ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
Nguyễn Xuân Long
Các giải pháp quản lý nâng cao trình độ giáo viên dạy thực hành
nghề May công nghiệp tại trường Cao đẳng Công nghiệp Nam
Định
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI - 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
Nguyễn Xuân Long
Các giải pháp quản lý nâng cao trình độ giáo viên dạy thực hành
nghề May công nghiệp tại trường Cao đẳng Công nghiệp Nam
Định
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Mã Số: 60 14 05
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Trí
HÀ NỘI - 2007
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong một quốc gia giáo dục và đào tạo giữ vai trò quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực được đào tạo với chất
lượng cao chính là năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế và
đảm bảo chắc chắn cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Nhận thức rõ
vai trò của giáo dục với sự phát triển Kinh tế - Xã hội của đất nước, nghị
quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định “Ưu tiên hàng đầu
cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng
tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên”
Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2010 là: “...tiếp tục
quán triệt quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển
biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo”. Định hướng
này đã được cụ thể hoá trong mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục
2001-2010 với những nội dung chủ yếu là tạo chuyển biến cơ bản về chất
lượng giáo dục, ưu tiên chất lượng đào tạo nhân lực, đổi mới mục tiêu,
phương pháp, chương trình giáo dục các cấp học, bậc học và trình độ đào
tạo. Trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo, đội ngũ giáo viên giữ
vai trò vô cùng quan trọng, đây là lực lượng quyết định sự phát triển của sự
nghiệp giáo dục và đào tạo. Luật giáo dục được Quốc Hội thông qua và ban
hành năm 1998, điều 14 đã khẳng định:
“Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo
dục... Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo có chính sách bảo
đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực
1
hiện nhiệm vụ của mình, giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà
giáo tôn vinh nghề nghiệp dạy học”. Chính vì lẽ đó, việc nâng cao trình độ
đội ngũ giáo viên phù hợp với xã hội, đảm bảo về chất lượng là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của nền Giáo dục - Đào tạo Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Mục tiêu và các giải pháp chiến lược phát triển Giáo dục - Đào tạo trong
thời kỳ tới, phả đáp ứng đầy đủ nhu cầu nguồn nhân lực kỹ thuật có tay
nghề cao, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng và có thể chất tốt.
Để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực này, trước mắt chúng ta
phải chăm lo xây dựng và phát triển “Đội ngũ giáo viên dạy nghề” nói
chung, và đặc biệt là đội ngũ giáo viên dạy nghề Trường CĐCN - Nam
Định nói riêng, mà vấn đề tác giả đề cập tới.
Thời gian qua đội ngũ giáo viên này có ưu điểm là: phần đông họ có tâm
huyết với nghề nghiệp, năng lực đáp ứng nhu cầu đào tạo. Tuy nhiên đứng
trước yêu cầu cao của sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa, họ bộc lộ
những yếu điểm như: Trình độ chuyên môn không đồng đều, nghiệp vụ sư
phạm, kỹ năng nghề nghiệp và khả năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế.
Đã có một số đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục về các giải pháp quản
lý, phát triển đội ngũ giảng viên Đại học, Cao đẳng dạy nghề nói chung.
Song đây là vấn đề mới, với một trường đang có xu hướng phát triển
mạnh như Trường CĐCN - Nam Định, và mục tiêu chung là phát triển
nhà trường xây dựng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn cao, trình
độ tay nghề vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, năng
động sáng tạo và làm chủ trong mọi lĩnh vực.
Vì vậy việc bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên dạy thực
hành là nhu cầu tất yếu, khách quan và cấp thiết, do đó học viên mạnh dạn
xin chọn đề tài:
2
“ Các giải pháp quản lí nâng cao trình độ giáo viên dạy thực hành
nghề may công nghiệp tại trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định”
Làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ khoa học QLGD.
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Bồi dưỡng giáo viên là một vấn đề quan trọng đối với chất lượng giáo
dục và đào tạo đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu.
Ở Việt Nam năm 1987 Bộ Giáo Dục - Đào tạo đề ra chương trình cho
ngành Trung học chuyên nghiệp - dạy nghề. “Xây dựng đội ngũ giáo
viên” Chương trình này chú trọng tới việc tổ chức bồi dưỡng giáo viên chủ
yếu về sư phạm kỹ thuật.
Năm 1991, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục đã nghiên cứu đề tài:
“ Mô hình bồi dưỡng giáo viên dạy nghề ”, đề tài chủ yếu điều tra trực
trạng mà chưa đề cập sâu về cơ sở lý luận của công tác quản lý, bồi dưỡng.
Đề tài KX 07- 14 do GS .TSKH Nguyễn Minh Đường chủ trì, nói về
vấn đề bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới.
Trong đó đề cập hai vấn đề chủ yếu là cán bộ quản lý và giáo viên. Trong
đề tài này GS đã đánh giá về thực trạng của đội ngũ GVDN trong bối cảnh
đổi mới hiện nay của đất nước. Tháng 3/1999 Hội thảo Đào tạo và Bồi
dưỡng giáo viên dạy nghề do Tổng cục dạy nghề tổ chức tại Hà Nội. Hội
thảo đã tập trung vào nêu các biện pháp xây dựng, phát triển đội ngũ giáo
viên dạy nghề nói chung.
