Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo hệ cử nhân quản lý giáo dục tại khoa sư phạm đại học quốc gia hà nội luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.93 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
*

LÊ THỊ THUỶ

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO
HỆ CỬ NHÂN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
TẠI KHOA SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 05

Hà Nội – 2008


LUẬN VĂN HOÀN THÀNH TẠI:
KHOA SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
*

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Đặng Xuân Hải

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ Khoa Sư phạm - Đại học
Quốc gia Hà Nội
Họp tại:....................................................................................................................................
Vào hồi:...................................................................................................................................



Có thể tìm đọc luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin thư viện - ĐHQGHN
- Thư viện Khoa Sư phạm - ĐHQGHN


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam là một tất yếu khách quan thể hiện quy
luật về quy định của xã hội đối với giáo dục. Một trong những khâu đột phá trong đổi mới
giáo dục ở nước ta hiện nay là đổi mới công tác quản lý giáo dục mà nòng cốt là công tác
đối với cán bộ quản lý giáo dục. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có chất lượng
chính là tiền đề cho đổi mới quản lý giáo dục trên quy mô quốc gia cũng như ở từng cơ sở
giáo dục. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục gồm 3 khâu có liên quan chặt chẽ, mật
thiết với nhau: phát hiện, lựa chọn - đào tạo; bồi dưỡng và sử dụng, trong đó đào tạo, bồi
dưỡng là một trong những khâu quyết định chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục.
Thực hiện quan điểm của Đảng và chủ trương của Nhà nước về công tác phát triển
cán bộ quả lý giáo dục, trong thời gian quan, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý
giáo dục đã triển khai tổ chức các khoá bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ quản lý giáo dục.
Tuy nhiên, khi quản lý nói chung, quản lý giáo dục nói riêng phát triển theo xu hướng là
một nghề trong xã hội, khi yêu cầu về năng lực phẩm chất người cán bộ quản lý giáo dục
ngày càng được nâng cao thì các khoá bồi dưỡng ngắn hạn đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục cần thiết phải được đào tạo chuyên sâu từ trình độ cử nhân
đến thạc sĩ và tiến sĩ quản lý giáo dục.
Từ năm 1998, ở một số cơ sở đào tạo trong nước đã tiến hành đào tạo cử nhân quản
lý giáo dục, năm 2003 Khoa Sư phạm đã được Đại học Quốc gia Hà Nội phê duyệt cho đào
tạo chương trình cử nhân quản lý giáo, và Khoa Sư phạm đã triển khai đào tạo chuyên
ngành này ở hệ tại chức và chuyên tu. Tuy thời gian đào tạo chuyên ngành này chưa lâu
nhưng hiện tại Khoa đã triển khai 12 lớp ở một số địa phương trong cả nước. Trong thời

gian qua, Khoa Sư phạm đã đóng góp phần đáng kể trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
giáo dục. Qua hình thức liên kết với các đơn vị ở địa phương khác Khoa triển khai đào tạo
cử nhân quản lý giáo dục phần nào đã tạo ra nguồn lực tại chỗ, phục vụ nhu cầu cán bộ
quản lý cho các địa phương, đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các
cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu công tác trong điều kiện mới. Bên cạnh những kết quả đạt
được, Khoa sư phạm do mới được thành lập, các cán bộ quản lý đào tạo trẻ về tuổi đời và
tuổi nghề do đó vẫn còn lúng túng trong việc quản lý các lớp liên kết đào tạo với các địa

33


phương phần nào ảnh hướng tới chất lượng đào tạo. Xuất phát từ ý nghĩa và tính cấp thiết
trên tác giả quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo hệ cử
nhân quản lý giáo dục tại Khoa Sư phạm- Đại học Quốc gia Hà Nội” để nghiên cứu
trong luận văn với hy vọng đề xuất một số biện pháp quản lý phù hợp, có tính khả thi trong
hoạt động đào tạo cử nhân quản lý giáo dục của Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội
hợp lý góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Khoa.
2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu những đặc trưng của công tác quản lý đào tạo, từ đó đề
xuất một số biện pháp quản lý, cũng như một quy trình quản lý hoạt đào tạo
cử nhân quản lý giáo dục tại Khoa Sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo hệ cử nhân này trong hoàn cảnh hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động đào tạo cử nhân nói
chung và hoạt động đào tạo cử nhân quản lý giáo dục nói riêng có tác động để tìm ra một
số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo phù hợp (đối tượng học, đặc thù công việc, địa bàn
mở lớp...)
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động đào tạo cử nhân quản lý
giáo dục ở Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội – chỉ ra nguyên nhân của thực trạng.

- Rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động
đào tạo hệ cử nhân quản lý giáo dục phù hợp, khả thi tại Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia
Hà Nội.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
-

Khách thể nghiên cứu: công tác quản lý hoạt động đào tạo.

-

Đối tượng nghiên cứu: các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo cử nhân quản lý

giáo dục tại Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học
Việc đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo hệ cử nhân quản lý giáo dục
cho các hình thức đào tạo hiện nay tại Khoa và vận dụng đồng bộ các biện pháp đó vào
trong thực tế quản lý công tác giảng dạy và học tập sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo của các lớp này, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

34


-

Các nghiên cứu khảo sát được tiến hành ở một số khoá đào tạo cử nhân quản lý

giáo dục do Khoa Sư phạm đã triển khai từ năm 2003 hệ chuyên tu, tại chức.
-


Khảo sát và sử dụng các số liệu đào tạo chuyên ngành quản lý giáo dục tại

Khoa Sư phạm từ các năm 2003 trở lại đây.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận:
Tổng kết thực tiễn công tác quản lý hoạt động đào tạo hệ cử nhân quản lý giáo dục
của Khoa Sư phạm, chỉ ra những bài học thành công và mặt hạn chế, cung cấp cơ sở khoa
học để tìm ra các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo hệ cử nhân quản lý giáo dục
- Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu có thể được áp dụng cho các cơ sở khác trong cả nước đang
đào tạo cử nhân quản lý giáo dục. Nó còn có giá trị tham khảo cho các nhà quản lý giáo
dục.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và phân tích tài liệu, nghiên cứu các văn
bản về quản lý đào tạo nói chung và chương trình đào tạo cử nhân quản lý giáo dục nói
riêng, tổng hợp các quan điểm, lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra - khảo sát bằng phiếu hỏi,
tổng kết kinh nghiệm, tham vấn chuyên gia.
- Phóm phương pháp xử lý thông tin: Định lượng, định tính, thống kê và phân tích
thống kê.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý hoạt động đào tạo hệ cử nhân quản lý giáo dục
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động đào tạo cử nhân quản lý giáo dục
tại Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo hệ cử nhân quản lý giáo dục
tại Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội


35


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Với vị trí quan trọng trong điều hành, chỉ đạo đảm bảo chất lượng của giáo
dục - đào tạo các bộ quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu ở nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới đã quan tâm đầu tư nhiều công sức, trí tuệ để nghiên cứu trong
mối tương quan tổng thể các vấn đề liên quan đến việc nâng cao chất lượng đào tạo
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục thông qua quá trình đào tạo từ việc tuyển chọn
người học, đến chương trình đào tạo, nội dung, phương pháp đào tạo, quản lý hoạt
động đào tạo...Ở nước ta, do công tác đào tạo cán bộ quản lý giáo dục nói chung
trong nhiều năm qua chưa được coi trọng, nhất là đối với cán bộ quản lý giáo dục có
trình độ cao. Trên thực tế công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục mới chỉ
được tiến hành chưa đầy 10 năm nay, do vậy công trình nghiên cứu về vấn đề này
còn rất ít và chưa có nhiều công trình nghiên cứu lớn, bài bản, mà chỉ thường xuất
hiện một số bài báo không hệ thống đăng trên các tạp chí hoặc các kỷ yếu về giáo
dục. Và trong chương trình đào tạo cán bộ quản lý giáo dục trình độ Tiến sĩ của
Khoa, đã có một đề tài luận án của tác giả Nguyễn Thu Hằng nghiên cứu về vấn đề
“Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có trình độ thạc sĩ
quản lý giáo dục hiện nay”.
Vận dụng các kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình học chuyên ngành quản lý
giáo dục nhằm góp phần giải quyết một trong những vấn đề còn hạn chế trong việc triển
khai đạo tạo chuyên ngành cử nhân quản lý giáo dục hiện nay của Khoa, thông qua thực
nghiệm tác giả sẽ nghiên cứu vấn đề một cách tương đối toàn diện, từ đó đề xuất các
hướng giải quyết dưới dạng các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo hệ cử nhân quản lý
giáo dục. Đề tài “Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo hệ cử nhân quản lý giáo dục
của Khoa Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội" lần đầu tiên được nghiên cứu với các điều
kiện và số liệu cụ thể ở hệ đào tạo cử nhân quản lý giáo dục của Khoa Sư phạm,
ĐHQGHN.

1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Hoạt động đào tạo
1.2.1.1.Hoạt động
Hoạt động là một phương pháp đặc thù của con người quan hệ với thế giới chung
quanh nhằm cải tạo thế giới theo hướng phục vụ cuộc sống của mình.”
1.2.1.2. Đào tạo

36


Đào tạo một quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội
và nắm vững những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống, nhằm chuẩn bị cho
người đó thích nghi với cuộc sống và có khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp
phần của mình vào việc phát triển xã hội.
1.2.2. Quản lý và các chức năng cơ bản của quản lý
1.2.2.1. Quản lý
Quản lý là một quá trình tác động có ý thức, có định hướng và có tổ chức của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả nhất
trong điều kiện biến động của môi trường.
1.2.2.2. Các chức năng cơ bản của quản lý
Quản lý có bốn chức năng cơ bản là: kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra.
1.2.2.3. Biện pháp quản lý
Biện pháp quản lý là tổng thể cách thức tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý trong quá trình tiến hành các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Có 4 loại
biện pháp quản lý cơ bản là: biện pháp hành chính tổ chức, biện pháp kinh tế, biện pháp
tâm lý - giáo dục và biện pháp thuyết phục.
1.2.3. Quản lý giáo dục
1.2.3.1. Quản lý giáo dục
QLGD là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách quan của các
cấp quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ thống đạt

được mục tiêu của nó.
1.2.3.2. Đặc trưng của quản lý giáo dục.
- Sản phẩm giáo dục là nhân cách, là sản phẩm có tính đặc thù nên quản lý giáo
dục phải ngăn ngừa sự dập khuôn, máy móc trong việc tạo ra sản phẩm cũng như không
được phép tạo ra phế phẩm.
-Quản lý giáo dục chú ý đến sự khác biệt giữa đặc điểm sư phạm so với lao động
xã hội nói chung.
- Quản lý giáo dục đòi hỏi những yêu cầu cao về tính toàn diện, tính thống nhất,
tính liên tục, tính kế thừa,tính phát triển…
- Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, quản lý giáo dục phải quán triệt quan
điểm quần chúng.
1.2.3.3. Chức năng của quản lý giáo dục.

37


Quản lý giáo dục cũng có những chức năng cơ bản của quản lý nói chung đó là:
lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra cùng với các hoạt động chung là thông tin và
quyết định.
1.2.4. Khái niệm về chất lượng đào tạo
1.2.4.1. Chất lượng
Chất lượng là sự đáp ứng mục tiêu, đáp ứng yêu cầu của thị trường và xã hội.
1.2.4.2. Chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục là sự phù hợp của các nhiệm vụ giáo dục cụ thể với các
mục tiêu cần đạt được về phát triển nhân cách mỗi của mỗi cá nhân người học với các
chuẩn trách nhiệm trong giới hạn được công chúng chấp nhận và thống nhất thể hiện ở
mức độ đóng góp nhân cách được đào tạo vào sự phát triển xã hội.
1.2.4.3. Chất lượng đào tạo
Chất lượng đào tạo là trình độ đạt được so với mục tiêu đào tạo thể hiện ở trình
độ phát triển nhân cách của sinh viên sau khi kết thúc qua trình đào tạo, được xem xét,

đánh giá toàn diện hay từng mặt và trong một hệ thống điều kiện nhất định sát với thực
tiễn nhu cầu xã hội.
1.2.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
- Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về giáo dục: luật
giáo dục, quy định, quy chế, điều lệ, các chuẩn,tiêu phí.
- Bộ máy tổ chức quản lý và lực lượng giáo dục: cơ chế quản lý,cán bộ quản lý
giáo dục, giáo viên, sinh viên.
- Mục tiêu, nội dung, chương trình hình thức và phương pháp dạy học.
- Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.
- Môi trường giáo dục và môi trường dạy học.
- Thông tin giáo dục và thông tin dạy học.
1.2.4.5. Chất lượng đào tạo đại học
Có 6 quan điểm về chất lượng trong giáo dục và đại học : Chất lượng được đánh
giá bằng “đầu vào”, Chất lượng được đánh giá bằng “đầu ra”, Chất lượng được đánh giá
bằng “giá trị gia tăng”, Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị học thuật”, Chất lượng
được đánh giá bằng “Văn hoá tổ chức riêng”, Chất lượng được đánh giá bằng “kiểm toán”.
1.2.5. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục:
1.2.5.1. Đội ngũ cán bộ quản lý:

