Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự việt nam luận văn ths luật 60 38 01 04 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (893.61 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ HẢI YẾN

HỎI CUNG BỊ CAN TRONG LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ HẢI YẾN

HỎI CUNG BỊ CAN TRONG LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự - Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đinh Thị Hải Yến


MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Trang

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN............... 8
1.1. Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can.................................................... 8
1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can ......................................................................... 8

1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can ................................................................. 10
1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự trong hỏi
cung bị can ...................................................................................................... 14
1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa ...................... 15
1.2.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc
bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng ........................................ 17
1.2.3. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can ................................................................................................. 19
1.3. Khái quát các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi
cung bị can ..................................................................................................... 22
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988. ......................................................... 22
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến
năm 2003.......................................................................................................... 24
1.4. Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới
......................................................................................................................... 26
1.4.1. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa................................................................................................................... 26
1.4.2. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga ................ 28


1.4.3. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên Bang Đức 29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
......................................................................................................................... 33
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung
bị can ............................................................................................................... 33
2.1.1. Đối tượng của hỏi cung bị can ................................................................ 33
2.1.2. Chủ thể của hỏi cung bị can .................................................................... 34
2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can .............................................. 36

2.1.4. Hỏi cung bị can là người chưa thành niên ............................................... 42
2.1.5. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can ............ 46
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành về hỏi cung bị can .......................................................................... 48
2.2.1. Những kết quả đạt được .......................................................................... 48
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ................................ 53
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN.............................................................. 68
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
hỏi cung bị can ................................................................................................ 68
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can . 77
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức Cơ quan điều tra và tăng cường số lượng Điều tra viên
phục vụ cho công tác điều tra ........................................................................... 77
3.2.2. Nâng cao vai trò Người bào chữa trong hoạt động hỏi cung bị can nói
riêng và toàn bộ quá trình điều tra vụ án nói chung........................................... 82
3.2.3. Tăng cường công tác phối hợp, chế ước chặt chẽ giữa hai cơ quan Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong hỏi cung bị can. ............................................... 84
3.2.4. Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác điều tra. .... 84
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 89


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

BLHS


: Bộ luật hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

VKS

: Viện Kiếm sát

TAND

: Tòa án nhân dân


DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ

Biểu đồ 1: Số lượng các vụ việc bức cung, dùng nhục hình...........................57
Biểu đồ 2: Số bị can bị khởi tố điều tra về tội bức cung, dùng nhục hình.....58


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, để giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự và xử lý công

minh, đúng đắn kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệt để tuân thủ các
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân, đồng thời giáo dục mọi người đề cao ý thức tuân theo pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều tra trong tố tụng hình sự là giai đoạn đầu tiên có vai trò quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn này cơ quan tiến hành tố
tụng thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi
phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Để thu thập chứng cứ, trong giai đoạn này, Cơ quan điều tra được tiến hành
các biện pháp điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Hoạt động điều tra là
cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự, thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm
sát không có cơ sở để truy tố, Tòa án không có cơ sở để xét xử vụ án. Chính
vì vậy mà pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về các biện pháp
điều tra. Điều này được thể hiện trong Bộ luật TTHS 2003, Pháp lệnh Tổ
chức điều tra hình sự 2004 và các văn bản chuyên ngành khác. Trong những
biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, hỏi cung bị
can là biện pháp có vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Qua hỏi cung bị can giúp
cơ quan điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ án, làm rõ được âm mưu, ý
đồ, động cơ, hành vi phạm tội của bị can và đồng bọn. Đồng thời hỏi cung
còn tạo điều kiện mở rộng công tác điều tra, giúp phòng ngừa và ngăn chặn
tội phạm có hiệu quả. Với ý nghĩa ấy hỏi cung bị can đựơc xem là hoạt động
trọng yếu của quá trình điều tra vụ án.
1


