Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giáo dục đạo đức cho sinh viên hệ cao đẳng sư phạm mầm non ở thành phố hồ chí minh hiện nay luận văn ths triết học 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Nguyên Bình

Giáo dục đạo đức cho sinh viên hệ cao đẳng sư phạm
mầm non ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Luận văn ThS Triết học: 60.22.85

Nghd. : GS.TS. Dương Xuân Ngọc

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo càng phát triển
theo chiều rộng và đi vào chiều sâu, càng đặt ra yêu cầu to lớn về chất lượng
nguồn lực con người: cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong
phú về tinh thần, tinh tế về thẩm mỹ và tầm cao về trí tuệ…
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới đã tạo nên sự phát triển năng
động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng bên cạnh đó
nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập với bên ngoài ngày càng bộc lộ những
mặt trái gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn hóa nghệ thuật cũng như trong tâm lý - đạo đức của các tầng lớp dân cư trong xã
hội. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội,
ít nhiều làm sai lệch các chuẩn mực giá trị, dẫn tới suy thoái về đạo đức ở một
bộ phận xã hội, ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ, đặc biệt là thế hệ thanh niên
sinh viên chúng ta.
Theo Luật giáo dục, nền giáo dục nước ta là nền giáo dục xã hội chủ


nghĩa được coi là quốc sách hàng đầu, đòi hỏi thế hệ trẻ nhất là sinh viên phải
phấn đấu trở thành con người có đức, có tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giáo dục đạo đức lối sống cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của công tác giáo dục Đại học và Cao đẳng. Mục đích của giáo dục
là đào tạo con ngưới có những phẩm chất cần thiết mà xã hội đòi hỏi phải có.
Trong những phẩm chất đó, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn là
yếu tố quyết định để con người trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Ngành giáo dục mầm non có vị trí mở đầu cho nền giáo dục quốc dân.
Cô giáo mầm non vừa có chức năng người thầy, vừa có chức năng người mẹ.

1


Sinh viên Sư phạm mầm non được đào tạo tốt sẽ là tấm gương sáng cho các
cháu noi theo. Thế hệ các cháu nhà trẻ - mẫu giáo hôm nay là những công dân
hữu ích cho thế hệ mai sau. Đúng như Di chúc Bác Hồ đã dạy: “Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần thiết”.
Nghị quyết Trung ương 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
Sản Việt Nam khóa VIII đã khẳng định: “Giáo viên là nhân tố quyết định
chất lượng của giáo dục... Giáo viên phải có đủ đức tài”. Chính vì thế mà
việc giáo dục đạo đức cho sinh viên đang là một nhiệm vụ bức xúc nhằm giúp
họ hoàn thiện nhân cách, đồng thời chuẩn bị cho họ bước vào đời, góp phần
thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Những quan điểm cơ bản và tư tưởng phát triển giáo dục đào tạo được
hầu hết sinh viên thực hiện, đã đem lại những thành công đáng kể và những
tiến bộ nổi bật. Phần lớn sinh viên ngày nay năng động phấn đấu vươn lên, tự
ý thức trách nhiệm với bản thân, có nhiều tập thể và cá nhân sinh viên say mê
học tập, tu dưỡng rèn luyện với phương châm thích ứng với cuộc sống mới,

xây dựng tư thế tác phong nếp sống công nghiệp hóa, đồng thời giữ vững bản
sắc dân tộc và các giá trị đạo đức truyền thống.
Tuy nhiên, xã hội đang hết sức lo lắng trước những yếu kém, bất cập
của đạo đức sinh viên hiện nay. Do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị
trường, do ảnh hưởng của nhiều tác động xấu từ bên ngoài, “một bộ phận sinh
viên có những biểu hiện suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, có lối sống
thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và
đất nước” [7, tr.24].
Khuyết điểm tồn tại nêu trên lại được nhắc lại trong Nghị quyết Trung
ương 5, Đảng cộng sản Việt Nam, khóa VIII: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi
thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân
vị kỷ đang gây hại đến thuần phong mỹ tục dân tộc... Nhiều biểu hiện tiêu cực
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm xã hội lo lắng như: suy thoái về đạo lý

2


trong quan hệ thầy trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp, lối sống thiếu
lý tưởng, hoài bão, ăn chơi, nghiện ma túy ở một bộ phận học sinh, sinh viên;
việc coi nhẹ giáo dục đạo đức thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học xã
hội và nhân văn”. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định:
“Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ” [12, tr.172-173].
Những nhận định quan trọng nói trên cần được nghiên cứu một cách
nghiêm túc, có hệ thống nhằm khảo sát một cách đầy đủ thực trạng đạo đức
và giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay, chỉ ra các nguyên nhân của nó.
Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
cho sinh viên, cổ vũ cái đúng, cái đẹp, cái tốt trong quan hệ giữa sinh viên với
sinh viên, giữa sinh viên với thầy giáo, giữa sinh viên với xã hội, và giữa sinh
viên với môi trường sống. Làm được điều đó, tức là chúng ta đã thực hiện lời

dạy của Bác Hồ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội
chủ nghĩa”.
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, nơi đang dẫn đầu cả nước về quy
mô phát triển kinh tế, với đầy đủ những tinh hoa văn hóa dân tộc, là môi
trường sinh động cho sinh viên học tập, rèn luyện và cống hiến. Họ được tiếp
nhận thông tin nhanh chóng, được giải trí bằng nhiều tụ điểm vui chơi bổ ích,
lành mạnh... Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, thành phố Hồ Chí Minh còn
bộc lộ những tiêu cực và tệ nạn xã hội, ảnh hưởng không ít đến đời sống đạo
đức sinh viên, trong đó có sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non.
Vì những lý do nêu trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Giáo dục
đạo đức cho sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non ở thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay” vừa là vấn đề cơ bản, vừa cấp bách nhằm góp phần thiết thực
vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục - đào tạo nói riêng và xã hội con người
mới nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức con người, từ xưa đến nay, đã có rất nhiều nhà triết
học, đạo đức học, xã hội học ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.

