Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Ảnh hưởng của phật giáo trong đời sống xã hội trung quốc thời tùy đường luận văn ths khu vực học 60 31 50 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.28 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------------NGUYỄN THỊ LỆ QUYÊN

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI TÙY – ĐƯỜNG

Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tài Đông

Hà Nội-2015


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 3
1. Lý do lựa chọn đề tài .................................................................................. 3
2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8
6. Đóng góp của đề tài .................................................................................... 8
7. Bố cục luận văn .......................................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................... 10
CHƯƠNG 1: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁOTRUNG QUỐC
THỜI TÙY - ĐƯỜNG................................................................................ 10
1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc ............................................. 10
1.1.1 Bức tranh tổng quát về đất nước Trung Quốc thời kỳ trước khi Phật giáo


du nhập......................................................................................................... 10
1.1.2 Con đường Phật giáo du nhập vào Trung Quốc ................................... 17
1.2 Khái quát Phật giáo Trung Quốc thời Tùy - Đường ................................ 19
1.2.1 Sự bảo hộ của các bậc đế vương thời Tùy - Đường đối với Phật giáo .. 19
1.2.2 Sự phát triển của các tông phái Phật giáo............................................. 24
1.2.3 Thành tựu về công tác phiên dịch ........................................................ 40
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRÊN MỘT SỐ KHÍA
CẠNH XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI TÙY - ĐƯỜNG ........................ 44
1


2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực chính trị.................................. 45
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực tư tưởng ................................. 49
2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực văn học .................................. 57
2.4. Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực kiến trúc và hội họa ................ 68
2.5. Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vực phong tục tập
quán……………77
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC THỜI
TÙY - ĐƯỜNG ĐỐI VỚI TRIỀU TIÊN, NHẬT BẢN, VIỆT NAM ...... 84
3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo Tùy - Đường đối với Triều Tiên .................... 85
3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo Tùy - Đường đối với Nhật Bản ..................... 89
3.3 Ảnh hưởng của Phật giáo thời Tùy - Đường đối với Việt Nam ............... 96
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 108

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài

Phật giáo ra đời từ thế kỷVI TCN ởẤn Độ với người sáng lập là Thích
Ca Mâu Ni. Vào thời kỳ thống trị của vương triều Khổng Tước vua A Dục
(khoảng thế kỷ III TCN), Phật giáo trở thành quốc giáo và bắt đầu phát triển
lan rộng ra khỏi biên giới quốc gia Ấn Độ. Đến thế kỷ XIII SCN, Phật giáo về
cơ bản bị tiêu vong ở chính quê hương phát sinh ra nó, nhưng lại được phát
triển ở các nước khác trên thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc.
Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không ngừng hòa nhập với xã
hội, tư tưởng, văn hóa truyền thống Trung Quốc để cuối cùng hình thành một
nền Phật giáo bản địa với nhiều đặc điểm riêng. Phật giáo tại Trung Quốc đã
phát triển và mở rộng thành cái gọi là “vùng văn hóa Phật giáo Trung Quốc”,
có ảnh hưởng đến cả Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Mông Cổ,… hình
thành nên “Phật giáo Bắc truyền”, độc lập với “Phật giáo Nam truyền” trong
xu thế phát triển ngoài Ấn Độ của Phật giáo. Vì vậy có thể khẳng định rằng,
tuy Phật giáo sinh ra ởẤn Độ nhưng Trung Quốc cũng là mảnh đất màu mỡ
để Phật giáo sinh sôi, phát triển.
Nhắc đến nền văn minh, văn hóa Trung Quốc, chúng ta không thể không
nhắc đến Phật giáo, bởi Phật giáo thực sự là một bộ phận, một viên đá quý
của văn hóa, tư tưởng Trung Hoa. Quả đúng như vậy, đạo Phật đã từng bước
ảnh hưởng đến mọi nếp sống sinh hoạt của người dân Trung Quốc từ triết lý,
tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán… Điều đó được thể
hiện rõ nét nhất khi chúng ta nghiên cứu về vai trò của Phật giáo trong thời
Tùy - Đường, thời kỳ phát triển rực rỡ của Phật giáo Trung Quốc.
Ngày nay, những hào nhoáng của một nền văn minh vật chất đã lôi cuốn
một số đông người, nhưng cơ bản nền văn hóa dân tộc đang còn bền chặt,
khiến người Trung Hoa dẫu có bị xao nhãng phần nào trong một thời gian, rồi

3


cũng lần hồi trở lại với cội nguồn yêu dấu ngàn xưa. Phật giáo như một thực

thể văn hóa - tôn giáo sống động, góp phần tạo ra văn hiến - văn minh đất
nước; một phần quan trọng của đời sống tâm linh, chốn bình an quay về của
bao người. Bởi vậy, tìm hiểu về vai trò, ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã
hội Trung Quốc thời Tùy - Đường là đề tài khá thú vị, hấp dẫn, giúp lý giải
được sức sống lâu bền của đạo Phật ở một quốc gia có nền văn minh cao,
cũng như nắm bắt xu thế phát triển hiện nay của tôn giáo này trên mảnh đất
Trung Quốc rộng lớn.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhìn nhận rõ: hiện nay, Phật giáo nói
chung, Phật giáo Trung Quốc nói riêng đang bị một số người lợi dụng, cố tình
hiểu sai lệch đi, biến Phật giáo, nhà chùa tách biệt với xã hội, những sinh hoạt
biến dạng như xin xăm, bói quẻ, cúng kiến mê tín… vốn không phải của đạo
Phật. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ, đánh giá vai trò Phật giáo trong nền văn hóa
và lịch sử đất nước Trung Quốc trong giai đoạn hưng thịnh nhất, dựa trên tinh
thần khoa học và khách quan sẽ nhận thấy được những mặt tích cực, hữu ích
cần duy trì và chống lại những sai lệch để duy trì, phát triển Phật giáo nói
riêng, tôn giáo nói chung trong sạch, vững mạnh.
Qua số lượng tư liệu hạn hẹp có được, chúng tôi nhận thấy: tuy có nhiều
cuốn sách, bài viết xoay quanh vấn đề Phật giáo Trung Quốc, nhưng mới chỉ
tản mạn ở những diện như lịch sử phát triển và các tông phái Phật giáo hay
nghệ thuật, kiến trúc Phật giáo nói chung... Còn về vai trò của tôn giáo này
trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định chưa
được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt, ở thời kỳ đạo Phật Trung Quốc và chế độ
phong kiến Trung Quốc thịnh đạt nhất thì chưa được đề cập sâu, chưa giải
quyết một cách hoàn chỉnh. Vì thế, chúng tôi hy vọng rằng sẽ cố gắng hệ
thống vấn đề này một cách cụ thể, chi tiết, rõ ràng hơn, trên cơ sở đó đưa ra
một số nhận định, ý kiến đánh giá thích hợp.