Đề tài B99-52-36 “ Xây dựng mô hình đào tạo giáo viên kỹ thuật có
trình độ Đại học cho các trường trung học chuyên nghiệp – dạy nghề ”
Do PGS .TS Nguyễn Đức Trí làm chủ nhiệm. Những nội dung đề tài
nêu ra đã được các trường trong khối dạy nghề áp dụng và đã đem lại
những hiệu quả thiết thực trong công tác đào tạo nguồn nhân lực mới cho
đất nước.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trong nhà trường và sự đòi hỏi của thị
trường lao động, các đề tài nghiên cứu đã tập chung nghiên cứu về ĐNGV
3
nói chung, song với mong muốn sẽ góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển
nhà trường, phát triển ĐNGV dạy nghề của trường CĐCN - Nam Định
trong đó sự phát triển về trình độ và số lượng đội ngũ giáo viên nghề May
công nghiệp là nội dung nghiên cứu chủ yếu của tác giả.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp quản lý thực hiện việc nâng cao trình độ giáo viên
dạy thực hành nghề May công nghiệp tại Trường CĐCN - Nam Định
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định một số vấn đề lý luận của việc nâng cao trình độ giáo viên
dạy nghề.
- Đánh giá thực trạng của ĐNGV dạy thực hành tại trường CĐCN - Nam
Định trong những đã năm qua.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên dạy thực
hành nghề qua khảo sát.
4. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng ĐNGV dạy thực hành nghề và giải pháp quản lí nâng cao
trình độ đội ngũ giáo viên dạy thực hành nghề May công nghiệp tại trường
CĐCN - Nam Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, phân tích, khái quát hoá, hồi
cứu các tài liệu lý luận khoa học, tạp chí, sách báo kỉ yếu hội thảo vv...
- Phương pháp điều tra, khảo sát bằng các phiếu thăm dò, tìm hiểu thực tế.
- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo các ý kiến của các nhà quản lý,
các chuyên gia về giáo dục đào tạo.
- Phương pháp thống kê và sử lý các số liệu.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu:
4
- Thực trạng đội ngũ giáo viên dạy thực hành nghề May công nghiệp tại
trường CĐCN - Nam Định trong 5 năm đã qua.
- Một số giải pháp quản lý bồi dưỡng nâng cao trình độ ĐNGV dạy thực
hành nghề May công nghiệp tại trường CĐCN - Nam Định trong 10 năm
tiếp theo (Từ 2007 – 2017)
7. Giả thuyết khoa học
Trên cơ sở lý luận về giáo viên dạy thực hành nghề, yêu cầu quản lí bồi
dưỡng nâng cao trình độ ĐNGV, và kết quả của việc đánh giá thực trạng
trình độ của ĐNGV dạy thực hành nghề May công nghiệp tại đơn vị. Các
giải pháp để nâng cao trình độ ĐNGV nhằm đáp ứng được yêu cầu trong
giai đoạn: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế được đề xuất
trên cơ sở lí luận và nghiên cứu thực tiễn tại đơn vị, nếu được thực hiện thì
sẽ góp phần nâng cao trình độ ĐNGV dạy thực hành nghề May công
nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại trường CĐCN - Nam
Định
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục. Luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nâng cao trình độ giáo viên dạy
nghề.
Chương 2:Thực trạng công tác quản lý việc nâng cao trình độ giáo
viên dạy thực hành nghề May công nghiệp tại trường CĐCN - Nam Định.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý bồi dưỡng nâng cao trình độ giáo
viên dạy thực hành nghề May công nghiệp tại trường CĐCN - Nam Định.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ
GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Giáo viên và giáo viên dạy nghề
+ Giáo viên: Theo cách hiểu thông thường, giáo viên là những người làm
nghề dạy học, khái niệm này được dùng rất phổ biển không chỉ trong cuộc
sống mà còn thể hiện trong các văn bản pháp quy. Các khái niệm liên quan
đến giáo viên được định nghĩa như sau :
- Giáo viên : Là người dạy học ở bậc phổ thông hoặc tương đương.
- Giảng viên : Là tên gọi chung cho người làm công tác giảng dạy ở bậc
Đại học và Cao đẳng.
Như vậy có thể hiểu “Giáo viên” là tên gọi chung đối với tất cả những
người làm công tác giảng dạy ở các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
+ Giáo viên dạy nghề: Giáo viên dạy nghề là những người giảng dạy các
môn kỹ thuật cơ sở, lý thuyết nghề và thực hành nghề. Giáo viên dạy nghề
có chức năng đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật, trực tiếp sản xuất ra của
cải vật chất cho xã hội .
Trong các trường dạy nghề có nhiều loại giáo viên :
- Giáo viên dạy các môn cơ bản: Toán, Lý, Hoá.......
- Giáo viên dạy các môn chung: Ngoại ngữ, Thể dục, Quân sự, Chính trị......
- Giáo viên dạy các môn kỹ thuật cơ sở, lý thuyết chuyên môn và hướng
dẫn thực hành nghề.
Chúng ta cần phân biệt rõ giữa giáo viên dạy nghề và giáo viên trong các
trường dạy nghề .
Giáo viên dạy nghề trong thực tế có 3 loại:
- Giáo viên dạy lý thuyết nghề .
- Giáo viên dạy thực hành nghề .
- Giáo viên dạy cả thực hành nghề và lý thuyết nghề .