3


Khi nghiên cứu về con người, các nhà triết học, tâm lý học Xô Viết
thường đề cao vai trò của các yếu tố xã hội, môi trường giáo dục. Nhất là giáo
dục đạo đức, giáo dục cộng sản chủ nghĩa đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách. Đạo đức cá nhân được xem là một trong những chuẩn mực của sự
phát triển nhân cách, biểu hiện mối quan hệ bên trong của con người với các
giá trị xã hội.
Ở nước ta, đạo đức là vấn đề thường xuyên được quan tâm trong cả
nghiên cứu lý luận và đời sống xã hội. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục và đào tạo con người, Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức,

coi đạo đức là cái gốc của người cán bộ, là sức mạnh của mỗi con người, mà
nhờ có sức mạnh ấy người cán bộ cách mạng mới vượt qua mọi khó khăn,
thách thức để rèn luyện và trưởng thành.
Trong nước có một số cuốn sách bàn về đạo đức như: “Đạo đức mới”
của Vũ Khiêu (Nxb Khoa học Xã hội, 1974), “Chủ động tích cực xã hội đạo
đức mới” của Tương Lai (Nxb Sự thật, 1983), “Những vấn đề đạo đức trong
cơ chế thị trường” (Nxb Thanh Niên, 1996)...
Bên cạnh đó, có những công trình nghiên cứu đi sâu vào vấn đề giáo
dục đạo đức như: “Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường” (Lê Thị
Tuyết Ba, Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội 1998), “Giáo dục đạo đức cho
sinh viên trong nền kinh tế thị trường ở thành phố Hồ Chí Minh” (Phạm Thìn,
Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 1999), “Giáo dục đạo đức cho học sinh
trường trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới
hiện nay” (Đỗ Tuyết Bảo, Luận án Tiến sĩ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa
xã hội khoa học, Hà Nội, 2001)... Ngoài ra, còn có những công trình nghiên
cứu về vấn đề xã hội nhân cách đạo đức như: “Vấn đề xây dựng nhân cách
đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”
(Hoàng Anh, Luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2001), “Giáo dục đạo đức
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay” (Trần Sỹ Phán, Luận án Tiến sĩ triết học, Hà Nội, 1999),...

4


Đặc biệt, trong những năm gần đây, trên các sách báo, tạp chí, nhiều
nhà khoa học, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội hết sức nhức nhối đối với hiện
tượng suy thoái, thậm chí băng hoại đạo đức ở một bộ phận thanh thiếu niên
do tác động tiêu cực từ những mặt trái của cơ chế thị trường, và đã có nhiều
bài viết đáng quan tâm như: “Quan hệ đạo đức và kinh tế thị trường trong
việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của Tiến sĩ Nguyễn Thế Kiệt

(Tạp chí Triết học, 6/1996), “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc giáo dục đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở
nước ta hiện nay” do PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ chủ biên (Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội 1999), “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục” của Tiến
sĩ Nguyễn Đình Tường (Tạp chí Triết học tháng 6/2002), “Xây dựng nền kinh
tế thị trường và một xã hội nhân văn” của PGS.TS Nguyễn Văn Huyên (Tạp
chí Triết học tháng 7/2002)...
Tóm lại, các công trình kể trên đã có đóng góp đáng kể vào việc nghiên
cứu và đề xuất những giải pháp trong giáo dục sinh viên nói riêng và thanh
niên nói chung. Cũng có những đề tài nghiên cứu nhưng rất ít công trình đi
sâu nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên ở thành phố Hồ Chí
Minh, hơn nữa lại là sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non. Mặt khác, đây
là một đối tượng khá năng động, chu chuyển nhanh và rất nhạy cảm với
những cái mới, nên giá trị những kết quả nghiên cứu về sinh viên bị giới hạn
thời gian nhất định. Chính vì thế đề tài “Giáo dục đạo đức cho sinh viên hệ
Cao đẳng Sư phạm Mầm non ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” là sự kế
thừa chọn lọc, có phát triển những kết quả nghiên cứu trên và chỉ nghiên cứu
đối tượng sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non tại thành phố Hồ Chí
Minh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn của việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học và cao đẳng nói chung, sinh viên hệ

5


Cao đẳng Sư phạm mầm non nói riêng, luận văn đề xuất một số phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh viên

hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống, khái quát một số vấn đề lý luận về đạo đức, giáo dục đạo
đức cho sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non.
- Làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên hệ Cao đẳng Sư
phạm mầm non ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non ở thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên
hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non.
- Diện khảo sát tập trung vào đối tượng sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm
mầm non ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Do điều kiện thời gian đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đạo đức và giáo
dục đạo đức cho sinh viên Cao đẳng Sư phạm mầm non qua những hoạt động
chủ yếu diễn ra trong phạm vi nhà trường. Những hoạt động khác ngoài nhà
trường đề tài không có điều kiện nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức và giáo dục đạo
đức cho sinh viên.
- Luận văn cũng tham khảo kết quả các công trình đã được công bố, các
bài viết trên các lĩnh vực triết học, đạo đức học, tâm lý học, chính trị - xã
hội... có liên quan đến đề tài.

6



* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp giữa phân tích và
tổng hợp các tài liệu lý luận và thực tiễn, sử dụng các phương pháp hệ thống,
khảo sát thực trạng, so sánh để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non ở thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay. Đây cũng là vấn đề mà các nhà giáo dục và xã hội hết sức
quan tâm.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho công tác
giáo dục đạo đức cho sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài những vấn đề chung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.

