Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Các biểu đạt ngôn ngữ của hành vi ngờ vực trong tiếng anh và tiếng việt (trên tư liệu các giáo trình dạy tiếng và tác ph

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 145 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC

TẠ THỊ PHƯƠNG QUYÊN

CÁC BIỂU ĐẠT NGÔN NGỮ CỦA HÀNH VI NGỜ VỰC
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
(TRÊN TƯ LIỆU CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG
VÀ TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở VIỆT NAM)

CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ:

NGÔN NGỮ HỌC
602201

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS ĐINH VĂN ĐỨC

HÀ NỘI - 2008


MỤC LỤC
Số trang
Phần mở đầu

1

Chương 1. Cơ sở lí thuyết


4

1.1. Hành động ngôn từ

4

1.2. Các hành vi tại lời

5

1.2.1. Điều kiện sử dụng hành vi tại lời

5

1.2.2. Các loại hành vi tại lời

8

1.3. Phát ngôn ngôn hành, biểu thức ngôn hành và động từ ngôn hành
1.4.

8

Hành vi ngờ vực

10

1.4.1.Khái niệm và điều kiện để thực hiện hành vi ngờ vực

10


1.4.2. Các loại hành vi ngờ vực

11

1.5. Chiến lược giao tiếp – Phép lịch sự

13

1.5.1. Lịch sự

13

1.5.2. Chiến lược giao tiếp

15

1.6. Tiểu kết

18

Chương 2. Các biểu đạt ngôn ngữ của hành vi ngờ vực trong

19

tiếng Anh
2.1. Dẫn nhập

19


2.2. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành tường minh

20

2.3. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành hàm ẩn

22

2.3.1. Các từ ngữ chuyên dùng

22

2.3.2 Các kiểu kết cấu

38

2.3.3 Trọng âm và ngữ điệu

54

2.4. Chiến lược giao tiếp - Phép lịch sự

56

2.4.1. Phạm trù xưng hô

56

2.4.2. Chiến lược phi cá nhân hóa


60

2.4.3. Chiến lược nói gián tiếp

63


2.4.4. Chiến lược dịu hóa

64

2.5. Tiểu kết

66

Chương 3. Các biểu đạt ngôn ngữ của hành vi ngờ vực trong

68

tiếng Việt
3.1. Dẫn nhập

68

3.2. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành tường minh

68

3.3. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành hàm ẩn


69

3.3.1. Các từ ngữ chuyên dùng

69

3.3.2 Các kiểu kết cấu

89

3.3.3 Ngữ điệu, trọng âm, thanh điệu

101

3.4. Chiến lược giao tiếp - Phép lịch sự

103

3.4.1 Phạm trù xưng hô và chiến lược sử dụng từ xưng hô

103

3.4.2 Chiến lược bày tỏ sự chú ý

109

3.4.3. Chiến lược nói quá sự tán dương, thiện cảm

111


3.4.4. Chiến lược tìm kiếm sự tán đồng

111

3.4.5. Chiến lược sử dụng những dấu hiệu báo hiệu mình cùng

112

nhóm
3.5. Tiểu kết

113

Kết luận

115

Các tài liệu tham khảo chính

118

Nguồn khảo sát và trích dẫn

121

Phụ lục

126



MỘT SỐ QUI ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Xuất xứ các tài liệu trích dẫn được ghi trong ngoặc [ ] theo qui
định.
2. Ký hiệu / nghĩa là hoặc, ví dụ người Anh/Mỹ được đọc là người
Anh hoặc người Mỹ.
3. Ký hiệu Sp nghĩa là người nói (viết), ví dụ Sp1 được đọc là ngưòi
nói (viết) thứ nhất; Sp2 được đọc là người nói (viết) thứ hai.
4. Ký hiệu tư liệu trích dẫn theo thứ tự: Số thứ tự tác phẩm; số trang
trích dẫn. Thông tin đầy đủ được chú dẫn ở phần tài liệu tham khảo.