Trong thời gian qua, những vấn đề lý luận cơ bản về hỏi cung bị can đã
được quan tâm đáng kể song không có nhiều công trình nghiên cứu độc lập về
vấn đề này. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về hỏi cung bị can trong pháp luật

tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm, là nhiệm vụ cấp bách đặt ra không chỉ với khoa
học điều tra hình sự mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với thực tiễn điều tra tội
phạm trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Hỏi cung bị can trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về biện
pháp hỏi cung bị can ở những mức độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau như:
“Hỏi cung bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện
nay”, đề tài cấp Bộ của Phó giáo sư, tiến sỹ Lê Minh Hùng năm 2001 –
Học viện An Ninh Nhân dân; “Hỏi cung bị can phạm tội gián điệp trong
tình hình hiện nay”, luận án tiến sỹ của Nguyễn Quý Khoát năm 2003 –
Học viện An Ninh Nhân dân; “Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình
sự”, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Minh năm 2008 – Khoa Luật Đại
học Quốc Gia Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuẩn bị hỏi cung
bị can”, Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Hoa năm 2010 – Đại học Luật
Hà Nội; ...
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến vấn đề này
nhưng chỉ ở mức độ đại cương, chưa sâu sắc như: “Giáo trình Luật tố tụng
hình sự” của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân,
2013); “Bình luận khoa học Bộ luật TTHS” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2013); "Sổ tay điều tra hình sự" (Nhà xuất
bản Công an nhân dân, 2010); "Khoa học Điều tra hình sự" của Trường Đại
học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2012); “Chiến thuật điều
2


tra hình sự” (sách chuyên khảo) của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Huy Thuật
(Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010) và một số bài báo được công bố

trong một số tạp chí... Đây là những công trình nghiên cứu cơ bản các vấn đề
thuộc lĩnh vực điều tra hình sự, đã đề cập đến các biện pháp điều tra hình sự
trong đó có hỏi cung bị can.
Tuy nhiên các công trình này ở những mức độ khác nhau mới chỉ đề
cập tới vấn đề mang tính bình luận các quy định của pháp luật về hỏi cung bị
can mà chưa đi sâu phân tích biện pháp này theo quy định của Bộ luật TTHS
như chủ thể có thẩm quyền hỏi cung, trình tự và thủ tục hỏi cung,... cũng như
chưa phân tích các bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra đề xuất về giải pháp hoàn
thiện, cũng như những kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp
hỏi cung bị can trong pháp TTHS. Như vậy, có thể nói rằng chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về biện pháp hỏi cung bị
can với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt. Do đó, việc tiếp tục nghiên
cứu về hỏi cung bị can với những vấn đề lí luận cơ bản và thực tiễn áp dụng là
cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản, luận văn
đánh giá một cách có hệ thống về thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can
trong các vụ án hình sự và từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
biện pháp điều tra này trong thời gian tới, góp phần bổ sung, hoàn thiện lý
luận trong pháp luật tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về hỏi cung bị can;
- Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can
và thực tiễn áp dụng ;
3


- Đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng

biện pháp hỏi cung bị can trong thực tiễn.
3.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là khái niệm, nhiệm vụ, Bảo đảm
thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật TTHS trong hỏi cung bị can; khái quát
những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam từ sau 1945 đến nay; Hỏi cung bị
can theo quy định Bộ luận TTHS của một số nước trên thế giới; những quy định
của pháp luật hiện hành và thực tiễn hỏi cung bị can trong tình hình hiện nay.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra đóng vai trò rất quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đây là một biện pháp khá phức
tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được chứng cứ có
giá trị chứng minh cao thì ngoài việc biện pháp này phải được tiến hành theo
đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải có sự kết hợp
với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá
trình hỏi cung. Việc tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm lý bị can giúp
cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được lời khai đúng và
đầy đủ. Do vậy, trong phạm vi đề tài, luận văn không đi sâu vào nghiên cứu
các phương pháp, chiến thuật hỏi cung bị can mà tập trung làm rõ những quy
định của Bộ luật TTHS hiện hành và một số văn bản có liên quan đến biện
pháp điều tra này và thực tiễn áp dụng hiện nay.
Theo quy định của pháp luật, ngoài Điều tra viên – chủ thể chính tiến
hành hỏi cung bị can thì Kiểm sát viên, những người khác thuộc Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển cũng tiến hành hỏi cung
bị can trong những trường hợp cần thiết. Trong phạm vi nghiên cứu của đề
tài, luận văn chủ yếu đề cập tới chủ thể chính tiến hành hoạt động hỏi cung là
Điều tra viên.