4



Không những thế, sự giao thoa, tương tác kéo dài hàng chục thế kỷ giữa
hai nền văn minh Trung Hoa và Việt Nam đã tạo nên mối quan hệ khăng khít
giữa Phật giáo Việt Nam với Phật giáo Trung Hoa trong nhiều lĩnh vực: triết
học, văn học, nghệ thuật… Do vậy, hiểu Phật giáo Trung Quốc không chỉ
hiểu văn hóa Trung Quốc mà quan trọng hơn, đây còn là điều cần thiết để góp
phần nhận diện và nắm bắt bản sắc văn hóa dân tộc mình. Những yếu tố tích
cực của Phật giáo là một phần tư tưởng văn hóa Việt, sẽ cùng với văn hóa dân
tộc Việt Nam nhận định, chắt lọc và cũng là “liều thuốc tốt” chống lại những
cặn bã văn hóa ngoại nhập hoặc văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa để có nền
văn hóa lành mạnh, đậm đà bản sắc.
Chúng tôi cũng nghĩ, khi đi sâu tìm hiểu về đề tài, rồi liên hệ, mở rộng,
so sánh, đối chiếu với các giai đoạn lịch sử trước - sau, các quốc gia lân cận…
người viết sẽ trang bị được cho bản thân một vốn hiểu biết nhất định về văn
hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Trung Quốc nói riêng, thế giới nói chung, thấy được
mối quan hệ giữa các yếu tố này với nhau để phục vụ tốt hơn nữa cho công
tác nghiên cứu khoa học.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Ảnh hưởng của Phật
giáo trong đời sống xã hội Trung Quốc thời Tùy - Đường” làm đề tài cho
luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu
Là một tôn giáo lớn, Phật giáo đã trở thành đề tài nghiên cứu thu hút sự
quan tâm của các nhà khoa học xã hội. Rất nhiều quốc gia có trung tâm
nghiên cứu về đạo Phật. Chẳng hạn ở Việt Nam, trong Giáo hội có Học viện
Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Cần Thơ, các
tổ chức nghiên cứu, truyền bá thuộc Ban Hoằng pháp,… các tạp chí Nghiên
cứu Phật học, tạp chí Khuông Việt, tạp chí Liễu Quán,… Ngoài ra còn nhiều
đơn vị nghiên cứu công lập có nghiên cứu về Phật giáo như: Ban Tôn giáo

5



chính phủ, Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo tín ngưỡng thuộc Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, các Trung tâm nghiên cứu tôn giáo đương đại thuộc
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ở cả Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Số lượng sách chuyên khảo, bài tạp chí và tài liệu vềPhật giáo cũng
không ngừng tăng lên, không kém phần phong phú, đa dạng. Nhưng có một
thực tế không thể phủ nhận được là ở Việt Nam, các tác phẩm được phát hành
còn nghiêng nhiều về nghiên cứu giáo lý, quan điểm Phật học, lịch sử phát
triển, giá trị đối với đời sống tâm linh, với giáo dục nếp sống… hơn là đi vào
các mảng văn hóa khác, nếu có lại chủ yếu là của Việt Nam hay một số nước
khu vực Đông Nam Á là chính. Trong đó, xét riêng về Phật giáo Trung Quốc
có một số cuốn tiêu biểu mà người viết được biết là:
“Lịch sử Phật giáo Trung Quốc ” do hòa thượng Thích Thanh Kiểm viết
(Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2001), hay cuốn “Lược sử Phật giáo Trung Quốc”
của nhà sư Viên Trí (Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2004) đều mang tính
chuyên môn cao, giới thiệu khá rõ ràng, cụ thể quá trình du nhập, dung hòa,
phát triển của đạo Phật ở Trung Hoa.
Cuốn sách mang tính tản mạn về giáo lý, vềảnh hưởng văn hóa của Phật
giáo nói chung trong mọi thời kỳ lịch sử như “Đàm đạo với Phật Đà” do Lý
Giác Minh, Lâm Thấm (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997) viết đã cung cấp một số
tư liệu, cũng như cách nhìn nhận, đánh giá khá thú vị về Phật pháp. Hay về
mối quan hệ với chính trị có “Các đế vương với Phật giáo” của Vương Chính
Bình (Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002)... cung cấp tư liệu giúp ta lý giải
phần nào nguồn gốc sức sống mạnh mẽ của tôn giáo này trong sự gắn bó chặt
chẽ tư tưởng và chính trị.

6



Có những cuốn sách chuyên sâu từng mảng, từng lĩnh vực trong văn hóa
Phật giáo như: về mỹ thuật Phật giáo có “Tượng Phật Trung Quốc” của Lý
Lược Tam, Huỳnh Ngọc Trảng (Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội, 1996); “Giải thích về
tranh tượng Phật giáo Trung Quốc” do Trương Đức Bảo, Từ Hữu Vũ,
Nghiệp Lộ Hoa viết (Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2004) giới thiệu khái quát lý
luận, quan điểm mỹ học tôn giáo nói chung, đạo Phật nói riêng. Nguyễn Bá
Hoàn có “Thư pháp và thiền” (Nxb. Thuận Hoá, Huế, 2002) phân tích sâu sắc
mối liên hệ giữa nghệ thuật viết chữ và quan điểm, phong cách Thiền tông…
Nhưng những tác phẩm trên không đề cập đến một giai đoạn lịch sử cụ thể
nào trong thời kỳ phong kiến Trung Quốc.
Tuy nhiên, như ở phần lý do chọn đề tài chúng tôi đã nêu, đó là trong
vốn tư liệu hạn hẹp mà người viết có được thì chưa có một cuốn sách nào viết
riêng về Phật giáo thời Tùy - Đường, chưa có tác phẩm nào đánh giá vai trò
Phật giáo đối với lịch sử văn hóa xã hội Trung Quốc, cũng như chưa xuất hiện
tư liệu nào đánh giá đầy đủ, toàn diện những vai trò, ảnh hưởng trên tất cả các
mặt của tôn giáo này trong thời kỳ phát triển hoàng kim nhất của phong kiến
Trung Quốc.
Do đó, với cơ sở là những cuốn sách nói trên, chúng tôi đã tham khảo
một số tài liệu có liên quan đến tôn giáo và Trung Quốc để tổng hợp, hệ thống
lại. Từ đó, hy vọng đưa ra một số nhận định đúng đắn, phù hợp.
Có thể nói, ở Việt Nam, khi nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử thế giới, nhất
là lĩnh vực lịch sử thế giới cổ trung đại thì Phật giáo Trung Quốc nói chung,
Phật giáo thời Tùy - Đường nói riêng luôn là mảng đề tài mở, còn nhiều
“khoảng trống” rất hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về tôn giáo này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn này là làm rõ sựảnh hưởng của Phật giáo
trong đời sống xã hội Trung Quốc thời Tùy - Đường.