PHẦN MỞ ĐẤU
1. Lý do chọn đề tài
Khi chúng ta nói năng chúng ta thực hiện những hành động như chúng
ta thực hiện những hành động vật lý khác. Trong cuộc sống hàng ngày, khi
giao tiếp là chúng ta đang thực hiện các hành vi ngôn ngữ khác nhau. Theo
thời gian và sự phát triển của xã hội, giao tiếp của con người ngày càng trở nên
tinh tế, phức tạp hơn. Điều này đã khiến cho số lượng các hành động ngôn từ
ngày càng trở nên đa dạng, phong phú hơn.
Để xác định con số chính xác các hành động ngôn từ là một điều rất
khó. Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu cũng mới chỉ đưa ra những kết quả
tạm thời dựa trên các tiêu chí nào đó. Trong lịch sử ngành ngôn ngữ học đã có
nhiều công trình của các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước nghiên cứu về
hành động ngôn từ.
Từ những gợi mở của các nghiên cứu đã xuất hiện và mong muốn được
tìm hiểu sâu hơn về lĩnh vực này, chúng tôi đã chọn hành vi ngờ vực làm đối
tượng khảo sát nghiên cứu cho luận văn của mình. Đó là lý do vì sao chúng tôi
chọn đề tài: "Các biểu đạt ngôn ngữ của hành vi ngờ vực trong tiếng Anh và
tiếng Việt (trên tư liệu các giáo trình dạy tiếng và tác phẩm văn học ở Việt
Nam)". Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu này sẽ có những đóng góp nhất

định vào công việc nghiên cứu các hành động ngôn từ.
2. Mục đích và nhiệm vụ
2.1.

Mục đích
Thông qua việc tiếp cận, khảo sát và đối chiếu các biểu đạt ngôn ngữ

của hành vi ngờ vực trong tiếng Việt và tiếng Anh, mục đích luận văn hướng
đến là:
- Góp thêm vào lý thuyết hành động ngôn từ nói chung và hành vi ngờ
vực nói riêng. Từ đó giúp thấy được rõ nét, sâu sắc về hành động ngôn từ,
hành vi ngờ vực cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
1


- Góp phần tìm hiểu lý luận để nâng cao hiệu quả trong công tác giảng
dạy và học tập tiếng ở Việt Nam, và để ứng dụng vào công tác dịch thuật.

2.2.

Nhiệm vụ

Với mục đích nêu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu một số vấn đề lý thuyết về hành động ngôn từ nói chung và
hành vi ngờ vực nói riêng.
- Khảo sát các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời của hành vi ngờ vực,
cụ thể là các động từ ngôn hành, các từ ngữ chuyên dùng trong biểu thức ngôn
hành, các kiểu kết cấu biểu đạt hành vi ngờ vực và ngữ điệu của các kết cấu
này.
- Khảo sát lối xưng hô trong các phát ngôn chứa hành vi ngờ vực.

- Khảo sát các chiến lược giao tiếp đi kèm với hành vi ngờ vực.

3.

Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu

3.1.

Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biểu đạt ngôn ngữ của hành vi

ngờ vực trong giáo trình dạy tiếng và tác phẩm văn học. Do đó, phạm vi
nghiên cứu chỉ giới hạn trong các bộ giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài, giáo trình dạy tiếng Anh đang được sử dụng phổ biến ở Việt Nam và
một số tác phẩm văn học của Việt Nam và Anh/Mỹ.

3.2.

Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp quy nạp. Sau khi tổng hợp,

phân tích và nhận xét các ví dụ cụ thể về hành vi ngờ vực trong tiếng Anh và
tiếng Việt, chúng tôi tiến tới các nhận xét có tính khái quát, tìm ra quy luật
chung trong hai ngôn ngữ.
- Bên cạnh phương pháp quy nạp, luận văn cũng sử dụng phương pháp
so sánh đối chiếu nhằm tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa hai
ngôn ngữ và hai nền văn hóa Việt – Anh.
2



4. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn chia
thành 3 chương như sau:
Chƣơng 1. Cơ sở lý thuyết
1.1. Hành động ngôn từ
1.2. Các hành vi tại lời
1.3. Phát ngôn ngôn hành, biểu thức ngôn hành và động từ ngôn hành
1.4. Hành vi ngờ vực
1.5 Chiến lược giao tiếp - Phép lịch sự
Chƣơng 2. Các biểu đạt ngôn ngữ của hành vi ngờ vực trong tiếng Anh
2.1. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành tường minh
2.2. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành hàm ẩn
2.3. Các chiến lược giao tiếp
Chƣơng 3. Các biểu đạt ngôn ngữ của hành vi ngờ vực trong tiếng Việt
3.1. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành tường minh
3.2. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành hàm ẩn
3.3. Các chiến lược giao tiếp

