hiện chiến lược kinh tế
hướng ngoại với sản phẩm mũi nhọn của chúng ta là các mặt hàng thủ công
mỹ nghệ, chế biến nông sản và cũng là thực hiện mục tiêu ly nông bất ly
hương ở nơng thơn.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống lịch sử hơn 4000 năm, Người Việt cổ
đã lấy nghề nông làm cơ sở cho sự tồn tại của mình. Nhưng với điều kiện tự
nhiên phong phú đa dạng đã sản sinh biết bao làng nghề thủ cơng bên cạnh
xóm làng nơng nghiệp.


Các làng nghề truyền thống (như làng gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn
Phúc) không chỉ mang ý nghĩa về kinh tế mà cịn là di sản văn hố dân tộc. Vì
vậy, phát triển làng nghề truyền thống cũng là giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc
trong qua trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy phát triển làng nghề truyền thống là vấn đề mang tầm quan
trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội trong sự nghiệp phát triển đất
nước theo đinh hướng XHCN.
Hà Tây là một tỉnh nằm ở cửa ngõ Thủ đô Hà Nội có mật độ dân số lao
động nơng nghiệp cao; bình qn ruộng đất đầu người thấp, có truyền thống
văn hố lâu đời, nhân dân cần cù sáng tạo. Là nơi hội tụ nhiều tiềm năng đáng
kể về tự nhiên, xã hội, là “đất trăm nghề”. Hiện nay, Hà Tây có 160 làng nghề
2


với hàng vạn lao động lành nghề và các nghệ nhân, sản xuất nhiều mặt hàng
thủ công cho tiêu dùng - xuất khẩu. Với đặc thù một tỉnh cửa ngõ Thủ đô
thuận tiện giao thông, làng nghề thủ công truyền thống sẽ là điểm du lịch hấp
dẫn du khách muốn tìm hiểu đất nước Việt Nam.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở Hà Tây phải phát
triển làng nghề truyền thống là một trong những nội dung quan trọng nhất cả
về lý luận và thực tiễn trong những năm tới.
Vì vậy, vấn đề phát triển làng nghề truyền thống ở Hà Tây trong q
trình CNH, HĐH nơng thơn được tôi chọn là đề tài nghiên cứu luận văn thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do có vai trị quan trọng cả về kinh tế, văn hố, xã hội nên phát triển
làng nghề truyền thống được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên
nhiều phương diện và đã đạt được nhiều kết quả nhất định. Đó là:
- Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình CNH của Tiến sỹ
Dương Bá Phượng.

- Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH ở vùng
ven Thủ đô Hà Nội của tiến sỹ Mai Thế Hởn.
- Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam của Thạc
sỹ Vũ Thị Thu.
- Về các giải pháp phát triển thủ công nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở
vùng đồng bằng Sông Hồng (Đề tài cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh; chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Đặng Lễ Nghi).
Các cơng trình nghiên cứu về làng nghề trên đă ra chủ trương phát triển
làng nghề nói chung mà chưa có giải pháp cụ thể ở từng địa phương.

3


Đề tài của tôi tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển làng nghề
truyền thống trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và đề
xuất giải pháp phát triển cụ thể trong điều kiện hiện nay ở một số làng
nghề truyền thống ở Hà Tây.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Mục đích làm rõ vai trị, thực trạng, tiềm năng, xu hướng phát triển
làng nghề truyền thống để đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát
triển làng nghề truyền thống ở Hà Tây trong quá trình CNH, HĐH nơng
nghiệp nơng thơn.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hoá lý luận cơ bản về làng nghề truyền thống.
- Tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới để rút ra bài học
kinh nghiệm.
- Từ thực trạng làng nghề truyền thống ở Hà Tây đề xuất giải pháp cụ
thể nhằm phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Phương hướng phát triển Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Tỉnh Hà
Tây.
4.2. Phương pháp
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic lịch sử, thống kê;

4


đồng thời điều tra thực tế và tập hợp nghiên cứu, kế thừa các kết quả của các
cơng trình đã nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu làng nghề truyền thống ở Hà Tây hiện nay
để đưa ra giải pháp phát triển cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Lý luận: hệ thống hoá về mặt lý luận sự ra đời, tồn tại, phát triển làng
nghề truyền thống, xác định vai trò làng truyền thống trong quá trình CNH,
HĐH.
- Thực tiễn: các giải pháp đề xuất sẽ làm cơ sở để tỉnh Hà Tây và các
làng nghề đưa ra chính sách phát triển kinh tế xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài có 3 chương, 6 tiết.

5



Chƣơng 1
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ VAI TRÒ
CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG Q TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ NƠNG NGHIỆP NƠNG THƠN
1.1. Vai trị của làng nghề truyền thống trong q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố nơng nghiệp nông thôn
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống là một hiện tượng kinh tế văn hố đặc sắc ở
Việt Nam. Để tìm hiểu về nó trước tiên ta tìm hiểu “Truyền thống”.
Truyền thống là thuặt ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của
một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ thế hệ
này qua thệ hệ khác. Truyền thống biểu hiện tính kế thừa là chủ yếu tuy nhiên
cũng có sự phát triển theo lịch sử.
Truyền thống được biểu hiện ở hình thức : truyền thống học tập, lễ hội
truyền thống, truyền thống dòng họ, nghề truyền thống.
Nghề truyền thống là nghề được lưu truyền từ đời này qua đời khác
(truyền nghề), lưu giữ kỹ thuật sản xuất (bí quyết nghề nghiệp), đúc kết kinh
nghiệm.
Nghề trong chữ nghề truyền thống được hiểu là các nghề phi nông
nghiệp. Nghề truyền thống thường được lưu giữ trong một gia đình, một dịng
họ, một làng, một vùng cho nên mới nói đất có nghệ.
Theo tiến sĩ Dương Bá Phượng, nghề thủ công truyền thống là những
nghề phi nông nghiệp ra đời trước thời Pháp thuộc và cịn tồn tại đến nay. Các
ngành nghề thủ cơng truyền thống ở nước ta được phân chia thành năm nhóm
sau (cách chia này chỉ là tương đối).