4



4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa
học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra hình
sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS
thực định và các văn bản khác có liện quan về hoạt động hỏi cung bị can, quá
trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các văn
bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hướng dẫn về hoạt động, điều tra,
xử lý vụ án hình sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân
tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong các vụ
án người chưa thành niên phạm tội, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đây là một trong những công trình chuyên khảo trong khoa học luật hình
sự, tố tụng hình sự Việt nam nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận cơ bản và thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can với cấp độ là một
luận văn thạc sỹ. Luận văn đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:
Một là, xây dựng khái niệm hỏi cung bị can một cách khoa học và hợp lí
Hai là, tìm hiểu quy định pháp luật của Liên bang Nga, Liên bang Đức
và cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hỏi cung bị can đồng thời rút ra một số
nhận xét.
Ba là, phân tích đối tượng và chủ thể của hỏi cung bị can, trình tự, thủ
tục hỏi cung bị can.
5



Bốn là, tìm hiểu những quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về hỏi
cung bị can người chưa thành niên;
Năm là, đánh giá và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật nước ta về hoạt
động hỏi cung bị can trong giai đoạn hiện nay, qua đó rút ra những nhận xét
Sáu là, chỉ ra những hạn chế, thiếu xót và từ đó đề xuất những giải pháp
có tính khoa học, tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp hỏi
cung bị can trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác của các cơ quan tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ
và đúng pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở lý luận và
thực tiễn về hỏi cung bị can. Trên cơ sở nghiên cứu này, luận văn góp phần
cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn điều tra vụ án
hình sự. Thông qua việc đưa ra những khái niệm cũng như việc phân tích
sâu sắc những vấn đề liện quan đến hỏi cung bị can nhằm tác động đến nhận
thức của Điều tra viên về việc tuân thủ các trình tự, yêu cầu của pháp luật tố
tụng hình sự trong hỏi cung bị can. Qua đó đảm bảo cho quá trình điều tra,
giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội nhằm
nâng cao hiệu quả của việc vận dụng các quy định của pháp luật về hỏi cung
bị can trong thực tiễn.
Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu, nghiên cứu thực tiễn hỏi cung bị can
để thấy được những điểm hạn chế, tồn tại của việc sử dụng biện pháp này, từ đó
6



đề xuất những kiến nghị sát thực nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động
hỏi cung bị can nói riêng và hoạt động điều tra, giải quyết vụ án hình sự nói cung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về hỏi cung bị can.
Chương 2: Quy định của Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
về hỏi cung bị can và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Pháp luật tố
tụng hình sự và nâng cao hiệu quả của hoạt động hỏi cung bị can.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN

1.1.Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can
1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can
Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục gồm nhiều
hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, giai đoạn điều tra đóng vai
trò quan trọng nhằm tìm kiếm chứng cứ, chứng minh tội phạm, người phạm
tội, xác định thiệt hại do tội phạm gây ra mà trong đó hoạt động hỏi cung bị
can là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng.
Điều 131 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về việc hỏi cung:“Việc hỏi
cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi
tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của
người đó” [30]. Như vậy, có thể thấy rằng Bộ luật TTHS đã không có điều

