Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Một số Giải pháp cho đầu tư phát triển làng nghề truyền thống ở Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.03 KB, 69 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử 1000 năm Thăng Long-Hà Nội đã chứng kiến bao thăng trầm của
sự tồn tại và phát triển các làng nghề truyền thống.Các nghề và làng nghề đã góp
phần tạo dựng bản sắc văn hóa cho thủ đô, đóng vai trò quan trọng trong đời sống
kinh tế xã hộI, đặc biệt cùng với việc bảo tồn làng nghề truyền thống phát triển
và mở rộng làng nghề có ý nghĩa quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu nông thôn
ngoại thành theo hướng CNH-HĐH.
Trong thời gian qua, việc khuyến khích và mở rộng làng nghề đã được các
cấp lãnh đạo Trung ương và Thành phố quan tâm sâu sắc. Pháp lệnh Thủ đô và
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VIII cũng đã chỉ rõ định hướng
lớn về phát triển nghề và làng nghề trong quá trình phát triển nông thôn ngoại
thành theo hướng CNH-HĐH, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế hiện nay
Phát huy truyền thống phát triển nghề và làng nghề Thành phố Hà Nội,
quán triệt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Thành ủy Hà Nội,
HĐND và UBND Thành phố đã quan tâm và chỉ đạo các ban ngành địa phương
phát triển và mở rộng làng nghề. Đầu tư phát triển làng nghề sẽ góp phần tạo diện
mạo mới cho khu vực nông thôn ngoại thành, giữ gìn và phát triển tinh hoa văn
hóa phố nghề làng nghề, tạo bước tiếp cận của khu vực làng nghề với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ thực tiễn thực trạng tình hình đầu tư phá+t triển làng nghề truyền thống
Hà Nội những năm gần đây và quy hoạch phát triển làng nghề Hà Nội đến năm
2010, em quyết định chọn đề tài “ Một số giải pháp cho đầu tư phát triển làng
nghề truyền thống ở Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập” làm đề tài chuyên đề
thực tập tốt nghiệp
Qua đây em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Hồng Minh đã trực tiếp
hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này, cảm ơn các cán bộ CNV phòng kế
hoạch tổng hợp - Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội, cùng các thầy cô trong bộ môn
đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Tuy nhiên do thời gian và năng lực hạn chế nên chuyên đề còn nhiều thiếu
sót, rất mong được sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!


CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NỘI
1. Một số vấn đề chung về làng nghề truyền thống ở Việt Nam nói
chung và Hà Nội nói riêng.
1.1. Nghề và làng nghề truyền thống.
1.1.1.Khái niệm.
a. Khái niệm nghề truyền thống.
Nghề truyền thống trước hết là những nghề tiểu thủ công nghiệp được hình
thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được sản xuất tập trung tại một
vùng hay một làng nào đó. Từ đó hình thành các làng nghề, xã nghề. Đặc trưng
cơ bản nhất của mỗi nghề truyền thống là: phải có kỹ thuật và công nghệ truyền
thống, đồng thời có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề. Sản phẩm làm ra
vừa có tính hàng hóa vừa có tính nghệ thuật và mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc.
Nghề truyền thống ở Hà Nội rất phong phú và đa dạng, có những nghề đã
hình thành và tồn tại hàng trăm năm. Nhiếu sản phẩm truyền thống đã nổi tiếng ở
trong nước và thế giới: Gốm sứ Bát tràng có trên 600 năm, dệt sợi Triều Khúc tồn
tại và phát triển trên 300 năm…
Những nghề truyền thống thường được truyền trong phạm vi từng làng.
Ngày nay khoa học kĩ thuật và công nghệ phát triển mạnh mẽ, việc sản xuất các
sản phẩm có tính truyền thống được hỗ trợ bởi quy trình công nghệ mới với nhiều
loại nguyên liệu mới. Do vậy khái niệm nghề truyền thống cũng được nghiên cứu
và mở rộng hơn, có thể hiểu “ Nghề truyền thống bao gồm những nghề tiểu thủ
công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, được truyền từ đời này qua đời khác
còn tồn tại đến ngày nay, kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng những
loại máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền
thống, và đặc biệt sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét văn hóa đặc sắc của
dân tộc”.
b. Làng nghề truyền thống

Từ cách tiếp cận và nghiên cứu trên có thể định nghĩa: “ Làng nghề truyền
thống là những thôn làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách
ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm
phần chủ yếu trong năm. Những nghề thủ công đó được truyền từ đời này qua đời
khác, thường là nhiều thế hệ.Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ
công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo,với một tầng
lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất,
có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó.Sản phẩm làm ra
có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng hóa trên thị trường”
1.1.2.Phân loại nghề và làng nghề truyền thống
Hiện nay ở nước ta tồn tại nhiều nghề truyền thống khác nhau, phân bố
khắp nơi trong cả nước, được tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Hồng. Có
nhiều cách phân loại nghề, tuy nhiên có thể xem xét một số cách như sau:
* Phân loại theo trình độ kĩ thuật:
- Loại nghề có kĩ thuật đơn giản như: đan lát ở Kim Lũ, Xuân Thu huyện Sóc
Sơn,….chế biến lương thực thực phẩm ở Yên Viên huyện Gia Lâm, Mễ Trì
huyện Từ Liêm…sản phẩm của những nghề này có tính chất thông dụng, phục
vụ nhu cầu hàng ngày của dân cư nông thôn.
- Loại nghề có kĩ thuật phức tạp như các nghề: nghề chế tác Bạc Định Công,
đúc đồng Ngũ Xã, gốm sứ Bát Tràng, chạm khảm ở Liên Hà, Vân Hà…Các
nghề này không chỉ có kỹ thuật công nghệ phức tạp mà còn đòi hỏi ở người
thợ sự sáng tạo và khéo léo.
* Phân loại theo tính chất kinh tế:
- Loại nghề thường phụ thuộc vào nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên: chế biến
nông sản, sản xuất công cụ như : cày, bừa, liềm, hái…
- Loại nghề mà hoạt động của nó độc lập với quá trình sản xuất nông nghiệp.
- .Dựa vào giá trị sử dụng của các sản phẩm có thể phân loại các ngành nghề
truyền thống theo các nhóm chính như sau:
+ Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: Gốm sứ, chạm
khảm gỗ, chạm khắc đá, thêu, vàng bạc….

+ Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống như : nề, mộc, hàn, đúc
đồng, gang, nhôm, sản xuất vật liệu xây dựng, công cụ…
+ Các ngành nghề sản xuất các mặt hàn tiêu dùng như: dệt vải, dệt chiếu, khâu
nón…
+ Các ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm như: xay xát, làm bún bánh,
nấu rượu, nấu đường mật, chế biến thủy sản…
1.1.3.Đặc điểm làng nghề truyền thống
a. Đặc điểm về kỹ thuật, công nghệ:
Đặc điểm đặc trưng đầu tiên của nghề thủ công truyền thống là kỹ thuật
thủ công mang tính truyền thống và bí quyết dòng họ.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của sản xuất trong các
làng nghề truyền thống đã tạo nên một đặc điểm nữa, đó là sự kết hợp giữa công
nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại trong quá trình sản xuất. Sự kết hợp này
đã đem lại những ưu thế đặc biệt quan trọng: tạo ra năng suất lao động cao hơn
gấp nhiều lần so với lao động bằng phương pháp thủ công, sản phẩm được sản
xuất hàng loạt với chất lượng cao, giảm bớt sự nặng nhọc và độc hại cho người
lao động…
Đặc điểm về sản phẩm
Đặc điểm riêng nhất, đặc sắc nhất của sản phẩm truyền thống là độc đáo và
có tính nghệ thuật cao. Sản phẩm của mỗi làng, mỗi vùng mang một trình độ kỹ
thuật riêng và đặc trưng riêng của làng đó, vùng đó. Do vậy người ta có thể phân
biệt được sản phẩm gốm sứ của Bát Tràng với gốm sứ của Đồng Nai,…Các sản
phẩm đều là sự kết hợp giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ
thuật. Một đặc điểm nữa của sản phẩm truyền thống là mang tính riêng lẻ, đơn
chiếc. Đặc điểm này cũng do sự quy định của việc sử dụng công cụ thủ công và
công nghệ truyền thống. Tuy nhiên, chính vì xuất phát từ đặc điểm này mà sản
phẩm truyền thống thường có giá thành cao, mẫu mã không phong phú và chậm
được đổi mới. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế trong
cạnh tranh và mở rộng thị trường.
Sản phẩm truyền thống rất đa dạng và phong phú do phải đáp ứng các nhu