7


Chƣơng 1
ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN HỆ CAO ĐẲNG SƢ PHẠM MẦM NON

1.1. Đạo đức, nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên
1.1.1. Khái niệm đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức trong sự
nghiệp giáo dục sinh viên
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức xuất hiện từ rất sớm, nó tồn tại và phát triển cùng với sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người. Đạo đức là sự thể hiện qua quan hệ ứng

xử và hành vi của con người; là đối nhân xử thế đem lại lợi ích cho người
khác và cho xã hội. Do vậy, lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng là
lịch sử phát triển của đạo đức. Vì khi con người xuất hiện, xã hội có mối quan
hệ đối xử với nhau giữa người với người. Và cũng chính trong thực tiễn đời
sống của con người đã hình thành nên những chuẩn mực đạo đức, những thói
quen tốt, những khát vọng sống mang tính cộng đồng. Những chuẩn mực đó
là thước đo đạo đức của con người.
Như vậy, đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện
từ rất sớm. Sự xuất hiện của ý thức đạo đức do nhu cầu khách quan của đời
sống xã hội, trước hết là do nhu cầu phối hợp trong sinh hoạt hàng ngày, trong
sản xuất... từ đó nảy sinh khát vọng sống có trách nhiệm với nhau, sống vì
cộng đồng, sống được tôn trọng và tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên
trong xã hội mà hình thành nên tình cảm đạo đức.
Vậy đạo đức là gì? Theo Từ điển Triết học Liên Xô (cũ) - bản dịch
tiếng Việt có sửa chữa và bổ sung của Nhà xuất bản Tiến bộ và Nhà xuất bản
Sự thật (1986) - định nghĩa: “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã
hội, một chế độ xã hội, thực hiện chức năng điều khiển hành vi của con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không trừ lĩnh vực nào” [46, tr.156].

8


Trong Từ điển Xã hội học, tác giả Nguyễn Khắc Viện định nghĩa: “Đạo
đức là bao gồm những chuẩn mực hành vi xã hội của con người theo hướng
thiện, tránh hướng ác. Đạo đức là sự thể chế xã hội không có quy tắc bắt buộc
và thường là không có văn bản quy định. Các quan hệ đạo đức được điều tiết
bằng hai yếu tố: dư luận (khách quan) và lương tâm (chủ quan)” [47, tr.28].
Theo Giáo trình “Đạo đức học” của tác giả Trần Hậu Kiêm thì: “Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống những
quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực mực xã hội. Nó

ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và
sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
cá nhân và xã hội” [22, tr.12]. Còn G.Bandzeladze thì cho rằng: “Đạo đức là
hệ thống những chuẩn mực thể hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của
những con người trong mối quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói
chung” [2, tr.104].
Giáo trình Triết học Mác-Lênin định nghĩa: “Đạo đức là toàn bộ những
quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công
bằng... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân
với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội” [19, tr.590].
Như vậy, đạo đức không phát triển tách rời với sự phát triển của xã hội.
Đạo đức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của
con người. Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng phản ánh khả
năng tự chủ của con người, sức mạnh đặc biệt của đạo đức là nét cơ bản quy
định gương mặt đạo đức của con người, và cũng là biểu hiện bản chất xã hội
của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện sự
tiến bộ xã hội. Đạo đức bao gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá
trị đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố
quan trọng nhất, nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi
tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý tính không thể chuyển hóa
thành hành vi đạo đức.

9


Đồng thời, trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những
giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ
thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc nhằm điều chỉnh hành vi của
con người, cần thiết cho việc giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường

ngày của mọi người.
Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì nội dung
chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp, nó có tính giai cấp. Trong các
phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai
cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều có
những quan niệm đạo đức riêng của mình. Nếu giai cấp tiêu biểu cho xu thế
phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ, còn các
giai cấp phản động thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Ph.Ănghen
viết: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay
đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới
nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng
luôn luôn là đạo đức của giai cấp, hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi
ích của giai cấp thống trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì
nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi
ích tương lai của những người bị áp bức” [31, tr.137]. Cùng với sự phát triển
của sản xuất, của tiến bộ xã hội, những quy tắc chuẩn mực, phạm trù đạo đức
theo đó tăng lên, phản ánh đời sống xã hội ngày càng phong phú, đa dạng hơn
trở thành một trong những phương thức để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với những yêu cầu, chuẩn mực
xã hội.
Nét đặc trưng cơ bản của đạo đức là hành vi mang tính tự nguyện, trên
cơ sở tự điều chỉnh những mối quan hệ xã hội. Đạo đức bao giờ cũng là sản
phẩm của xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Xã hội khác nhau có nền
đạo đức khác nhau và đạo đức xã hội nào thì bảo vệ trật tự cho xã hội đó.

10


1.1.1.2. Vai trò của giáo dục đạo đức trong sự nghiệp giáo dục sinh viên


Theo từ điển Tiếng Việt (1992): Giáo dục đó là hoạt động nhằm tác
động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và
năng lực như yêu cầu đặt ra.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu cho xã hội.
Giáo dục là để truyền những kiến thức, kinh nghiệm của các thế hệ trước cho
các thế hệ sau nhằm để duy trì, củng cố và phát triển xã hội loài người. Giáo
dục là “hoạt động làm phát triển con người trong sự phát triển xã hội và phát
triển con người để phát triển xã hội” [14, tr.34]. Giáo dục đạo đức là giáo dục
khả năng tự giáo dục, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự thẩm định, tự điều chỉnh
hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, nhằm đánh thức lương tâm, khơi dậy lòng
nhân ái, đức tính vị tha, sự bao dung trong mỗi con người. Qua giáo dục đạo
đức, khả năng nhận thức các giá trị, các khái niệm, phạm trù đạo đức được
nâng lên, giúp cho con người có những hành vi hợp với chuẩn mực đạo đức
xã hội.
Giáo dục đạo đức sinh viên là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của
nhà trường, gia đình và xã hội, mà trong đó đội ngũ giáo viên nói riêng và
nhà trường nói chung tác động qua lại với sinh viên, để giúp cho sinh viên
có những tri thức và tình cảm đạo đức phù hợp với những yêu cầu xã hội
hiện nay.
Giáo dục đạo đức sinh viên là hình thành cho sinh viên những tri thức
đạo đức: khái niệm đạo đức, phạm trù đạo đức...; đó là cơ sở, là nguồn gốc để
sinh viên có được những chuẩn mực đạo đức, giúp sinh viên nhận ra chân giá
trị của các giá trị đạo đức, thấy được tính nhân bản, nhân văn trong đời sống xã hội do đạo đức mang lại. Giáo dục đạo đức sinh viên là hình thành trong
mỗi sinh viên một tình cảm đạo đức thật sự ở họ, biến tri thức đạo đức thành
tình cảm đạo đức theo chuỗi logic tất yếu. Tình cảm đạo đức ngấm ngầm
trong mỗi sinh viên như là máu với thịt, hòa quyện chặt vào nhau để khi bật ra