6
Theo Luật giáo dục quy định: Giáo viên dạy nghề có 3 cấp trình độ:
- Giáo viên dạy nghề.
- Giáo viên chính dạy nghề.
- Giáo viên cao cấp dạy nghề.
Hiện nay Nhà nước đang xây dựng chức danh của 3 cấp trình độ trrình
độ mới để thay thế cho tiêu chuẩn chức danh 2 cấp trước đây.
1.1.2. Khái niệm quản lý
Khi xã hội loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ: Quan hệ giữa
con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người
với xã hội và cả quan hệ giữa con người với chính bản thân mình cũng xuất
hiện theo. Điều này làm nảy sinh nhu cầu về quản lý. Trải qua tiến trình
phát triển của lịch sử từ xã hội lạc hậu đến xã hội văn minh, trình độ sản
xuất, tổ chức, điều hành xã hội cũng phát triển theo. Đó là điều tất yếu của
lịch sử.
Ngày nay nhiều người thừa nhận rằng quản lí trở thành một nhân tố của
sự phát triển xã hội. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra
trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi người.
Nước ta đã và đang thực hiện cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước, đang tiến hành Công nghiệp hoá - Hiện
đại hoá, cải cách mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, vấn đề sử dụng
và phát huy những ưu việt sẵn có xuất phát từ bản chất xã hội phần lớn phụ
thuộc vào quản lý và trình độ tổ chức quản lý.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý là vấn đề hết sức phức tạp. Ngay trong lĩnh
vực cụ thể như giáo dục cũng có sự phức tạp riêng của nó. Có nhiều lý do
để dẫn đến sự phức tạp này, đó là do sự không ngừng tănng quy mô phát
triển giáo dục, do sự đa dạng về phương thức giáo dục (GD chính quy, GD
không chính quy, GD phi chính quy), do sự khác biệt vùng miền. Nhưng dù
sao cũng phải khẳng định rằng đối tượng hoạt động càng phức tạp bao
nhiêu thì lại càng đòi hỏi phải có quản lý bấy nhiêu.
7
Cho đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý.
Khái niệm “quản lý” là khái niệm rất chung, tổng quát, nó dùng cho cả
quá trình quản lý xã hội.
Riêng về quản lý xã hội lại được chia thành 3 lĩnh vực quản lý cơ bản
tương ứng với 3 loại hình hoạt động chủ yếu của con người: Quản lý sản xuất,
quản lý kinh tế, quản lý xã hội - chính trị và quản lý đời sống tinh thần.
Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác
nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật) nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng,
duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt
động. (Đại học bách khoa toàn thư – Liên Xô)
Một số định nghĩa khác:
- Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản
lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt được mục đích nhất định..
- Hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do đó :
Quản lý được hiểu là việc đảm bảo hoạt động của hệ thống có điều kiện có
sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển động của hệ
thống đến trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới.
- Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho nỗ lực của
từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội.
- Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động,
phát huy, kết hợp sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (Nhân lực,
vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (Chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu
nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
Các khái niệm (thuộc lĩnh vực xã hội) trên đây, tuy có khác nhau song
chúng có chung những dấu hiệu chủ yếu sau:
- Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
- Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích.
- Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân
nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.
8
Có thể nhận thấy, hoạt động quản lý theo tinh thần của chủ nghĩa Mác –
Lênin về mối quan hệ qua lại giữa những quy luật xã hội khách quan và
hoạt động tự giác của con người có ý nghĩa to lớn đối với lý luận và thực
tiễn quản lý. Hoạt động quản lý là sự biểu hiện ý nguyện tự giác của chủ
thể quản lý muốn điều chỉnh và hướng dẫn các quá trình và các hiện tượng
xã hội. Việc xác định đúng đắn những khả năng và những giới hạn khách
quan của hoạt động đó là tiền đề cơ bản xây dựng lý luận khoa học về
quản lý và hoàn thiện quá trình quản lý về mặt thực tiễn. Như vậy, hoạt
động quản lý có bản chất là hoạt động tự giác, đúng như Ăng – ghen đã chỉ
ra:
Trong lịch sử xã hội, nhân tố hoạt động là con người có ý thức, hành
động có suy nghĩ hay dưới ảnh hưởng của nhiệt tình và theo đuổi những
mục đích nhất định. ở đây không có gì được thực hiện mà lại không có ý
định tự giác, không có mục đích mong muốn. Tuy nhiên không nên tuyệt
đối hoá yếu tố tự giác vì như vậy dễ rơi vào quan điểm duy tâm về quản lý.
Ngược lại, việc nhận thức đúng đắn vai trò của yếu tố tự giác trong hoạt
động xã hội cho phép xác định đúng đắn những giới hạn, chức năng và ý
nghĩa xã hội của việc quản lý các quá trình xã hội.
Tính mục đích cũng là đặc trưng trong mọi hoạt động của con người. Có
thể nói, tính mục đích là thuộc tính vốn có trong hoạt động xã hội, đặc biệt
trong hoạt động quản lý. Khi thực hiện nhiệm vụ quản lý, chủ thể quản lý
luôn hướng theo mục đích xác định và lôi cuốn đối tượng bị quản lý thực
hiện mục tiêu của tổ chức.