7



Để thực hiện mục đích này, luận văn sẽ tiến hành các nhiệm vụ sau đây :
- Khái quát về Phật giáo Trung Quốc thời Tùy - Đường.
- Bước đầu làm rõ ảnh hưởng của Phật giáo trong một số lĩnh vực của
đời sống xã hội Trung Quốc thời Tùy - Đường.
- Giới thiệu đôi nét vềảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc thời Tùy Đường đến Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phật giáo ở Trung Quốc là một vấn đề rất rộng lớn. Trong phạm vi của
luận văn này, chúng tôi không thể trình bày đầy đủ chi tiết các giai đoạn phát
triển cũng như vai trò, ảnh hưởng của Phật giáo trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Do đó, chúng tôi đã giới hạn việc tìm hiểu một khía
cạnh cụ thể trong một giai đoạn lịch sử nhất định, khoảng bốn thế kỷ từ năm
581 đến năm 907 - thời kỳ phát triển thịnh đạt nhất trong lịch sử Phật giáo
Trung Hoa, trong đó chủ yếu tập trung vào thời thịnh Đường.
Tìm hiểu vai trò, ảnh hưởng của Đạo Phật, chúng tôi chỉ tập trung vào
mặt cơ bản, thể hiện được rõ nhất vị trí, tác động của nó là: chính trị, tư
tưởng, văn học, kiến trúc, hội họa, phong tục tập quán.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó có hai phương pháp chính:
phương pháp lịch sử - đó là phương pháp nghiên cứu sự kiện lịch sử trong bối
cảnh cụ thể của nó và phương pháp lôgic - là phương pháp nghiên cứu dựa
trên hệ thống sự kiện, tài liệu lịch sử cụ thể. Từ đó, chúng tôi tiến hành phân
tích, so sánh, rút ra nhận định, đánh giá về các vấn đề cần nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở những tài liệu tham khảo về đất nước, con người Trung Quốc,
Phật giáo Trung Quốc và một số tác phẩm nghiên cứu lý luận về tôn giáo,

8



người viết đã cố gắng hệ thống hóa kiến thức để đưa ra được những hiểu biết
vềsựphát triển của Phật giáo thời Tùy - Đường. Từ đó, đánh giá vai trò Phật
giáo thời này đối với đời sống xã hội Trung Quốc thời kỳ này. Đồng thời, có
kết hợp tìm hiểu và liên hệ để nêu lên một số nhận xét, đánh giá nhất định về
vị trí của tôn giáo này ở các mặt chính trị, văn hóa, tư tưởng thời Tùy - Đường
cũng như sự lan tỏa,ảnh hưởng của nó đối với những nước xung quanh. Do
vậy, có thể nói, thông qua đề tài, một bức tranh cụ thể sinh động về vài trò,
ảnh hưởng của Phật giáo thời Tùy – Đường đối với đời sống xã hội Trung
Quốc đã được hiện ra, giúp người đọc có cái nhìn rõ nét về xã hội Trung
Quốc trong thời kỳ này.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm
có 3 chương:
Chương 1: Sự phát triển của Phật giáo Trung Quốc thời Tùy - Đường.
Chương 2: Ảnh hưởng của Phật giáo trên một số khía cạnh xã hội Trung
Quốc thời Tùy - Đường.
Chương 3: Ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc thời Tùy - Đường đối
với Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam.

9


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
TRUNG QUỐC THỜI TÙY - ĐƯỜNG
1.1 Sự du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc
1.1.1 Bức tranh tổng quát về đất nước Trung Quốc thời kỳ trước khi
Phật giáo du nhập

* Bối cảnh văn hóa, kinh tế, chính trị
Trung Quốc là một trong những quốc gia có nền văn minh cổ xưa của
nhân loại. Nền văn minh này không chỉ độc đáo bởi chính sự hiện diện lâu đời
của nó, mà còn tác động đến sự hình thành và phát triển màu sắc văn hóa của
nhiều quốc gia trên thế giới. Tất nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại và
phát triển, văn minh Trung Hoa cũng tiếp xúc với nhiều nguồn văn minh của
thế giới. Chính sự tương tác qua lại giữa chúng đã làm cho văn minh Trung
Quốc trở nên phong phú và đa dạng. Ảnh hưởng nổi bật và sớm nhất của
nguồn văn hóa bên ngoài đối với Trung Hoa cổ đại là sự giao thoa giữa hai
nền văn minh tầm cỡ của thế giới, là Ấn Độ và Trung Hoa. Có thể nói rằng,
sự hiện diện của Phậtgiáo trong vùng đất rộng lớn và đông cư dân này đã mở
ra một bước ngoặt mới trong quá trình tồn tại và phát triển của đất nước
Trung Hoa. Chính cuộc chinh phục của Phật giáo đã tạo ra một cuộc cách
mạng tư tưởng trong mọi lĩnh vực đời sống của nhân dân Trung Hoa.
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê trong cuốn “Lịch sử Trung Quốc”, vào
thời nhà Hán, lãnh thổ Trung Hoa mở rộng rất nhiều: phía Bắc tới Mãn Châu,
Triều Tiên; phía Nam đến tận Đông Dương Bắc Miến Điện; phía Tây đến Tây
Tạng; phía Tây Bắc tới vùng Trung Á.
Về tư tưởng chính trị, từ thời Tiên Tần trở về sau, theo học giả Nguyễn
Hiến Lê, chính trị Trung Quốc có thể tóm gọn trong hai trường phái: hữu vi
và vô vi. Hữu vi chủ trương can thiệp vào đời sống của người dân, vô vi chủ

10


trương không can thiệp vào đời sống của người dân. Phái hữu vi lại bao gồm
hai phái là nhân trị và pháp trị. Chủ trương nhân trị, gồm các nhà chính trị
như Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử... cho rằng tư cách của người
lãnh đạo, bao gồm đạo đức và năng lực, là quan trọng nhất. Trong khi ấy giới
chủ trương pháp trị như Thương Ưởng, Hàn Phi... lại cho rằng người cầm

quyền không cần tư cách, vì nếu pháp luật nghiêm khắc, thưởng phạt công
minh thì một người không có tài đức cũng có thể trị nước được. Hai phái này
còn được gọi là Nho gia và Pháp gia. Vào thế kỷ thứ III TCN, nhà Tần bảo trợ
Pháp gia và ngược đãi Nho gia. Tuy vậy, sau một thời gian do dự, Hán triều
đã ưu đãi giới Nho học. Sự bành trướng của Nho giáo có thể được xem như là
hệ quả từ cuộc tranh luận kéo dài hơn hai thế kỷ giữa hai phái Nho gia và
Pháp gia, không chỉ trên bình diện triết học mà còn bao gồm mục tiêu chính
trị. Chính cuộc tranh luận ấy đã đưa Nho học lên bục danh vọng gắn liền với
cái tên bất tử của Khổng Tử.
Sự phá sản của giai cấp quý tộc phong kiến được nhà Tần thống nhất
lại; rồi sự sụp đổ của nhà Tần bằng cuộc nội chiến lâu dài đưa đến việc ra đời
của nhà Hán. Trật tự xã hội của triều đại nhà Hán về cơ bản được xây dựng
trên hai tầng lớp xã hội.Tầng lớp thống trị nhà Hán đa số xuất thân từ tầng lớp
bình dân, là quyến thuộc của lực lượng nông dân và số tướng lĩnh trung thành
với họ. Đặc biệt, quan lại trong bộ máy chính quyền của nhà Hán khắp Trung
Hoa thời ấy bao gồm giai cấp địa chủ của các thời đại trước, hoặc số người
nhờ ân huệ của triều đại mới qua việc buôn bán đất đai, nổi lên như là lớp
người được ưu đãi nhất. Vì giàu có, lại có nhiều quyền lực và biết tập trung
vào lĩnh vực giáo dục, số người ấy trở thành tầng lớp ưu tú của thời đại. Họ
làm việc và củng cố địa vị của mình bằng việc đào tạo những chuyên ngành
như học sĩ, quan chức của triều đình... Họ tự biến mình thành lớp người bảo
hộ quốc gia từ trung ương đến địa phương. Tầng lớp bị trị là nhân dân lao