luật cụ thể khái niệm về hỏi cung bị can.
Theo từ điển Luật học đưa ra định nghĩa: “Hỏi cung bị can là hoạt
động tố tụng hình sự do Điều tra viên tiến hành khi có quyết định khởi tố bị
can để lấy lời khai về các tình tiết của vụ án hình sự”. Hay trong cuốn sách
chuyên khảo chiến thuật điều tra hình sự của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Huy
Thuật đã đưa ra định nghĩa: hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra hình sự
do những người theo luật định tiến hành nhằm mục đích thu thập theo trình tự
TTHS lời khai của bị can về vụ án, hành vi và mức độ phạm tội của bị can và
đồng phạm và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với
hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm [22, tr.173].
Trong giáo trình tâm lí học tư pháp do tác giả Đặng Thanh Nga chủ
biên có viết: Hoạt động hỏi cung bị can là một dạng hoạt động điều tra sử
dụng các phương pháp tác động tâm lí đến tư duy, tình cảm, ý chí của bị can
trong khuôn khổ pháp luật thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và các phương
8


pháp biểu cảm khác như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt giữa Điều tra viên với bị can
nhằm thu thập chứng cứ do họ đưa ra góp phần giải quyết vụ án hình sự [13,
tr. 275]. Theo đó, có thể thấy, hỏi cung bị can là cuộc đấu tranh quyết liệt
giữa bị can và ĐTV trong khuôn khổ pháp luật. Dưới góc độ tâm lí học, hỏi
cung bị can là được hiểu là quá trinh nhận thức gián tiếp của CQĐT, Điều tra
viên về vụ án thông qua tài liệu, thông tin mà bị can cung cấp. Nói cách khác,
hoạt động hỏi cung là một dạng hoạt động phức tạp gồm hai quá trình độc lập
tương đối: Quá trình khai thác thông tin và quá trình nhận thức đánh giá thông
tin của Điều tra viên.
Như vậy, hỏi cung bị can được xem xét, nghiên cứu ở nhiều khí cạnh
khác nhau, mặc dù đưa ra những nhận định khác nhau về hỏi cung bị can
nhưng trong các quan điểm đó cho thấy vị trí của hỏi cung bị can là một trong
những biện pháp điều tra cơ bản của giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Mục

đích của hỏi cung bị can là thu thập và mô tả theo trình tự TTHS thật đầy đủ,
chính xác, khách quan lời khai của bị can về vụ án hình sự, hành vi phạm tội
của bị can cùng đồng bọn và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý
nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm. Đặc biệt chú ý,
trong quá trình hỏi cung cần kiểm tra những tài liệu là cơ sở để khởi tố bị can,
làm rõ động cơ và mục đích phạm tội, những nguyên nhân và điều kiện làm
phát sinh tội phạm. Thực tiễn điều tra cho thấy, hỏi cung bị can là một biện
pháp khá phức tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được
chứng cứ có giá trị chứng minh cao thì ngoài việc hoạt động này phải được
tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải
có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị
can trong quá trình hỏi cung. Việc tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm
lý bị can giúp cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được
lời khai đúng và đầy đủ.

9


Vì vậy, từ việc nghiên cứu những quy định của Bộ luật TTHS, tác giả
đưa ra khái niệm về hỏi cung bị can như sau: “Hỏi cung bị can là một biện
pháp điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do Điều tra viên và
những người có thẩm quyền khác tiến hành sau khi có quyết định khởi tố bị
can nhằm mục đích thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội
của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự”.
1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can
Thứ nhất, thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện
hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng
đắng vụ án hình sự.
Quá trình chứng minh trong TTHS là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh

giá và sử dụng chứng cứ. Trong đó thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng và không thể thiếu của quá trình chứng minh. Nếu
không có thu thập chứng cứ, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng
chứng cứ. Điều đó lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và vấn đề thu
thập chứng cứ nói riêng luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
các nhà lập pháp mỗi nước khi xây dựng Bộ luật TTHS.
Thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn chứng
cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện
chứng minh. Xét trên góc độ thông tin, thì phát hiện, thu thập chứng cứ là quá
trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Phát hiện,
thu thập chứng cứ vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp
lý nên quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ vừa phải quán triệt những
nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải bảo đảm tính pháp lý, hay nói
cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ
tục của Bộ luật TTHS.
10