38


Cán bộ quản lý là người thực hiện một hay toàn bộ các chức năng quản lý. Là nhân
vật có trách nhiệm phân bố nhân lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một
bộ phận hay toàn bộ tổ chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích.
1.2.5.2. Khái niệm cán bộ quản lý giáo dục:
Cán bộ quản lý giáo dục là người thực hiện một hay toàn bộ các chức năng của
quản lý giáo dục để làm cho hệ thống giáo dục vận hành, phát triển, đạt các mục tiêu giáo
dục đề ra.
1.2.5.3. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục:

Từ các định nghĩa trên có thể suy ra đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục là tập hợp các
cán bộ quản lý giáo dục đang giữ các chức vụ quản lý trong hệ thống giáo dục.
1.3. Một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động đào tạo cử nhân
quản lý giáo dục
1.3.1. Mục tiêu đào tạo cử nhân quản lý giáo dục
Chương trình đào tạo nhằm giúp trang bị cho học viên các kiến thức:
- Nắm vững những kiến thức cơ bản, nền tảng, những kiến thức chuyên ngành bước đầu về
khoa học giáo dục và khoa học quản lý giáo dục.
- Nắm vững những kiến thức cập nhật, hiện đại và các phương pháp nghiên cứu của khoa
học giáo dục nới chung và khoa học quản lý giáo dục nói riêng.
Chương trình đào tạo nhằm giúp trang bị cho học viên các kỹ năng:
- Kỹ năng vận dụng những kiến thức về khoa học giáo dục và quản lý giáo dục vào quản lý
các cơ sở giáo dục và các hoạt động sư phạm;
- Kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra các hoạt động giáo dục và kỹ năng giao
tiếp trong quản lý giáo dục;
Sau khi hoàn thành chương trình đào tạo cử nhân quản lý giáo dục có thể:
- Có khả năng tham gia công tác quản lí các cơ sở giáo dục và đào tạo;
- Có khả năng nghiên cứu về khoa học giáo dục cũng như khoa học quản lý giáo dục;
- Làm việc tại các cơ quan quản lý giáo dục ở các cấp hoặc các tổ chức cần sử dụng đến
kiến thức quản lý giáo dục;
1.3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với cán bộ quản lý giáo dục trong giai đoạn phát triển
giáo dục hiện nay
Một trong những vấn đề có tính thời sự hiện nay của đời sống giáo dục nước ta
cũng như trên toàn cầu, đó là vấn đề quản lý giáo dục và người cán bộ quản lý giáo dục,

39


Như Bác Hồ đã dạy: vấn đề cán bộ có ý nghĩa quan trong quyết định sự thành công của
mọt sự nghiệp.

Người cán bộ QLGD có những trách nhiệm - nghĩa vụ rất nặng nề dù rằng vẻ vang.
Họ là những người chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt dộng của cơ sở giáo dục, ở nơi đầu
sóng ngọn gió của đời sống giáo dục. Người cán bộ quản lý giáo dục là yếu tố quyết định
nhất của sự phát triển tại một cơ sở đào tạo
1.3.2. Vai trò của cán bộ quản lý giáo dục đối với sự phát triển giáo dục hiện nay
Cán bộ quản lý giáo dục có vai trò quan trọng trong việc tổ chức quản lý, điều
hành các hoạt động giáo dục giúp cho hoạt động giáo dục diễn ra đúng pháp luật, có tổ
chức, đảm bảo chất lượng giáo dục và đạt được những mục tiêu giáo dục.
1.3.3. Tầm quan trọng của vấn đề đào tạo cán bộ quản lý giáo dục trong giai đoạn
hiện nay
Đa số cán bộ quản lý giáo dục chưa được đào tạo có hệ thống về quản lý, làm việc
dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tính chuyên nghiệp thấp. Năng lực điều hành, quản lý của
một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn bất cập. Kiến thức về pháp luật, về tổ chức bộ
máy, về quản lý nhân sự, nhất là về quản lý tài chính còn nhiều hạn chế dẫn đến lúng túng
trong thực thi trách nhiệm và thẩm quyền, đặc biệt khi được Nhà nước phân quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm. Phần lớn cán bộ quản lý giáo dục còn bị hạn chế về trình độ ngoại
ngữ, kỹ năng sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin.
Một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn chạy theo thành tích. Một bộ phận nhỏ
cán bộ quản lý giáo dục buông lỏng quản lý, không đấu tranh với tiêu cực, thậm chí còn
thoả hiệp, tham gia vào các hiện tượng tiêu cực, tiếp tay cho người học gian dối trong học
tập, thi cử. Có lẽ, những tiêu cực vừa qua của ngành giáo dục và cả việc chất lượng giáo
dục của Việt Nam còn thấp cũng xuất phát từ sự yếu kém trong khâu quản lý của những
cán bộ làm công tác này trong ngành giáo dục. Để thay đổi được thực trạng này sẽ cần một
khoảng thời gian và một sự đầu tư lớn. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là ngành giáo
dục hoàn toàn chưa có chiến lược về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục. Công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát
huy hiệu quả. Bộ Giáo dục và Đào tạo tuy đã có xây dựng các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ quản lý giáo dục nhưng các chương trình này còn nặng về lý thuyết, nội
dung dàn trải, thiếu tính thức tế và dành cho số ít. Để đáp ứng có hiệu quả nhu cầu đổi mới
nền giáo dục nước nhà hiện nay, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý tinh thông nghiệp

vụ ở tất cả các cấp.

40


1.3.4. Một số vấn đề về đào tạo cử nhân quản lý giáo dục.
Mỗi ngành đào tạo tất yếu đều có đặc thù riêng, cử nhân quản lý giáo dục là một
ngành có nhiều đặc thù, cụ thể:
-Học viên: học viên cử nhân quản lý giáo dục là những người học đã tham gia lao động
nghề trong lĩnh vực giáo dục. Đa số học viên ở tuổi trung niên họ đã có ít nhiều kinh
nghiệm trong giảng dạy, giáo dục, quản lý giáo dục.. Động cơ học tập của học viên đa
dạng. Giá trị của kiến thức sẽ tác động tới sự hình thành động cơ hoạt động, học tập, tính
tích cực và mục đích học tập của họ. Họ sẽ tích cực học khi họ thấy các kiến thức đó thực
sự có lợi cho công việc của họ. Họ muốn thu nhận được những điều bổ ích từ mỗi buổi
học. Tuy vậy số lượng học viên thường là những người đã có tuổi, nên cũng có những cản
trở nhất định trong quá trình học tập, sức ì của kinh nghiệm ảnh hưởng đến việc tiếp thu và
hình thành những kỹ năng mới.
- Giảng viên: là những người được chuẩn hoá, được đào tạo chuyên sâu về quản lý
giáo dục, có năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học, có hiểu biết và kinh nghiệm quản lý
giáo dục, quản lý nhà trường. Họ không chỉ am hiểu về lý luận quản lý mà có có khả năng
hướng dẫn học viên ứng dụng lý thuyết đó và giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tế.
- Phương pháp học: Phương pháp học hiệu quả nhất đối với các cử nhân quản lý
giáo dục là phương pháp thích hợp nhất với tố chất của từng người theo sở thích, tính cách,
cách tư duy, môi trường, kinh nghiệm... ý thức được về các đặc điểm riêng biệt của mình
cùng với việc nắm vững các lý thuyết quản lý, kết hợp với kinh nghiệm trong hoạt động giáo
dục mà người học điều chỉnh cách học của mình để có thể phát huy các lợi thế đồng thời
khắc phục các hạn chế.
- Phương pháp giảng dạy: việc dạy học cho các học viên này được xác định không
chỉ là quá trình tích luỹ kiến thức về quản lý giáo dục mà là quá trình phát triển kỹ năng,
tập trung vào khả năng sử dụng lý thuyết quản lý đó trong các tình huống cụ thể trong công