cầu của đời sống kinh tế và văn hóa của người lao động. Đây là điều kiện tốt để
các làng nghề truyền thống phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, thiết lập quan
hệ bạn hàng mới.
b. Đặc điểm về lao động
Đặc điểm nổi bật trong các làng nghề truyền thống là sử dụng lao động thủ
công là chính. Trước đây khi kỹ thuật công nghệ còn thô sơ, lạc hậu thì hầu hết
các công đoạn trong quy trình sản xuất đều do lao động thủ công đảm nhận, kể cả
những công đoạn nặng nhọc và độc hại nhất. Trong các làng nghề truyền thống
vai trò của các nghệ nhân rất quan trọng, được coi là nòng cốt của quá trình sản
xuất và sáng tạo ra sản phẩm. Chính các nghệ nhân là những người dạy nghề,
truyền nghề trực tiếp cho các thành viên trong gia đình hoặc dòng họ. Tuy nhiên,
từ sau hòa bình lập lại tình hình đã thay đổi. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp
được đẩy mạnh vào những năm 60 của thế kỉ trước, nhiều cơ sở quốc doanh, tập
thể làm các nghề tiểu, thủ công nghiệp truyền thống được thành lập và phát triển.
Cũng từ giai đoạn này phương thức dạy nghề và truyền nghề đã có nhiều thay đổi
và ngày càng đa dạng, phong phú với nhiều hình thức đào tạo từ hộ gia đình, tư
nhân, địa phương (huyện, xã) và nhà nước. Phương thức này cho đến nay vẫn
được xem là phương thức dạy nghề chủ yếu và có hiệu quả trong các làng nghề
truyền thống.
c. Đặc điểm thị trường
Thị trường là một yếu tố rất quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định tới sự tồn
tại và phát triển đối với mỗi làng nghề.
- Thị trường cung ứng nguyên, vật liệu: Thị trường nguyên vật liệu trước đây
chủ yếu là thị trường mua bán tại chỗ, nhất là đối với nguyên liệu phục vụ cho
nghề chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất sản phẩm tiêu dùng như đan
lát. Sau một thời gian nguồn nguyên, vật liệu này cũng cạn dần đi, do đó phải
được bổ sung bằng các nguồn ở nơi khác. Vì vậy khi sản xuất phát triển thì
cũng đồng thời xuất hiện những tổ chức và cá nhân chuyên khai thác hay làm
dịch vụ cung cấp nguyên, vật liệu cho các hộ và các cơ sở chuyên làm nghề.
Do vậy sau này đã hình thành một thị trường nguyên, vật liệu rộng lớn hơn,

không chỉ có những hộ chuyên cung cấp ở tại làng nghề đó mà đã có mạng
lưới những cá nhân, doanh nghiệp ở các địa phương khác chuyên làm dịch vụ
cung cấp theo những hợp đồng lớn cho các hộ gia đình và cơ sở sản xuất ở
làng nghề.
- Thị trường công nghê:. Ngày nay, dưới sự tác động của cách mạng khoa học
kỹ thuật, thị trường công nghệ trong làng nghề truyền thống đã có những bước
phát triển mới, nó có nhiệm vụ chuyển giao công nghệ mới, hiện đại vào quá
trình sản xuất nhằm thực hiện “ hiện đại hóa công nghệ truyền thống”, thay
thế công nghệ thủ công lạc hậu bằng công nghệ hiện đại để nâng cao năng
suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Thị trường vốn: tuy đã được hình thành nhưng vẫn còn nhỏ bé so với sức phát
triển của sản xuất.
- Thị trường lao động: được hình thành, phát triển và có nhiều yếu tố mới,
trước đây việc sử dụng lao động làm nghề chủ yếu là lao động tại địa phương
và mang tính chất thời vụ, hầu hết những người làm thuê chỉ đi làm vào lúc
nông nhàn. Hiện nay ngoài số lao động nông nhàn còn có một bộ phận lớn đi
làm thường xuyên trong suốt cả năm. Thị truờng lao động không chỉ có ở địa
phương có làng nghề truyền thống mà được mở rộng sang các vùng khác, tỉnh
khác, và đây đã trở thành nguồn cung cấp nhân lực quan trọng cho các làng
nghề truyền thống.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Loại thị trường này rất quan trọng, nó đóng vai
trò quyết định tới sự sống còn của một nghề hay của một làng nghề. Thị
trường tiêu thụ sản phẩm được hình thành trên cơ sở phát triển cơ sở sản xuất
và nhu cầu trao đổi hàng hóa. Tuy nhiên về cơ bản đó vẫn là thị trường tại
chỗ, nhỏ hẹp. Sau này khi sản xuất phát triển, sự trao đổi hàng hóa được mở
rộng, hệ thống chợ nông thôn phát triển, hệ thống chợ ở các làng nghề cũng
được hình thành và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên khả năng tiêu thụ còn
hạn chế và không ổn định do mức thu nhập và sức mua của người dân còn
thấp. Tuy thị trường nông thôn rộng lớn nhưng các vùng sản xuất thuần nông
lại chiếm tỷ lệ cao. Nhiều loại sản phẩm truyền thống được thị trường trong

nước chấp nhận và đã vươn tới nhiều vùng của đất nước.
Đối với thị trường nước ngoài thì từ lâu các sản phẩm truyền thống đã
thực sự hấp dẫn đối với nhiều khách hàng. Tuy nhiên sự đòi hỏi khắt khe của thị
truờng nước ngoài về chất lượng, chủng loại và sự thay đổi mẫu mã vẫn phải thể
hiện sắc thái riêng của có của văn hóa Việt Nam trong từng thời sản phẩm cũng
là một khó khăn cho sản xuất của các làng nghề.
- Đặc điểm về hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh: Trong lịch sử phát triển
làng nghề truyền thống, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh truyền thống
phổ biến nhất là hình thức hộ gia đình. Ngày nay bên cạnh hình thức này, một
số hình thức khác được ra đời và phát triển
- Hộ gia đình: là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong các làng nghề
truyền thống. Hộ gia đình vừa là một đơn vị sản xuất, một đơn vị kinh tế, vừa là
một đơn vị sinh hoạt.
- Tổ sản xuất: Là hình thức hợp tác, liên kết tự nguyện một số hộ gia đình
với nhau để cùng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó. Hợp tác là phương
thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế, là cơ sở tạo ra sức sản
xuất xã hội của lao động. Sự hợp tác kinh tế này đã tạo ra sự tương hỗ lẫn nhau
trong việc thực hiện các khâu của quá trình sản xuất.
- Hợp tác xã: Hợp tác xã kiểu mới ra đời trên cơ sở hợp tác các chủ thể
kinh tế tự chủ. Luật Hợp tác xã ra đời đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý rất cơ bản
cho sự vận động và phát triển của hợp tác xã trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần. Hình thức tổ
chức này được phát triển từ một số tổ chức sản xuất hoặc một số hộ gia đình có
tiềm lực kinh tế khá, có trình độ tổ chức và có khả năng tiếp cận thị trường. Ở
một số làng nghề truyền thống, hình thức này tuy không chiếm tỷ trọng lớn về số
lượng lao động nhưng lại đóng vai trò là trung tâm liên kết mà các hộ gia đình là
các vệ tinh, thực hiện các hợp đồng đặt hàng, giải quyết đầu ra, đầu vào cho các
hộ gia đình…
Trên đây là một số hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh cơ bản đã, đang
hình thành và phát triển ở các làng nghề truyền thống. Những hình thức này cùng