Điều đặc biệt cần nhấn mạnh là quản lý trong lĩnh vực xã hội không khi
nào là hoạt động có tính chất một chiều, tức là : Đối tượng bị quản lý thụ
động chịu tác động của chủ thể quản lý. Với tư cách là người lao động, đối
tượng bị quản lý được coi là những chủ thể tự giác, tích cực tham gia vào
việc quản lý xã hội. Điều này được V.I.Lênin chỉ ra:“ Trí tuệ của hàng
9
chục triệu con người sáng tạo sẽ tạo ra cái cao hơn rất nhiều so với sự tiên
đoán vĩ đại và thiên tài cá nhân”.
Tóm lại, những khái niệm về quản lý (Thuộc lĩnh vực XH) nêu trên đều có những
đặc trưng chủ yếu là: Tính tự giác, tính mục đích và tính quần chúng trong quản lý.
Đây cũng được coi là cơ sở phương pháp luận Mác xít của hoạt động quản lý.
Thuật ngữ “ Lãnh đạo” (Leadership) cũng là khái niệm liên quan đến
quản lý (Management). Đây là hai khái niệm gần nhau nhất. Thậm chí đôi
khi còn đồng nhất với nhau. Lãnh đạo được hiểu là hình thức quản lý cao
nhất, chung nhất, là hạt nhân của quản lý. Lãnh đạo được xem như bộ não
của quản lý, đó là hệ thần kinh trung ương của quản lý. Đặc điểm chủ yếu
của lãnh đạo là xác định đường lối cơ bản, là định hướng mang tính chiến
lược, là gây ảnh hưởng, lôi cuốn quần chúng hăng hái, tự giác thực hiện có
kết quả đường lối, mục tiêu đã vạch ra. Đặc điểm chủ yếu của quản lý thể
hiện ở vai trò ưu tiên của các chức năng chấp hành, được coi là một loại
lãnh đạo đặc biệt, trong đó việc đạt được mục đích của tổ chức là tối quan
trọng. Do đó , lãnh đạo là khái niệm chung hơn với quản lý. Sự khác nhau
căn bản giữa hai khái niện này là ở vấn đề tổ chức. Nếu lãnh đạo mang tính
chủ quan, trong đó yếu tố sáng tạo luôn giữ vai trò quan trọng, thì quản lý
lại là những tác động có thể “quy trình hoá” ở chừng mực nhất định. Mặt
khác, đã là nhà quản lý tốt thì hiển nhiên là nhà lãnh đạo tốt, bởi Người
lãnh đạo đó biết biến ý trí và sức mạnh của mình thành ý trí và sức mạnh
của tập thể nhằm thực hiện thành công mục tiêu chung của tổ chức. Nhưng
điều ngược lại thì chưa hẳn, bởi có thể là lãnh đạo tốt, nhưng lại là người
quản lý tồi.
Để lãnh đạo tốt, nhà lãnh đạo cần có ba kỹ năng sau:
1. Phán đoán, khả năng hiểu được thực trạng mà người lãnh đạo đó đang
gây ảnh hưởng.
2. Thích ứng, khả năng thích ứng hành vi của người lãnh đạo với những
nguồn lực sẵn có để có thể đáp ứng được những bất ngờ của tình huống.
10
3. Giao tiếp, Khả năng giao tiếp theo lối mà mọi người dễ dàng hiểu và
chấp nhận đối với mình.
1.1.3. Quản lý giáo dục
Chúng ta có thể khẳng định giáo dục và quản lý giáo dục luôn tồn tại
song hành. Nếu nói giáo dục là hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài cùng với xã
hội loài người thì cũng có thể nói như thế với quản lý giáo dục. Giáo dục
suất hiện nhằm thực hiện cơ chế truyền lý kinh nghiệm lịch sử - xã hội của
loài người, của thế hệ đi trước cho thế hệ đi sau và để thế hệ đi sau có trách
nhiệm kế thừa, phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội, giáo dục và
bản thân con người phát triển không ngừng. Để đạt mục đích đó, quản lý
được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên.
Trước hết, cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt
động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình.
Chỉ có con người mới có khả năng khách thể hoá mụch đích, nghĩa là thể
hiện cái nguyên mẫu lý tưởng của tương lai được biểu hiện trong mục đích
đang ở trạng thái khả năng sang trạng thái thực hiện. Mục đích giáo dục
cũng chính là mục đích của quản lý (tuy không phải là mục đích duy nhất
của quản lý giáo dục). Đây là mục đích có tính khách quan. Nhà quản lý
cùng với đông đảo đội ngũ giáo viên, học sinh, các lực lượng xã hội....bằng
hành động của mình hiện thực hoá mục đích đó trong thực tế.
Cũng như khái niệm “quản lý”, khái niệm “quản lý giáo dục” cũng có
nhiều quan niệm khác nhau.
Khái niệm “quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ, đó là cấp độ vĩ mô và cấp
độ vi mô.
Cấp quản lý vĩ mô tương ứng với việc quản lý một đối tượng có quy mô,
bao quát toàn bộ hệ thống, nhưng trong hệ thống này lại có nhiều hệ thống
con, tương ứng với hệ thống con có hoạt động quản lý vi mô. Sự thực, việc
phân chia quản lý vĩ mô và quản lý vi mô chỉ là tương đối. Ví dụ như:
11
Quản lý ở cấp Sở giáo dục và đào tạo, nếu đặt trong phạm vi toàn quốc thì
chỉ là cấp vi mô so với Bộ giáo dục và đào tạo (cấp vĩ mô). Nhưng nếu đặt
nó trong phạm vi một tỉnh (thành phố) thì nó lại là cấp vĩ mô so với cấp
quản lý là Phòng giáo dục và đào tạo (cấp vi mô).