việc hàng ngày của người quản lý. Phương pháp giảng dạy xuất phát từ quan điểm trên
thiên về đường hướng dạy thực hành. Trong dạy - học không tồn tại hình thức độc thoại,
truyền thụ kiến thức một chiều mà mọi hoạt động phải do người học thực hành đa chiều, người
học phải trở thành trung tâm của mọi hoạt động dạy học.
- Hình thức tổ chức học tập: Do hình thức tổ chức đào tạo ở các lớp đại học cử nhân quản
lý giáo dục là tập trung theo tháng và tập trung theo quý và thời gian học tập là liên tục
cuốn chiếu.

41


Tiểu kết chương 1
Sau hơn 20 năm đổi mới, giáo dục nước ta đã phát triển rõ rệt. Để nhanh chóng đáp
ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới, giáo dục nước ta phải đổi mới một cách mạnh
mẽ, cơ bản và toàn diện hơn. Để có một đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng được yêu
cầu đó thì việc đào tạo cán bộ QLGD chuyên sâu, có trình độ cao là một yêu cầu cấp bách.
Đội ngũ cán bộ QLGD phải có đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng đồng bộ về
cơ cấu, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo đúng quy định, có phẩm chất đạo
đức, có năng lực quản lý, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong giai đoạn mới.
Nếu lựa chọn được các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo cử nhân chuyên ngành
quản lý giáo dục có khả thi thì chúng ta sẽ đào tạo được một đội ngũ cán bộ QLGD có
chất lượng, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn.

42


Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO
TẠO HỆ CỬ NHÂN QUẢN LÝ GIÁO DỤC TẠI KHOA SƯ PHẠM ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
2.1. Giới thiệu về Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành

Khoa Sư phạm – ĐHQGHN được thành lập theo Quyết định số
1841/TCCB ngày 21/12/1999 của Giám đốc ĐHQGHN với nhiệm vụ là thể
nghiệm một mô hình mới về đào tạo giáo viên trong 1 đại học đa ngành, đa
lĩnh vực, chất lượng cao. Ngoài ra, Khoa Sư phạm có nhiệm vụ đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ quản lí giáo dục, cán bộ nghiên cứu khoa học giáo dục và
chuyên gia trong một số lĩnh vực khoa học giáo dục mà Việt Nam đang cần,
như giáo dục hướng nghiệp, sức khoẻ tâm thần, quản lí hệ thống đào tạo và
việc làm v.v.
Để thực hiện những nhiệm vụ này, Khoa Sư phạm đã tận dụng sức mạnh
của qui chế đặc biệt của ĐHQGHN, huy động sức mạnh tổng hợp của các
trường thành viên, nơi tập trung nhiều nhà khoa học đầu ngành trong cả nước,
đồng thời huy động sự tham gia của các nhà giáo dục có uy tín trong nước và
quốc tế.
Có thể nói, sau gần 10 năm hoạt động, một thời gian xây dựng và phát
triển không dài nhưng Khoa đã thể nghiệm thành công mô hình mới về đào
tạo giáo viên và đã được xã hội chấp nhận, tồn tại đồng thời với mô hình
truyền thống và đang dần khẳng định vị trí của nó trong hệ thống giáo dục đại
học Việt Nam.
2.1.2. Sứ mạng
Ngay từ khi thành lập Khoa Sư phạm - ĐHQGHN đã được giao sứ
mạng cao cả là phấn đấu trở thành một những những cơ sở hàng đầu của Việt
nam về đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia về khoa học giáo dục và quản lý giáo

43


dục, nhà giáo chất lượng cao cho mọi bậc học, đồng thời triển khai nghiên
cứu, truyền bá, ứng dụng những thành tự mới nhất về khoa học giáo dục, khoa
học quản lý giáo dục, về đào tạo giáo viên chất lượng cao vào thực tế hoạt
động của mình.

2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ
Khoa Sư phạm là mô hình đào tạo giáo viên trong một đại học đa
ngành, đa lĩnh vực có sứ mạng phấn đấu trở thành một trung tâm đào tạo đại
học và sau đại học, nghiên cứu khoa học, chuyển giao cộng nghệ chất lượng
cao ngang tầm khu vực và tiến dần tới trình độ quốc tế.
Khoa Sư phạm thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội phấn đấu trở thành một
cơ sở hàng đầu ở Việt Nam về đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia giáo dục và nhà
giáo chất lượng cao cho mọi bậc học, đồng thời triển khai nghiên cứu, truyền
bá về khoa học giáo dục, bằng cách tập trung sự cộng tác chặt chẽ của các nhà
giáo giàu kinh nghiệm và các chuyên gia giáo dục hàng đầu trong nước, tiếp
thu những tinh hoa của các nền khoa học giáo dục các nước trong khu vực và
thế giới, đồng thời khai thác và phát huy truyền thống của nền giáo dục Việt
Nam
Qua sản phẩm đào tạo và nghiên cứu của mình Khoa Sư phạm sẽ đóng
góp tích cực vào sự phát triển nền giáo dục nước nhà, cung cấp nguồn nhân
lực có trình độ cao cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước,
góp phần xây dựng một xã hội học tập hiện đại, nhằm thực hiện mục tiêu
chung: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, và văn minh.
Khoa Sư phạm có nhiệm vụ là triển khai một mô hình đào tạo giáo
viên, cán bộ quản lí giáo dục, cán bộ nghiên cứu khoa học giáo dục chất
lượng cao, trong đó việc đào tạo giáo viên được tiến hành theo mô hình 3+1
và 4+1, kết hợp sức mạnh tổng hợp của toàn Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài
ra, Khoa còn có nhiệm vụ đào tạo giáo viên chất lượng cao cung cấp cho các
trường đại học, cao đẳng, phổ thông và có chức năng đào tạo cán bộ quản lí

44


giáo dục và cán bộ nghiên cứu khoa học giáo dục ở bậc đại học và sau đại học
- một nhiệm vụ đặc thù của Khoa giáo dục (Faculty of Education).