3


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Hành động ngôn từ
Thuật ngữ tiếng Anh "Speech act" khi vào Việt Nam đã được các nhà
ngôn ngữ học chuyển dịch bằng nhiều tên gọi khác nhau: hành động nói (Diệp
Quang Ban), hành vi ngôn ngữ (Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân), hành vi nói
năng (Nguyễn Văn Khang), hành động ngôn từ (Cao Xuân Hạo). Trong luận
văn này chúng tôi sử dụng tên gọi hành động ngôn từ.
Khi chúng ta nói năng tức là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện

một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Người đầu tiên khởi
xướng và xây dựng lý thuyết hành động ngôn từ là J. Austin. Trong tác phẩm
nổi tiếng "How to do things with word" ("Người ta làm nên các sự vật bằng từ
ngữ như thế nào?" - Đinh Văn Đức) của mình, xuất bản năm 1962, ông đã đề
cập đến vấn đề lý thuyết hành động ngôn từ như sau: Một hành động ngôn ngữ
được thực hiện khi một người nói (hoặc viết) Sp1 nói ra một phát ngôn U cho
người nghe (hoặc người đọc) Sp2 trong ngữ cảnh C.
Austin đưa ra 3 loại hành động ngôn từ là: Hành động tạo lời, hành động
tại lời và hành động mượn lời.
Hành động tạo lời là những hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ
như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu …. để tạo ra một phát ngôn về
hình thức và nội dung.
Hành động tại lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói
năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là
chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Ví
dụ về hành động tại lời: hành vi hỏi, hành vi yêu cầu, hành vi ra lệnh, hành vi
mời, hành vi hứa hẹn, hành vi khuyên bảo, hành vi nghi ngờ …. Khi chúng ta
hỏi ai về một cái gì đó thì người được hỏi có nhiệm vụ phải trả lời chúng ta,
cho dù trả lời không biết. Không trả lời, không đáp lại câu hỏi, người nghe bị
xem là không lịch sự. Khác với các hành động mượn lời, hành động tại lời có
ý định (có đích ) quy ước và có thể chế dù rằng quy ước và thể chế của chúng
4


không hiển ngôn mà quy tắc vận hành chúng được mọi người trong một cộng
đồng ngôn ngữ tuân theo một cách không tự giác. Có thể nói, nắm được ngôn
ngữ, không chỉ có nghĩa là nắm được âm, từ ngữ, câu …. của ngôn ngữ đó mà
còn là nắm được những quy tắc điều khiển các hành động tại lời trong ngôn
ngữ đó, có nghĩa là biết các quy tắc để “hỏi”, “hứa hẹn” … sao cho đúng lúc,
đúng chỗ cho thích hợp với ngữ cảnh, với người được hỏi….

Hành động mượn lời là những hành vi “mượn” phương tiện ngôn ngữ,
nói cho đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn
ngữ nào đó ở người nghe, người nhận hoặc ở chính người nói. Ví dụ nghe một
phát ngôn:"ở đây tối quá". Sp 2 có thể mở cửa sổ. Hành động mở cửa sổ thuộc
hành động mượn lời. Chức năng hành động của giao tiếp được thực hiện nhờ
các hiệu quả mượn lời của phát ngôn. Có những hiệu quả mượn lời là đích của
một hành động tại lời như trong ví dụ nêu trên: Hành động mở cửa sổ là hiệu
quả của hành động tại lời đề nghị. Cũng có những hiệu quả không thuộc đích
của hành động tại lời: Chẳng hạn Sp2 trong ví dụ trên mở cửa sổ một cách khó
chịu, gắt gỏng thì hành vi đó không phải là đích của hành động tại lời. Những
hiệu quả mượn lời, rất phân tán, không thể tính toán được. Chúng không có
tính quy ước (trừ hành động mượn lời đích của hành động tại lời). [II-2, 88-89]
1.2. Các hành vi tại lời
1.2.1. Điều kiện sử dụng hành vi tại lời
Các hành vi tại lời, cũng như các hành vi khác, các hành vi sinh lí cũng
như vật lí, không phải được thực hiện một cách tùy tiện. Nếu là một hành vi xã
hội thì các điều kiện để cho nó có thể thực hiện được lại càng chặt chẽ đa dạng
hơn nữa. Mà các hành vi tại lời như đã biết, về cơ bản là hành vi xã hội. Điều
kiện sử dụng các hành vi tại lời là những điều kiện mà một hành vi tại lời phải
đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh của sự phát ngôn ra nó.
J. Austin xem các điều kiện sử dụng các hành vi tại lời là những điều
kiện "may mắn" nếu chúng được đảm bảo thì hành vi mới "thành công", đạt