tồn tại đan xen, hỗ trợ nhau phát triển. Sự đan xen này đã đảm bảo sự thích ứng
của từng loại hình đối với nhu cầu sản xuất và đặc trưng của ngành nghề. Do đó
đã tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế ở các làng nghề
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
1.2. Vai trò , vị trí của ĐTPT làng nghề truyền thống Hà Nội trong hội nhập
và phát triển kinh tế- xã hội Thủ Đô
Vấn đề phát triển nghề và làng nghề đã được đề cập trong báo cáo tại hộI
nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ VII( khoá VII) : “ Phát triển các ngành nghề
và làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm cả tiểu thủ công
nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai
thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ
sản xuất và đời sống nhân dân”.
Việc phát triển ngành nghề nông thôn đã được nhấn mạnh hơn trong
phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005; “
mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về nông
thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật,
trao đồi nông sản hàng hoá ở nông thôn…,tăng nhanh việc làm cho khu vực phi
nông nghiệp”.
Như vậy việc phát triển làng nghề đóng vai trò chủ yếu sau:
1.2.1. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hoá
Trong quá trình phát triển, các nghề và làng nghề truyền thống đã có vai
trò tích cực góp phần tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ,
chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi
nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Khi nghề thủ công hình thành và phát triển thì
kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất, mà bên cạnh là
các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại và phát triển.
Xét trên góc độ phân công lao động thì các nghề và làng nghề đã có tác
động tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất

cho khu vực nông nghiệp và còn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ
ngành nông nghiệp.
Khác với sản xuất nông nghiệp, sản xuất trong các làng nghề là một quá
trình liên tục đòi hỏi một sự thường xuyên dịch vụ cung ứng vật liệu và tiêu thụ
sản phẩm. Do đó dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức đa
dạng phong phú, đem lại thu nhập cao cho người lao động.
Sự phát triển của làng nghề truyền thống có tác dụng rõ rệt với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH. Sự
phát triển lan toả của làng nghề truyền thống đã mở rộng quy mô địa bàn sản
xuất, thu hút nhiều lao động. Đến nay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt
60-80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20-40% cho nông nghiệp.
1.2.2. Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Theo điều tra , bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề ở các làng nghề tạo
việc làm ổn định cho 27 lao động thường xuyên và 8-10 lao động thời vụ, mỗi
hộ chuyên nghề tạo việc làm cho 4-6 lao động thường xuyên và 2-5 lao động thời
vụ. Nhiều làng nghề không những thu hút lực lượng lao động lớn ở địa phương
mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động ở các địa phương khác. Chẳng hạn, làng
nghề Gốm sứ Bát Tràng ngoài việc giải quyết việc làm cho gần 2430 lao động
của xã, còn giải quyết thêm việc làm cho khoảng 5500-6000 lao động của các
vùng lân cận đến làm thuê.
Hơn nữa, sự phát triển của các làng nghề truyền thống đã phát triển và hình
thành nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất hiện, tạo thêm
nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Mặt khác, việc phát triển các ngành
nghề tại các làng nghề ở nông thôn sẽ tận dụng tốt thời gian lao động, khắc phục
được tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp, góp phần phân bổ hợp lý lực lượng
lao động nông thôn. Trên phương diện kinh tế, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
truyền thống đã đem lại kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu đô la mỗi năm.
Trên phương diện xã hội xuất khẩu hàng thủ công truyền thống là nhân tố quan
trọng để kích thích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu lao động
thủ công chuyên nghiệp và nhàn rỗi. Nếu so sánh thu nhập của lao động ngành

nghề cao hơn khoảng 2-4 lần. Những làng nghề có thu nhập cao như làng Gốm
Bát Tràng, bình quân thu nhập của các hộ thấp đạt 15-20 triệu đồng/năm, của các
hộ trung bình là 40-50 triệu đồng/năm, các hộ có thu nhập cao đạt hàng trăm triệu
đồng/năm.
1.2.3. Thu hút vốn nhàn rỗi, tận dụng thời gian và lực lượng lao động, hạn
chế di dân tự do.
Khác với một số ngành nghề công nghiệp, đa số các làng nghề không đòi
hỏi số vốn đầu tư lớn, bởi rất nhiều nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ do thợ
thủ công tự sản xuất được. Đặc điểm của sản xuất trong các làng nghề là quy mô
nhỏ, cơ cấu vốn và lao động ít nên rất phù hợp với khả năng huy động vốn và các
nguồn lực vật chất của các gia đình. Đó là lợi thế để các làng nghề có thể huy
động các loại vốn nhàn rỗi trong dân vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt
khác, do đặc điểm sản xuất sử dụng lao động thủ công là chủ yếu, nơi sản xuất
cũng chính là nơi ở của người lao động nên bản thân nó có khả năng tận dụng và
thu hút nhiều lao động, từ lao động thời vụ nông nhàn đến lao động trên độ tuổi
hay dưới độ tuổi lao động. Trẻ em vừa học và tham gia sản xuất dưới hình thức
học nghề hay giúp việc. Sự phát triển của nghề và làng nghề đã có vai trò tích cực
trong việc hạn chế di dân tự do ở nông thôn. Quá trình này xét trên bình diện
chung của nền kinh tế đã có những tác động tích cực làm giảm sức ép việc làm ở
khu vực nông thôn, đáp ứng nhu cầu lao động giản đơn ở thành phố; đồng thời
làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống xã hội, giảm bớt đói nghèo cho người dân
nông thôn. Tuy nhiên nó lại có những tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế-xã
hội, gây áp lực đối với dịch vụ, cơ sở hạ tầng xã hội ở thành phố và là một khó
khăn lớn trong vấn đề quản lý đô thị.
1.2.4. Đa dạng hoá kinh tế nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá
Đa dạng hoá kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng
của công nghiệp hoá nông thôn. Trong mối quan hệ biện chứng của quá trình sản
xuất hàng hoá, các nghề thủ công truyền thống đã phá vỡ thế độc canh trong các
làng thuần nông, mở ra hướng phát triển mới với nhiều nghề trong một làng nông
nghiệp. Đồng thời cùng với sản xuất nông nghiệp, làng nghề đã đem lại hiệu quả

cao trong việc sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực ở nông thôn như đất đai,
vốn, lao động, nguyên vật liệu, công nghệ, thị truờng. Vì vậy một nền kinh tế
hàng hoá với sự đa dạng của các loại sản phẩm được hình thành và phát triển. Ở
những vùng có nhiều ngành nghề phát triển thường hình thành trung tâm giao lưu
buôn bán, dịch vụ và trao đổi hàng hoá. Những trung tâm này ngày càng được
mở rộng và phát triển, tạo nên một sự đổi mới trong nông thôn. Hơn nữa, sự tích
luỹ của người dân trong làng nghề cao hơn, có điều kiện để đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng như đường sá, nhà ở, và mua sắm các tiện nghi sinh hoạt. Nông thôn
đổi thay và từng bước được đô thị hoá qua việc hình thành các thị trấn, thị tứ. Vì
vậy dễ nhận thấy rằng ở một số làng nghề phát triển thì ở đó hình thành một phố
chợ sầm uất của các nhà buôn bán, dịch vụ. Xu huớng đô thị hoá nông thôn là xu
hướng tất yếu, nó thể hiện trình độ phát triển về kinh tế-xã hội ở nông thôn, là
yêu cầu khách quan trong phát triển làng nghề ở ngoại thành Hà Nội.
1.2.5. Bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc
Lịch sử phát triển của làng nghề truyền thống gắn liền với lịch sử phát triển
văn hoá của dân tộc, nó là nhân tố góp phần tạo nên nền văn hoá ấy, đồng thời là
sự biểu hiện tập trung nhất bản sắc của dân tộc.Các làng nghề phát triển sẽ bảo
tồn, duy trì và phát triển nhiều ngành nghề và các giá trị văn hoá của dân tộc.
Nghề truyền thống, đặc biệt là nghề thủ công mỹ nghệ là những di sản văn
hoá quý báu mà các thế hệ cha ông đã sáng tạo ra và truyền lại cho các thế hệ
sau.Cho đến nay, nhiều sản phẩm làng nghề là hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo,
độc đáo, đạt trình độ bậc cao về mỹ thuật còn được lưu giữ, trưng bày tại nhiều
viện bảo tang nước ngoài.
1.3.Nhân tố ảnh hưởng đến ĐTPT làng nghề tại Hà Nội
1.3.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Hà Nội
Hà Nội nằm trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp 5 tỉnh: Thái
Nguyên, Bắc Ninh, Vĩnh phúc, Hà Tây, Hưng Yên. Đây là điều kiện thuận lợi
cho việc phối hợp, phát triển làng nghề của Hà Nội. Thành phố gồm 9 quận Nội
thành ( Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh
Xuân, Hoàng Mai,Long Biên) và 5 huyện ngoại thành ( Sóc Sơn, Đông Anh, Gia

Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì) với tổng diện tích 920,97 km
2
. Diện tích đất ngoại
thành chiếm 91%, nội thành chỉ có 9%. Trong tổng diện tích đất tự nhiên diện
tích sông hồ chiếm 5,9%, núi đá chiếm 0,13%.
Địa hình Hà Nội khá đa dạng làm nền tảng cho cảnh quan thiên nhiên,tạo
những nét độc đáo cho phong cảnh, cũng như cho việc phát triển các loại hình
kinh tế.
Mạng lưới sông ngòi trên địa bàn Hà Nội khá dày đặc, khoảng 0,5km/km
2
thuộc hệ thống sông chính là sông Hồng tạo nên hệ thống giao thông thuận lợi
bằng đường sông với nhiều tỉnh thành phía Bắc. Hệ thống giao thông bằng đường
sông thuận lợi cho việc phát triển các làng nghề, nổi bật là: các làng nghề thuộc
huyện Gia Lâm như: Bát Tràng, Liên Hà, Vân Hà…
Trên địa bàn Hà Nội và các khu vực lân cận có khá nhiều loại khoáng sản
khác nhau thuộc 6 nhóm: khoáng sản cháy cứng, kim loại quý, nguyên liệu hoá
học, nguyên liệu gốm sứ, vật liệu xây dựng và nước khoáng… Đây cũng là
những điều kiện thuận lợi, là nguồn cung cấp nguyên vật liệu phục vụ cho việc
sản xuất những sản phẩm thủ công như gốm ,sứ, đồng…
Như vậy với vị trí đía lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi cũng như là trung
tâm kinh tế xã hội của cả nước Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng gắn liền
với tam giác kinh tế trọng điểm lớn Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh. Hà Nội là
địa bàn có hạ tầng cơ sở tương đối phát triển và hoàn thiện so với cả nước, đây là
yếu tố thuận lợi quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các làng
nghề truyền thống trên địa bàn.
1.3.2. Truyền thống văn hoá Thăng Long-Hà Nội
a.Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội,sự xuất hiện nghề,làng nghề,phố nghề.
Hà Nội được coi là Thủ đô thiên nhiên của châu thổ sông Nhị, của miền
bắc Việt Nam. Mùa thu năm Canh Tuất ( 1010), Lý Công Uẩn dời đô, đổi tên Đại
La thành Thăng Long, giữ vị trí là kinh đô của cả nước. Từ một làng nhỏ ven

sông Tô, trải qua thành Vạn Xuân ( thời Tiền lý), thành Tống Bình- Đại La (thời
Tuỳ, Đường). Đầu thế kỷ 11, Thăng Long đã trở thành một vung dân cư tập trung
và cơ sở ban đầu của thành thị Hà Nội. Bên ngoài cấm thành là khu dân cư gồm
những làng xóm nông nghiệp, những phố phường thủ công thương nghiệp và
những bến chợ tấp nập, đông vui.
Do nhu cầu của xã hội, do vị trí làm ăn buôn bán thuận tiện, thợ thủ công
và thương nhân các nơi đổ về Thăng Long, phường thủ công và phố xá xuất hiện
đông đúc. Thăng Long đến thời Hậu Lê rút lại cò 36 phường. Con số 36 phố
phường Hà Nội bắt đầu từ đây. Thực ra, phường lúc này vừa là một đơn vị hành
chính cơ sở (như xã) vừa là tập hợp những người cùng hành nghề. Có thể thấy rõ
sự hình thành và phát triển các làng nghề, phố nghề đã thể hiện trình độ phân
công lao động xã hội, thủ công nghiệp dần tách khỏi nông nghiệp. Xét đến cùng
thì về hình thái kinh tế làng nghề ở Việt Nam nói chung và Thăng Long nói riêng
vẫn là làng nông nghiệp-thủ công-thương nghiệp.
b. Làng nghề,phố nghề Hà Nội phong phú và đa dạng
Chỉ nói riêng về nghề thủ công, sự xuất hiện và diễn tiến của phường phố
thủ công kiêm thương nghiệp ở nội đô với các làng nghề ven đô và ngoại thành
có những quy luật khác nhau. Phường phố thường diễn tiến theo quy luật hội tụ
và kết tinh tài hoa tứ xứ. Những thợ thủ công tài hoa của các nơi giỏi một nghề
nào đó và mang nghề đó từ quê hương lên kinh thành làm ăn, đua tài, ở đây diễn
ra sự cạnh tranh rất gay gắt.
Còn làng nghề ven đô và ngoại thành thì thường diễn tiến tự sinh và là một
yếu tố nội sinh. Kết cấu dân cư chủ yếu là dân sở tại, nhưng nghề nghiệp có thể
phát triển hay chuyên sâu, lại phải do sự kích thích của nội đô. Người thợ tìm
thấy ở nội đô một nơi tiêu thụ lí tưởng. Xung quanh Thăng Long-Đông Kinh
mọc dần các làng nghề chuyên doanh đặc sản: Làng rau kẻ Láng, làng hoa Ngọc
Hà, Quất Nghi Tàm, đào Nhật Tân…
Chúng ta biết do có sự giao lưu chính trị, kinh tế và văn hoá nên đã xuất
hiện một số nghề mới học được của nước ngoài. Thí dụ thế kỷ 17, Vũ Uy đi sứ
Trung Hoa học được nghề thao về dạy cho dân làng Triều Khúc, cũng như Lê

Công Hành học được nghề làm lọng và thêu, gần đây ( cận đại) ta học được nghề
thêu ren( pháp)…
Tóm lại nghề thủ công truyền thống Thăng Long-Hà Nội được hình thành
do 4 nguồn gốc khác nhau. Thứ nhất là những nghề có sẵn ở các làng mạc, thôn
xóm, từ trước khi Thăng Long trở thành kinh đô của cả nước. Thứ hai là do
những biến cố lịch sử, thợ thủ công ở nơi khác kéo nhau về ngoại đô, tìm chỗ
thuận tiện lập nên làng xóm để hành nghề như làng Gốm Bát Tràng do dân Bồ
Bát( Ninh Bình) và Vĩnh Ninh( Thanh Hoá) chuyển cư ra.Thứ ba là thợ thủ công
các nơi kéo về nội đô làm ăn, họ mang theo những nghề đặc sắc của quê hương
mình, vừa sản xuất vừa bán sản phẩm của một hay vài ba làng nhất định.Thứ tư
là sự du nhập và phát triển của các nghề mới trong các làng thuần nông hoặc các
làng đang trong quá trình đô thị hoá bị mất đất tạo thành làng nghề mới…
1.3.3. Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đô thị hóa
trên địa bàn Thủ đô.
Trong hơn 10 năm qua, Thủ đô Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong phát triển kinh tế-xã hội.Nhìn lại chặng đường xây dựng và phát triển vừa
qua có thể khái quát như sau:
a.Tăng trưởng kinh tế Hà Nội đã đạt tốc độ cao nhất từ trước đến nay.
Trong 10 năm qua tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Hà
Nội đạt 11,6%( cả nước là 7,5%), trong đó công nghiệp tăng 13,8%, nông lâm
nghiệp tăng 4,5% và dịch vụ tăng 11%.Riêng thời kì 5 năm từ( 1996-2000), Hà
Nội đã vượt lên khó khăn và thách thức,GDP đạt mức tăng trưởng bình quân năm
là 10,7%( cả nước là 6,7%), trong đó công nghiệp tăng 14%, nông lâm nghiệp
tăng 3,4% và dịch vụ tăng 9,5%.Năm 2001,tốc độ tăng trưởng GDP của Thành
phố tăng 10,03% năm 2002 là 10,3% và năm 2003 tổng sản phẩm nội địa( GDP)
tăng 11,1% là mức tăng cao nhất trong mấy năm trở lại đây, trong đó giá trị các
ngành dịch vụ tăng 7,38%, giá trị sản xuất công nghiệp-xây dựng tăng 18,06% ,
lĩnh vực nông lâm nghiệp tăng 2,23%.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm thời kỳ 1991-2000 và
2001-2005