11



thì đã thành một hành vi đạo đức. Muốn vậy, nhà trường phải tác động vào
các khâu của quá trình giáo dục đạo đức sinh viên (mục tiêu, nội dung,
phương pháp, điều kiện thực hiện giáo dục...) trên các lĩnh vực: nhận thức,
thái độ, tình cảm, hành vi. Điều này đòi hỏi phải có những phương thức hữu
hiệu nắm bắt kịp thời những nhận thức, thái độ, nguyện vọng, tình cảm... của
sinh viên để phát hiện sớm những lệch lạc, kịp thời bổ sung định hướng đúng
theo những chuẩn mực đạo đức đã đề ra.
Giáo dục đạo đức sinh viên là một trong những nội dung quan trọng
hàng đầu của mục tiêu giáo dục. Theo tổ chức giáo dục văn hóa Liên Hiệp
Quốc (Unesco) thì: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để làm
người, để tự khẳng định mình” [17, tr.52].
Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người, bên cạnh việc đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ để không ngừng phát triển tài năng, thì vấn đề đạo đức
nói chung và đạo đức sinh viên nói riêng đã được Đảng, Nhà nước ta rất quan
tâm và chú trọng. Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương
khóa IX ghi rõ: “Ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, đã chú ý dạy đủ
và cố gắng nâng dần chất lượng các môn học chính trị Mác - Lênin cho học
sinh, sinh viên. Đã chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, giáo
viên và học sinh, sinh viên” [9, tr.21].
Giáo dục đạo đức sinh viên góp phần vào việc chuyển các quan niệm
đạo đức từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng
cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi sinh viên từ trình độ nhận
thức thông thường lên trình độ nhận thức khoa học. Qua giáo dục đạo đức cho
sinh viên về nội dung các phạm trù, các quy tắc, đạo đức được sinh viên nhận
thức một cách đúng đắn và đầy đủ hơn. Qua đó, giáo dục đạo đức sinh viên
góp phần điều chỉnh hành vi của sinh viên phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã
hội. Giáo dục đạo đức sinh viên còn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức
mới; xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới; quan niệm sống
tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục. Từ đó góp phần tích cực vào việc khắc


12


phục những quan điểm đạo đức lạc hậu; giáo dục đạo đức sinh viên góp phần
tích cực trong việc truyền lại cho thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo
đức mà các thế hệ trước tạo ra. Trên cơ sở đó giúp sinh viên nhận ra chân giá
trị của các giá trị đạo đức: lòng nhân ái và các giá trị nhân văn sâu sắc.
Trong quá trình giáo dục đạo đức sinh viên, giáo dục tình cảm đạo đức
giữ một vai trò hết sức quan trọng. Giáo dục đạo đức sinh viên không chỉ làm
cho sinh viên có nhận thức đúng mà còn hình thành thái độ, niềm tin và tình
cảm đạo đức. Tình cảm ấy bao gồm lòng yêu quê hương đất nước, thái độ đối
với lao động, tình yêu thương con người, lòng nhân ái. Chính tình cảm đạo
đức sẽ làm cho sinh viên càng quý mến hơn, yêu nhau hơn, rộng lượng hơn,
“sẽ làm sâu sắc hơn mối tương giao giữa con người với con người, giữa con
người với tự nhiên” [6, tr.218]. Chính sự sâu sắc và mối tương giao đó đã làm
phong phú thêm thế giới nội tâm của mỗi sinh viên, thúc đẩy họ vượt qua mọi
khó khăn, thử thách vươn lên trong cuộc sống nhằm đạt đến chân - thiện - mỹ.
Do đó, việc bồi dưỡng tình cảm đạo đức cho sinh viên nói chung và cho sinh
viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non nói riêng là một trong những nội dung
quan trọng trong quá trình giáo dục đạo đức của nhà trường.
Song, chúng ta sẽ duy tâm nếu cho rằng tư tưởng quyết định tất cả và
giáo dục ý thức đạo đức có thể làm thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.
Nhưng chúng ta cũng sẽ sai lầm khi xem nhẹ vai trò của đạo đức trong đời
sống xã hội và trong nhà trường.
Ngày nay, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
đang diễn ra hết sức mạnh mẽ và tác động sâu sắc đến quá trình phát triển của
các nước, nhất là các nước đang phát triển và chậm phát triển - trong đó có
Việt Nam. Thực tế, xã hội loài người đã và đang tiếp cận một nền văn minh
mới, trong đó tri thức, trước hết là tri thức khoa học và công nghệ sẽ chiến ưu

thế và trở thành phổ biến. Cho nên chúng ta không thể ảo tưởng cho rằng chỉ
cần có đạo đức chung chung, chỉ cần nhiệt tình, tinh thần yêu nước tích cực là
có thể đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tránh được những nguy cơ