6



1) Mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: sơn mài, khảm trai…
2) Mặt hàng công cụ sản xuất như: sản xuất liềm, hái.
3) Mặt hàng phục vụ tiêu dùng thông thường như: dao, kéo.
4) Mặt hàng phục vụ cho sản xuất và đời sống như: nề, mộc, sản xuất
vật liệu xây dựng.
5) Mặt hàng được chế biến từ lương thực phẩm như: bánh cuốn, rượu.
Khi nói tới nghề truyền thống phải nói tới phường nghề, hội nghề. Đó là
những thợ thủ cơng cùng nghề nhóm họp lạI thành một tổ chức có luật lệ
riêng. Ví dụ: Thăng Long trước kia có 36 phố phường, trong đó có nhiều
phường nghề (Hàng Bạc, Hàng Khay…).
Cịn tổ nghề là những người có đức, có cơng dạy nghề, hay phát minh ra
nghề. Tổ nghề thì khơng nhất thiết phải là người ở điạ phương đó. Một số làng
tổ nghề được suy tơn là thành hoàng làng hoặc được lập miếu thờ.
Như vậy, nghề truyền thống là những nghề phi nông nghiệp tồn tại
trong một thời gian dài (trước Cách mạng Tháng tám) và thường gắn với một
địa phương nhất định. Ví dụ như rượu làng Vân.
1.1.1.2. Khái niệm làng nghề truyền thống
Thôn, làng là một thuật ngữ dùng để chỉ một đơn vị hành chính ở nơng
thơn bao hàm là một tập hợp cộng đồng dân cư trên một lănh thổ xác định, có
khả năng độc lập về kinh tế. Trong điều kiện chống ngoại xâm thiên tai thì họ
là một cộng đồng thống nhất. Họ cịn là một cộng đồng văn hố gắn liền biểu
tượng cây đa, giếng nước, mái đình, nhà thờ.
Xét về kết cấu kinh tế - xã hội thì nơng thơn Việt Nam đă hình thành
các loại làng:
- Làng thuần nơng, lâm, ngư nghiệp.
- Làng nơng nghiệp có nghề phụ.

7



- Làng dịch vụ (làng Triều Khúc).
- Làng nông - công thương kết hợp (phổ biến nhất).
Nếu coi nông nghiệp là chính cịn nghề để chỉ tất cả các nghề phụ ở
nông thôn để phục vụ sinh hoạt tận dụng thời gian thì tất cả nơng thơn Việt
Nam đều là làng nghề. Hiện nay, người ta quan niệm làng nghề dùng để chỉ
những làng mà trong đó có một nghề phát triển mạnh có ảnh hưởng quan trọng
đến đời sống kinh tế - xã hội của làng, tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho một
số lượng lao động nhất định và kỹ thuật nghề đó đạt đến trình độ tương đối.
Khi nói tới làng nghề người ta cịn nói tới xã nghề, phố nghề. Phố nghề
là kết quả của q trình đơ thị hố và mở rộng thị trường mới những người thợ
thủ công từ LNTT tụ họp lại. Còn xă nghề để chỉ sự lan toả của nghề vượt
khỏi phạm vi từ làng này sang làng khác.
Bảng 1. Tình hình phát triển làng nghề ở đồng bằng Sơng Hồng từ 1997 2000
Năm

1997

1998

1999

2000

Số làng nghề hiện có

526

565


576

581

Số LNTT hiện có

316

334

336

337

Số LNTT được

52

54

53

54

HĐH
Nguồn: điều tra đề tài 02.08/KHXH của Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội.
Đến năm 2002, ở đồng bằng Sơng Hồng có hơn 700 làng nghề được
cơng nhận.
Ở các địa phương khi xét công nhận danh hiệu làng nghề thì đều dựa

trên các tiêu chí sau:
- Tỷ lệ hộ, lao động làm nghề từ 40% trở lên.

8


- Giá trị sản xuất từ nghề đó chiếm khoảng 50% tổng giá trị sản xuất
của địa phương.
- Thu nhập từ nghề đó chiếm khoảng 50% tổng thu nhập của các hộ.
- Đó có thể là nghề tiểu thủ cơng nghiệp hoặc dịch vụ.
Làng nghề có thể là làng nghề mới (đặc biệt phát triển mạnh trong thờ i
kỳ đổi mới) ví dụ như làng may Cổ Nhuế - Hà Nội. Làng nghề có thể là
LNTT. Có những làng tồn tại hàng trăm năm.
Từ tất cả các quan niệm trên có thể rút ra LNTT là những làng mà trong
đó có những nghề đặc trưng cho địa phương được lưu giữ trong một thời gian
dài và tỷ lệ số hộ, lao động sống bằng nghề đó từ 40% trở lên và tạo ra 50%
giá trị sản xuất của địa phương và thu nhập của các hộ sản xuất.
Miền bắc là nơi tập trung nhiều LNTT nhất chiếm 79% cả nước, trong
đó tập trung nhiều nhất tại Hà Tây, Thanh Hóa, Bắc Ninh [54].
Hiện nay, cả nước có hơn 1450 làng nghề trong đó có sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế: doanh nghiệp nhà nước chiếm 14,1%, hợp tác xã
chiếm khoảng 5,8%, doanh nghiệp tư nhân 80,1% [66].
1.1.1.3. Một số đặc điểm cơ bản của sản xuất kinh doanh ở LNTT
* Điều kiện sản xuất kinh doanh
Nghề thủ công truyền thống từ nông nghiệp mà ra. Gắn liền sự phân
cơng lao động ở nơng thơn. Nên có thể nói NTCTT gắn bó chặt chẽ với nơng
thơn. Đặc điểm này phản ánh xuyên suốt quá trình phát triển LNTT. Đầu tiên
thợ thủ công là những người nông dân tranh thủ lúc nông nhàn. Nên địa điểm
sản xuất của NTCTT là tại gia đình họ. Gia đình vừa là nơi ở vừa là nơi sản
xuất. Họ tự quản lý công việc, thời gian lao động mọi lúc có thể, khơng phải