1. Mô hình 3+1: 3 năm đào tạo kiến thức khoa học cơ bản tại các trường
thành viên của ĐHQGHN, và 1 năm đào tạo kiến thức nghiệp vụ sư phạm,
giáo dục tại Khoa Sư phạm
2. Mô hình 4 +1: đào tạo 1 năm kiến thức nghiệp vụ, thực tập sư phạm cho
những đối tượng đã tốt nghiệp một trường đại học.
Mục tiêu trong những năm tới của Khoa Sư Phạm là phấn đấu trở thành
Trường Giáo dục, thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội (School of
Education), với sứ mạng là đào tạo giáo viên, cán bộ Quản lí giáo dục, cán bộ
nghiên cứu khoa học giáo dục chất lượng cao hàng đầu trong cả nước.
2.1.4. Các chương trình đào tạo
Trong hơn 8 năm xây dựng và phát triển, Khoa Sư phạm - ĐHQGHN
luôn khẳng định vai trò là Khoa có mô hình đào tạo giáo viên chất lượng cao
trong một đại học đa ngành, đa lĩnh vực . Khoa hiện là là cơ sở đào tạo Tiến sĩ
Quản lý giáo dục sớm nhất trong cả nước. Khoa có hệ đào tạo giáo viên chất
lượng cao. Việc đào tạo giáo viên trong một đại học đa lĩnh vực được thực
hiện theo mô hình 3 + 1 và 4 + 1, kết hợp sức mạnh tổng hợp của tất cả các
đơn vị thành viên trong ĐHQGHN. Mô hình 3 + 1 được thiết kế với thời gian
đào tạo 3 năm kiến thức chuyên môn cơ bản tại các trường đại học thành viên
của ĐHQGHN và 1 năm rèn luyện kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm tại
Khoa Sư phạm. Mô hình 4 + 1 được thiết kế 1 năm rèn luyện kiến thức, kỹ
năng nghiệp vụ sư phạm, thực tập sư phạm cho các đối tượng đã tốt nghiệp
đại học với chuyên ngành có môn học ở bậc phổ thông. Tính đến năm học
2006 - 2007, quy mô đào tạo giáo viên theo mô hình: 3 + 1 là hơn 1250 học
viên thộc 6 ngành đào tạo: Sư phạm Toán, Sư phạm Vật lý, Sư phạm Hoá, Sư
phạm Sinh học, Sư phạm Lịch sử, Sư phạm Ngữ văn; với môi hình 4 + 1 , hơn

45


100 học viên của 4 khoá đào tạo đã tốt nghiệp và nhận bằng cử nhân sư phạm

hệ chính quy bằng 2
Ngoài hệ chính quy, Khoa Sư phạm đang triển khai chương trình đào
tạo cử nhân sư phạm Tin học, sư phạm Toán - tin, và cử nhân quản lý giáo
dục hệ chuyên tu và tại chức với hơn 800 học viên.
Khoa Sư phạm đang triển khai các chương trình đào tạo thạc sĩ thuộc 5
chuyên ngành: Quản lý giáo dục, Lý luận và phương pháp dạy học (bộ
mônToán) thuộc ngành Sư phạm Toán, Lý luận và phương pháp dạy học (bộ
mônVật lý) thuộc ngành Sư phạm Vật lý, Lý luận và phương pháp dạy học
(bộ môn Sinh học) thuộc ngành Sư phạm Sinh học, Lý luận và phương pháp
dạy học (bộ môn Hoá học) thuộc ngành Sư phạm Hoá học. Với số lượng là
hơn 350 học viên cao học thuộc chuyên ngành trên và 60 nghiên cứu sinh
thuộc chuyên ngành quản lý giáo dục. Đến năm học 2007 - 2008, Khoa triển
khai đào tạo thêm 2 chương trình đào tạo cao học chuyên ngành Lý luận và
phương pháp dạy học (bộ môn Lịch sử và Ngữ văn).
Để có thể tiếp cận với trình độ quốc tế về đào tạo sau đại học, Khoa Sư
phạm liên kết với các trường đại học nước ngoài tổ chức các chương trình đào
tạo thạc sĩ thuộc các ngành: Quản lý giáo dục (liên kết với Đại học New
England, Úc); Lãnh đạo và Quản lý giáo dục( liên kết với Đại học Dalarna,
Thuỵ Điển), Ngôn ngữ học Anh (liên kết với Đại học Dalarna, Thuỵ Điển),
Quản lý hệ thống thông tin ( liên kết với Đại học Shu - te, Đài Loan), Tư vấn
tâm lý và hướng nghiệp (liên kết với INETOP, CNAM Pháp). Với số lượng
gần 300 học viên đã và đang theo học các chương trình liên kết đào tạo này.
Ngoài ra, Khoa còn tổ chức các khoá bồi dưỡng, đào tạo cấp chứng chỉ
nghiệp vụ sư phạm, nghiệp vụ sư phạm đại học, lý luận phương phương pháp
dạy học đại học và các lớp bồi dưỡng kỹ năng sư phạm, các lớp bồi dưỡng về
sư phạm tương tác, Kiểm tra - đánh giá trong giáo dục, Khoa học thần kinh
nhận thức trong dạy học...

46



2.1.5. Đội ngũ cán bộ, giảng viên
Đội ngũ cán bộ, giảng viên trong Khoa hiện nay bao gồm: 48 Cán bộ,
viên chức do Khoa Sư phạm quản lý; 182 giảng viên giảng dạy tại các trường
đại học thành viên trong giai đoạn đào tạo cơ bản; 7 giảng viên đã nghỉ hưu
tiếp tục hợp đồng lao động tại Khoa Sư phạm; 29 giảng viên thỉnh giảng.
Hoạt động với cơ cấu mở nên huy động được sức mạnh tổng hợp của
ĐHQGHN, nhất là sức mạnh về đội ngũ cán bộ khoa học cơ bản và khoa học
công nghệ hàng đầu của cả nước. Tuy nhiên, mô hình mở cũng gặp khó khăn
như: Triển khai các lộ trình nâng cao chất lượng đào tạo (ví dụ như triển khai
tín chỉ) và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn; Thực hiện những chính sách
khuyến khích, động viên giảng viên tham gia đào tạo sư phạm (ví dụ như phụ
cấp ưu đãi giáo viên); Đào tạo giảng viên theo chiến lược phát triển chuyên
môn của Khoa (ví dụ những môn đào tạo đặc thù của Khoa trong giai đoạn
đào tạo cơ bản).
Khoa có hơn 40% đội ngũ giảng viên có trình độ thạc sĩ và trên 25% có
trình độ tiến sĩ; trên 20% giảng viên đủ trình độ ngoại ngữ để làm việc trực
tiếp với người nước ngoài; phát huy quyền tự chủ về học thuật. Trong
đó:100% giảng viên giảng dạy đúng trình độ chuyên môn được đào tạo, tự
chủ trong các hoạt động chuyên môn của mình; Phần lớn các giảng viên có
trình độ ngoại ngữ, tin học đủ để phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên
cứu khoa học. 100% giảng viên áp dụng được phương tiện kỹ thuật hiện đại
vào việc giảng dạy. 100% giảng viên được sử dụng máy tính và tài khoản truy
cập internet để cập nhật kiến thức, giáo trình, bài giảng; phần lớn giảng viên
có thể tham gia các xeminar bằng ngoại ngữ tiếng Anh không cần phiên dịch.
2.2. Công tác đào tạo cử nhân quản lý giáo dục tại Khoa Sư phạm.
Được giao nhiệm vụ đào tạo cử nhân quản lý giáo dục từ năm 2002,
Khoa Sư phạm đã liên kết với các cơ sở đào tạo tại địa phương triển khai đào
tạo chuyên ngành quản lý giáo dục theo hình thức không chính quy (chuyên