13


tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Do
đó cùng với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của mình, mỗi sinh viên cần
phải rèn luyện và phát triển tài năng trên cơ sở đạo đức có được, như thế mới
đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong mỗi con người nói chung, mỗi một sinh viên nói riêng có được
những phẩm chất đạo đức trong sáng, có ý chí cao, quan hệ ứng xử tốt do giáo
dục đạo đức mang lại thì đó là cơ sở, là điều kiện cho sự phát triển tài năng.
Thực tế cho thấy rằng: tài năng con người phát triển tốt phải dựa trên sự phát
triển đạo đức. Không có cơ sở đạo đức làm nền tảng, tài năng sẽ khó phát
triển hoặc phát triển không đúng hướng, lệch chuẩn, “tài năng” ấy sẽ trở thành
phản khoa học, không có tính nhân văn thậm chí đem lại thảm họa cho con
người.
Nhà trường là nơi đào tạo không những về mặt kiến thức mà còn giáo
dục cả về mặt đạo đức, lối sống cho sinh viên. Cho nên, nhà trường cần phải
giữ kỷ cương, nề nếp học đường, tạo môi trường lý tưởng cho sinh viên học
tập và rèn luyện. Giáo dục đạo đức trong nhà trường là làm cho sinh viên
nhận thức được những giá trị đạo đức nào là cần thiết, có ý nghĩa thiết thực
đối với bản thân và xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; làm cho sinh viên nhận thức được những giá trị
truyền thống như lòng nhân ái, tinh thần yêu nước, đức tính cần cù, chịu khó,
lạc quan, vị tha, trung thực… là những giá trị đích thực cao đẹp của mỗi con
người. Hơn nữa, phải làm cho họ nhận thức được sự cần thiết phải thường
xuyên tự rèn luyện, tu dưỡng nâng cao năng lực và phẩm chất để không chỉ

biết tiếp thu mà còn biết phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong
bối cảnh mới. Giáo dục đạo đức trong nhà trường là làm cho sinh viên biết
trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện các giá trị đạo đức đích thực
đồng thời không chấp nhận những phản giá trị; tích cực đấu tranh bảo vệ và
phát triển những giá trị đạo đức truyền thống.

14


Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy
tắc, quy định, chuẩn mực nhằm hướng con người đến chân - thiện - mỹ. Đạo
đức hình thành và phát triển rất sớm trong lịch sử, nó tồn tại và phát triển
cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Đạo đức xã hội nói chung và đạo đức sinh viên nói riêng có mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Đạo đức sinh viên là một bộ phận cấu thành đạo
đức xã hội; nó vừa mang tính đặc trưng của đạo đức xã hội vừa mang yếu tố
đặc thù của đạo đức sinh viên.
Kinh tế thị trường đã tác động rất lớn đến đạo đức sinh viên vừa ảnh
hưởng tích cực đồng thời vừa ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó đạo đức sinh
viên còn chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống dân tộc,
tình hình chính trị - xã hội, nhà trường và gia đình.
Trong giáo dục, thì giáo dục đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành những chuẩn mực đạo đức sinh viên. Qua đó, khơi dậy
trong sinh viên tinh thần sáng tạo, yêu mến lẽ phải, công bằng, lòng nhân ái,
đức tính vị tha, bao dung ở mỗi cá nhân con người.
1.1.2. Nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên hệ Cao đẳng Sư
phạm mầm non
Để xác định rõ nội dung giáo dục đạo đức sinh viên nói chung và sinh
viên hệ Cao đẳng Sư phạm Mầm non nói riêng, chúng ta cần xuất phát từ
những định hướng lớn trong công tác tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện

nay, đó là:
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.

15


- Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết
hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Cho nên, công tác giáo dục đạo đức sinh viên phải dựa trên những định
hướng chung đó.
Giáo dục đạo đức sinh viên về thực chất là giáo dục khả năng tự giáo
dục, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự thẩm định, điều chỉnh hành vi đạo đức của cá
nhân để đánh thức lương tâm trong mỗi con người, hình thành cho họ những
phẩm chất tốt. Và như vậy, khi nào giáo dục là tự giáo dục thì mới là giáo dục
chân chính.
Từ những căn cứ trên, chúng ta xác định nội dung giáo dục đạo đức sinh
viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay bao
gồm:
Một là: Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc Việt Nam.
Lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc đã trở thành truyền thống vô
cùng quý báu của dân tộc ta, nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua toàn bộ lịch sử
Việt Nam từ xưa đến nay, đó là “tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân,
của dân tộc Việt Nam” [16, tr.115], là cái bản chất của người Việt Nam và
được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, là lòng trung thành

với Tổ quốc, với nhân dân, có khát vọng tối đa đem lại lợi ích cho nhân dân,
cho dân tộc mình. Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc cho
sinh viên là giúp họ nhận thức được: Chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao
nhất trong giá trị đạo đức Việt Nam. Đó là một trong những tiêu chí quan
trọng nhất trong nhân cách con người Việt Nam.
Trong quá trình giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc,
chúng ta phải giúp cho sinh viên biết chuyển giá trị đạo đức ấy từ bên ngoài
thành nhu cầu bên trong, là phải giúp sinh viên “nội tâm hóa” giá trị, tạo

16


thành những phẩm chất, những giá trị nhân cách bền vững trong sinh viên,
giúp họ biến “tri thức đạo đức” thành “hành động đạo đức”.
Hai là: Giáo dục sinh viên biết sống có lý tưởng, ước mơ và hoài bão.
Đây là những giá trị chỉ đạo, điều khiển hoạt động, hành vi thường
ngày của sinh viên và là một trong những yếu tố hết sức cơ bản của cấu trúc
phẩm chất con người. Con người chỉ cao quý khi con người sống có lý tưởng.
Sống có lý tưởng, có ước mơ và hoài bão, con người sẽ nhân gấp đôi ý nghĩa
cuộc sống của mình lên. Sống thiếu lý tưởng như “ngựa không cương”, như
“thuyền không lái” không biết bến bờ đâu cả, không có mục đích con người
sẽ không có nghị lực để vươn lên trong cuộc sống. Và “lý tưởng của con
người sẽ làm cho họ có thái độ tích cực trong nhận thức, nồng nhiệt trong tình
cảm, mãnh liệt trong ý chí, quyết tâm trong hành động” [43, tr.3]. Lý tưởng
chưa phải là cái hiện thực, lý tưởng đó là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất, là
hình ảnh mà người ta phấn đấu để đạt tới. Lý tưởng chính là sự phản ánh cái
hiện thực ngày mai ấy trong đầu óc con người. Đó là hình ảnh tương lai của
cuộc sống hôm nay.
Đối với chúng ta, lý tưởng không phải là ảo tưởng, không phải xa rời
thực tế. Lý tưởng phải được xây dựng trên cơ sở thế giới quan khoa học là sự