đầu tư kho xưởng. Sản xuất tại gia đình nên phù hợp hình thức tổ chức là hộ

9


kinh tế gia đình. Chủ yếu vốn của các gia đình là vốn tự có, hoặc vay mượn
người thân. Chính vì vậy, ở LNTT chủ yếu qui mơ sản xuất nhỏ.
Kỹ thuật sản xuất trong LNTT chủ yếu bằng phương pháp thủ cơng,
cơng nghệ cổ truyền,có một số cơng đoạn sử dụng cơ khí. Kỹ thuật đặc biệt
nhất của LNTT là đơi bàn tay vàng của người thợ được tích luỹ qua nhiều thế
hệ, giữ được tính chất bí truyền của nghề.
* Sản phẩm

Sản phẩm của LNTT nhằm để phục vụ đời sống sinh hoạt. Nó là các vật
dụng hàng ngày, có thể là những sản phẩm vừa có giá trị sử dụng vừa có giá
trị thẩm mỹ hoặc có thể dùng để trang trí ở nhà, cơng sở, nơi tơn nghiêm như
đình chùa. Sản phẩm cơng nghiệp nếu như khơng ghi mác nhãn thì nó sẽ xố
nhồ gốc tích. Ngược lại, với sản phẩm NTCTT nhìn vào nét hoa văn độ tinh
xảo của sản phẩm là có thể biết xuất xứ sản phẩm. Thậm chí trong LNTT thì
người ta có thể đánh giá gia đình nào có thể làm ra sản phẩm này. Như vậy sản
phẩm của NTCTT mang tính chủ quan sáng tạo hồn tồn phụ thuộc bàn tay
người thợ. Từ ốc trai, vỏ trứng có thể biến hoá thành những bức tranh tuyệt
vời. Dưới những bàn tay tài hoa các sản phẩm NTCTT bộc lộ những nét tinh
xảo điêu luyện, đạt tới đỉnh cao nghệ thuật trang trí. Và cũng vì thế ở các
LNTT sản phẩm chia loại chất lượng phụ thuộc trình độ người thợ, phụ thuộc
thị hiếu, mức tiền người tiêu dùng.
* Thị trường

Cũng như hàng hố khác, sản phẩm của LNTT sẽ khơng tồn tại nếu
khơng có thị trường.

Về các yếu tố đầu vào thì chủ yếu là ngun vật liệu trong nước, đây
chính là lợi thế của LNTT, nguồn nguyên liệu do địa phương hoặc các tỉnh lân

10


cận cung cấp. Nguồn nguyên liệu phụ thuộc thời vụ do tư thương cung cấp
nên giá cả lên xuống theo mùa.
Một điều rất đặc biệt một số NTCTT sử dụng nguyên liệu tận dụng như
xơ dừa nhưng mang lại hiệu quả rất lớn.
Về các yếu tố đầu ra - tiêu thụ sản phẩm. Thị trường đầu tiên của LNTT
chính là chợ làng nhằm phục vụ địa phương và các vùng lân cận. Một số sản
phẩm nổi tiếng của Việt Nam như đồ gốm, lụa tơ tằm thì đã được bán ra nước
ngồi cách đây vài trăm năm.
Phương thức thanh tốn trên thị trường chủ yếu là trao tay trực tiếp giữa
người sản xuất và người tiêu dùng.
* Lao động

Như trên đã nói, hình thức sản xuất của LNTT chủ yếu là hộ gia đình
nên nguồn lao động đầu tiên chính là các thành viên gia đình. Tuỳ theo cơng
đoạn mà có sự tham gia của mọi độ tuổi, nhưng bao giờ cũng có một người là
trụ cột chính về kỹ thuật. Vì là thành viên gia đình nên dạy nghề duới hình
thức kèm cặp trực tiếp. Để trở thành người thợ thủ cơng bình thường khơng
khó nhưng để trở thành thợ giỏi phải có thợ cả (nghệ nhân truyền nghề) và phụ
thuộc năng khiếu người học việc. Trong điều kiện hiện nay người thợ cả - thợ
giỏi của nghề đó, là những người tích luỹ được nhiều kinh nghiệm đươc coi là
chất xám trong các làng nghề, là bộ phận quan trọng trong việc truyền nghề
cho thế hệ trẻ.
Một nhược điểm của các LNTT là lực lượng lao động không có lý
thuyết về nghề nghiệp mà chỉ có kinh nghiệm nên khó chủ động, linh hoạt trên

thương trường.
1.1.2. Vai trị của làng nghề truyền thống trong đời sống kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Phát triển làng nghề truyền thống là góp phần giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc
11


Do lao động tại gia đình và thời gian mọi lúc nên các gia đình thợ thủ
cơng quản lý con em chặt chẽ. Mọi độ tuổi đều có cơ hội kiếm việc làm, cho
nên có thể nói ở các LNTT tệ nạn xã hội ít hơn so các làng khác, thu nhập ổn
định hơn. Ở các LNTT phát triển, hệ thống các trường học cấp cơ sở được
quan tâm, đường làng phong quang sạch sẽ, hình thành lên mơ hình mới ở
nơng thơn với đời sống văn hố phong phú, ổn định trật tự xã hội. Làng Đồng
Kỵ - Bắc Ninh có hơn 70% hộ có nhà tầng, trên 60% hộ có xe máy, gần 40%
hộ có điện thoại, 100% đường làng được bê tơng hố [72].
Đường nét trên sản phẩm của NTCTT là những tác phẩm nghệ thuật kết
hợp phong cách hiện đại. Với các hoa văn tinh vi sống động. Phản ánh cuộc
sống hàng ngày, thể hiện cảnh quan các cơng trình kiến trúc có giá trị nghệ
thuật cao như Chùa Một Cột, các lễ hội đặc sắc của văn hoá dân gian in đậm
dấu ấn của nơi sản xuất ra nó. Vì vậy, nó chính là sự phản ánh văn hố
vùng,văn hố dân tộc. Chính vì thế, người ta chọn hình tượng người phụ nữ
với nụ cười rạng rỡ dưới vành nón nghiêng là điểm đến của du lịch Việt Nam.
Ở một số LNTT ngày hội làng chính là ngày giỗ tổ nghề, trong đó lịng tơn
kính nghề nghiệp đã trở thành sinh hoạt vãn hoá cộng đồng.
Như vậy, bản sắc dân tộc được thể hiện qua các sản phẩm, nó thể hiện
giá trị thẩm mỹ trước sau đó mới đến giá trị kinh tế, kỹ thuật. Có thể nói
LNTT là kho báu văn hố dân tộc, lưu giữ truyền thống một cách cụ thể bền
vững nhất hấp dẫn du khách nước ngoài.
Làng gốm Bát Tràng hàng năm có trên nghìn lượt khách vào tham quan,
tìm hiểu lịch sử nghề gốm Việt Nam, mua hàng lưu niệm và ký hợp đồng

thương mại.
1.1.2.2. Vai trò của làng nghề truyền thống trong nền kinh tế
* Tận dụng nhân lực tăng thu nhập