Để thu thập chứng cứ trong giai đoạn, cơ quan có thẩm quyền được
phép tiến hành nhiều biện pháp điều tra khác nhau, trong đó có biện pháp hỏi
cung bị can. Pháp luật tố tụng hình sự quy định chủ thể, trình tự, thủ tục hỏi
cung… nhằm đạt được mục đích là thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm,
người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải
quyết đúng đắng vụ án hình sự. Là chủ thể của tội phạm, bị can là chủ sở hữu
một lượng thông tin tương đối lớn về vụ án. Hơn ai hết bị can là người biết rõ
về toàn bộ quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu hành vi phạm tội, những
mục đích, động cơ đã thúc đẩy bị can phạm tội; những công cụ, phương tiện,
thủ đoạn phạm tội, phương pháp đã được bị can sử dụng khi thực hiện hành vi
phạm tội, những tài sản đã chiếm đoat được…Vì vậy, khi hỏi cung bị can,

Điều tra viên cần áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép để có thể thu
thập được tất cả những thông tin mà bị can biết, có liên quan đến vụ án nhằm
làm rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lập hồ sơ đề nghị xử lý
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
Hiến pháp năm 2013 – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, lần đầu tiên
đã quy định nguyên tắc về giới hạn quyền tại khoản 2, Điều 14: “Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [29]. Ở nước ta, quyền con
người luôn được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Tiếp tục đảm bảo quyền con
người đã được ghi nhận tại các bản Hiến pháp trước đây và Hiến pháp hiện
hành, Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án,
Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra
11


tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời
hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp
luật hoặc không còn cần thiết nữa” [30]. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013
khẳng định tại khoản 2 Điều 72 khẳng định:“Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [29], do vậy bị can vẫn có đầy
đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà các quyền này phải được
tôn trọng và đảm bảo thực hiện đầy đủ. Do chưa được coi là có tội nên các cơ
quan tiến hành tố tụng không được đối xử với bị can, bị cáo như người có tội,
kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như

tạm giam chẳng hạn .Để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo thực sự,
pháp luật TTHS đòi hỏi những chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện
trách nhiệm của mình trong phạm vi pháp luật quy định, không được làm tùy
tiện, vượt khỏi phạm vi giới hạn của luật dẫn đến việc xâm phạm các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ này, hoạt động hỏi
cung cần phải đảm bảo yêu cầu: Bảo đảm khi tiến hành hỏi cung, thu thập
chứng cứ phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục luật định, không được áp dụng
các biện pháp xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của công dân như bức cung, nhục hình…
Khoản 2 Điều 49 Bộ luật TTHS quy định: “Bị can có quyền trình bày
lời khai của mình” [30]. Chính vì vậy, trong bất kỳ trường hợp nào thì CQĐT
cũng cần phải tôn trọng quyền được trình bày lời khai của bị can. Bởi vì qua
lời khai của chính bị can - người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật
ta có thể xác định sự thật một cách khách quan, không phiến diện. Đặc biệt
CQĐT không được phép dùng các biện pháp trái pháp luật để buộc bị can
phải khai báo. Điều đó sẽ dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra vụ án. Và
nghiêm trọng hơn là việc làm đó của CQĐT đã vi phạm pháp luật, xâm hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can
12