thống nhất giữa khoa học và niềm tin, giữa lý trí và tình cảm. Để có lý tưởng
sống, mỗi sinh viên phải biết phân tích, tổng hợp lựa chọn cho mình một hình
ảnh tốt đẹp để vươn tới. Hình ảnh đó phải phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại. Ngày nay, lý tưởng của sinh viên là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; là học tập rèn luyện để có phẩm chất đạo đức tốt, lập nghiệp vì tương lai
của bản thân và tiền đồ đất nước. Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ba là: Giáo dục tình bạn và tình yêu cho sinh viên.
Đây là giá trị đạo đức nổi bật của tuổi trẻ, nhất là đối với nữ sinh Cao
đẳng Sư phạm mầm non. Tình bạn trong sáng, chân chính và tình yêu chung
thủy sẽ là điểm tựa và là sức mạnh tinh thần của tuổi trẻ.

17


Tình bạn ở lứa tuổi sinh viên được xây dựng chủ yếu trong môi trường
học tập và sinh hoạt hàng ngày. Cùng với sự giống nhau về lý tưởng, quan
niệm sống, tình bạn của sinh viên còn được xây dựng trên cơ sở của sự tâm
đầu ý hợp. Tình bạn chân chính, giúp sinh viên biết được những ưu điểm,
khuyết điểm để giúp nhau cùng tiến bộ. Biết được những đặc điểm cơ bản đó,
các tổ chức đoàn thể cần hướng tình bạn của sinh viên phát triển lành mạnh,
đúng hướng, chống sự phê phán chỉ trích gay gắt xâm phạm đến đời sống tinh
thần và tình cảm của họ. Từ thời cổ đại, Aristote (384 - 322) đã xem tình bạn
là quan hệ tốt đẹp và cao nhất trong quan hệ giữa con người với nhau. Với
quan điểm đó đã thể hiện đầy đủ tính nhân bản, nhân văn sâu sắc.
Trong tình bạn, điều mà chúng ta cần giáo dục sinh viên là chống lại sự
giả dối, lợi dụng vun vén cho sở thích và lợi ích cá nhân. Sự giả dối sẽ phá vỡ
chất keo kết dính giữa hai người, mất hết tình bạn.
C.Mác, Ph.Ăng ghen cũng hết sức coi trọng tình bạn, chính hai ông đã
thể hiện được tấm gương trong sáng, tuyệt vời về tình bạn chân chính, thủy

chung.
Tình yêu là vấn đề muôn thuở của con người, nó là một giá trị nổi bật ở
tuổi trẻ. Tình yêu - với sức mạnh đặc trưng của nó, có thể đưa con người vươn
tới những đỉnh cao của ước mơ và khát vọng nhưng cũng có khi hạ con người
xuống điểm tận cùng của sự thất bại đau đớn. Vì thế, giáo dục sinh viên có
một quan niệm đúng đắn về tình yêu, để tình yêu ấy nâng cánh cho họ bay lên
trong cuộc sống là một vấn đề hết sức thiết thực và quan trọng.
Trong Bản thảo kinh tế - triết học 1844 Các Mác viết: “Quan hệ trực
tiếp, tự nhiên, tất nhiên của con người đối với con người là quan hệ của đàn
ông đối với đàn bà, là tình yêu giữa nam và nữ. Đạo đức mới quan tâm đến
việc xây dựng một tình yêu trong sáng, hoàn toàn tự nguyện, dựa trên sự rung
động của con tim và minh mẫn của bộ óc. Đây là nguồn hạnh phúc chân chính
của tuổi trẻ, là cơ sở vững chắc của hôn nhân. Đúng như lời nhận xét của

18


Ăngghen: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới là hợp đạo
đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì mới là hợp đạo
đức mà thôi” [31, tr.137].
Tình yêu là một sức mạnh và sự bền bỉ, nó có thể vượt qua không gian,
vượt cả thời gian, thậm chí họ có thể hy sinh cả tính mạng để đổi lấy tình yêu,
bảo vệ lấy tình yêu chân chính.
Ở nước ta, trong thời kỳ đổi mới, việc chuyển từ cơ chế kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã tác động sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội làm thay đổi rất
nhiều bậc thang giá trị đạo đức. Tình bạn, tình yêu cũng bị cuốn vào cơn lốc
của kinh tế thị trường. Trong sinh viên cũng có không ít người chịu tác động
xấu của văn hóa ngoại lai, lối sống chạy theo đồng tiền. Tình bạn, tình yêu ở
một bộ phận sinh viên đã bộc lộ nhiều vấn đề đáng lo ngại, xuất hiện nhiều

thuật ngữ tình yêu mới, hoàn toàn xa lạ với văn hóa đạo đức truyền thống dân
tộc Việt Nam: tình yêu thời mở cửa, hiện tượng sống thử. v.v... Từ đó, làm
nảy sinh quan hệ nam - nữ thiếu lành mạnh. Đó là tình yêu không trong sáng
thiếu sự chung thủy, nó chỉ mang nặng tính chất vụ lợi và chạy theo lối sống
buông thả.
Trước thực trạng đó, việc giáo dục đạo đức trong tình bạn, tình yêu cho
sinh viên là không thể xem nhẹ. Nó đòi hỏi có sự phối hợp của nhiều tổ chức,
đoàn thể để cùng thực hiện một mục đích chung là: tạo ra những con người có
phẩm chất tốt, nhân cách tốt để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Bốn là: Giáo dục đạo đức trong học tập.
Trong nhà trường, hoạt động cơ bản của sinh viên là hoạt động học,
mọi hoạt động khác đều phải xoay quanh cái trục đó. Hoạt động học bao gồm:
động cơ, mục đích, nhiệm vụ, nhu cầu học tập. Đối với sinh viên, học tập
không chỉ là đòi hỏi, yêu cầu của xã hội mà còn là nghĩa vụ đạo đức, là nhu