12


Tạo việc làm là vấn đề cấp thiết hiện nay. LNTT được phát triển đóng
vai trị quan trọng thu hút việc làm, tận dụng lao động tránh tình trạng phát
triển chợ lao động tự phát lúc trái vụ, di dân tự do. Hiện nay, các LNTT ở Việt
Nam thu hút khoảng 30% lao động nông thôn, khoảng 11 triệu người và hơn
1,3 triệu hộ sản xuất. NTCTT phát triển kéo theo các ngành dịch vụ, càng thu
hút lao động không chỉ ở địa phương mà còn ở nơi khác. Làng gốm Bát Tràng
hàng ngày thu nhận khoảng 4.000 người đến làm thuê [79].
Thu nhập của lao động trong các LNTT theo điều tra cao gấp khoảng
1,8-4,5 lần hộ thuần nông. Thu nhập từ nghề thủ công chiếm 70% tổng thu
nhập. Đặc biệt với thợ kỹ thuật cao (thợ mỹ nghệ) thì tiền cơng khoảng trên
50.000đồng/ngày [20].
Nhờ có việc làm, thu nhập ổn định và cao nên mức sinh hoạt của người
dân được nâng cao, đẩy nhanh q trình đơ thị hố nơng thơn. Ở làng Bát
Tràng 100% hộ gia đình là mái ngói, mái bằng, trong đó có hơn 50% hộ nhà
hai tầng. Hộ sản xuát thủ công năng động trở thành biểu tượng sự giàu có ở
nơng thơn hiện nay. Ở các LNTT khơng có hộ đói, hộ nghèo chiếm tỉ lệ rất
nhỏ, tỉ lệ hộ giàu khoảng 30 - 40%. NTCTT có vai trị quan trọng trong việc
xố đói giảm nghèo [62].
Thu nhập nâng cao, tất yếu ở các LNTT có sự gia tăng giá trị sản phẩm,
tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình ở khu vực làng nghề luôn đạt hơn 9%
năm. Năm 1998, giá trị sản xuất làng nghề đạt 210 tỷ đồng, chiếm 75% tổng
giá trị sản xuất cơng nghiệp ngồi quốc doanh ở tỉnh Bắc Ninh. Hợp tác xã
Hồng Mai (làng Đồng Kỵ) mới thành lập năm 1994 mà đạt doanh thu trên một

tỷ đồng/năm. Năm 2002, tại xã Bát Tràng doanh thu đạt 95 tỷ đồng, thu thuế
ngoài quốc doanh đạt 1 tỷ 841 tỷ đồng [39].
* Gia tăng giá trị hàng xuất khẩu

13


Nội địa là thị trường đầu tiên của LNTT, nhưng ra thị trường thế giới thì
sản phẩm của NTCTT được xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh tranh cao
bởi vì tính độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc, là sự kết hợp hoàn mỹ giữa kỹ
thuật và thẩm mỹ, khơng thể sản xuất hàng loạt bằng máy móc được.
Di sản q báu mà cha ơng ta để lại là các NTCTT mà đặc biệt là nghề
thủ công mỹ nghệ. Từ thế kỷ XI, hàng thủ công mỹ nghệ đã được xuất khẩu ra
nước ngoài. Năm 1979, hàng thủ công mỹ nghệ chiếm 53,4 % tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước. Sau năm 1991, hàng thủ công mỹ nghệ gần như mất hoàn
toàn thị trường. Cùng với sự đổi mới của đất nước, nhờ vào tìm kiếm thị
trường, hiện nay hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào 8/10 mặt hàng xuất
khẩu tăng trưởng cao nhất. Năm 2000 có hơn 40,6% sản phẩm thủ công dành
cho xuất khẩu với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 235 triệu USD, năm 2002
ước đạt 331 tỷ đồng (niên giám thống kê năm 2000 và năm 2002) có thị
trường ở gần 100 nước, vùng lãnh thổ. Làng Đồng Sâm (Thái Bình) với trên
200 mặt hàng chạm bạc trong đó chủ yếu xuất khẩu sang các nước: Canađa,
Hoa Kỳ, Hàn Quốc… [64].
Các số liệu sau đây nói rõ tiềm năng hàng thủ cơng mỹ nghệ.
Bảng 2: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu từ 1998 - 2001
(đơn vị tính: triệu USD)
Mặt hàng

Năm
1998


1999

2000

2001

Mây tre đan

36,8

53,8

78,6

93,9

Mỹ nghệ

31,1

51,1

36,2

34

Thêu ren

35,3


32,6

50,5

54,7

Gốm sứ

55,1

83,1

108,4

117,1

Nguồn: + Niên giám thống kê năm 2000, NXB Thống kê, Hà Nội 2001

14


+ Niên giám thống kê năm 2002, NXB thống kê, Hà Nội 2003
* Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động
xã hội.
LNTT phát triển kèm theo nó là sự phát triển các dịch vụ đầu vào
nguyên liệu và đặc biệt quan trọng là đầu ra tiêu thụ. Vì thế, tất yếu cơ cấu
GDP ở nơng thơn có sự biến đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ tăng,
tỷ trọng nông nghiệp giảm. Năm 1990, tỷ trọng công nghiệp chỉ chiếm 9,8% ở
nông thôn, năm 2001 tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ đạt 38%, nông nghiệp đạt