Nếu xét theo khía cạnh đối tượng của quản lý sẽ có các cấp quản lý như :
Quản lý một ngành học, một bậc học, một cấp học và quản lý một trường
học. Việc phân chia các cấp quản lý này cũng mang tính chất tương đối.
Điều quan trọng là khi xem xét vấn đề quản lý phải xác định chủ thể quản
lý đang ở cấp độ nào. Từ đó mới thấy được mối tương quan trên – dưới, vĩ
mô và vi mô.
Đối với cấp độ vĩ mô:
- Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến
tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là
nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển
giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.
- Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi (Emergence)
của hệ thống, sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ
thống nhằm đưa hệ thống đến nục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện
bảo đảm sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn biến động.
- Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy
động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát một cách có hiệu quả các
nguồn lực giáo dục (Nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát
triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Các khái niệm trên tương ứng với sự phát triển hệ thống giáo dục trên
quy mô cả nước hay hệ thống giáo dục của một tỉnh (thành phố) hoặc đối
với hệ thống giáo dục của một nghành học,cấp học cụ thể nào đó. Có thể
12
thấy các khái niệm đó không mâu thuẫn nhau, ngược lại nó bổ xung cho
nhau. Nếu khái niệm thứ nhất và khái niệm thứ hai đòi hỏi tính định hướng,
tính đồng bộ thì khái niệm thứ ba đòi hỏi tính cụ thể của những tác động
quản lý vào các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu quản lý.
Đối với cấp độ vi mô:
- Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống) hợp quy luật của chủ thể quản
lý đến tập thể giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội
trong và ngoài nhà trường, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục
tiêu giáo dục của nhà trường.
- Cũng có thể định nghĩa quản lý giáo dục thực chất là những tác động
của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành tới tập thể giáo
viên và học sinh với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của
nhà trường.
Thuật ngữ “Quản lý trường học – Quản lý nhà trường” có thể xem là
đồng nghĩa với quản lý giáo dục thuộc tầm vi mô. Đây là những tác động
quản lý diễn ra trong phạm vi nhà trường.
Từ những khái niện trên, dù ở cấp vĩ mô hay vi mô, ta có thể thấy rõ bốn
yếu tố ảnh hưởng đến mục tiêu quản lý đó là: Chủ thể quản lý, đối tượng
quản lý, phương pháp quản lý, công cụ quản lý. Và được sơ đồ hoá như
sau:
Chủ thể QL
Đối tượng QL
Mục tiêu QL
Phương pháp
QL
Công cụ QL
13
Sơ đồ1: Sơ đồ hoá về quản lý.
1.1.4. Quản lý nhà trường
Thế kỷ 20 đánh dấu nhiều thành tựu của giáo dục học, đáng kể nhất là lý
luận giáo dục gắn vào lý luận phát triển (Kinh tế học phát triển) với sự ra
đời của “Kinh tế học giáo dục” và “Xã hội học giáo dục lý luận quản lý nhà
trường” .
Nhà trường trong nền kinh tế công nghiệp không chỉ là thiết chế sư phạm
đơn thuần. Nội dung công việc diễn ra trong nhà trường có mục tiêu cao
nhất là hình thành “Nhân cách – Sức lao động” phục vụ phát triển cộng
đồng làm tăng nguồn vốn con người (Human capital), vốn tổ chức
(Organiza tional) và vốn xã hội (Social capital).
“Nhà trường là vầng trán của cộng đồng” và “Cộng đồng là trái tim của
nhà trường” Từ nhà trường, hai quá trình “Xã hội hoá giáo dục” và “Giáo
dục hoá xã hội” quyện chặt vào nhau để tạo thành “Xã hội học tập”. Tạo
nên sự đồng thuận trong xã hội, tăng trưởng kinh tế cho mỗi quốc gia với
mục tiêu phát triển nhân văn (Human Development) đưa giáo dục đến với
mọi người (Education forall) và huy động mọi tiềm năng, nguồn lực của xã
hội cho giáo dục và coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu” thì “quản lý giáo
dục phải coi nhà trường là nút bấm, lấy nhà trường làm nền tảng và quản lý
nhà trường phải lấy quản lý việc dạy học là khâu cơ bản, việc dạy học phải
được xuất phát từ người học và hướng vào người học (Learner Centred
teaching) (Tr. 210 – Quản lý giáo dục – NXB Đại học sư phạm – HN)
Việt Nam chúng ta từ khi nước nhà giành độc lập Bác Hồ và Đảng đã rất
quan tâm đến việc sây dựng và phát triển nền giáo dục nước nhà.
14
Với mẫn cảm chính trị và tấm lòng thiết tha với sự nghiệp giáo dục làm
cho dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái, làm cho thế hệ trẻ
Việt Nam được hưởng một nền giáo dục phát triển hoàn toàn theo năng lực
của mình. Lúc sinh thời Bác Hồ rất quan tâm đến việc tổ chức nền giáo dục
cách mạng Việt Nam, nhà trường Việt Nam.