19


cầu tự thân của lớp trẻ nhằm hướng vào bản thân để thay đổi chính bản thân
mình. Giáo dục đạo đức trong học tập cho sinh viên là hướng hoạt động học
tập của họ theo đúng mục tiêu giáo dục - đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước. Nếu những điều sinh viên học được hôm nay
không thích hợp với nghề nghiệp mà họ sẽ làm trong tương lai, học cái không
dùng, dùng cái không học, hoặc chỉ tập trung vào học những ngành, những
nghề trước mắt có thu nhập cao, học để đi làm thuê cho các công ty tư bản
nước ngoài vì mục đích kinh tế, thậm chí bán rẻ cả danh dự quốc gia vì lợi ích
cá nhân thì điều đó có nghĩa là chúng ta đã xa rời mục tiêu giáo dục đã đề ra.
Giáo dục đạo đức trong học tập cho sinh viên là phải giáo dục lòng kiên nhẫn,
ham mê và tính trung thực trong khoa học. Thực tiễn cho thấy rằng, con

đường dẫn đến khoa học không bao giờ bằng phẳng cả, mà nó gập ghềnh,
khúc khuỷu, lắm chông gai. Muốn chiếm lĩnh thành tựu khoa học đó, đòi hỏi
phải có lòng kiên nhẫn, với quyết tâm cao, để vượt qua mọi khó khăn trở ngại
trên con đường đi tới. Ph. Ăngghen cho rằng: “Lịch sử khoa học là lịch sử của
việc loại bỏ dần sự vô lý này hoặc thay nó bằng một điều vô lý mới, nhưng
vẫn ít kỳ cục hơn” [33, tr.681]. Nhận thức là một quá trình, không thể đốt
cháy giai đoạn, mọi sự nóng vội chủ quan đều không đi đến thành công. Mục
đích của nhận thức khoa học là đi tìm chân lý. Do đó, tính trung thực khoa
học là một trong những phẩm chất cần thiết của người nghiên cứu khoa học.
Việc nhận thức của sinh viên cao hơn việc nhận thức của học sinh phổ thông,
nó gần hơn với quá trình nhận thức của nhà khoa học. Vì vậy, ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trường, đòi hỏi sinh viên phải có sự rèn luyện, nghiên cứu
một cách trung thực, khoa học.
Năm là: Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Đây là một nội dung
hết sức cơ bản, là tiêu chuẩn và là bản chất của đạo đức mác- xít.
Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là giúp cho họ nhận thức được
rằng: chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là thái độ tốt về tình yêu thương đối với
con người là đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của nhân loại trước hết là tự do

20


và hạnh phúc cho người lao động. Đây chính là nguồn hạnh phúc của mọi
hạnh phúc, là mục đích tự thân là điều kiện cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản. Chủ nghĩa nhân đạo, hiểu một cách khái quát là một quan điểm đạo
đức và chính trị thừa nhận con người là giá trị cao nhất là thước đo của mọi
vật. Chủ nghĩa nhân đạo mác-xít là một chủ nghĩa nhân đạo toàn diện triệt để
và sâu sắc nhất trong lịch sử tư tưởng loài người. Mục tiêu là thủ tiêu mọi sự
áp bức bất công, mọi người đều được tự do, được thực hiện đầy đủ quyền làm
người của mình. Tôn chỉ của nó là: tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự

phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài
hòa giữa cá nhân với tập thể, với cộng đồng và với tự nhiên. Giáo dục chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản cho sinh viên không chỉ giáo dục thái độ tốt, biết yêu
thương con người lao động lương thiện, chân chính, mà còn giáo dục cho họ
biết đấu tranh không khoan nhượng với mọi cái áp bức bất công, với mọi tội
ác và hành vi vô nhân đạo, với tất cả những gì xâm phạm đến lợi ích chính
đáng của người lao động chân chính.
Trong xã hội hiện nay, bên cạnh sự phát triển chiếm ưu thế của chủ
nghĩa nhân đạo, còn tồn tại rất nhiều những hiện tượng, hành vi phi đạo đức,
vô nhân đạo: làm giàu bất chính, làm hàng giả, gian lận thương mại, tham
nhũng...; đối xử tàn nhẫn với con người: đánh đập, ức hiếp, giết người dã
man, tàn bạo... Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo đó là sự suy thoái đạo lý
trong quan hệ thầy trò, bè bạn, v.v... những hành vi đó vi phạm nghiêm trọng
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam: trọng nghĩa tình, trọng đạo lý, lòng nhân ái
khoan dung, độ lượng... vốn được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Vì thế, giáo dục chủ nghĩa nhân đạo cộng sản
cho sinh viên trước hết là giáo dục tình yêu thương đối với ông bà, cha mẹ,
anh em, thầy cô, bạn bè, tình yêu thương con người. Bởi lẽ, không có con
người và tình yêu thương con người thì không có cái gì có giá trị. Mọi cái
phải bắt đầu từ con người, vì con người; và nếu vì một mục đích thấp hèn nào
khác thì sớm muộn cũng phải trả giá cho điểm xuất phát sai lầm của mình. Có
được như vậy, thì những gì mà giáo dục - đào tạo đã đánh mất trong thời gian