62%. Tỷ trọng lao động nơng nghiệp giảm 80% năm 1994, xuống cịn 70%
năm 2001, lao động phi nông nghiệp tăng từ 20% lên 30% năm 2001 [3].
LNTT phá thế thuần nông nghiệp, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang
các ngành dịch vụ, công nghiệp nơng thơn. Và tác động kép của nó là các hộ
làm nơng nghiệp ở nơng thơn có điều kiện mở rộng qui mơ sản xuất, hình
thành kinh tế trang trại do ruộng đất được tích tụ vào một số hộ, ở các LNTT
thực tế xuất hiện mơ hình tổng hợp NTCTT - nghề nông - dịch vụ - chăn
nuôi. Sự phân công lao động mới cùng với sự mở mang cơ sở hạ tầng đã hình
thành sự đơ thị hố nơng thơn,cụm cơng thương nghiệp, phát triển kinh tế
hàng hoá, mở ra hướng du lịch làng nghề. Làng Bát Tràng đã hình thành cơ
cấu kinh tế thủ cơng nghiệp - thương mại - dịch vụ - du lịch.
Như vậy, phát triển LNTT đã góp phần hình thành cơ cấu kinh tế, phân
công lao động theo hướng CNH, HĐH.
1.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn với phát triển
làng nghề truyền thống
1.1.3.1. Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với làng nghề truyền
thống
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn tới sự phân công lao
động lần thứ hai, NTCTT tách ra khỏi nông nghiệp. NTCTT phát triển dẫn tới

15


sự xuất hiện công trường thủ công. Các-Mác đã chỉ rõ “Thoạt đầu cơng trường
thủ cơng đóng xe ngựa xuất hiện như là một sự kết hợp nhiều nghề thủ cơng
độc lập… nhưng cơng trường thủ cơng cũng có thể phát sinh một cách hoàn
toàn ngược lại. Nhiều người thợ thủ công cùng làm một việc như nhau hay
một loạt công việc giống nhau được một nhà tư bản tập hợp lại cùng một lúc
trong cùng một xưởng…” [40, tr.428].
Như vậy, NTCTT là sự mở đầu hình thành cơng nghiệp nơng thơn.

Cịn “CNH, HĐH ở nước ta là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xă hội từ sử dụng
sức lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biên sức lao động
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại toạ ra năng suất
lao động xã hội cao” [21, tr.511].
Thực chất quá trình CNH, HĐH là tạo ra các yếu tố cơ bản của lực
lượng sẩn xuất cho CNXH. Bộ phận quan trọng nhất của lực lượng sản xuất là
con người. Về mối quan hệ giữa người nông dân và người thợ thủ cơng thì
Lênin đã nói rất rõ “so với những người tiểu sản xuất hàng hố, thì người làm
nghề thủ cơng gắn bó với ruộng đất mạnh hơn” [35, tr.412].
Như vậy, LNTT chính là khởi đầu cơng nghiệp nông thôn, là một bộ
phận công nghiệp và là một đối tượng của q trình CNH, HĐH nói chung và
CNH, HĐH nơng thơn nói riêng.
1.1.3.2. Vai trị của làng nghề truyền thống trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn
Đại hội Đảng lần thứ tám đã đặc biệt coi trọng nhiệm vụ số một là
CNH, HĐH nơng nghiệp nơng thơn, bởi vì xuất phát điểm đi lên CNXH ở
nước ta từ một nước nông nghiệp. CNH, HĐH nơng nghiệp nơng thơn phải
bao gồm trong đó nhiệm vụ cơ bản: Phát triển các ngành nghề, LNTT và các
ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp.

16


Tiếp tục phát triển tinh thần trên, nghị quyết Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ
hơn để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nơng nghiệp nơng thơn phải: “...Đầu
tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát
triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp
chế biến, cơ khí phục vụ nơng nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận
quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo

nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống
nông dân và dân cư ở nông thôn...” [18, tr.39].
Nghị quyết Đại hội Đảng IX còn đặt ra vấn đề phát huy nội lực đất nước
trong quá trình xây dựng đất nước. LNTT chính là nguồn lực cịn bỏ ngỏ trong
nước. Do có tính độc đáo, nên sản phẩm của NTCTT được xếp vào nhóm
hàng có năng lực cạnh tranh, là lợi thế của một nước nông nghiệp.
Số liệu sau đây đã chứng minh lợi thế hơn hẳn của NTCTT.
Bảng 3: so sánh giá trị thực thu của một số mặt hàng xuất khẩu
Mặt hàng

Nguyên phụ liệu nhập khẩu

Giá trị thực thu

Giày dép, dệt may

Gần 80%

20%

Điện tử, máy móc

Hơn 90%

10%

Thủ cơng mỹ nghệ

Khoảng 3-5%


95%

Nguồn: Chương trình chúng tơi và các bạn trên intenet - VTV2 đài
truyền hình Việt Nam. Phát sóng 19h ngày 22/02/2003. Phát lại 15h ngày
23/02/2003.
Như vậy với 235 triệu USD xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm
2000 tương đương với 1140 triệu USD hàng dệt may, xấp xỉ 10% tổng kim
ngạch xuất khẩu.
Mặt khác vốn đầu tư cho hàng điện tử, dệt may lớn hơn rất nhiều lần so
với đầu tư vào các ngành nghề truyền thống.