Ngay khi mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dù còn biết
bao công việc hệ trọng phải chỉ đạo. Bác vẫn quan tâm đến việc phải tạo
lập được kiểu nhà trường lao động.
Năm 1947 Bác đã có chỉ thị: “Sự học tập trong nhà trường có ảnh
hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên và tương lai của thanh niên là
tương lai của đất nước mình. Vì vậy cốt nhất là phải dạy cho học trò biết
yêu nước thương nòi.... phải dạy cho họ có ý chí tự lực tự cường, quyết
không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”
Bác nêu ra bốn việc quan trong của trường học:
“ Một là làm cho học sinh quý trọng sự cần lao.
Hai là tập cho họ quen lao khổ.
Ba là cho họ cái chí khí tự lực kỳ lực.
Bốn là có ích cho sức khoẻ của họ”.
(Hồ Chí Minh – toàn tập – NXB Chính trị quốc gia)
Tư tưởng và sự chỉ đạo thực tiễn của Bác Hồ về phát triển nhà trường Việt
Nam rất tinh tế và độc đáo, luôn phù hợp với thực tiễn phát triển giáo dục hiện
đại. Tư tưởng này đã trở thành hiện thực trong nhà trường Việt Nam những
năm 1960, 1970 của thế kỷ 20 thông qua các trường điển hình lúc bấy giờ như
trường Bắc Lý, trường Thanh niên lao động XHCN Hoà Bình.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mô hình này đã không được duy
trì, cải tiến để phù hợp với hoàn cảnh mới của nhà trường phổ thông ở Việt
Nam, dù trên lý thuyết không có sự tuyên bố nào đi ra ngoài nguyên lý giáo
dục XHCN. Song sự tổ chức thực tế ở một bộ phận dường như trở lại quỹ
15
đạo của nhà trường quyền uy và ăn bám.... bệnh thành tích, hình thức đã
làm cho một số nhà trường vơi đi sự tín nhiệm của xã hội, của cộng đồng.
Hiện nay Việt Nam chúng ta đã có luật giáo dục được ban hành vào ngày
27/6 /2005. Và Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức
theo các loại hình sau đây:
- Trường công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, đảm bảo kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.
- Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư cơ sở
vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động.
- Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo
đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước.
- Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều
được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự
nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò
nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân .
Các yếu tố để thành lập nhà trường gồm:
- Mục tiêu đào tạo ( M )
- Hình thức đào tạo ( H )
- Nội dung đào tạo ( N )
- Điều kiện đào tạo ( Đ )
- Phương pháp đào tạo ( P )
- Môi trường đào tạo ( M )
- Lực lượng đào tạo ( Thầy- Th )
- Bộ máy đào tạo ( Bô )
- Đối tượng đào tạo ( Trò - Tr )
- Qui chế đào tạo ( Qi )
M
H
Th
§
Tr
Qu¶n
lÝ
Qi
M«
N
16
B«
P
Sơ đồ 2: Sơ đồ hoá mối liên hệ các yếu tố cấu thành nhà trường.
1.2. Vai trò, nhiệm vụ của giáo viên dạy nghề
1.2.1. Vai trò của giáo viên dạy nghề
Đội ngũ giáo viên (Teaching Staff) và đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục,
quản lí các nhà trường và các cơ quan trong hệ thống giáo dục quốc dân có
vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của sự nghiệp giáo dục. Bởi vì sản
phẩm của họ khác với sản phẩm của loại hình lao động khác ở chỗ: Sản
phẩm này tích hợp cả nhân tố tinh thần và vật chất, đó là “Nhân cách – Sức
lao động”.
Thành quả lao động của họ vừa tác động vào hình thái ý thức xã hội (giá
trị văn hoá tinh thần của dân tộc, tình đoàn kết đồng thuận của đất nước),
vừa hình thành sức lao động kỹ thuật thúc đẩy sự năng động của đời sống
thị trường, ở đây là thị trường sức lao động.
Sứ mệnh của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục có ý nghĩa cao
cả đặc biệt. Họ là bộ phận lao động tinh hoa của đất nước. Lao động của họ
trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển đất nước, cộng đồng đi vào
trạng thái phát triển bền vững.
Một ngày thiếu giáo dục đất nước không thể tồn tại được và giáo dục
không có người thầy không thể vận động được.
Trong việc định hướng lại giáo dục, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Việt Nam rất quan tâm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí
17
giáo dục. Trong thời kì đổi mới giáo dục đã liên tiếp có các chỉ thị về lĩnh
vực quan trọng này.
Ngày 27/8/2001 Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị 18/2001/T – Tg nêu ra các
biện pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục quốc dân.
Ngày 9/7/2001 Chính phủ có nghị định 35/2001/NĐ - Chính phủ nêu
chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục công tác ở trường
chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
Ban bí thư TW có Chỉ thị số 40 về xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lí giáo dục. Từ Chỉ thị này ngày 11/1/2005 Thủ tướng chính phủ ra
quyết định phê duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lí giáo dục giai đoạn 2005 – 2010”.
“Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục theo hướng
chuẩn hoá, nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu, đặ biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp
ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Trong các nhiệm vụ nêu ra đã lưu ý việc:
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò, trách nhiệm của
nhà giáo và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục
có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức,
tận tụy với nghề nghiệp, làm trụ cột thực hiện các mục tiêu nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
1.2.2. Những yêu cầu chung đối với việc phát triển đội ngũ giáo viên
- Yêu cầu đối với giáo viên dạy nghề
18
Xã hội và người học đòi hỏi người giáo viên nói chung và người giáo
viên dạy nghề nói riêng những yêu cầu rất cao, bởi vì quan niệm của người
Việt Nam thì giáo viên là người hiểu biết toàn diện.
* Những yêu cầu về phẩm chất:
- Lòng yêu nghề
Người giáo viên trước hết phải có lòng yêu nghề, đó là tiêu chuẩn quan trọng
nhất đối với người thầy. Thực tế đã chứng minh: Bất luận làm nghề gì muốn có
kết quả cao, phải có lòng yêu nghề. Người thầy trước hết phải là người yêu
nghề. Chỉ có ai tha thiết đối với nghề dạy học mới trở thành nhà sư phạm chân
chính, mới xứng đáng với vị trí ”Người thầy” của xã hội. Chỉ những ai yêu
nghề mới cảm thấy cái hay, cái đẹp, cái cao quý của nghề dạy học. Nhà giáo
yêu nghề mới ”thức thâu đêm nghiêng mình bên giáo án”, để tìm ra những
phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung và trình độ của học sinh.
- Đạo đức chuẩn mực
Xã hội đòi hỏi người thầy phải có đạo đức chuẩn mực. Trong mọi việc
làm, thầy giáo phải là người có tính chuẩn mực, thái độ ân cần, tận tâm
thực hiện các nhiệm vụ của mình. Lời nói của thầy bao giờ cũng phải đi đôi
với việc làm. Chỉ khi nào có được những phẩm chất như thế thầy giáo mới
có thể giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ trở thành con người lao động mới.
- Uy tín đối với học sinh
Kết quả giáo dục phụ thuộc nhiều vào uy tín của người thầy. Lòng yêu
nghề, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn nghề và sư phạm là cơ sở
để tạo nên uy tín của người thầy.
- Kỉ luật nghề nghiệp
Kỉ luật nghề nghiệp là một đòi hỏi cao của quá trình sản xuất, để đảm
bảo an toàn cho con người và thiết bị. Học sinh sau này ra trường sẽ phải
thực hiện các quy trình sản xuất chặt chẽ. Muốn có được kỉ luật nghề
nghiệp học sinh phải rèn luyện nghiêm túc ngay từ khi còn ngồi trên ghế
19
nhà trường để tạo thành thói quen. Muốn rèn luyện cho học sinh tính kỉ luật
nghề nghiệp, người thầy phải có được đức tính ấy. Sự dễ dãi, xuề xoà sẽ
làm hạn chế việc rèn luyện tác phong nghề nghiệp cho học sinh vì vậy giáo
viên phải rèn luyện để loại bỏ những thói quen đó.
*Những yêu cầu về năng lực:
Năng lực là yếu tố quyết định tạo lên nhân cách con người dạy nghề vừa
mang những tính chất chung của nghề dạy học, vừa có những nét đặc thù
của chuyên môn kĩ thuật, vì vậy người giáo viên dạy nghề phải có cả năng
lực sư phạm và năng lực chuyên môn mới hoàn thành được nhiệm vụ của
mình, trong đó có năng lực quản lý, năng lực tổ chức ....
Xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên ở nước ta trong hoàn cảnh hiện
nay phải quán triệt các yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực.
Có 3 yêu cầu sau cần chú ý:
- Đủ về số lượng.
Số lượng của giáo viên nhìn trên sự điều hành vĩ mô phải cân đối với lao
động xã hội trong nền kinh tế. Ở nước ta hiện có khoảng 50 triệu lao động
trong độ tuổi lao động và có khoảng gần 1 triệu là giáo viên. Như vậy
chiếm 2% trong tổng lao động. Tỉ lệ này là vừa phải trong điều kiện của
một nền kinh tế mà mặt bằng GDP còn thấp.
- Đạt chuẩn về chất lượng.
Chuẩn về chất lượng giáo viên hiện nay tạm quy định về ba khía cạnh.
+ Chuẩn về trình độ chuyên môn
+ Chuẩn về trình độ nghiệp vụ sư phạm.
+ Chuẩn về đạo đức tư cách người thầy.
Ở nước ta trong quá trình đổi mới giáo dục, do phát triển mạnh các
trường sư phạm nên đã từng bước chuẩn hoá đội ngũ giáo viên về mặt bằng
cấp sư phạm.
20
Về đạo đức tư cách người thầy, nhìn tổng thể trên toàn bộ đội ngũ giáo
viên nước ta là đạt yêu cầu. Họ là những người lính xung kích đáng tin cậy
của Đảng trên mặt trận văn hoá giáo dục. Chỉ có một số rất nhỏ có những
biểu hiện yếu kém về lối sống, đạo đức, tư cách và số này đã kịp thời được
thay thế.
- Đồng bộ về cơ cấu.
Cơ cấu của đội ngũ giáo viên được xét trên các sự tương thích:
+ Tương thích về giới nam nữ.
+ Tương thích về cơ cấu ngành nghề
+ Tương thích về tuổi đời, thâm niên nghề.
+ Tương thích về trình độ, nghiệp vụ sư phạm.