11


động, bao gồm nông dân và thợ thủ công, mà kế sinh nhai là nghề nông, buôn
bán hoặc làm thuê v.v...
Về kinh tế, thời kỳ nhà Hán có một sự phát triển vượt trội. Hán Cao Tổ
khuyến khích nông nghiệp. Về nông nghiệp, nhà Hán tiếp tục chính sách của nhà

Tần. Sau mấy năm loạn lạc, cuối đời Tần, nhiều đất bỏ hoang, dân nghèo, Cao Tổ
khuyến khích nông nghiệp, cho quân đội giải ngũ về làm ruộng, giảm thuế ruộng,
có nơi chỉ còn 3% huê lợi, có nơi lại miễn thuế luôn nữa.Nhờ kỹ thuật nấu sắt,
nông cụ sắt bén hơn, cày sâu hơn, phá rừng, đào kinh dễ hơn, nhiều miền trước chỉ
làm rẫy (đốt rừng rồi gieo) bây giờ thành điền.Kỹ thuật cũng tiến bộ: người ta biết
cách luân canh, chế tạo một kiểu xe để gieo giống, một kiểu cối xay chạy bằng sức
nước. Bên cạnh đó, Võ Đế rất quan tâm tới việc đắp đê ngăn lụt (nhất là sông
Hoàng Hà), đào kinh tháo nước và tưới ruộng. Ông cho đào một con kinh song
song với sông Vị nối Tràng An với sông Hoàng Hà. Nhờ những chính sách tích
cực của nhà Hán mà cuộc sống của người dân trở nên khá giả.
Công nghiệp đời Hán có nhiều bước cải tiến. Những cổ vật được ngành khảo
cổ khai quật như sành sứ, gốm, lụa, sơn, vàng, bạc, đồng... cho thấy được chế tạo
khá tinh xảo. Hoạt động thương mại trong thời kỳ này cũng diễn ra với nhiều màu
sắc. Ở trong nước, thương mại phát triển nhờ chính sách của Hán Võ Đế qua việc
cho đúc nhiều tiền, mở nhiều đường giao thông. Trên những con đường khắp cả
nước, các trạm thông tin liên lạc được thiết lập và quán xá ăn uống cũng như quán
trọ qua đêm cũng được dựng lên. Thông qua những giao lộấy, việc trao đổi, buôn
bán của ngành thương nghiệp phát triển nhanh chóng. Giao thương, buôn bán với
ngoại quốc cũng là một điểm mạnh của thời kỳ nhà Hán. Ở phương Nam, ví dụ
như Quảng Châu, nhiều thị trấn dọc theo bờ biển đã hình thành. Giới thương nhân
ngoại quốc đã thiết lập mối quan hệ với người Hán qua những trung tâm buôn bán
thịnh vượng, việc trao đổi hàng hóa trực tiếp giữa người Trung Hoa và Bactriane,
Parthie cũng như Ấn Độ thường xuyên diễn ra. Đời sống của nhân dân được cải

12


thiện rõ rệt, đặc biệt là giới hoàng thân, quốcthích và hàng ngũ quan lại. Với
những đặc ân và sự bảo trợ của triều đình, cuộc sống của tầng lớp thượng lưu này
càng ngày càng trở nên giàu có và xa xỉ. Họ xây dựng nhiều nhà cửa, cung điện

sang trọng với nghệ thuật điêu khắc, trang trí vô cùng công phu, phản ánh một
cuộc sống có tổ chức và văn hóa cao.
* Bối cảnh tôn giáo
Từ thời nguyên thủy cho đến ngày nay, Trung Hoa luôn là một quốc gia
có nhiều tôn giáo. Trong xã hội nguyên thủy, Trung Quốc là một quốc gia
theo tư tưởng đa thần, vì lúc ấy chưa có một loại thần nào được quan niệm là
chủ tể, lãnh đạo tối cao toàn thể thiên nhiên và xã hội. Lúc này con người cho
rằng, mỗi hiện tượng trong vũ trụ này đều do một vị thần chủ trương: thần
gió, thần mưa, thần sấm, thần sét, thần núi, thần sông…
Khi xã hội đi vào tổ chức, phân loại giai cấp cùng với sự ra đời của chế
độ lãnh chúa và xã hội phong kiến, tư tưởng nhất thần cũng dần dần hình
thành thông qua quyền lực tối cao của người lãnh đạo. Hình ảnh độc tôn và
đầy uy quyền của vị vua như là hiện thân của thượng đế được phác họa vào
triết lý tôn giáo, vì vua là con trời hay còn gọi là thiên tử. Tư tưởng tôn giáo
nhất thần này xuất hiện từ triều đại nhà Hạ, sau đó được hầu hết các chế độ
phong kiến duy trì và phát triển cho đến khi sụp đổ.
Đến triều đại nhà Chu, hoạt động tâm linh dần dần đi vào tổ chức và
phát triển thành những hệ thống tư tưởng và triết lý, tạo thành nhiều trường
phái khác nhau. Trong số đó, hai dòng tư tưởng nổi bật vào thời kỳ nhà Hán là
Khổng giáo và Lão giáo. Theo giới nghiên cứu, Khổng giáo là một hệ thống
tư tưởng chính trị - đạo đức, trong khi ấy Lão giáo bao gồm triết học huyền bí
và khổ hạnh.

13


Nho giáo, còn gọi Khổng giáo, là học thuyết do Khổng Tử, tên Khâu tự
Trọng Ni, sinh tại nước Lỗ thuộc phía Nam tỉnh Sơn Đông ở miền Đông
Trung Quốc ngày nay, khai sáng.
Hạt nhân của triết học Nho gia là Nhân, Lễ và Trung Thứ. Trên nền tảng