17


Như vậy, phát triển LNTT chính là phát huy lợi thế so sánh, phát huy
nội lực đất nước trong quá trình CNH, HĐH.
Đảng ta xác định phát triển LNTT là một trong những nội dung của
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Phát triển LNTT là sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở nơng thơn theo hướng bố trí lại lực lượng lao động phù hợp quá trình
CNH, HĐH, hình thành cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ, tạo việc làm,
tăng thu nhập, thực hiện phương châm “ly nông bất ly hương”. Tất cả các
quốc gia ở châu Á khi tiến hành CNH nông nghiệp nông thôn đều đặt ra nhiệm
vụ phát triển LNTT.
1.2. Kinh nghiệm về làng nghề truyền thống ở một số nƣớc châu Á và một
số tỉnh ở nƣớc ta
1.2.1. Ở một số nước châu Á
+ Nhật Bản:
Tại Nhật Bản có hơn 867 nghề truyền thống bao gồm nhiều nghành
nghề khác nhau như chế tác kim hồn, sơn mài, chế biến lương thực phẩm...
trong q trình CNH đã hiện đại hố kỹ thuật cơng nghệ và tác động của đời

sống văn minh công nghiệp đã làm thay đổi một số thói quen trong sinh hoạt
của người dân, vì thế một số nghề thủ cơng truyền thống đã bị mất đi (nghề
sơn mài), còn một số nghề được duy trì phát triển. Nhật Bản đã chú trọng phát
triển loại hình xí nghiệp cơng nghiệp vừa nhỏ ở các gia đình làm nghề thủ
cơng nghiệp.
Nghề rèn có lịch sử phát triển hơn 700 - 800 năm, nhà nước chú trọng
khâu hiên đại hố kỹ thuật, các tập đồn sắt thép giúp đỡ khâu sản xuất phơi
thép, vì vậy sản lượng nông cụ xuất khẩu ngày càng tăng và có uy tín trong
khu vực.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, ở tỉnh OITA (miền Tây - Nam Nhật
Bản) đã có phong trào “mỗi thơn làng một sản phẩm" do đích thân tỉnh trưởng

18


phát động và tổ chức nhằm phát triển NTCTT. Kết quả tạo ra 270 loại sản
phẩm, thu nhập 1,2 tỷ USD [19, tr.37], [28].
+ Inđơnêxia:
Trong q trình CNH, Chính phủ đã quan tâm chú trọng các ngành nghề
truyền thống, hoạt động kinh tế ngồi nơng nghiệp ở nơng thơn. Đề ra các
chương trình phát triển ngành nghề truyền thống thơng qua việc thực hiện các
kế hoạch 5 năm:
Lần thứ nhất: nhằm xây dựng xưởng sản xuất và các trung tâm bán các
sản phẩm thủ công nghiệp.
Lần thứ hai: Thành lập các dự án phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Lần thứ ba: Hướng dẫn nghiệp vụ sản xuất kinh doanh cho các làng
nghề, tăng cường mạng lưới dịch vụ cung cấp thiết bị vật tư.
Cùng với chính sách chính phủ tổ chức ra hội đồng thủ công nghiệp
quốc gia nhằm thúc đẩy các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển như tổ

chức thi mẫu mă, hội chợ triển lãm sản phẩm. Thành lập trung tâm phát triển
tiểu thủ công nghiệp (BIPIK) để quản lý hỗ trợ nghề thủ công, kế hoạch phát
triển tiểu thủ cơng nghiệp được lồng vào các chương trình tạo việc làm ở nông
thôn. Đối với các làng kinh tế kém phát triển mỗi làng luân phiên được vay 20
triệu Rupi tiền vốn cho các hộ nghèo vay vốn để phát triển nông nghiệp và sản
xuất nghề thủ công truyền thống [19, tr.88].
+ Ấn Độ:
Chính phủ đặc biệt quan tâm và ra nhiều biện pháp, chính sách để bảo
tồn và phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ tạo ra ưu thế vươn ra thị
trường thế giới. Chính phủ đã tổ chức các trung tâm phát triển công nghệ và
thiết kế mẫu mã cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, như tại Niu-đê-li, Bombay nhằm nghiên cứu bảo tồn những nét đặc sắc của hàng thủ công mỹ nghệ.
19


Nhà nước quan tâm đến đội ngũ thợ cả lành nghề nhiều kinh nghiệm, họ được
coi là vốn quí quốc gia và được ưu đãi về vật chất tinh thần, đặc biệt có
những nghệ nhân được trợ cấp 500 Rupi/tháng. Viện thủ công mỹ nghệ quốc
gia là cơ quan nghiên cứu kinh tế kỹ thuật phục vụ yêu cầu phát triển ngành
nghề, nghiên cứu thị trường, hội trợ triển lãm, khoa học cơng nghệ, mẫu mã.
Ngồi ra, cả nước có 13 trung tâm đào tạo có nhiệm vụ nâng cao tay nghề cho
thợ cả. Kết quả của việc đầu tư quan tâm tới nghề truyền thống đã đưa Ấn Độ
trở thành một trong những quốc gia chế tác kim cương lớn nhất thế giới với
kim ngạch xuất khẩu 3 tỷ USD, chiếm 1/2 giá trị sản lượng kim cương trên
thế giới [19, tr.122].
+ Pakistan:
Nằm ở vùng Nam Á, trong quá trình CNH đã chú trọng kết hợp CNH
đơ thị với CNH nông nghiệp nông thôn. Để phát triển các NTCTT và công
nghiệp nhỏ ở nông thôn từ những năm 70, Chính phủ đã thực thi một số chính
sách như cung cấp vốn tín dụng giúp đỡ kỹ thuật và tạo điều kiện tiếp thị, chú
trọng đến các địa bàn các tỉnh có nền kinh tế chậm phát triển. Giảm thuế xuất

nhập khẩu đối với một số nguyên liệu, vật tư phục vụ các ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp và công nghiệp nông thôn [19, tr.133].
+ Thái Lan:
Thái Lan đề ra chương trình: mỗi làng một sản phẩm, với mục tiêu nâng
cao thu nhập, phát triển khả năng sáng tạo và nguồn nhân lực cộng đồng. Dựa
trên 3 nguyên tắc cơ bản:
- Thúc đẩy sản phẩm nổi bật của địa phương.
- Tăng cường sức sáng tạo và tính tự lập của cộng đồng.
- Phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tiên chương trình tuyên truyền nhằm làm cho cộng đồng hiểu biết
về mục tiêu chương trình để họ lựa chọn quyết định sản phẩm nổi bật của địa
20