Thứ ba, những nhiệm vụ mang tính đặc trưng riêng của biện pháp hỏi
cung bị can.
Căn cứ vào yêu cầu của pháp luật và thực tiễn hoạt động điều tra, để
thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các
tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, khi tiến
hành hỏi cung, một mặt chủ thể hỏi cung cần phải triệt để giải quyết những
nhiệm vụ chung mà Bộ luật TTHS đã đặt ra, mặt khác cần phải giải quyết tốt
những nhiệm vụ cụ thể mang tính đặc trưng riêng đó là: Phát hiện đồng bọn
để kịp thời truy bắt, phát hiện những vật chứng còn cất giấu để kịp thời thu

giữ, phát hiện những âm mưu và hành động chuẩn bị gây án hay đang gây án
để kịp thời ngăn chặn; Làm rõ nội dung vụ án, vai trò, vị trí và mức độ phạm
tội của từng bị can, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm, động cơ và mục
đích phạm tội để lập hồ sơ đề nghị truy tố; Làm rõ những nguyên nhân và
điều kiện phát sinh tội phạm và những sơ hở thiếu sót trong hoạt động điều tra
để có biện pháp khắc phục, ngăn chặn [22, tr.176].
Như vậy, để thực hiện nhiệm vụ trên, pháp luật TTHS quy định cụ thể,
rõ ràng tạo căn cứ pháp lí vững chắc, có hiệu quả cho hoạt động của chủ thể
hỏi cung và đối tượng hỏi cung. Các quy định của pháp luật về biện pháp này
là căn cứ để CQĐT, Viện kiểm sát ý thức rõ phạm vi, mức độ quyền hạn của
mình; giúp cho bị can nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình để họ
có thể bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa vụ.
Bộ luật TTHS quy định về chủ thể và đối tượng, trình tự, thủ tục hỏi
cung... Quy định này xác định trình tự tố tụng thống nhất đối với mọi vụ án và
là căn cứ pháp lí để CQĐT, Viện kiểm sát tiến hành hỏi cung một cách thống
nhất và đúng pháp luật. Để đạt được mục đích là nhằm thu thập chứng cứ, làm
rõ sự thật khách quan của vụ án, xuất phát từ thực tiễn giải quyết các vụ án
hình sự đòi hỏi phải có sự thống nhất về trình tự hỏi cung, cho nên Bộ luật
TTHS quy định trình tự (trật tự trước sau), thủ tục (yêu cầu phải đạt được về
13


hình thức pháp lý, các biên bản hỏi cung phải lập như thế nào, việc lập biên
bản phải có mặt ai…), thời gian tiến hành hỏi cung…Đồng thời Bộ luật TTHS
đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy
định đó thì mới thừa nhận tính hợp pháp, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án
hình sự.
Để tiến hành hỏi cung bị can, Nhà nước quy định Điều tra viên, Kiểm
sát viên và những người khác có thẩm quyền hỏi cung. Vì vậy, để có thể phát
huy sức mạnh của những chủ thể này, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, có hiệu

quả, tránh chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau, Bộ luật TTHS không những có
quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của những chủ thể này mà còn quy
định cụ thể về nhiệm vụ của các chủ thể này trong hoạt động hỏi cung.
Để đảm bảo hiệu quả tính khách quan, toàn diện của hỏi cung, trong
quá trình hỏi cung, chủ thể hỏi cung cần triệt để thực hiện và giải quyết tốt
những nhiệm vụ này. Việc thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể này, trong quá
trình hỏi cung không những đảm bảo tính nhanh chóng, khách quan, toàn diện
và đầy đủ của hoạt động điều tra mà còn thể hiện tính phòng ngừa tích cực
của biện pháp này nói riêng và hoạt động điều tra nói chung.
1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự
trong hỏi cung bị can
Các hoạt động TTHS đều phải tuân thủ triệt để những nguyên tắc luật
định được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2003 và
các văn bản pháp luật có liên quan. Do đó, giai đoạn điều tra vụ án hình sự –
một trong những giai đoạn của quá trình TTHS cũng không nằm ngoài phạm
vi điều chỉnh của các nguyên tắc này. Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò và vị trí
quan trọng của hoạt động điều tra trong đó có hoạt động hỏi cung bị can trong
việc giải quyết vụ án hình sự; Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất cả các
vụ án hình sự. Thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở để truy
tố, tòa án không có cơ sở để xét xử vụ án trong đó biện pháp điều tra hỏi cung
14