Đơn vị tính:%
Chỉ tiêu 1992-2002 2003 2004 2005
GDP 11,6 10,03 10,3 11,1
CN-XD 13,8 9,23 13,44 18,06
Nông-lâm 4,5 1,16 2,56 2,23
Dịch vụ 11,0 11,07 9,84 7,38
(Nguồn:Quy hoạch pt KT-XH HN thời kì 2001-2010 và niên giám thống kê HN)
a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của Thành phố trong những năm gần đây chuyển dịch theo
hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp, theo hướng giảm dần tỷ trọng nông
nghiệp, tăng dần tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiêp.Năm 2000, thuơng mại-
dịch vụ chiếm tỷ trọng 58,3%, tiếp theo là công nghiệp với tỷ trọng 37,9%, lĩnh
vực nông nghiệp chiếm 3,8%.Năm 2001 CN chiếm 36,8%, NN chiếm 2,7%, DV
chiếm 60,5%.Năm 2003 CN chiếm 42,06%, NN chiếm 2,26%, DV chiếm
55,68%.
Bảng 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Đơn vị tính:%
Năm
Lĩnh vực
1991 1995 2002 2003 2004 2005
Công
nghiệp
25,9 33,1 37,9 36,8 38,82 42,06
Nông
nghiệp
8,1 5,4 3,8 2,7 2,48 2,26
Dịch vụ 66 61,5 58,3 60,5 58,7 55,68
(Nguồn:Quy hoạch pt KT-XH HN thời kì 2001-2010 và niên giám thống kê HN)
Trong cơ cấu GDP của Thành phố năm 2002, kinh tế Nhà Nước Trung ương
đóng vai trò chủ đạo( chiếm 53%), kinh tế nhà nước địa phương chiếm 7,7%,

khu vực ngoài quốc doanh chiếm 20,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm 15,5%.
Bảng 3: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính:%
Năm
Các thành phần kinh tế
2002 2003 2004
1.khu vực kinh tế trong nước 80,5 81,5 81,5
-kinh tế nhà nước TW 52,1 53,4 53
-kinh tế nhà nước địa phương 7,9 7,8 7,7
- kinh tế ngoài nhà nước 20,5 20,3 20,8
2.khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài
16,3 15,3 15,5
(Nguồn:Niên giám thống kê HN 2004)
b. Quá trình đô thị hóa
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, áp lực
tạo ra đối với việc sử dụng đất , nhất là đất ở đô thị ngày càng lớn.Sự gia tăng
dân số nhanh( chủ yếu là gia tăng cơ học) đã gây áp lực lớn cho quản lý đô thị
và nhu cầu sử dụng đất.Mặt khác,các dự án đầu tư trên địa bàn thành phố có
số lượng lớn và quy mô ngày càng tăng .
Theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thời kì 2001-2010 Hà Nội sẽ chuyển
mục đích sử dụng khoảng hơn 22 nghìn ha đất sáng phát triển đô thị và công
nghiệp, trong đó diện tích đất nông nghiệp phải thu hồi, chuyển mục đích sử
dụng là 10.166 ha. Bên cạnh thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, dự kiến tổng
diện tích đất ở khu vực nông thôn phải giải tỏa đền bù khoảng 845 ha, số hộ
gia đình phải di dời đến năm 2010 khoảng 35.000 hộ.
Như vậy trong thời gian qua và thời gian tới quá trình đô thị hóa sẽ diễn ra
mạnh mẽ, điều này sẽ có tác động lớn đến các vấn đề quản lý đô thị, giải
quyết việc làm nhất là vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp đối với những vùng bị

mất đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối với những làng xã có nghề
truyền thống.
1.3.4.Nguồn nhân lực-yếu tố quan trọng phát triển nghề và làng nghề
a. Quy mô dân số, nguồn nhân lực
Hiện nay, dân số Hà Nội có khoảng 2,8726 triệu người,( trong đó thành thị có
1,659 triệu người chiếm 57,8%, nông thôn 1,213 triệu người chiếm
42,2%).Tốc độ phát triển dân số Hà Nội tăng nhanh, bình quân hàng năm thời
kỳ 1991-2000 tăng 2,9%. Tốc độ tăng cơ học ngày càng cao.Đây cũng là tiềm
năng lớn và có ảnh hưởng tới phát triển nghề và làng nghề ở Thủ đô trong
những năm tới.
b.Trình độ văn hóa,chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Hà Nội
-Trình độ văn hóa
Tỷ lệ biết chữ của dân số Hà Nội là 99,6%, số người chưa biết chữ trong
độ tuổi lao động có khoảng 4360 người tập trung chủ yếu ở khu vực nông
thôn ngoại thành
Hà Nội là địa phương đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học đầu tiên trong cả
nước.Trình độ văn hóa của người lao động cao,có 85,96% số người tốt nghiệp
trung học cơ sở trở lên.Đây là một yếu tố thuận lợi cho việc đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho phát triển làng nghề
Hà Nội nói riêng.
- Trình độ chuyên môn của lực lượng lao động Hà Nội.
Số người được đào tạo có bằng từ sơ cấp trở lên chiếm trên 32%, trong khi đó
cả nước có 13,3%.Số lao động có chứng chỉ ngoại ngữ chiếm 9,66%.
Lao động có trình độ công nhân kỹ thuật có bằng chiếm 10,1% trong đó
thành thị chiếm 12,5% và nông thôn chiếm 6,4%
Lao động có trình độ Đại học, Cao đẳng chiếm 11,1%( chủ yếu làm trong
các cơ quan quản lý nhà nước), trong đó ở thành thị là 17,1% và nông thôn là
2,1%.Qua số liệu cho thấy: Lao động có trình độ, chuyên môn kỹ thuật chủ
yếu tập trung ở thành thị, ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ nhỏ.
Trình độ lao động chuyên môn kỹ thuật của nguồn lao động Hà Nội là cao

nhất trong toàn quốc.Là nơi có tiềm lực khoa học kỹ thuật lớn nhất cả nước,
đây là một lợi thế quan trọng vào bậc nhất của Hà Nội.
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát
triển.Nguồn nhân lực của làng nghề truyền thống bao gồm những nghệ nhân,
những người thợ thủ công và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh.Những
nghệ nhân có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề,
đồng thời là những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang đậm dấu
ấn truyền thống. Song một hạn chế rất lớn là chất lượng nguồn lao động chưa
cao,trình độ chuyên môn và trình độ văn hóa thấp, nhất là đối với các chủ
doanh nghiệp, là một lực cản lớn trong việc phát triển sản xuất theo hướng
CNH-HĐH.
1.3.5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề
Trong giai đoạn hiện nay, các yếu tố của nền kinh tế thị trường đã tác động
trực tiếp đến các họat động sản xuất kinh doanh của làng nghề.Sản xuất của
làng nghề đã trở thành sản xuất hàng hóa, chịu sự tác động khách quan của
quy luật cung cầu, giá cả, lợi nhuận và cạnh tranh.
*Tiềm năng về thị trường tiêu thụ trong nước
Nhu cầu tiêu thụ trong nước đối với sản phẩm của các làng nghề, nhất là
các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và lương thực- thực phẩm chế biến sẽ tăng
khá nhanh trong thời gian tới bởi các lý do và theo các xu hướng sau:
Sự phát triển có tính bùng nổ về xây dựng nhà ở và mua nhà ở của khu dân cư
hiện nay và tiếp diễn trong thời gian tới sẽ thúc đẩy các gia đình tăng nhu cầu
trang trí cho những ngôi nhà đó bằng những đồ vật phù hợp với họ, tức là
những đồ vật chứa đựng cá tình phù hợp từng nguời.
Hà Nội có nhiều lợi thế về phát triển du lịch nên đang là điểm đến hấp dẫn
của khách du lịch quốc tế. Khách du lịch có xu hướng tăng chi tiêu cho việc đi
lại và mua sắm quà lưu niệm, trong đó khách nước ngoài có mức độ chi cao
hơn( Theo tổ chức du lịch thế giới, năm 2003, mức chi tiêu bình quân của
mỗi khách nước ngoài ở các nước Đông Nam Á là 950USD).Đây là nhân tố
có tính động lực thúc đẩy phát triển nhanh thị trường tiêu thụ trong nước và