đó, giới Nho gia đã phát triển thành cả một hệ thống triết học đạo đức, chính
trị và lịch sử. Bên cạnh ấy, Khổng Tử còn đề xướng một học thuyết quan
trọng là Chính danh. Theo ông, muốn xã hội có trật tự thì trước hết phải chính
danh. Nói khác đi, mỗi cái danh bao hàm một số điều kiện tạo nên bản chất
của một loại sự vật mà cái danh có liên quan. Ví dụ, bản chất của vua bao
gồm một số điều kiện lý tưởng mà một người làm vua phải hội đủ và phải phù
hợp với vương đạo. Hành động theo vương đạo thì vua mới thật là vua, phù
hợp với cả danh lẫn thực. Cũng vậy, trong mối tương quan xã hội, mọi cái
danh đều bao hàm một số trách nhiệm và bổn phận, ai nhân danh chúng đều
phải có trách nhiệm và bổn phận phù hợp với danh xưng ấy. Đây gọi là thuyết
Chính danh. Cuối cùng, một học thuyết mà về sau được người Trung Quốc
mệnh danh là Đạo hiếu. Theo Khổng giáo, hiếu không chỉ là ý thức đạo đức
tự nhiên về bổn phận và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, ông bà và
dòng họ, mà hiếu là sự ý thức được trau dồi, điều tiết và hướng dẫn về mặt
biểu hiện. Nó là nhân tố đạo đức quan trọng nhất trong suốt cả một đời người.
Quan trọng hơn nữa, đối với đạo hiếu, lòng yêu thương và sự tôn kính cha mẹ
cần phải được ứng dụng và hướng đạo tất cả hành vi của một người con hiếu.
Tác động của hiếu còn vượt qua giới hạn trong gia đình.Nó mở rộng đến
những mối quan hệ trong phạm trù người trên kẻ dưới, dân và vua, thậm chí
giữa con người với nhau, vì ai có thể thương kẻ khác thì không thể ghét bỏ
cha mẹ. Đây là đích điểm tối cao của việc tu thân.
Theo học thuyết Thiên mệnh của Nho giáo, vua là người thừa mệnh trời
cai trị thiên hạ. Vị trí của vua là bất khả xâm phạm, vì vua là nhân vật được

14


trời ủy nhiệm lãnh đạo quốc gia vì lợi ích của nhân loại. Chỉ cần nhà vua hoàn
thành trọng trách ấy thì người dân của ông sẽ có cuộc sống giàu có, thịnh
vượng, công bằng, trật tự và an ổn. Vua được cho là người trị dân theo mệnh

trời, do vậy nhân cách của vua là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Đến khi
nào vua làm trái với những điều luật, đức hạnh được quy định và không thể
cai trị đất nước vì lợi ích của nhân dân, vị vua ấy được xem như đã mất đi
thiên mệnh, ông ta không còn thích hợp - chính danh - với ngai vàng. Nhân
dân sẽ phán xét, lật đổ ông và sẽ tôn xưng một người khác lên làm vua. Người
ta tin rằng ý dân là ý trời và nếu một vị lãnh đạo của phe làm phản thành công
trong việc truất phế vua vô đạo, người ấy có quyền kế vị ngôi vàng, được xem
là do ân điển của trời đất và nắm được thiên mệnh.
Theo Khổng giáo, để phụ tá cho nhà vua cai trị nước và để cố vấn nhà
vua sống mẫu mực và đức hạnh, triều đình cần có một đội ngũ quan chức am
hiểu Ngũ Kinh, được tuyển chọn từ hệ thống thi cử có nền tảng từ các kinh
điển ấy. Số quan chức trí thức này cùng với nhà vua tạo thành tầng lớp cai trị
đất nước, thu nắm tất cả quyền lực, danh dự, giáo dục và văn hóa của đất
nước họ.
Tất cả các yếu tố trên đan quyện thành hệ thống toàn diện của triết lý tôn
giáo chính trị dưới tên gọi Khổng giáo trong suốt thời gian dài của lịch sử
Trung Hoa, mặc dù cấu trúc đầy ấn tượng này của Nho giáo cũng có nhiều đổi
thay theo dòng thời gian để kết hợp với tri thức của quần chúng Trung Hoa
xuyên suốt chiều dài tồn tại củanó.
Tôn giáo quan trọng thứ hai có nhiều tác động đến sự du nhập của Phật
giáo từ Hán triều trở đi là Đạo giáo.
Triết thuyết chủ yếu của Đạo giáo bao hàm trong cuốn “Đạo Đức Kinh”
hay “Lão Tử Kinh”, gồm khoảng 5250 từ. Mặc dù là một tập sách triết học
ngắn gọn nhất trong kho tàng trí tuệ của Trung Hoa cổ đại, nhưng có vô số

15


sách bình giải đã ra đời trên căn bản của “Đạo Đức Kinh”. Tại Trung Quốc,
Đạo giáo ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân Trung Hoa trên mọi lĩnh vực của

cuộc sống như khoa học, mỹ thuật, đạo đức, luân lý, chính trị...
Đạo giáo là một loại tôn giáo huyền bí tự nhiên. Giới đạo sĩ khám phá tự
nhiên, biểu hiện sự thích thú của họ về sự khám phá ấy và nỗ lực để đồng nhất
với tự nhiên mà họ gọi là Đạo. Theo Lão Tử, Đạo có hai mặt: 1. Đạo là bản
thể của thế giới, có trước trời đất vạn vật. Đạo vô cùng huyền diệu, cao thâm,
không thể nào diễn đạt được tướng trạng của nó ; 2. Đạo là quy luật biến hóa
chung của mọi sự vật, vừa có trước sự vật, vừa nằm trong sự vật. Quy luật
hoạt động của tự thân mỗi sự vật gọi là Đức. Điều quan trọng cần lưu ý là,
đạo đức của Khổng giáo là phương thức đúng đắn về hành động, luân lý, xã
hội và chính trị. Trong khi ấy, Đạo của Lão Tử là siêu hình, là nguyên lý tự
nhiên của vũ trụ. Mục đích của đạo sĩ là thành tựu sự hợp nhất với Đạo thông
qua đồng nhất hóa. Vì Đạo là vĩnh viễn, bất diệt và không thay đổi, nên cá
nhân đạt được sự thống nhất với nó cũng được xem như là thành tựu được
tính bất diệt. Đó là trạng thái giải thoát thật sự.
Trong lĩnh vực chính trị, Lão Tử có cùng quan điểm với Khổng giáo về
vai trò lãnh đạo. Ông cũng quan niệm rằng quốc gia lý tưởng là quốc gia được
thánh nhân lãnh đạo. Chỉ có thánh nhân mới đủ đức tài để trị vì đất nước. Tuy
nhiên, khác với Khổng Mặc, Lão Tử chủ trương thuyết vô vi; nghĩa là thay vì
người lãnh đạo phải làm nhiều việc cho nhân dân như thuyết hữu vi chủ
trương, giới đạo gia cho rằng bổn phận của thánh nhân là không phải làm việc
gì cả, vì theo họ càng hữu vi tức can thiệp nhiều vào việc dân thì tai hại càng
lớn.
Trên đây là sự tóm lược bối cảnh văn hóa, kinh tế, chính trị, tôn giáo ở
Trung Hoa trong triều đại nhà Hán trước khi Phật giáo từẤn Độ du nhập vào
mảnh đất văn minh này.