5


hiệu quả. Nếu không nó sẽ thất bại. Những điều kiện may mắn của J.Austin là
như sau:
A- (i) Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này phải có hiệu quả
cũng có tính quy ước.

(ii) Hoàn cảnh và con người phải thích hợp với những điều quy định trong thủ
tục.
B- Thủ tục phải được thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ.
C- Thông thường thì (i) những người thực hiện hành vi ở lời phải có ý nghĩ,
tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra trong thủ tục và (ii) khi hành động
diễn ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có. [II-2, 112]
J. Searle là người đầu tiên vạch ra hạn chế chỉ phân loại các động từ
ngôn hành của bảng phân loại của Austin. J. Searle còn cho rằng, vì J. Austin
không định ra các tiêu chí phân loại do đó kết quả phân loại có khi dẫm đạp
lên nhau. Ông cho rằng trước hết là phải phân loại các hành vi tại lời chứ
không phải phân loại các động từ gọi tên chúng và nếu xác lập được một hệ
các tiêu chí thích hợp với các hành động ngôn từ thì có thể giải tỏa được thái
độ bi quan của Wittenstein cho rằng không thể phân loại được các “trò chơi
ngôn ngữ” và tránh được tình trạng dẫm đạp lên nhau giữa các phạm trù, các
nhóm trong từng phạm trù hành vi tại lời.
J. Searle liệt kê 12 điểm khác biệt giữa các hành động ngôn từ có thể
dùng làm tiêu chí phân loại như sau:
1. Đích ở lời
2. Hướng khớp ghép lời với hiện thực mà lời đề cập đến
3. Trạng thái tâm lí được thể hiện
4. Sức mạnh mà đích được trình bày ra
5. Tính quan yếu của mối quan hệ liên cá nhân giữa Sp1 và Sp 2
6. Định hướng
7. Câu hỏi và câu trả lời là hai thành phần của một cặp kế cận còn sai
bảo thì không
8. Nội dung mệnh đề
6


9. Hứa hẹn chỉ có thể thực hiện bằng lời, tức thực hiện như một hành vi

ở lời trong khi đó phân loại có thể được thực hiện bằng phương thức
khác không phải bằng lời
10. Đặt tên thánh và rút phép thông công đòi hỏi phải có thể chế xã hội
mới có hiệu lực nhưng trần thuật thì không đòi hỏi như vậy.
11. Không phải tất cả các động từ gọi tên hành vi tại lời đều là động từ
ngôn hành. Thí dụ: khoe và dọa không phải là động từ ngôn hành.
12. Phong cách thực hiện hành vi tại lời.
J. Searle chỉ dùng có 4 trong số 12 tiêu chí trên để phân lập 5 loại hành động
ngôn từ là: Tiêu chí đích ở lời; tiêu chí hướng khớp ghép; tiêu chí trạng thái
tâm lí và tiêu chí nội dung mệnh đề.
Searle đưa ra bốn điều kiện. Mỗi điều kiện lại được biểu hiện khác nhau
tùy theo từng phạm trù, từng loại và từng hành vi tại lời cụ thể.
a. Điều kiện nội dung mệnh đề: Chỉ ra bản chất nội dung của hành vi.
Nội dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản (đối với các hành vi khảo
nghiệm, xác tín, miêu tả), hay một hàm mệnh đề (đối với các câu hỏi khép kín,
tức những câu hỏi chỉ có hai khả năng trả lời, có hoặc không; phải, không phải
....). Gọi là hàm mệnh đề vì phát ngôn ngôn hành tương ứng với hành vi hỏi
đưa ra hai khả năng, người trả lời chọn một và trả lời. Nội dung mệnh đề có
thể là một hành động của người nói hay một hành động của người nghe.
b. Điều kiện chuẩn bị bao gồm những hiểu biết của người phát ngôn về
năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và
người nghe.
c. Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của người
phát ngôn. Xác tín, khảo nghiệm đòi hỏi niềm tin vào điều mình xác tín,...
d. Cuối cùng là điều kiện căn bản, đây là điều kiện đưa ra kiểu trách
nhiệm mà người nói hoặc người nghe bị ràng buộc khi hành vi tại lời đó được
phát ra. Trách nhiệm có thể rơi vào hành động sẽ được thực hiện (lệnh, hứa
hẹn) hoặc đối với tính chân thực của nội dung (một lời xác tín buộc người nói
phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của điều nói ra). [II-2, 116]
7