bị can “là công tác chính yếu trong giai đoạn điều tra tội phạm, là một khâu
rất quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền tự do thân thể, danh dự và
nhân phẩm của công dân [33, tr. 57] nên các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị can phải triệt để tuân thủ và đảm bảo thực
hiện những nguyên tắc của Bộ luật TTHS.
1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế XHCN là một nguyên tắc hiến định đã được quán

triệt trong mọi hoạt động điều tra nói chung và hoạt động TTHS nói riêng của
các cơ quan Nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Do vậy, hỏi cung bị can một biện pháp trong giai đoạn điều tra, giải quyết vụ án hình sự cũng không
nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này: “Mọi hoạt động tố tụng
hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của luật này” [30]. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, do những đặc thù cơ bản của biện pháp điều tra này nên việc vận
dụng nguyên tắc pháp chế XHCN có những biểu hiện đặc thù riêng biệt. Theo
đó, nguyên tắc trên chỉ được đánh giá là đã thực sự được tôn trọng và bảo
đảm thực hiện trong quá trình hỏi cung bị can khi Điều tra viên quán triệt một
số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can, Điều tra viên phải tiến
hành theo đúng trình tự, thủ tục về việc triệu tập bị can, trình tự tiến hành hỏi
cung bị can và về việc lập biên bản hỏi cung đã được quy định trong các Điều
129, 130, 131, 132 Bộ luật TTHS hiện hành. Nội dung của nguyên tắc này thể
hiện ở chỗ, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can phải được tiến hành theo
đúng trình tự và thủ tục được quy định trong Bộ luật TTHS. Cụ thể hỏi cung
do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể
tiến hành hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc nơi ở của người đó,
vào thời gian ban ngày, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ
lý do vào biên bản. Bị can khai báo trước Điều tra viên, trừ trường hợp theo
15


quy định của pháp luật quy định phải có mặt của người bào chữa, người đại
diện hợp pháp của bị can chưa thành niên, người phiên dịch.
Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và
giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 Bộ
luật TTHS. Trong trường hợp cần thiết, Điều tra viên phải kiểm tra lai lịch bị
can và thu thập những tài liệu về lai lịch của bị can. Nếu vụ án có nhiều bị can
thì hỏi riêng từng người, tuy nhiên không để cho họ tiếp xúc với nhau. Có thể

cho bị can tự viết lời khai của mình. Mỗi lần hỏi cung đều phải lập biên bản
theo đúng luật định.
Trong biên bản hỏi cung phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các
câu hỏi và câu trả lời. Sau khi hỏi cung, Điều tra viên đọc lại biên bản cho bị
can nghe hoặc để bị can tự đọc. Trong trường hợp có bổ sung và sửa chữa
biên bản thì Điều tra viên và bị can cùng kí xác nhận. Nếu biên bản có nhiều
trang thì bị can ký vào từng trang của biên bản. Trong trường hợp bị can tự
viết lời khai thì Điều tra viên và bị can cùng kí xác nhận vào lời khai đó. Nếu
cuộc hỏi cung được ghi âm, thì sau khi hỏi cung phải phát lại để Điều tra viên
và bị can cùng nghe. Sau đó phải lập Biên bản để ghi lại nội dung cuộc hỏi
cung, Điều tra viên và bị can cùng ký xác nhận. Trong trường hợp hỏi cung bị
can có người phiên dịch, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng ký
vào từng trang của biên bản hỏi cung.
Thứ hai, khi tiến hành hỏi cung bị can, Điều tra viên phải đảm bảo tôn
trọng các quyền hạn tố tụng của bị can được quy định tại Điều 49 Bộ luật
TTHS hiện hành như bị can có quyền biết mình bị khởi tố về tội gì, có quyền
đưa ra chứng cứ, đưa yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật, có quyền tự bào
chữa,… Ngoài ra khi tiến hành hỏi cung đối tượng là trẻ vị thành niên phải có
mặt người đại diện hợp pháp của bị can.