16


1.1.2 Con đường Phật giáo du nhập vào Trung Quốc

Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh rối ren của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ.
Thế kỷ VI trước Công nguyên, lúc này Ấn Độ đang trong thời kỳ chiếm hữu
nô lệ. Sự phân chia đẳng cấp ngặt nghèo sâu sắc. Thời kỳ này xã hội Ấn Độ
chia làm bốn đẳng cấp cách biệt nhau: đẳng cấp Bà La Môn (địa vị cao nhất);
đẳng cấp Sát đế lỵ (dòng họ vua quan, quý tộc); đẳng cấp Vệ Xá (gần những
người giàu có, buôn bán thủ công), đẳng cấp Thứ Đà la (nô lệ). Ngoài ra còn
có một tầng lớp người thuộc hàng cùng khổ dưới đáy xã hội, bị mọi người
khinh rẻ. Trước khi có sự ra đời của đạo Phật, mâu thuẫn giữa các đẳng cấp
trên hết sức gay gắt được thể hiện trong những cuộc đấu tranh mang tính chất
toàn xã hội. Cùng thời điểm này, Ấn Độ đã và đang diễn ra cuộc đấu tranh
giữa các nhà duy vật và duy tâm, đấu tranh giữa các tôn giáo, bởi lẽ bên cạnh
sự thống trị của đạo Bà La Môn còn có sự hiện diện của Phệ đà giáo và một
số giáo phái khác, đồng thời tư tưởng duy vật thô sơ và tư duy biện chứng đã
xuất hiện.
Hoàn cảnh xã hội và những tư tưởng quan niệm trên đã trực tiếp hoặc
gián tiếp góp phần thúc đẩy sự ra đời của đạo Phật.
Bỏ qua những truyền thuyết về Thích Ca Mâu Ni tìm đường cứu khổ cho
chúng sinh mà sáng lập ra đạo Phật thì có thể thấy rằng thực chất Phật giáo ra
đời là do kết quả của cuộc đấu tranh gay gắt giữa các giai cấp, đấu tranh giữa
thần quyền và thế quyền, giữa những người nắm kinh tế của xã hội và những
người nắm tư tưởng xã hội. Cuộc đấu tranh ấy đã lôi kéo đông đảo quần
chúng nghèo khổ tham gia giành bình đẳng thật sự nơi trần gian, quần chúng
đã nhận được sự bình đẳng trong tư tưởng, nơi gọi là cõi Niết bàn của nhà
Phật.
Giáo lý của đạo Phật tập trung vào hai vấn đề, một là sự khổ não, hai là
sự giải thoát ra khỏi khổ não ấy. Khổ não là sự luân hồi, thoát khỏi vòng luân

17



hồi thì khỏi khổ, mà muốn thoát khỏi vòng luân hồi thì phải bỏ hết dục vọng
trên trần thế. Khi thoát khỏi vòng luân hồi con người mới lên được cõi Niết
bàn, là cõi cực lạc.
Đạo Phật là một tôn giáo có cùng bản chất như mọi tôn giáo khác, song
đạo Phật còn có một số đặc điểm riêng. Đạo Phật không quan niệm về đấng
sáng tạo ra thế giới. Thế giới tự nó vận động, phát triển thông qua luật vô
thường nhân quả. Sự vận động ấy diễn ra trong không gian và thời gian, đạo
Phật sơ kỳở tiểu thừa mang nhiều tính duy vật những quan niệm của đạo Phật
về thế giới về con người, về vận động mang hình thức biện chứng. Các giáo
lý đạo Phật chứa đựng nhiều nội dung đạo đức, hướng thiện. Đồng thời cũng
phủ nhận một cách gián tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ III, trong thời kỳ thống trị của vương triều Khổng
Tước Ấn Độ, Phật giáo được truyền đến các nước khác. Về đại thể, Phật giáo
truyền bá hướng ngoại chủ yếu qua hai con đường là Bắc truyền và Nam
truyền. Trong đó, Bắc truyền lại phân thành hai đường: một là từ trong kinh
truyền nhập vào các nước như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt
Nam...; hai là truyền nhập vào khu vực Tây Tạng hình thành Phật giáo Tạng
truyền, sau đó truyền sang các nước Mông Cổ, Nga, Nêpan...
Phật giáo Ấn Độ truyền vào Trung Quốc qua hai con đường: đường bộ
và đường biển. Về đường bộ, Phật giáo thông qua vùng Trung Á lưu truyền
vào Tân Cương (Trung Quốc), rồi tiếp tục xâm nhập vào nội địa. Về đường
biển, Phật giáo xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua Sri-lanka,
xuyên qua bán đảo Malaysia, Việt Nam đến Quảng Châu, tức là thông qua
biển Đông mà truyền vào Trung Quốc.
Nghiên cứu về thời gian Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, hiện nay có
rất nhiều thuyết khác nhau, trong đó có hai thuyết chủ yếu: - Thuyết khẩu
Truyền Phật giáo của Y Tồn: Niên hiệu Nguyên Thọ năm đầu (thế kỷ thứ II

18



TCN), đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán, có Y Tồn, sứ giả nước Đại Nhục Chi tới,
đem Phật giáo truyền miệng cho Trần Cảnh Hiên. - Thuyết niên hiệu Vĩnh
Bình năm thứ 10: Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10, đời vua Minh Đế nhà Hậu
Hán, có một đêm, vua nằm mộng thấy người vàng, có hào quang rực rỡ từ
phương Tây tới. Vì vậy, nhà vua đoán biết có Phật giáo ở phương Tây, vua liền
sai tướng Thái Hâm, Vương Tuân, Trần Cảnh... (18 người) qua Tây vức để
thỉnh tượng Phật. Họ vâng lệnh vua đi nửa đường thì gặp hai bậc Phạm Tăng
Ca-diếp Ma-đằng, và Trúc Pháp Lan, chở kinh tượng bằng ngựa trắng đi về
phía Đông, họ liền mời hai Ngài đến Trung Quốc. Vua Minh Đế liền sắc dựng
chùa Bạch Mã để thờ Phật và làm nơi dịch kinh điển cho hai Ngài.
Mặc dù chưa có bằng chứng xác thực nhưng với hai con đường: đường
thủy và đường bộ, có thể khẳng định rằng Phật giáo được truyền vào Trung
Quốc từ rất sớm, dần dầngóp phần tạo nền những nét đặc thù trong nền văn
hóa rực rỡ của đất nước Trung Hoa rộng lớn.
1.2 Khái quát Phật giáo Trung Quốc thời Tùy - Đường
1.2.1 Sự bảo hộ của các bậc đế vương thời Tùy - Đường đối với Phật giáo
Trải qua một thời gian dài lưu truyền, hình thành và phát triển, Phật giáo
Trung Quốc đạt cực thịnh vào thời Tùy - Đường. Có thể nói, đây là thời kỳ
Phật giáo hoạt động sôi nổi, hình thành nhiều tông phái, mỗi tông phái đều có
giáo nghĩa, giáo quy khác nhau, từ đó hình thành nên một giai đoạn đặc sắc,
vô cùng thú vị trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
Dựa trên sức mạnh từ nền tảng vững chắc do Phật giáo ở thời kỳ Nam
Bắc triều kiến lập ra, bên cạnh đó là sự thống nhất quốc gia, sự cường thịnh
về kinh tế, việc đề xướng bảo hộ Phật giáo của các vị đế vương Trung Quốc
mà Phật giáo thời Tùy - Đường trở nên hưng thịnh, phồn vinh chưa từng có.
Thời Tùy, sau khi Cao Tổ Văn Đế lên ngôi (589 - 600), thống nhất cục
diện đối lập của hai miền Nam Bắc đã sửa đồi, phế bỏ chính sách diệt Phật của