Quản lí ĐNGV làm cho đội ngũ này luôn luôn vận động tự làm mới
mình bằng con đường biết “Học - Hỏi – Hiểu - Hành” (bốn chữ H). Đây là
phương châm hành xử của con người hiện đại, cũng là phương châm hành
xử của mỗi tập thể.
Khoa học càng phát triển, các kĩ năng, kĩ sảo nghề nghiệp càng tinh vi
phức tạp, mỗi người không thể tự mình có được các kĩ năng, kĩ sảo đó mà
phải có người dạy dỗ. Tục ngữ có câu: “Không thầy, đố mày làm nên” câu
nói đó cho thấy rõ vai trò của người thầy trong việc đào tạo nghề nghiệp.
Nhờ có thầy mà kho tàng tri thức, văn hóa và kinh nghiệm của nhân loại
được lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau.
Thầy giáo không chỉ dạy nghề mà nhiệm vụ lớn hơn là hình thành nhân
cách lao động cho học sinh. Rõ ràng người thầy giáo có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của từng con người. Vì vậy, họ xứng đáng được xã hội
tôn kính, trân trọng. Điều đó phù hợp với đạo lí: “Tôn sư trọng đạo” của
dân tộc ta.
Chúng ta đang sống ở những năm đầu thế kỉ 21, khởi đầu của nền kinh tế
tri thức. Vai trò của người thầy đối với sự phát triển của đất nước trong
21
tương lai càng trở nên quan trọng. Người thầy phải thực hiện trọng trách
mà xã hội giao phó, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất
nước, có như thế nước ta mới phát triển sánh vai với các nước trên thế giới.
Thời cơ và vận hội đã đến, ngành giáo dục phải chuẩn bị hành trang cho thế
hệ trẻ ngay từ những năm đầu của thiên niên kỉ mới. Thầy giáo phải là
chiến sĩ tiên phong trên mặt trận ấy.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, muốn đánh giá chất lượng đào tạo nghề
của một trường, trước hết phải nhìn vào năng lực đội ngũ giáo viên dạy
nghề. Như Luật Giáo dục đã khẳng định ”người thầy là nhân tố quyết định
đến chất lượng giáo dục”. Thầy giáo là người tổ chức, lãnh đạo quá trình
học tập, giáo dục ở trường học. Ảnh hưởng của người thầy đối với học sinh
rất to lớn và không có gì thay thế được. V.I.Lênin viết: ”không có sự kiểm
tra nào, không có chương trình nào có thể thay đổi một cách tuyệt đối
phương hướng của các bài học mà giảng viên đã xác định” (Lê Nin tuyển
tập – trang 94).
Trong nhà trường nếu đội ngũ giáo viên có năng lực, họ có thể lựa chọn
được nội dung giảng dạy sát với thực tế và nhu cầu người học, khai thác, sử
dụng có hiệu quả thiết bị, phương tiện dạy học, tạo ra mô hình, học cụ, làm
giàu thêm cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy.
Tóm lại, người thầy là yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo nghề.
Vai trò người thấy đối với chất lượng đào tạo được thể hiện ở sơ đồ 3:
Sơ đồ 3: Vai trò của người GVDN đối với chất lượng đào tạo.
ĐỘI NGŨ GVDN
CHẤT LƯỢNG ĐT
NỘI DUNG ĐT
CƠ SỞ VẬT CHẤT
22
(Nguồn: Khoa học QLGD – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Giáo dục – Năm 2004)
1.2.3. Những nhiệm vụ của người giáo viên dạy nghề
Giáo viên dạy nghề có những nhiệm vụ chính sau đây:
* Truyền thụ kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ sảo nghề nghiệp cho học
sinh:
Nội dung mà giáo viên dạy nghề truyền thụ cho học sinh được thể hiện
trong chương trình đào tạo bao gồm:
- Kiến thức kĩ thuật cơ sở.
- Kiến thức chuyên môn.
- Rèn luyện kĩ năng, kĩ sảo nghề.
Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất nó quyết định đến chất lượng đào tạo
nghề. Vì thực hành nghề nghiệp chiếm 2/3 thời gian đào tạo. Trong thời
gian học nghề, học sinh được thầy giáo hướng dẫn, rèn luyện để có được kĩ
năng là nhiệm vụ rất nặng nề, đòi hỏi những, kĩ sảo, thao tác, động tác cơ
bản của nghề. Rèn luyện tay nghề cho học sinh người thầy phải có phương
pháp hướng dẫn hợp lý thì học sinh mới nhanh chóng hình thành được kĩ
năng, kĩ sảo nghề nghiệp.
* Giáo dục phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho học sinh:
Giáo dục phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho học sinh là nhiệm vụ
không kém phần quan trọng của người giáo viên dạy nghề. Mục tiêu đào
tạo nghề là: ”Rèn luyện cho học sinh trở thành con người lao động mới có
phẩm chất và năng lực chuyên môn, sống và làm việc theo pháp luật, biết
làm giàu bằng chính nghề nghiệp của mình”. Việc giáo dục phẩm chất đạo
đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay là rất khó khăn, bởi vì thang giá
trị đạo đức đã thay đổi. Cái mà trước đây là lí tưởng sống của mọi người,
nay không còn phù hợp với thế hệ trẻ. Những tiêu chuẩn đạo đức mới chưa
hình thành rõ nét. Nhà giáo dục phải vừa làm, vừa tìm tòi những nội dung
23