1.2.2. Các loại hành vi tại lời
Trong giao tiếp, người nói luôn mong muốn truyền đạt được nhiều nhất
tư tưởng và mục đích của mình tới người nghe. Do đó một hành vi tại lời đôi
khi không chỉ thể hiện tính chất của chính nó mà còn thể hiện tính chất của
những hành vi tại lời khác. Chẳng hạn, hành vi hỏi không phải lúc nào cũng
mang mục đích hỏi mà có khi nhằm mục đích chào hay ngờ vực, đe dọa.. Cuộc
sống ngày càng phát triển thì hoạt động giao tiếp theo đó cũng trở nên sâu sắc,
tinh tế hơn. Để có thể thống kê con số chính xác các hành động ngôn từ mà ở
đây là các hành vi tại lời thật là khó bởi số lượng khá lớn.
Luận văn xin nêu ra hai cách phân loại theo J. Austin và J.Searle dựa
trên những tiêu chuẩn đã nêu trên cùng một số tiêu chuẩn khác.
Theo J. Austin, ông phân chia hành vi tại lời thành 5 loại lớn:
Phán xét, hành xử, cam kết, ứng xử và bày tỏ.
J.Searle cũng chia thành 5 nhóm lớn nhưng có một số khác biệt như sau:
Tuyên bố, biểu hiện, cầu khiến, hứa hẹn, bày tỏ.
Trong mỗi nhóm lại bao chứa những hành vi tại lời nhỏ, cụ thể hơn.
Như vậy, danh sách các hành vi tại lời rất phong phú. Điều đó phù hợp với nhu
cầu giao tiếp ngày càng tinh vi, sâu sắc của con người.
Tùy thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, hành vi tại lời có thể chia
thành hành vi tại lời trực tiếp và hành vi tại lời gián tiếp. Bản thân trong khi
giao tiếp không phải con người chỉ đơn thuần sử dụng hành vi tại lời trực tiếp
mà đôi khi vì mục đích, hoàn cảnh giao tiếp phải sử dụng hành vi tại lời gián
tiếp.
1.3. Phát ngôn ngôn hành, biểu thức ngôn hành và động từ ngôn hành
Các phát ngôn ngôn hành là sản phẩm, và cũng là phương tiện của các
hành vi tại lời. Phát ngôn ngôn hành là phát ngôn – sản phẩm của một hành vi
tại lời nào đó khi hành vi này được thực hiện một cách trực tiếp, chân thực.
Phát ngôn ngôn hành có một kết cấu lõi đặc trưng cho hành vi tại lời tạo ra nó.