47


tu, tại chức). Quá trình đào tạo được tiến hành dựa trên đặc điểm đối tượng
người học là những người trưởng thành nên có nhiều khác biệt so với các đối
tượng học khác. Địa điểm đào tạo không phải ở Khoa mà được đặt ở các đơn
vị liên kết. Do đặc điểm nghề nghiệp, đặc điểm đối tượng người học, đặc
điểm của địa điểm đào tạo nên việc đào tạo cử nhân quản lý giáo dục của
Khoa có một số đặc trưng nổi bật.
2.2.1. Đặc điểm của học viên
Hầu hết người học của các lớp cử nhân quản lý giáo dục của Khoa đều
là những giáo viên ở các trường phổ thông, cán bộ đang giữ các chức vụ quản
lý và lãnh đạo trong ngành giáo dục được cử đi học để nâng cao tay nghề hay
chuẩn bị đảm trách một cương vị công tác mới cao hơn. Họ là những người
trưởng thành về nhiều mặt: tâm lý, xã hội và sinh học. Học viên theo học lớp
cử nhân quản lý giáo dục có nhiều khác biệt với học sinh phổ thông hay sinh
viên đại học cả về mục đích, nhu cầu lẫn đặc điểm tâm lý.
Thứ nhất, họ là những người đang làm giáo viên ở các trường phổ
thông và những người đang giữ các chức vụ quản và lãnh đạo trong ngành
giáo dục, trưởng thành về tâm lý, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống công
tác và những kinh nghiệm đó có ảnh hưởng đến công việc học tập của họ.
Đã và đang trải qua thực tiễn, vì thế tính thực tế trong công việc và
trong học tập của đối tượng học cử nhân quản lý giáo dục của Khoa rất cao.
Họ luôn liên hệ những kiến thức mà họ học với thực tiễn, với các kinh nghiệm
đã có và học chỉ có nhu cầu tiếp thu những gì có lợi cho công việc của mình.
Kinh nghiệm đối với họ rất quan trọng vì chúng giúp họ dễ dàng hơn trong
việc giải quyết các bài tập quản lý, các bài tập tình hướng quản lý xảy ra trong
những hoàn cảnh tương tự hoàn cảnh họ trải nghiệm. Tuy nhiên những kinh
nghiệm đó trở thành vật cản khi họ giải quyết các vấn đề trong hoàn cảnh
mới. Vì vậy để giúp người học dễ dàng tiếp thu kiến thức mới, cần giúp họ


48


liên hệ kiến thức đang học với những kinh nghiệm mà họ có, giúp họ khái
quát chúng thành hệ thống.
Cũng như học sinh phổ thông, kinh nghiệm, thái độ, khả năng học tập
của những người lớn khác nhau thì khả năng học tập hoàn toàn khác nhau, có
người tiếp thu nhanh, có người lại chậm, có người có năng lực khái quát cao,
nhưng có người lại nhanh nhạy hơn khi tiếp thu những vấn đề cụ thể, trực
quan. Do đó, quá trình dạy học cho các đối tượng học viên này cũng cần được
cá biệt hoá, giúp mỗi người làm việc dựa vào khả năng riêng của mình thì quá
trình học tập sẽ diễn ra tích cực, sôi nổi hơn và người lớn sẽ tiếp thu kiến thức
dễ dàng hơn.
Thứ hai, động cơ học tập của học viên có mục đích cụ thể liên quan
đến việc làm, thu nhập hoặc sự thành đạt cá nhân
Động cơ, mục đích học tập của họ có những điểm khác với động cơ và
mục đích học tập của học sinh phổ thông. Học viên tham gia đào tạo cử nhân
quản lý giáo dục có thể vì sự phân công của tổ chức và do cấp trên yêu cầu họ
đi học, họ chỉ cố gắng học tập ở mức độ tối thiểu miễn sao hoàn thành khoá
học và có bằng; tuy nhiên cũng có một số tỷ lệ khá lớn học viên đi học là do
xuất phát từ nguyện vọng cá nhân muốn hiểu biết, muốn học để là tốt hơn và
thăng tiến trong công tác. Cũng có những học viên đi học do những đồng cơ
bên trong và kết hợp với động cơ bên ngoài. Những học viên này trước khi
được đề bạt làm cán bộ quản lý họ thường là giáo viên hoặc chuyên viên. Với
tính chất của công việc mới yêu cầu cao, họ phải chịu trách nhiệm trước thành
bại của cả một tập thể, những quyết định của họ liên quan đến nhiều người.
Nói một cách khác là họ đã chuyển nghề, nêu nhu cầu đi học để có kiến thức
về quản lý giáo dục để “hành nghề” là đòi hỏi bức xúc của công việc và cũng
là tiêu chuẩn do tổ chức đòi hỏi với cương vị của họ. Với một số người thì