19



Chu Vũ Đế (Bắc Chu). Ông đã đề ra những chính sách nhằm đẩy mạnh việc
khôi phục và duy trì Phật giáo. Cụ thể, ông đã hạ chiếu tu sửa, xây dựng 3000
ngôi chùa, xây 110 tòa tháp; trùng hưng, chỉnh trang kinh, tượng, dịch và biên
soạn 13 vạn quyển kinh điển. Ngoài ra, Tùy Văn Đế còn khuyến khích tăng
nhân và một lớp tăng nhân mới hình thành (khoảng 500 ngàn người). Để minh
chứng cho sự quan tâm của mình đối với Phật giáo, ông còn đặt ra các cấp tăng
quan để quản lý các công việc của tăng ni.
Kế thừa Tùy Văn Đế, vua Tùy Dạng Đế cũng tôn thờ Phật giáo, ông
dùng phương châm Phật giáo trị quốc. Ông dốc hết sức lực độ tăng, kiến tự,
tạo tượng Phật, tổ chức kinh dịch, ra sức duy trì và tuyên truyền Phật giáo.
Ông còn tự xưng là học trò giới Bồ Tát.
Tuy nhiên, trong số các vua thời Tùy, Tùy Dương Đế cũng đã từng hạ
lệnh sa môn phải tôn vương và ra lệnh cho tăng ni vô đức phải hoàn tục. Điều
này đã hủy bỏ nhiều Phật tự, kìm hãm sự phát triển của Phật giáo.
Nhà Đường ra đời khi Lý Uyên - một viên quan thời Tuỳ, cùng con mình
là Lý Thế Dân khởi binh ở Thái Nguyên (Sơn Tây), giành ngôi báu năm 618;
trải qua ba thời kỳ: Sơ Đường (618 - 741), Trung Đường (742 - 820) và Hậu
Đường (821 - 907). Vương triều này tồn tại đến khi Chu Toàn Trung truất
ngôi của Ai Đế, tự lên làm vua năm 907. Với thủ đô nằm ở Trường An (ngày
nay thuộc ngoại ô Tây An) - vào thời kỳấy, là thành phố đông dân nhất thế
giới.
Vào thời Đường, với các chính sách tiến bộ của vương triều cầm quyền
cùng với khoảng thời gian thái bình lâu dài (hơn 100 năm từ năm 618 đến
năm 755) đã tạo điều kiện cho đất nước được phú cường, thịnh trị, từ đó nền
kinh tế, văn hóa xã hội càng thêm phát triển mạnh mẽ.
Một đất nước phồn vinh như thế, tất nhiên trí thức tăng lữ có đủ điều
kiện để học tập, nghiên cứu, tu dưỡng, nâng cao Phật pháp. Dân chúng có


20


điều kiện chăm lo đến đời sống tinh thần tâm linh. Họủng hộ tài chính, cúng
dường cho các chùa chiền, tăng ni, tự viện để tỏ lòng tôn kính, đồng thời làm
rạng danh các bậc tiên đế, hay để mãi mãi ghi nhớ người thân quá cố. Việc
làm này cũng nhằm cầu nguyện cho sự thịnh vượng của triều đại, sự trường
thọ của gia tộc, họ hàng, cho lợi ích của nhân dân. Mọi tầng lớp xã hội đều
ủng hộ Phật giáo, sinh hoạt Phật giáo đều thu hút sự chú ý của mọi người, tạo
nên sự phồn thịnh Phật pháp.
Mặt khác, như Kinh Dịch đã viết: “Cùng tắc biến, cực tắc phản”, một sự
vật, một quá trình đạt đến trình độ cao nhất của nó, tất có sự biến đổi về chất
mà thường là theo chiều hướng ngược lại. Nhà Đường cực thịnh ở thời Khai
Nguyên, Thiên Bảo của Đường Minh Hoàng (Huyền Tông), cũng thời đó
đánh dấu một bước suy thoái quan trọng của nhà Đường. Quá trình phát triển
đến cực thịnh, trong lòng xã hội đã ấp ủ quá nhiều mâu thuẫn, đằng sau vẻ
phồn vinh, thịnh trịẩn giấu bao mầm mống tai họa. Có thể nói, trong số ba triều
đại vẻ vang, văn minh nhất của Trung Quốc: Chu, Hán, Đường - Đường bề
ngoài có vẻ rực rỡ nhất, mà bề trong loạn nhất, triều đình bê bối nhất. Bọn hoạn
quan hoành hành, giết hại người hiền năng, bán quan, buôn ngục, đục khoét
dân chúng, bạo ác không kể xiết. Loạn An Lộc Sơn kéo dài chín năm, gieo tai
họa nặng nề cho Trung Quốc, tàn phá đất nước này khủng khiếp và man rợ.
Điều này đặt Phật giáo đứng trước hiện thực khắc nghiệt, khó khăn, đòi hỏi
phải biến đổi thích ứng, phù hợp. Đó cũng có thể xem như một động lực thúc
đẩy tôn giáo này tự hoàn thiện. Hơn nữa, đang thái bình bỗng loạn lạc, quảng
đại nhân dân không nhìn thấy đường ra thì cõi Phật bình an, tinh thần từ bi, hỉ
xả, chúng sinh đều được bình đẳng và được cứu độ siêu thoát đã như một cứu
cánh, nâng đỡ, xoa dịu tâm hồn, tư tưởng “đốn ngộ thành Phật” mê hoặc lòng
người càng dễ dàng tiến sâu vào tinh thần quần chúng như một lối thoát, một
sự đền bù hư ảo.