phương mình tham gia chương trình, tiếp theo dự tính kinh phí, tiến hành sản
xuất và tiếp thị sản phẩm.
Khi chương trình “mỗi làng một sản phẩm” ra đời, thì tháng 11/2001
Chính phủ lập ủy ban quốc gia nhằm ban hành chính sách, vạch kế hoạch cụ
thể để thực hiện chương trình. Chương trình là cơ hội để các LNTT hàng trăm
năm khôi phục, các sản phẩm trứng muối, gạo rứt, dệt vải mắt mì... đã trở lại
thị trường. Quá trình khơi phục sản xuất do nhân dân tự tiến hành tổ chức
quản lý [65].
+ Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào:
Sản xuất nông nghiệp là một hoạt động kinh tế cơ bản nhất, để phát
triển kinh tế phải tập trung mũi nhọn vào ngành công nghiệp chế biến nông
sản - một bộ phận quan trọng của nghề thủ công truyền thống. Muốn vậy phải
có tổng hợp các giải pháp sau:
- Phát triển tồn diện và đa dạng hố hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh, chế biến nông sản. Đối với nông sản chế biến để tiêu dùng trong nước
thì lựa chọn cơng nghệ thích hợp, đối với nơng sản xuất khẩu thì đi thẳng vào

cơng nghệ cao. Trước mắt nên xây dựng qui mô vừa nhỏ, kết hợp cơng nghệ
truyền thống với hiện đại.
- Đa dạng hố sản phẩm, tăng thêm kiểu cách mẫu mã sản phẩm.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng
khoa học công nghệ. Các doanh nghiệp đề xướng quyết định đưa tiến bộ khoa
học vào sản xuất còn nhà nước hỗ trợ việc mở rộng thị trường ở tầm quốc gia
(thông qua bộ thương mại). Để hoạt động xuất nhập khẩu có hiệu quả cần phải
xác định mặt hàng mũi nhọn, tập trung mặt hàng truyền thống [29].
1.2.2. Ở một số tỉnh
+ Thanh Hoá:

21


Tại các huyện thuần nơng đã có sự quan tâm chỉ đạo về hướng phát
triển ngành nghề. Huyện Quảng Xương, cấp uỷ chỉ đạo phát triển tiểu thủ
công nghiệp, đa ngành nghề kết hợp với phương châm mỗi hộ phấn đấu có
thêm một nghề, phấn đấu để 41 xã của huyện đều có cụm sản xuất nghành
nghề tiểu thủ cơng nghiệp. Đã giải quyết việc làm cho 3.000 – 5.000 trên tồn
địa bàn, góp phần xố đói giảm nghèo cho huyện. Để ngành nghề phát triển
đạt hiệu quả phải nghiên cứu hàng hoá thị trường trong nước rồi mới quyết
định sản xuất kinh doanh, chọn mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Tiếp tới là chú
trọng xây dựng các làng nghề. Trước hết ở các LNTT mây tre đan như Quảng
Phong, Quảng Đức, chiếu cói ở Quảng Vọng, Quảng Phúc. Tồn huyện đã có
28 làng nghề được tỉnh cơng nhận, LNTT được coi là nòng cốt phát triển các
làng nghề ở địa phương, đưa nghề mới: se lõi, dệt thảm, xuất khẩu thuỷ sản
vào. Kết quả tổng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp năm 2002 đạt 136,2%,
giá trị xuất khẩu đạt 84 tỷ 165 triệu đồng. Huy động vốn bằng chủ trương tồn
huyện tham gia chương trình kinh tế tiểu thủ công nghiệp. Trong những năm
tới phấn đấu 4 chương trình kinh tế lớn, trong đó chương trình thứ tư là phấn

đấu mỗi xã xây dựng được một làng nghề, mỗi hộ có thêm được một nghề
mới.
Cịn tại huyện Nga Sơn, nơi nổi tiếng về chế biến các mặt hàng từ cây
cói thì tỉnh đã hỗ trợ giúp đỡ về vốn, mặt bằng, khuyến khích về cơ chế, cung
cấp thông tin, giới thiệu quảng bá sản phẩm. Một số người dân đã mạnh dạn
vay vốn thành lập xưởng sơ chế cói, lắp ráp từ 1.000 – 3.000 máy se lõi, đa
dạng hoá, cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng sản phẩm. Sau một thời gian
chiếu cói Nga Sơn đã tìm được chỗ đứng trên thị trường bất chấp hàng chiếu
nhựa, chiếu trúc Trung Quốc. Nhờ vực lại được mặt hàng chủ lực vượt qua
khủng hoảng đi vào thế phục hồi, phát triển với tốc độ tăng trưởng bình qn
12% năm. Kéo theo đó là sự phát triển các dịch vụ, xây dựng cơ khí. Cây cói

22


Nga Sơn được coi là 1 trong 3 mũi đột phá về kinh tế, đóng vai trị quan trọng
trong việc xố đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. Kết quả từ việc chú trọng
cây cói đã thu hút 11.000 lao động (gần 70%) lao động toàn huyện, thu nhập
của người sản xuất chuyên nghề khoảng 350 - 600 nghìn đồng/tháng, lao động
khơng chun từ 250 - 300 nghìn đồng/tháng [30], [36].
+ Đà Nẵng:
Nổi tiếng với thắng cảnh núi Ngũ Hành Sơn, dưới chân núi có làng đá
mỹ nghệ Non Nước với nghề truyền thống chạm khắc đá - những tác phẩm
nghệ thuật vượt thời gian. Sau ngày giải phóng làng nghề vẫn tồn tại nhưng
sản phẩm đá mỹ nghệ gần như khơng tìm được thị trường,đã có những người
bỏ nghề. Sau năm 1986, trong xu thế đổi mới, có nhiều thuận lợi làng nghề
Non Nước có cơ hội phát triển mạnh. Từ vài ba chục hộ đến nay đã có 400 500 lao động nghề, sản phẩm đá mỹ nghệ rất đa dạng như gạt tàn, vòng tay,
tượng... với các kiểu kích cỡ. Danh tiếng làng nghề lan xa, hàng năm có hàng
ngàn lượt du khách quốc tế tham quan làng nghề và mua sản phẩm đá mỹ
nghệ, bình quân mỗi du khách 20USD hàng đá lưu niệm. Kim nghạch xuất