hiện nay họ chỉ mới học đến bằng cao đẳng, với đòi hỏi hiện nay của các

49


trường học thì thấp nhất phải tốt nghiệp đại học, nên họ đi học với nhu cầu
nâng cao thêm bằng cấp của mình.
Thứ ba, học tập của học viên sẽ có kết quả cao khi quá trình dạy học
được thực hiện qua hành động, qua giải quyết vấn đề và gắn với những ứng
dụng thực tiễn.
Học viên học thông qua trao đổi kinh nghiệm, qua làm và giải quyết
vấn đề. Họ sẽ không thể kiên nhẫn với những buổi học có quá nhiều lý thuyết,
họ sẽ học tốt hơn với những kiến thức đơn giản và những chỉ dẫn cụ thể.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, nếu người học được thực hành và ứng
dụng ngay những gì họ mới học được thì họ ghi nhớ tốt hơn và kĩ năng thực
hành cũng vững chắc hơn nhiều. Nếu không được thực hành ứng dụng các
kiến thức đã học thì họ sẽ nhanh chóng quên đi những gì họ đã tiếp thu được.
Vì vậy, cần tổ chức cho họ hoạt động và thực hành ngay những gì họ học
được.
Thứ tư, số lượng học viên lớn tuổi cũng có những cản trở nhất định
trong quá trình học tập.
Với các học viên ở độ tuổi 40 – 50, lứa tuổi bắt đầu có những biến động
về sức khoẻ: xuất hiện các chứng bệnh mãn tính, chính vì vậy mà làm cho họ
giảm trí nhớ, sức ỳ của kinh nghiệm ảnh hưởng đến việc tiếp thu những kiến
thức và hình thành những kỹ năng mới.
Thứ năm, vị trí công việc cũng vừa tạo động lực vừa gây lực cản
Hầu hết những người đang học cử nhân quản lý giáo dục của Khoa đều
đang giảng dạy và giữ cương vị lãnh đạo của các trường phổ thông, các
phòng, sở giáo dục nên công việc của họ khá bận rộn: học vừa đi học, vừa đi
làm. Họ chỉ nghỉ làm khi họ phải tập trung học theo đợt, sau mỗi đợt học họ

lại quay về với công việc của mình. Chính vì vậy mà thời gian dành cho việc
học tập của không nhiều: phần lớn việc học tập của họ chỉ giành thời gian khi
học tập tập trung, còn lại sau đó thì hầu như không được quan tâm.

50


2.2.2. Đặc điểm của cơ sở liên kết đào tạo
Địa điểm tổ chức đào tạo là các trường cao đẳng, các trung tâm giáo dục
thường xuyên của các tỉnh vì thế cơ sở vật chất của các đơn vị liên kết đào tạo
phần đa chưa đáp ứng được yêu cầu về phòng thí nghiệm, các cơ sở thực tập,
trang thiết bị dạy học hiện đại, thư viện... Các cơ sở liên kết chưa tham gia
giảng dạy được nhiều các môn học trong chương trình đào tạo mà chỉ dừng lại
ở mức phối hợp quản lý lớp và học viên.
2.2.3. Các hệ đào tạo
Các hệ đào tạo chuyên ngành quản lý giáo dục ở Khoa là hệ chuyên tu
(học 24 tháng) và hệ tại chức (học 27 tháng)
2.3. Thực trạng đội ngũ quản lý và giảng viên giảng dạy chuyên ngành
quản lý giáo dục
2.3.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý của Phòng Đào tạo
Phòng đào tạo gồm 8 người: 01 trưởng Phòng, 03 chuyên viên quản lý
đào tạo và xây dựng kế hoạch tiến độ, lịch trình giảng dạy, 01 chuyên viên
thư viện, 01 chuyên viên kiêm nhiệm quản lý đào tạo, 01 người là giảng viên
kiêm nhiệm trợ lý đào tạo.
Trình độ chuyên môn: 01 là tiến sĩ, 05 người có trình độ thạc sĩ, 02
người tham gia học cao học, 04 người có trình độ đại học. Độ tuổi trung bình
là: 37 tuổi, đều trong độ tuổi từ 30 đến 50, 06 người là nam và 02 nữ thể hiện
một tỷ lệ nam - nữ không đồng đều.
Phân công chức trách, nhiệm vụ cụ thể của từng cá nhân:
- Trưởng Phòng: Phụ trách chung, chịu trách nhiệm trước Chủ nhiệm

Khoa về mọi hoạt động thuộc lĩnh vực của Phòng được phân công quản lý.
Tham mưu với Chủ nhiệm Khoa về các biện pháp quản lý, chỉ đạo và định
hướng phát triển trong lĩnh vực đào tạo và mở rộng các chuyên ngành đào

51


tạo. Quản lý trực tiếp phôi bằng và cấp phát văn bằng chứng chỉ. Quản lý hoạt
động đào tạo liên kết trong nước và ngoài nước ở các bậc đào tạo.
- Trợ lý đào tạo 02 người: Giúp trưởng phòng quản lý các lớp chính
quy: lập thời khoá biểu, bố trí phòng học cho từng khoá học và lớp học, theo
dõi lịch giảng dạy của từng giảng viên, xây dựng lịch thi học kỳ thi kết thúc
môn học khoá học, lịch học lại, phụ đạo thi lại. Kiểm tra tiến độ đào tạo của
các khoa, quy trình lên lớp của giảng viên, tổng hợp giờ giảng, xây dựng và
thông qua kế hoạch cân đối và phân công giảng viên. Tham gia các công việc
khác khi phòng phân công.
- 03 chuyên viên trong đó có 1 chuyên viên quản lý kết quả học tập của
chính quy và không chính quy, 1 chuyên viên giúp trưởng phòng xây dựng
lịch trình giảng dạy, theo dõi lịch giảng dạy của giảng viên, xây dựng lịch thi
học phần, theo dõi bài thi kiểm tra của các lớp không chính quy và tuyển sinh,
theo dõi lớp sau đại học trong nước & lớp liên kết với nước ngoài; 1 chuyên
viên làm phách, lên điểm, theo dõi các lớp sau đại học trong nước và lớp liên
kết với nước ngoài
Đội ngũ cán bộ, chuyên viên của Phòng phần lớn là những người có nhiều
kinh nghiệm, có thâm niên trong nghề, thạo việc, năng động, tinh gọn, hoàn
thành tốt khối lượng công việc lớn và đa dạng trong các lĩnh vực đào tạo, nghiên
cứu khoa học, hợp tác quốc tế, kế hoạch tài chính... Có sự phối hợp, hợp tác
chặt chẽ với các bộ phận, giữa cán bộ quản lý với các giảng viên và chuyên
viên nên mọi công việc được tiến hành có hiệu quả. Tuy nhiên, với một số
lượng công việc lớn trong quá trình đào tạo các lớp không chính quy trong đó

có các lớp cử nhân quản lý giáo dục với lực lượng cán bộ, chuyên viên còn
mỏng đã làm ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả công việc, nhiều công việc đã
lập kế hoạch nhưng không tổ chức thực hiện được hoặc thực hiện chưa đúng
tiến độ.