xuất khẩu tại chỗ sản phẩm làng nghề thủ công,nhất là hàng thủ công mỹ nghệ
và chế biến lương thực, thực phẩm.
*Tiềm năng về thị trường thế giới
Trong thời kỳ tới, nhu cầu thị trường thế giới về các sản phẩm của các làng
nghề, nhất là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ , sẽ tiếp tục tăng nhanh bởi các
lý do, xu hướng sau:
-Một số lượng lớn người tiêu dùng, khách hàng ở các nước Châu Âu, Bắc Mỹ,
Nhật Bản và các nước công nghiệp mới Châu Á đang hướng đến những sản
phẩm mang tính dân tộc, tính nghệ thuật cổ truyền dân gian,sản phẩm sản xuất
thủ công.
-Dưới tác động của những tiến bộ kỹ thuật, trên thế giới và nhất là ở các nước
công nghiệp phát triển đang diễn ra một sự biến đổi có tính chất cách mạng về
thiết kế và thị hiếu mới của người tiêu dùng
-Mục tiêu các thị trường xuất khẩu hàng đầu của các làng nghề là châu Âu
( 24,3%), Hàn Quốc và Đài Loan( 19,8%), Nhật Bản ( 17,4%), Mỹ( 7,7%)…
Thị trường Mỹ hiện tại tuy mới chiếm tỷ trọng nhỏ( 2,4%) kim ngạch xuất
khẩu sản phẩm làng nghề thủ công Việt Nam, nhưng đây là thị trường có nhu
cầu rất lớn về hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đặc biệt là hàng gốm sứ
với nhu cầu được dự báo tăng 10-15%/năm.Thị trường EU có nhu cầu lớn về
các sản phẩm gỗ,gốm sứ mỹ nghệ, mây tre đan…
*Một số nhân tố có tác động đến thị trường sản phẩm các làng nghề
Tuy Hà Nội có nhiều tiềm năng và yếu tố thuận lợi để phát triển nhưng các
làng nghề cũng đang gặp phải những khó khăn sau:
Thứ nhất: sản phẩm của các làng nghề thường gặp khó khăn trong tiêu thụ và
giá bán thấp vì sản phẩm luôn chịu sức ép cạnh tranh gay gắt đối với sản
phẩm cùng loại của ngành công nghiệp thành thị và hàng ngoại nhập
Thứ hai: Thị trường trong nước có tiềm năng nhưng 80% dân số có mức thu
nhập thấp và sức mua thấp; hàng nhập ngoại tràn lan trong bối cảnh mở cửa
thị trường, tự do hoá thương mại; thị trường xuất khẩu lại bị bó hẹp bởi một
số doanh nghiệp lớn.Các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh ở các làng nghề

ít có điều kiện tham gia xuất khẩu trực tiếp, thường phải qua nhiều khâu trung
gian để xuất khẩu.
Như vậy thị trường tiêu thụ là yếu tố vô cùng quan trọng có tính chất quyết
định cho việc tổ chức và phát triển sản xuất của các làng nghề.Nhìn chung,
tình trạng phổ biến của các làng nghề Hà Nội là thiếu khả năng khai thác thị
trường. Vì thế sản phẩm của các làng nghề đang gặp rất nhiều khó khăn trong
cạnh tranh với các mặt hàng của các nước trong khu vực và trên thế giới .Đến
nay, vẫn chưa có một hệ thống hỗ trợ của nhà nước để các làng nghề tiếp cận
với thị truờng trong nước và thị trường thế giới, nắm bắt nhu cầu, chủng loại,
mẫu mã, giá cả và thị hiếu người dùng.
1.3.6.Các yếu tố về khoa học-công nghệ
Chính sách phát triển KHCN và hỗ trợ thông tin KHCN tác động đến sự
phát triển của các làng nghề.Những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công
nghệ, đặc biệt là CNTT( trao đổi giao dịch trên mạng, trang web, quảng bá sản
phẩm, công nghệ quản lý…)tác động đến sự hình thành, tạp lập sức cạnh tranh
của sản phẩm làng nghề.Mặt khác, vấn đề thông tin khoa học công nghệ sẽ tạo
điều kiện cho các nghiệp chủ ở các làng nghề có khả năng lựa chọn phương
pháp sản xuất, công nghệ sản xuất và thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ, để
cải thiện nhận thức về mẫu mã sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc
hình thành sức cạnh tranh về chất lượng của sản phẩm các làng nghề.
Thời gian qua một số cơ sở thủ công mỹ nghệ đã trang bị được một số máy
móc, có loại của nước ngoài, có loại sản xuất trong nước, có loại do thợ ở địa
phương tự trang,tự chế.Song việc sử dụng máy, các hoá chất mới,một số vật
liệu mới hoặc một số biện pháp gia công kỹ thuật mới vào sản xuất còn tuỳ
tiện, không đồng bộ nên không làm chuyển biến được cơ bản công nghệ sản
xuất.
1.3.7. Xu thế phát triển và các điều kiện trong và ngoài nước ảnh hưởng tới
sự phát triển của nghề và làng nghề
a.Xu thế phát triển và các điều kiện trong nước.
Với vị thế là thủ đô, Hà Nội chịu sự chi phối ảnh hưởng của xu thế phát triển của

cả nước nói chung và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nói riêng.
Cụ thể bao gồm một số nội dung chủ yếu sau đây:
- Nâng GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000.Nâng cao rõ rệt sức
cạnh tranh và hiệu quả của sản phẩm,doanh nghiệp và nền kinh tế.Tích luỹ
nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP.Nhịp độ tăng xuất khẩu đạt trên 2 lần
so với tốc độ tăng GDP; giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%.
- Nâng lên đáng kể chỉ số HDI; giảm tốc độ tăng dân số xuống còn 1,1%,
giải quyết việc làm ở thành thị và nông thôn;nâng tỷ lệ lao động qua đào
tạo nghề lên 40%;giảm tỷ lệ thất nghiệp đô thị xuống còn 5%.
- Phát triển khoa học công nghệ đủ khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại
tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển thêm một số lĩnh vực như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự
động hoá.
- Kết cấu hạ tầng được phát triển đi trước một bước đáp ứng tốt yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng.
- Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN cùng với nhiều thành phần
kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc.
- Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chiến lược và quy
hoạch, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương
pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục các mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.
- Thủ đô Hà Nội- trung tâm đầu não về chính trị, trung tâm lớn về kinh tế văn
hoá và khoa học kỹ thuật-trái tim của cả nước là nơi rất nhạy cảm, chắc chắn
hơn đâu hết chịu những tác động to lớn, đồng thời có những đóng góp tích cực
vào tiến trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
-Xu thế phát triển kinh tế-xã hội của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ được thể
hiện trong quy hoạch vùng trọng điểm kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong đó Hà