16


Những quy định nêu trên không chỉ đơn thuần là yêu cầu của pháp luật
mà còn có ý nghĩa sâu sắc. Chính vì vậy, Điều tra viên cần vận dụng những
yêu cầu nêu trên của pháp luật một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với
những tình huống cụ thể, kết hợp với việc áp dụng những chiến thuật hỏi cung
phù hợp để đảm bảo hiệu quả của biện pháp điều tra này.
1.2.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và

nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Yêu cầu cơ bản của việc giải quyết vụ án hình sự là xác định đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi phải làm
rõ sự thật của vụ án xảy ra. Trách nhiệm này thuộc về các cơ quan tiến hành
tố tụng. Điều 10 Bộ luật TTHS quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không
buộc phải chứng minh mình vô tội” [30].
Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra nhằm thu thập và mô tả theo trình
tự TTHS thật đầy đủ, chính xác, khách quan lời khai của bị can về vụ án hình
sự, hành vi phạm tội của bị can cùng đồng bọn và những tin tức, tài liệu khác
mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm.
Các chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện đúng những quy định của
Bộ luật TTHS để xác định sự thật của vụ án, lời khai của bị can một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ
xác định vô tội.
Đồng thời, thực hiện nguyên tắc này, hoạt động hỏi cung đòi hỏi ĐTV
phải tôn trọng sự thật khách quan, không tùy tiện suy diễn chủ quan theo ý
muốn của mình, “nghiêm cấm ĐTV bức dung hoặc dùng nhục hình dưới bất
kì hình thức nào” - Khoản 4 Điều 131 Bộ luật TTHS. Đặt nguyên tắc này cho
hoạt động hỏi cung là do yêu cầu của pháp luật và thực tiễn hoạt động điều
tra. Bởi vì, trong quá trình hỏi cung bị can nếu Điều tra viên bức cung hoặc
dùng nhục hình đối với bị can không những dẫn đến không tôn trọng sự thật,
17


làm mất tính khách quan của hoạt động điều tra mà còn xâm phạm đến quyền
cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Nguyên tắc này muốn được thực
hiện tốt thì đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ và làm chủ được nghề
nghiệp, nắm được những quy định của pháp luật, có tư duy pháp lí, có thói

quen và phương pháp giải quyết các vấn đề pháp lí. Trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can không buộc phải
chứng minh là mình vô tội. Bộ luật TTHS không quy định bị can phải khai
đúng sự thật; mặt khác bị can cũng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội. Muốn xác định được bị can có tội hay không thì trong quá trình hỏi cung
Điều tra viên phải dựa trên những lời khai khách quan, đúng sự thật, không
được thiên vị, cảm tình cá nhân. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những
lời khai của bị can kết hợp với những chứng cứ khác thì Điều tra viên mới xác
định bị can có tội hay không có tội.
Điều tra viên là chủ thể chính tiến hành hoạt động hỏi cung, để sự thật
của vụ án được xác định khách quan, chính xác đòi hỏi cán bộ điều tra phải
thật sự vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ. Điều 14 Bộ luật TTHS quy
định: “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,…. không
được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không được
tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư
trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình”[30]. Theo tinh thần của điều luật cho
thấy, khi tiến hành hỏi cung đòi hỏi Điều tra viên phải giữ được vô tư khi làm
nhiệm vụ của mình trong mọi trường hợp. Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng
pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ thật sự công tâm, khách
quan, vô tư, không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối
vào công việc, không được có thái độ kiên định hay định kiến đối với bất kì bị
can nào. Việc bảo đảm nguyên tắc này là điều kiện cần thiết cần để thực hiện

18


×