khẩu tại chỗ của làng ước đạt 1triệu USD/năm.Một số cơ sở của làng đã ký
hợp đồng xuất khẩu ra nước ngồi giá trị từ vài nghìn đến hàng chục nghìn
USD. Doanh thu của làng non nước trong năm 2001 - 2002 đều hơn 30 tỷ
đồng/năm, một số hộ đạt 1 tỷ đồng/năm. Thu nhập đối với thợ chính hơn 2
triệu đồng/tháng, cịn bình qn 700-800 nghìn đồng/tháng. Các cơng đoạn xẻ
đá, mài đá đều được cơ khí hóa tạo ra năng suất lao động cao. Để cạnh tranh
giành khách du lịch một số hộ đã tự phát liên kết với hướng dẫn viên du lịch
và lái xe đưa khách đến chi hoa hồng, gây ra tình trạng giá cả lộn xộn. Hoạt
động kinh doanh tiêu thụ sản phẩm có nhiều bất cập, nên từ năm 2002 đã lập
đề án quy hoạch làng đá non nước phát triển làng đá cùng với du lịch dịch vụ,
bảo tồn khu danh lam [75].

23


+ Bắc Ninh:
Sau khi tái thành lập năm 1997, từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã
thu về cho ngân sách hơn 500 tỷ đồng, tỷ trọng nông nghiệp giảm còn 31,7%.
Đạt được kết quả này là do chủ trương đầu tư, khuyến khích đúng đắn:
- Nghị quyết số 12 của tỉnh đề ra chiến lược xây dựng và phát triển khu
công nghiệp, cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Có một chính sách
riêng dành cho phát triển khu công nghiệp làng nghề, đa nghề.
- Triển khai công tác qui hoạch xây dựng 18 khu công nghiệp (6 khu
công nghiệp làng nghề 12 khu công nghiệp đa nghề), với tổng diện tích qui
hoạch 428,37 ha.
- Các cơng trình hạ tầng kỹ thuật, được giao cho các huyện là chủ đầu
tư, còn tỉnh hỗ trợ tiền đất, san ủi mặt bằng, thiết kế điện nước.
- Nguồn quĩ khuyến công, khuyến thương của tỉnh hiện có hơn 3 tỷ
đồng được ưu tiên dành cho đề án phát triển làng nghề. Mỗi hộ gia đình sản
xuất tiểu thủ cơng nghiệp được cho vay khơng tính lãi 200 triệu đồng để đổi

mới dây chuyền thiết bị, kỹ thuật [42], [39].
+ Ninh Bình:
Tỉnh Ninh Bình có tiềm năng lớn để phát triển ngành nghề thủ cơng,
tính đến năm 2002 có 35 làng nghề được cơng nhận trong đó làng nghề truyền
thống chiếm gần 60%. Ninh Hải (huyện Hoa Lư ) là LNTT thêu ren nổi tiếng,
nằm sát khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, hàng năm có khoảng 50 – 60 nghìn
lượt khách tham quan du lịch đặt mua hàng, sản phẩm được quảng bá rộng rãi,
có năm doanh thu đạt 13 - 14 tỷ đồng, chiếm 65% GDP toàn xã. Doanh nghiệp
sản xuất Minh Trang đã xuất được một số lô hàng nhỏ khơng qua trung gian
sang Anh, Pháp. Khó khăn lớn đối với Ninh Hải là vấn đề vốn, để thu hút 10
lao động thì cần đầu tư 300 triệu đồng tiền vốn để đầu tư máy móc, nâng cao
chất lượng sản phẩm đáp ứng thị trường nước ngoài [22].
24


Cùng huyện Hoa Lư, xã Ninh Vân lại được nhiều người biết tới bởi
nghề chế tác đá mỹ thuật nỏi tiếng khắp nơi từ chậu hoa, bồn cá, tượng phật,
tới hệ thống trụ cột cổng đá đình chùa chạm khắc tinh vi, hồnh tráng, có
những cơng trình giá trị hàng trăm triệu.
Với thế mạnh ven biển huyện Kim Sơn lại phát triển mạnh nghề cói, có
12 hợp tác xã doanh nghiệp ngồi quốc doanh sản xuất hàng cói xuất khẩu gắn
với các LNTT ở Phát Diệm, Thượng Kim, Yên Mật...
Bên cạnh khơi phục phát triển nghề truyền thống, cịn hình thành nhiều
nghề mới, như cung chăn bông, đan lát mây tre, làm đồ gốm... Có thể khẳng
định ngành nghề nơng thơn ở Ninh Bình phát triển góp phần quan trọng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, tăng thu nhập. Nhìn chung hoạt động
sản xuất kinh doanh ở Ninh bình theo hai hướng: sản xuất hàng hóa tiêu thụ
trong nước và hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Các khâu sáng tác mẫu, ký
hợp đồng, sản xuất thử, chào hàng do các hợp tác xã, doanh nghiệp đóng vai
trị trung tâm. Thực trạng phát triển nghề thủ công truyền thống ở Ninh Bình

cịn chưa tương xứng tiềm năng, lợi thế của tỉnh, các doanh nghiệp đều thiếu
thủ tục, tài sản thế chấp khi vay vốn ngân hàng. Trang thiết bị yếu kém, chất
lượng sản phẩm yếu. Ngoài ra là thiếu thị trường, ít có khả năng tiếp cận thị
trường, xuất khẩu qua các công ty trung gian, nhà nước không quản lý được
giá xuất và giá thu mua dẫn tới một số chủ doanh nghiệp giàu có trong khi
ngày cơng người thợ thấp ảnh hưởng tới sản xuất [74].
+ Hà Nội:
Thăng Long là nơi hội tụ các phường nghề nổi tiếng như Hàng Khay,
Hàng Mã… Ngày nay, Hà Nội tiến hành đơ thị hố với tốc độ nhanh nhất,
thành phố ngày càng rộng mở. Đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, tất yếu
phải thu hút lao động sang ngành khác, chính vì thế khơi phục, phát triển các
LNTT được chú trọng. Hình thành nên các xã nghề, vùng nghề. Với 5 huyện

25


×