21


Cả thái bình thịnh trị, cũng như loạn lạc chiến tranh đều ảnh hưởng trực
tiếp đến tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Nếu như ở thời hoàng kim, tăng ni,
phật tử có điều kiện hoằng dương Phật pháp, vừa tu dưỡng, nghiên cứu, nâng
cao trình độ giáo lý theo chiều sâu, vừa xây dựng nhiều chùa chiền, đúc
chuông, tô tượng khắp nơi… Ngược lại, thời loạn lạc lại đặt Phật giáo trước
những thử thách, yêu cầu nó phải đi vào đời sống, đi vào chiều sâu của hiện
thực. Tóm lại, xã hội phức tạp thời Đường vừa là bối cảnh trực tiếp, vừa là
nhân tố khách quan đầu tiên tác động sâu sắc đến sự phát triển của đạo Phật.
Trong bối cảnh đó, về mặt luân lý, thẩm mỹ và với tư cách là một nhân tố
trong văn minh vật chất, Phật giáo đã có sự phát triển mạnhmẽ.
Tôn giáo và nhà nước luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi thế
mà từ khi Phật giáo du nhập và Trung Quốc, nó đã có mối quan hệ khăng khít
với giai cấp phong kiến.
Các bậc đế vương thời Đường (ngoài Vũ Tông ra) hầu hết đều áp dụng
chính sách bảo hộ Phật giáo. Đường Thái Tông rất xem trọng công việc dịch
kinh của Phật giáo. Sau khi Huyền Trang đại sư đi Tây Vực (Ấn Độ) cầu pháp
trở về, Đường Thái Tông đã tổ chức một trường dịch kinh quy mô rất lớn ở
chùa Từ Ân. Ngoài ra, ông “còn hạ lệnh toàn quốc xây Phật tử ở nơi giao
binh để tưởng niệm những chiến sĩ vong trận, nhằm an ủi lòng người”
Thời đại Võ Tắc Thiên, Phật giáo càng được sùng tín. Bà đã thực thi liên
tiếp một loạt các chính sách nhằm phát triển Phật giáo như: phong tước cho
Sa môn, ra lệnh “Thích giáo” nên đặt trên Đạo sĩ, trực tiếp ủng hộ Pháp Tạng
sáng lập ra phái Hoa Nghiêm Tông.
Vua Huyền Tông đã từng một lần loại bỏ tăng ni Phật giáo nhưng lại rất
sùng tín Mật giáo. Túc Tông cũng từng triệu hơn 100 Sa môn vào cung đình
tụng kinh cầu phúc. Đại Tông ngoài việc hạ lệnh xây chùa, độ Tăng, trong lúc

quân địch xâm lược, triệu Sa Môn tụng “Nhơn Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La

22


Mật Đa Kinh”, vì dân vì nước làm lễ tiêu tai. Ngoài ra, ông còn hạ chiếu quan
sứ không được chèn ép tăng ni, tăng ni phạm pháp cũng không phải chịu hình
phạt. Khi đó, những ruộng đất màu mỡ phần lớn đều do nhà chùa sở hữu. Vua
Hiến Tông nghinh xá lợi Phật ở Phụng Tường Pháp Môn tự, lại mở ra một
phong trào sùng Phật sôi nổi trong xã hội.
Nhưng từ thời Trung Diệp, lao dịch càng nặng nề, nhân dân bị bóc lột
(“Tự Trị Thông Giám” quyển 211 “Đường Ký – Huyền Tôn Khai Nguyên năm
thứ hai”) [7; tr.58], nhiều người lấy tự viện làm nơi ẩn trốn. Tự viện nhân cơ
hội chế độ quân điền bị phá hủy, chiếm dân điền, mở mang trang viện. Tự
viện còn trốn thuế và lợi dụng kinh doanh công thương nghiệp, mở tiệm cầm
đồ, cho vay kiếm lời. Như vậy, tuy Phật giáo có tác dụng giúp người ta an
phận thủ thường, nhưng do sự mâu thuẫn giữa kinh tế tự viện và lợi ích nhà
nước ngày càng sâu sắc gay gắt, dẫn đến vào đời Đường Kinh Tông, Văn
Tông sau này chính quyền đã có ý đồ hủy diệt Phật giáo. Cuối cùng người kế
tự của Văn Tông là Võ Tông đã hạ lệnh khắp nơi hủy diệt tự miếu, lệnh cho
tăng ni hoàn tục. “Từ Hội Xương năm thứ hai đến năm thứ năm (842 - 845),
tổng cộng phá hủy hơn 4.600 ngôi chùa, 26 ngàn tăng ni phải hoàn tục, 15
ngàn nô lệ được giải phóng, tịch thu một số lượng lớn ruộng đất chùa
chiền”[7; tr.58]. Tất cả những nô tỳ được giải phóng, mỗi người được chia
ruộng trăm mẫu, ghi tên vào hộ tịch quốc gia, lấy các tượng đồng trong các
chùa để đúc tiền, tượng thép để làm nông cụ, tượng vàng bạc thu vào quốc
khố. Những tượng Phật trong dân gian hạn trong một tháng phải giao nộp cho
quan phủ, nếu vi phạm phải xử phạt. Theo lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Hội
Xương diệt Phật và loạn An Sử Chi vào thời Đường là hai cơ hội khiến Phật
giáo phát sinh sự thay đổi lớn. Sau loạn An Sử Chi, Thiền Tông Tuệ Năng và

một loạt những Thiền Tông Thần Tú khác đều sụp đổ. Từ sự khởi đầu của
loạn An Sử Chi, triều đình nhà Đường dần suy yếu, dẫn đến sự mâu thuẫn gay

23


gắt trong nền kinh tế Phật giáo, vì thế sự kiện Hội Xương diệt Phật đã tuyên
cáo về cơ bản của thời kỳ Phật giáo hưng thịnh.
1.2.2 Sự phát triển của các tông phái Phật giáo
Trước thời Tùy - Đường, Phật giáo Nam Bắc triều không có tông phái,
có chăng chỉ là một vài học phái. Vào thời đó, các lưu phái Phật giáo khác
nhau đều là học phái mang tính học thuật. Chỉ đến thời Tùy - Đường Phật
giáo ở Trung quốc mới hình thành nên tông giáo một cách đích thực.
Vậy các tông phái Phật giáo thời Tùy - Đường đã ra đời như thế nào? Và
sự hình thành của các tông phái có mối quan hệ gì với chính quyền thống trị
lúc bấy giờ? Đây là những vấn đề cực kỳ thú vị đối với các nhà nghiên cứu về
Phật giáo Trung Quốc.
Chính quyền thống nhất của đế quốc phong kiến Đường yêu cầu có một
tôn giáo thống nhất tương ứng, bởi vì khởi nghĩa nông dân cuối thời Tùy và
Nam Bắc triều đã khiến giai cấp thống trị nhận rõ một hiện thực, để làm tê liệt
ý thức đấu tranh của quảng đại quần chúng nhân dân, phòng ngừa sự tái diễn
ra của các cuộc khởi nghĩa nông dân, chắc chắn phải lợi dụng những nhân vật
có ảnh hưởng và có thanh danh để phục vụ cho sự thống trị của bản thân, tức
lợi dụng tín ngưỡng Phật giáo để tăng cường sự thống trị với tư tưởng của
nhân dân. “Xưa Tùy Dạng Đế lập 4 đạo tràng ở phía Đông, tức Lạc Dương,
chiêu mộ các danh tăng khắp nơi đến và ở đó, những người được chiêu đến
đều là bọn sĩ” (Đại Từ Ân tự Tam tạng pháp sư truyện-tập 1)[62, tr.511]. Tùy
Dạng Đế không có cách nào tập trung các danh tăng khắp Nam Bắc đã phản
ánh nhu cầu thiết lập một nền Phật giáo thống nhất. Lại như Đường Thái
Tông cho rằng khởi nghĩa nông dân là do “Phu phàn dịch trọng, quan lại

tham ô, cơ hàn đói khổ” gây ra (Tư Trị Thông Giám-quyển 192-Đường ký
bát-Cao Tổ Võ Đức năm thứ 9) [62, tr.511]. Tổng kết khá chính xác này đã
dẫn đến việc Đường Thái Tông vô cùng coi trọng thái độ của nhân dân, vì thế
24


×