21


qua mới có thể lấy lại được, lòng tin của xã hội đối với giáo dục - đào tạo mới
được củng cố; giáo dục - đào tạo mới phát triển, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngoài những phẩm chất đạo đức đã được trình bày ở trên còn có một số

phẩm chất mang tính nhân văn cao cả cũng cần phải được giáo dục cho sinh
viên,đó là: ý thức trách nhiệm công dân, có bản lĩnh nhân cách vững vàng;
một lối sống văn minh, hiện đại; một tinh thần cộng đồng, đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau... được tạo nên từ trong sâu thẳm của truyền thống dân tộc Việt
Nam.
1.2. Vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên hệ Cao đẳng Sƣ
phạm mầm non
1.2.1. Đặc trưng và chức năng của đạo đức
Lịch sử phát triển phát triển của xã hội loài người từ khi hình thành cho
đến nay đã đều khẳng định vai trò rất to lớn của đạo đức trong việc duy trì trật
tự, ổn định và phát triển xã hội. Xã hội phát triển nhanh hay chậm, suy cho
cùng là do năng lực hoạt động và tính tự nguyện, tự giác của mỗi con người;
đồng thời cũng do bản thân con người có nhận thức được đúng đắn quy luật
và hướng cho hoạt động của mình phù hợp với quy luật hay không? Do đó,
đạo đức đã đóng vai trò rất quan trọng để tạo dựng nên cuộc sống tốt đẹp cho
xã hội và giúp cho con người hoàn thiện nhân cách.
Vì vậy, đặc trưng quan trọng nhất của đạo đức là tính tự nguyện, tự
giác của con người. Để tránh những hành vi vô đạo đức, con người phải lựa
chọn những hành vi ứng xử của mình. Sự lựa chọn này hoàn toàn không mang
tính cưỡng bức mà là tự nguyện, tự giác.
Chính điều này đã thể hiện những chức năng cơ bản của đạo đức. Khi
nghiên vấn đề đạo đức, chúng ta thấy đạo đức có các chức năng cơ bản sau:
- Chức năng điều chỉnh hành vi:
Thông qua hệ thống các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức xã hội, nó có
tác dụng làm cho hoạt động của con người phù hợp với lợi ích của xã hội.
Thực tế trong trong đời sống xã hội rất phức tạp và đa dạng, trong xã hội

22



thường tồn tại đan xen giữa những người tốt và xấu, người có đức hạnh và kẻ
vô lương tâm, người có ích và kẻ ăn bám, người có hành vi cao cả và kẻ thấp
hèn... Hay nói cách khác xuất phát từ quan hệ nhiều chiều, mỗi người luôn
suy nghĩ và có hành vi đối xử với những quan hệ khác nhau. Có quan hệ
thuận, quan hệ nghịch; có quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, quan hệ giữa cá
nhân với tập thể; có quan hệ gia đình, quan hệ họ hàng dòng tộc, quan hệ
cộng đồng... Lại có những mối quan hệ luôn mâu thuẫn làm cho mỗi cá nhân
rất khó thích ứng, hoặc rất khó quyết định phải đối xử như thế nào trong
những hoàn cảnh khác nhau, tình huống khác nhau.
Do vậy, con người bao giờ cũng lấy nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức để
điều chỉnh hành vi, thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức làm cho
chủ thể đạo đức thoải mái lương tâm ngay cả trong trường hợp có mâu thuẫn
trong quan hệ.
- Chức năng nhận thức, kiểm tra, đánh giá:
Cùng với chức năng điều chỉnh hành vi, đạo đức còn là công cụ giúp
con người nhận thức xã hội về mặt đạo đức. Thực hiện chức năng này, đạo
đức kiểm tra và đánh giá những hành vi đạo đức của mỗi chủ thể trong quá
trình hoạt động có phù hợp với yêu cầu xã hội hay không, có được dư luận xã
hội đồng tình hay bị dư luận xã hội lên án, chỉ trích.
Những hành vi nào mà được dư luận xã hội đồng tình thì đó là những
hành vi đạo đức phù hợp với xã hội, phù hợp với điều kiện kinh tế của xã hội
và ngược lại.
Như vậy, chức năng nhận thức, kiểm tra và đánh giá của đạo đức có vai
trò trong việc định hướng cho mọi hành vi của chủ thể đạo đức. Chính chức
năng này đã trang bị cho con người những tri thức lý luận và thực tiễn đạo
đức để con người nhận biết được điều hay, lẽ phải, đó cũng là cái chân, thiện,
mỹ và cũng giúp con người tránh được cái xấu, cái ác.
Thực hiện chức năng này, đòi hỏi mỗi cá nhân phải có những năng lực,
phẩm chất đạo đức nhất định, giúp họ nắm được những tiêu chuẩn đạo đức
tiến bộ để luôn có hành vi phù hợp với nhu cầu đạo đức xã hội.


23


- Chức năng định hướng giáo dục:
Mỗi chế độ xã hội cụ thể bao giờ cũng có một hệ thống các chuẩn mực
đạo đức, bởi vì: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước
đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ” [30, tr.136].
Hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực này được hình thành
để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, phù hợp với lợi ích chung và lợi ích
riêng của mọi người. Đồng thời con người cũng dựa vào đó để tự điều chỉnh
mình; mặt khác, bằng dư luận xã hội để điều chỉnh ý thức và hành vi của các
chủ thể.
Ở đây vai trò định hướng của đạo đức có tác dụng vô cùng to lớn trong
việc hình thành nhân cách, giáo dục đạo đức giúp cho mỗi người thấy rõ trách
nhiệm và nghĩa vụ đạo đức của mình đối với xã hội, xác định rõ mình cần
phải làm gì và làm như thế nào cho xã hội, cho người khác.
Đồng thời với thực hiện chức năng định hướng giáo dục, đạo đức cũng
đòi hỏi quá trình tự giáo dục ở mỗi con người. Tự giáo dục thông qua các
hình thức hoạt động xã hội, hình thức giao tiếp, giao lưu, qua đó mỗi cá nhân
ý thức được danh dự, rèn luyện được phẩm chất, học hỏi được những điều mà
xã hội đòi hỏi.
Tóm lại, với tính phục vụ tự nguyện tự giác của con người đối với
người khác, với những chức năng điều chỉnh hành vi, nhận thức, kiểm tra,
đánh giá và định hướng giáo dục, đạo đức đã giúp cho con người hoàn thiện
những giá trị của xã hội, đồng thời còn có khả năng chống lại những khuynh
hướng đang cản trở sự phát triển của nhân loại.
1.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên hệ Cao đẳng Sư phạm mầm non.
1.2.2.1. Giáo dục mầm non đòi hỏi cô giáo mầm non phải có đạo đức,

nhân cách tốt.
Giáo dục mầm non là bậc học mở đầu cho một đời người, cho các bậc
học: mầm non, tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học.

24


×