52


2.3.2. Thực trạng đội ngũ giảng viên giảng dạy chuyên ngành quản lý giáo
dục
Giảng viên là chủ thể của toàn bộ quá trình đào tạo. Họ là những "kỹ
sư" vừa thiết kế, vừa trực tiếp tham gia thi công trong từng khâu, từng giai
đoạn của quá trình đào tạo. Đây là nhân tố cơ bản nhất quyết định tới sự thành
công và phát triển của công tác đào tạo. Do giới hạn về mặt quy mô của Khoa
nên ngoài đội ngũ giáo viên cơ hữu của Khoa, trong quá trình đào tạo Khoa
đã phải ký hợp đồng với giảng viên giảng dạy từ các đơn vị khác.
Trước tiên chúng ta hãy cùng xem xét thực trạng đội ngũ cán bộ giảng
viên cơ hữu giảng dạy chuyên ngành QLGD của Khoa.
2.3.2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ giáo viên cơ hữu giảng dạy chuyên ngành
QLGD của Khoa.
Tổng số giảng viên cơ hữu giảng dạy của Khoa là 35 người trong đó có
14 là giảng viên giảng dạy chuyên ngành quản lý giáo dục.
* Thực trạng đội ngũ cán bộ giảng viên giảng dạy chuyên ngành QLGD được
thể hiện cụ thể qua bảng thống kê sau
Bảng 2.1: Bảng thống kê về thực trạng đội ngũ cán bộ giảng viên giảng dạy
chuyên ngành quản lý giáo dục của Khoa Sư phạm
Tiêu chí thống kê
1. Tổng số:

Số

người
14

Tỷ lệ %

9
5

64%
36%

2
2
10

14%
14%
72%

11
3

8%
24%

100%

2. Giới tính:

Nam

Nữ
3. Độ tuổi: (độ tuổi trung bình = 48 tuổi)

Dưới 35 tuổi
Từ 35 - 45 tuổi
Trên 45 tuổi
4. Trình độ:

Tiến sĩ
Thạc sĩ

(Nguồn: Bộ phận Tổ chức cán bộ của Khoa - năm 2007)

53


* Đánh giá về thực trạng đội ngũ giảng viên giảng dạy chuyên ngành của
Khoa
Qua bảng thống kê trên cho thấy rõ tình hình thực trạng đội ngũ giảng
viên cơ hữu giảng dạy chuyên ngành QLGD của Khoa. Phân tích kỹ lưỡng
chúng ta có thể đưa ra các nhận định về điểm mạnh, điểm yếu cũng như là
nguyên nhân của thực trạng nêu trên:
- Điểm mạnh
+ Giáo viên đạt chuẩn 100% về đào tạo hệ đại học ở mọi mặt: trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ sư phạm, phẩm chất chính trị.
+ Đội ngũ giảng viên đa số có thâm niên cao, công tác tại các trường cao
đẳng, đại học và ở Khoa đã nhiều năm nên có nhiều kinh nghiệm trong giảng
dạy cũng như kinh nghiệm thực tế nghề nghiệp.
+ Tất cả giảng viên có phẩm chất chính trị tốt, luôn phấn đấu và rèn luyện vì sự
nghiệp chung của Đảng, của Nhà nước, vì sự phát triển giáo dục.

+ Họ có lòng yêu nghề, tinh thần khắc phục khó khăn, yên tâm trong công
tác;
có tinh thần tương thân, tương ái giúp đỡ, đùm bọc đồng nghiệp; có lối sống
giản dị, gương mẫu, chuẩn về đạo đức.
- Điểm yếu
Bên cạnh những điểm nổi bật rất đáng ghi nhận nêu trên, đội ngũ cán bộ
giáo viên trong Khoa vẫn còn một số hạn chế sau:
Số lượng giảng viên ít, lại kiêm nhiệm nhiều công việc khác nên dẫn đến
công việc giảng dạy của họ quá tải, do đó thời gian đầu tư cho việc cập nhập
kiến thức mới, cập nhập bài giảng mới chưa nhiều chính vì vậy chất lượng giảng
dạy còn nhiều hạn chế.
2.3.2.2. Đội ngũ giảng viên giảng dạy kiêm nhiệm và thỉnh giảng
Ngoài số lượng giảng viên cơ hữu của Khoa, trên thực tế tham gia vào
quá trình đào tạo hệ cử nhân QLGD có nhiều giảng viên kiêm nhiệm và thỉnh

54


giảng từ các cơ sở đào có uy tín trong cả nước. Tỉ lệ giảng viên cơ hữu và
giảng viên kiêm nhiệm thỉnh giảng của Khoa là 60 : 40. Những giáo viên
được mời hầu hết là những người có chuyên môn sâu, có thâm niên giảng dạy
lâu năm, phù hợp cho việc đào tạo chuyên môn. Đội ngũ cán bộ giảng viên
kiêm nhiệm, thỉnh giảng của Khoa có sự đảm bảo về mặt chất lượng. Các
giảng viên kiêm nhiệm, thỉnh giảng là những người đào tạo có chuyên môn
sâu về nghề và kinh nghiệm giảng dạy lâu năm. Hơn nữa, họ là những người
đã và đang giữa vị trí công tác cao tại các cơ quan chuyên nghiên cứu về giáo
dục nên rất thuận lợi cho việc truyền đạt kỹ năng, kinh nghiệm về công tác
quản lý cho học viên. Tuy nhiên, vì là giảng viên kiêm nhiệm nên giảng viên
chưa xây dựng được kế hoạch giảng dạy cho Khoa theo năm học mà chủ yếu
theo từng đợt học chính vị vậy mà việc sắp xếp lịch giảng dạy rất bị động.

Giảng viên giảng dạy chuyên ngành này đều có ý thức về việc đổi mới,
cải tiến nội dung, phương pháp và hình thức dạy học, tuy nhiên do đặc điểm
của loại hình này là học cuốn chiếu từng môn nên giảng viên thường dùng
phương pháp thuyết trình để truyền tải hết nội dung của bài học.
2.4. Thực trạng công tác quản lý hoạt động đào tạo cử nhân quản lý giáo
dục của Khoa Sư phạm
Hiện nay Khoa Sư phạm - ĐHQGHN có 6 đơn liên kết mở lớp cử nhân
QLGD trải dài khắp từ Bắc đến Tây Nguyên Các đơn vị liên kết thường là các
trường cao đẳng, Trung tâm Giáo dục thường xuyên của tỉnh. Các đơn vị này
đứng ra xin thành lập các trạm để đào tạo cán bộ QLGD phục vụ trực tiếp cho
tỉnh mình. Học viên của các đơn vị liên kết đào tạo là giáo viên, cán bộ trực
thuộc phòng và sở giáo dục và đào tạo và cán bộ quản lý của các trường phổ
thông của tỉnh được cử đi học và về phục vụ lại cho ngành phần lớn họ được
tài trợ học phí, tạo điều kiện về thời gian để học tập. Các đối tượng này có
động cơ học tập rõ ràng, có kinh nghiệm nghề nghiệp đã từng qua công tác

55


×