Nội là trung tâm
+ Tăng GDP của toàn vùng chiếm 18-19% GDP của cả nước vào năm
2010.Nhịp độ tăng GDP cao gấp 1,2-1,3 lần so với mức trung bình của cả
nước.Đảm bảo hiệu quả và tính bền vững trong phát triển kinh tế.
+ Giá trị xuất khẩu tăng với nhịp độ 20% và chiếm khoảng 30% so với tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước.
+ Bảo đảm tốt môi truờng sinh thái, nâng cao đờI sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân.Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 50%
+ Phát triển các chùm đô thị vệ tinh có bán kính cách thủ đô Hà Nội 30-60
km.Ngoại thành Hà Nội cần duy trì phát triển công nghiệp sạch, tiểu thủ công
nghiệp truyền thống nhằm hạn chế ảnh hưởng tới môi trường và hấp dẫn du
lịch.
b. Xu thế và các điều kiện ngoài nước:
-Xu thế tòan cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập:
Bước sang thiên niên kỷ mới, theo các nhà dự báo quốc tế, quốc tế hóa và
khu vực hóa sẽ vẫn là xu thế đặc trưng nhất thúc đẩy các quốc gia liên kết chặt
chẽ với nhau trong một hệ thống kinh tế tòan cầu nhằm xóa bỏ hầu hết hàng
rào thuế quan và phi thuế quan;chuyển dịch một cách thông thoáng hàng
hóa,vốn đầu tư, tiền tệ, dịch vụ, công nghệ và lao động giữa các quốc gia với
quy mô ngày càng lớn.Tiêu biểu nhất của quá trình toàn cầu hóa là sự bùng nổ
tự do hóa thương mại toàn cầu với sự hoạt động ngày càng tăng của giám sát,
phối hợp,dàn xếp lịch trình cắt giảm thuế quan…tạo điều kiện cho phát triển
kinh tế quốc tế…
Cùng với xu thế quốc tế hóa, xu thế khu vực hóa ngày càng phát triển.Khu
vực hóa tập hợp những quốc gia trong từng khu vực với những mục đích đa
dạng và hình thức phong phú, góp phần thúc đẩy tự do hóa thương mại, đầu
tư, dịch vụ trong phạm vi khu vực cũng như giữa các khu vực , tạo lập những
khu vực rộng lớn với một chính sách tài chính tiền tệ, công nghệ, thị trường
thống nhất, giúp cho các quốc gia thành viên tiết kiệm chi phí, tạo môi trường
kinh doanh có hiệu quả, dàn xếp các mối bất đồng trong khu vực bằng con

đường đối thoại, tạo lợi thế cho từng quốc gia trong hợp tác và cạnh tranh trên
thị trường quốc tế.Khu vực hoá là bước đi cần thiết cho mỗi quốc gia tiến tới
tòan cầu hóa, đồng thời nó cũng giúp họ ứng phó với những bất lợi của xu thế
tòan cầu hóa và với sự chi phối của các siêu cường: Châu Á với hiệp hội các
nước đông Nam Á, châu Mỹ với khối mậu dịch tự do, châu Âu với khối liên
minh đang được hoàn thiện và ngày càng bền vững.
Xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa của các nước đang phát triển thường
gắn với “ hội nhập quốc tế”. Quốc tế hóa sẽ đem lại những cơ hội mới cho
việc mở rộng thị trường, truyền bá công nghệ và kỹ năng quản lý, những yếu
tố này sẽ hứa hẹn những năng suất lớn hơn và mức sống cao hơn.Tuy vậy,
song hành với những cơ hội của quốc tế hóa là những thách thức vô cùng khó
khăn.Đó là khả năng mất việc làm trước sự cạnh tranh của hàng nhập
khẩu;các ngân hàng và hệ thống tài chính, thậm chí cả toàn bộ nền kinh tế có
thể bị chèn ép và lâm vào hoàn cảnh suy thoái vì các luồng vốn nước ngoài
tràn vào khống chế chúng….Trong bối cảnh quốc tế hóa “ các nuớc đang phát
triển đang phải chịu rủi ro ghê gớm khi bị tự do hóa nền kinh tế của mình quá
nhanh hoặc phải tham gia” quốc tế hóa” một cách thiếu cân nhắc và thiếu suy
xét”
Sự hợp tác kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới đã đặt ra vấn đề phải giao
lưu văn hóa, hợp tác khoa học kỹ thuật trên cơ sở ổn định chính trị.Sự kết hợp
chặt chẽ ba nội dung và hỗ trợ lẫn nhau đã trở thành chất xúc tác tạo nên mối
quan hệ quốc tế đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Thế giới đang
tiến tới nền kinh tế mới- nền kinh tế dựa vào tri thức.Đây thực sự là thách thức
đối với nền khoa học và công nghệ ở nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Đánh giá thực trạng ĐTPT làng nghề truyền thống của Hà Nội
những năm gần đây
2.1. Quy mô
Hiện tại các nghề đã và đang phát triển với quy mô khác nhau, số lượng đa dạng
phong phú.Có thể liệt kê ra một số nghề đặc trưng sau đây:

-Nghề Gốm, sứ: là nghề truyền thống làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, đã tồn tại
hơn 600 năm
-Nghề dệt may: xuất hiện tại nhiều địa phương như : Cổ Nhuế(Từ Liêm), may da
Kiêu Kị( Gia Lâm)..
-Nghề mộc, điêu khắc gỗ , khảm trai: tồn tại phát triển tại Liên Hà, Vân
Hà( Đông Anh)
-Nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng nguyên liệu truyền thống trong
nước như song, mây, tre, nứa, lá…phố biến tại Thu Hồng, Kim Lũ( Sóc Sơn)
-Chế biến lương thực thực phẩm:nổi tiếng như bún Phú Đô, Cốm Mễ trì, bánh
kẹo Xuân Đỉnh, bánh cuốn Thanh Trì,
-Nghề kim khí: như rèn Xuân Phương, Tây Mỗ ( Từ Liêm), Dục Tú( Đông Anh)
-Nghề sản xuất dược liệu: gắn với tên làng nghề Ninh Hiệp( Gia Lâm)
-Nghề sản xuất diêm:Đình xuyên( Gia Lâm)
-Nghề dát quỳ vàng: là nghề tồn tại lâu năm của làng nghề truyền thống Kiêu
kỵ( Gia Lâm)
-Nghề đúc đồng:gắn liền với làng Ngũ Xã, tuy nhiên hiện nay đã bị mai một
-Nghề Kim Hoàn: còn tồn tại quy mô nhỏ tại Hàng Bạc( Hòan Kiếm)
2.1.1.Về số lượng và phân bố
Theo số liệu Điều tra nghề và làng nghề Hà Nội cuối năm 2005 của nhóm chuyên
gia viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội, hiện nay có 30 xã có nghề tiểu thủ
công nghiệp, trong đó có 10 làng nghề có lịch sử hình thành trên 100 năm, 14
làng nghê lịch sử từ 30-100 năm và 6 làng nghề mới hình thành.
Bảng 4: Phân loại các làng nghề truyền thống và làng nghề mới ở ngoại
thành Hà Nội
Stt Làng nghề Nghề Đặc điểm
nghề
Phân loại nhóm
làng nghề
1.Gia lâm
1 Ninh Giang, Ninh Hiệp Dược liệu TT(x) A

2 Kiêu Kỵ Dát quỳ, vàng bạc TT B
May da TT(x) A
3 Yên Viên Chế biến lương
thực
TT(x) B
4 Công Đình, Đình
Xuyên
Diêm hộp TT(x) A
Bóc gỗ ván ép M(x) C
Tái chếdược liệu M(x) C
5 Kim Lan Gốm sứ TT(x) C
6 Đa Tốn Gốm sứ M(x) C
7 Bát Tràng Gốm sứ TT(x) A
2.Từ Liêm
8 Trung Văn Dây thừng nhựa TT(x) B
9 Xuân Đỉnh Bánh kẹo TT(x) B
10 Phú Thứ, Tây Mỗ Gò hàn tôn TT(x) A
11 Xuân Phương Rèn TT(x) B
Gò tôn, hàn điện M D
12 Cổ nhuế May TT(x) D
13 Mễ Trì Bún, bánh cốm TT(x) D
14 Băng Giang, Đông
Ngạc
Băng giang TT B
15 Ngọc Trục, Đại Mỗ Đan phên TT(x) B
16 Đại Cát, Liên Mạc Đậu phụ TT(x) B
3.Thanh Trì
17 Hữu Hòa Miến dong, bánh
đa
TT(x) B

18 Tân Triều Dệt sợi TT(x) A
Chế biến lông vũ TT(x) D
Tái chế nhựa TT(x) D
19 Vạn Phúc Mấy tre đan, vàng

TT(x) A
20 Đại Kim Bánh kẹo TT(x) B
21 Định Công Mỹ Nghệ TT B
22 Hoàng Liệt Bún TT(x) B
4.Đông Anh
23 Mạch Tràng, Cổ Loa Bún TT(x) B
Gỗ, sản xuất cơ
khí, may mặc
M C
24 Võng La Đậu TT(x) B
25 Viên Nội, Vân Nội Đan lát B
26 Thụy Hà, Bắc Hồng May thủ công TT(x) B
Mộc M C
27 Vân Hà Mộc TT(x) A
28 Liên Hà Mộc A
Phun sơn D
5.Sóc Sơn
29 Thu Thủy, Xuân Thu Tre trúc TT(x) B
Đúc xoong M B
30 Kim Lũ Đan lát TT(x) B
( nguồn : Tổng hợp từ kết quả khảo sát làng nghề của viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội,
tháng 10/2003)
Trong đó:
(x):Nghề chính của xã
A: Làng nghề truyền thống có khả năng phát triển mạnh

B: làng nghề truyền thống đang gặp khó khăn trong phát triển
C: Các làng nghề mới là hệ quả tích cực từ các làng nghề truyền thống lân cận và khả năng phát
triển
D: làng nghề có nguy cơ gây ô nhiễm cao
*Các làng nghề truyền thống có khả năng phát triển mạnh:
Các làng nghề thuộc nhóm này là các làng nghề đã có lịch sử nghề hàng trăm
năm, đa số là các làng sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ trải qua nhiều thăng trầm
thời cuộc nhưng vẫn duy trì và phát triển đuợc sản xuất tương đối thuận lợi.Trong
các sản phẩm nghề vẫn duy trì đc các nét đặc trưng truyền thống
+ Nhóm nghề gốm sứ:Làng nghề gốm Bát Tràng là làng nghề truyền thống với
hơn 600 năm hình thành và phát triển, đã trải qua nhiều thăng trầm và đến nay
vẫn phát triển mạnh mẽ.Sản phẩm của làng rất có uy tín không những tại Hà Nội
mà khắp cả nuớc, và bước đầu có uy tín trên một số nước khu vực và Châu
Á.Hiện nay 100% dân cư trong làng đều tham gia sản xuất gốm sứ với nhiều
thành phần kinh tế với nhiều thành phần kinh tế như: hộ sản xuất, doanh nghiệp
tưnhân, công ty TNHH.Những sản phẩm chính của làng Bát Tràng là sản phẩm
mang tính văn hoá cao, nhưng số lượng sản xuất lại chưa nhiều, không có những
sản phẩm tiêu dùng mang tính đại trà và hiện nay giá thành của các sản phẩm lại
tương đối cao
+ Nhóm nghề gỗ: đó là hai làng nghề nổi tiếng của huyện Đông Anh là Vân Hà
và Liên Hà với nghề truyền thống là sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ , nay có thêm nghề
mới là gỗ phun sơn.Sản phẩm của làng có uytín và có thị truờng trong nước, thậm
chí đã xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.Làng nghề có nhiều thợ có tay nghề
cao và tỷ lệ số thợ trong làng nghề ngày một nhiều với sản phẩm ngày một nhiều
với sản phẩm ngày càng phong phú, đa dạng và chất lượng cao.Tuy nhiên việc
xúc tiến thương mại, chủ động trong các giao mua bán sản phẩm của làng còn
yếu.
+ Nhóm sản xuất dược liệu: Làng dược liệu Ninh Hiệp( Gia Lâm) với loại hình
sản phẩm đặc thù là chế biến dược liệu, làng nghề Ninh Hiệp đã tồn tại và phát
triển mạnh qua nhiều thời kỳ.Hiện nay thị trường tiêu thụ sản phẩm dược liệu rất

lớn, riêng ở Hà Nội đã có một dãy phố tiêu thụ sản phẩm của làng đó là dãy phố
Lãn Ông.Tuy nhiên việc quản lý chất lượng sản phẩm đang là vấn đề cần đặt ra
đối với làng nghề này.
+ Nhóm nghề dệt may
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp may hiện đại, taị Hà Nội
vẫn còn tồn tại một số làng nghề may truyền thống như làng may Cổ Nhuế( Từ
Liêm), may da Kiêu Kỵ( Gia Lâm).Với lợi thế là các hộ sản xuất nhỏ, các làng
nghề may đã nhạy bén, linh hoạt theo yêu cầu của thị trường may mặc nên trong
những năm qua các làng nghề may đã phát triển tương đối mạnh.Các làng nghề
may hiện nay đang phát triển theo xu hướng nhận may gia công cho các công ty
lớn trên địa bàn.Tuy nhiên hiện nay các làng nghề may đứng trước mối nguy cơ
mất dần diện tích sản xuất do tốc độ đô thị hóa trên địa bàn này trong những năm
gần đây diễn ra rất nhanh
+ Các làng nghề sản xuất các sản phẩm vàng mã: Làng Vạn Phúc( Thanh Trì) là
một làng nghề làm vàng mã nổi tiếng từ xưa.Hiện nay,sản phẩm của làng được
tiêu thụ khá mạnh trên thị trường Hà Nội và 1 số thị trường các tỉnh lân cận
*Các làng nghề truyền thống nhưng đang gặp khó khăn trong phát triển:
+Làng nghề sản xuất các sản phẩm từ tre nứa, rổ, rá: gặp khó khăn trong vấn đề
đầu ra, vốn cho sản xuất
+Nghề dát vàng Kiêu kỵ( Gia Lâm): hiện làng nghề đang bị mai một, thị trường
tương đối hẹp, thu nhập không cao nên người dân dần chuyển sang nghề khác
+Nghề đúc đồng Ngũ Xã( Ba Đình): do tốc độ đô thị hóa nhanh nên hầu hết
người dân làng không sản xuất đồng nữa, nghệ nhân không còn người để truyền
nghề
+Nghề chế biến lương thực, thực phẩm: làng bún Phú Đô, Mễ trì, Yên Viên…
trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong chế biến thực phẩm, sản phẩm
được sản xuất hàng loạt, chất lượng cao, mẫu mã đẹp chiếm hầu hết thị trường
làm các sản phẩm truyền thống chỉ có thể tiêu thụ ở thị trường nông thôn và thị
trường thu nhập thấp.
*Các làng nghề mới là hệ quả tích cực từ các làng nghề truyền thống lân cận và

khả năng phát triển
+Làng nghề gốm sứ Đa Tốn,Kim Lan( Gia Lâm): hai làng liền kề với làng nghề
truyền thống Bát Tràng.Hiện naynghề sản xuất gốm sứ đang phát triển mạnh tại 2
làng và đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao
+Làng nghề Dục Tú( Đông Anh): là địa phương liền kề với nhiều làng nghề
truyền thống như làng nghề gỗ Liên Hà, Vân Hà, làng nghề sắt thép Đa Hội( Từ
Sơn Bắc Ninh), hiện nay hai nghề Gỗ và sắt thép đã hình thành và đang phát triển
tại làng nghề Dục Tú
+Phố nghề may khu vực Sài Đồng( Gia Lâm): Ra đời trong cơ chế thị trường,
ban đầu ở quy mô các hộ gia đình vốn là công nhân nhà máy may 10, sau phát
triển mạnh với quy mô lớn và trở thành khu vực có nghề may thủ công nghiệp.
*Một số làng nghề, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường:
+Làng nghề rèn Xuân Phương( Từ Liêm): do đặc điểm sản xuất xen lẫn khu dân
cư nên vấn đề môi trường tiếng ồn đang đặt ra cần được giải quyết sớm với làng
nghề này.Hiện nay tốc độ đô thị hóa nhanh, mặt bằng sản xuất của làng nghềbị

×