Kết cấu lõi đó được gọi là biểu thức ngôn hành. Ví dụ: Phát ngôn ngờ vực sau
8


đây: ”Dù anh có giải thích thế nào đi nữa thì tôi cũng không tin là nó lại có thể
làm được việc đó “ có biểu thức ngôn hành: Tôi không tin là …..
Biểu thức ngôn hành là những thể thức nói năng đặc trưng cho một
hành vi tại lời. Nói như vậy có nghĩa là về nguyên tắc, trừ những trường hợp
được sử dụng gián tiếp, còn thì có bao nhiêu hành vi tại lời thì có bấy nhiêu
kiểu biểu thức ngôn hành. Biểu thức ngôn hành là dấu hiệu ngữ pháp – ngữ
nghĩa của các hành vi tại lời. Nhờ các biểu thức ngôn hành chúng ta nhận biết
được các hành vi tại lời.
Mỗi biểu thức được đánh dấu bằng các dấu hiệu chỉ dẫn, nhờ những
dấu hiệu này mà các biểu thức ngôn hành phân biệt với nhau. J. Searle gọi các
dấu hiệu này là các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời:
- Các kiểu kết cấu: Kết cấu cũng tức là các kiểu câu hiểu theo ngữ pháp
truyền thống. Cần mở rộng khái niệm kết cấu, cũng tức là mở rộng khái niệm
kiểu câu để nó có thể bao gồm những kết cấu cụ thể ứng với từng hành vi tại
lời (hoặc phạm trù hành vi tại lời). Kết cấu không chỉ là những kiểu câu có
mục đích nói hết sức sơ lược và khái quát như trần thuyết, hỏi, cầu khiến, cảm
thán với những dấu hiệu hình thức rất chung chung mà còn bao gồm cả những
kết cấu cụ thể ứng với những hành vi tại lời.
- Những từ ngữ chuyên dùng trong biểu thức ngôn hành. Những từ ngữ
này dùng để tổ chức các kết cấu và là các dấu hiệu nhờ chúng chúng ta biết
được hành vi nào đang thực hiện. Đó là những từ ngữ chuyên dùng trong các
biểu thức hỏi như: có … không, có phải … không? Ai, cái gì, bao giờ, mấy …?
Đó là các từ ngữ như nên, không nên trong các biểu thức ngôn hành khuyên...;
Các từ thế à, thật không, liệu, sao... trong các biểu thức ngôn hành ngờ vực.
- Ngữ điệu. Cùng một tổ chức từ vựng, ngữ pháp cụ thể nếu được phát
âm với những ngữ điệu khác nhau sẽ cho các biểu thức ngôn hành khác nhau

tương ứng với những hành vi ở lời khác nhau.
Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ - tham thể tạo nên nội
dung mệnh đề được nêu trong biểu thức ngôn hành với các nhân tố của ngữ
cảnh. Các đặc tính ngữ nghĩa như tự nguyện hay cưỡng bức, tích cực hay tiêu
9


cực, có lợi hay có hại … của hành động đối với người tạo ra hành vi và người
nhận hành vi cũng có giá trị như những phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời.
Có một phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời đặc biệt, đánh dấu cho một số
biểu thức ngôn hành tường minh là các động từ ngôn hành. Đó là những động
từ có thể được thực hiện trong chức năng ngôn hành, tức thực hiện trong chức
năng ở lời. Những động từ này được gọi tên là động từ ngôn hành
(performative verbs – động từ ngữ vi). Động từ ngôn hành là những động từ
mà khi phát âm chúng ra cùng biểu thức ngôn hành (có khi không cần biểu
thức ngôn hành đi kèm) là người nói thực hiện luôn cái hành vi ở lời do chúng
biểu thị. [II-2, 91]
Theo Austin, các biểu thức có động từ ngôn hành là biểu thức ngôn
hành tường minh; Và gọi những biểu thức tuy vẫn có hiệu lực ở lời nhưng
không có động từ ngôn hành là biểu thức ngôn hành nguyên cấp hay biểu thức
ngôn hành hàm ẩn.
Trong thực tế giao tiếp bằng ngôn ngữ, phổ biến và thường xuyên được
dùng là các biểu thức ngôn hành hàm ẩn. Như thế các biểu thức ngôn hành
hàm ẩn với các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời đặc trưng tương ứng với
từng hành vi ở lời là cơ sở để lí giải các phát ngôn nghe được, đọc được.

1.4.

Hành vi ngờ vực


1.4.1. Khái niệm và điều kiện để thực hiện hành vi ngờ vực
Theo định nghĩa trong ”Từ điển tiếng Việt”: Ngờ vực hay nghi ngờ là
nghĩ có thể là người nào đó đã làm một việc gì đó; là đã xảy ra việc nào đó
nhưng không có đủ cơ sở để khẳng định. Như vậy hành vi ngờ vực được hiểu
là hành vi không tin tưởng, không chắc chắn vào một hành động sự việc nào
đó.[II-17]
Theo bảng phân loại của J. Austin, hành vi ngôn ngữ ngờ vực thuộc
nhóm 5. Đây là nhóm những hành vi phản ứng với cách xử sự của người khác,
đối với các sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với
hành vi hay số phận của người khác. Do đó điều kiện để có hành vi ngờ vực
10


theo ông là phải có Sp1 nói (viết) một phát ngôn về một sự kiện, Sp2 đưa ra
phản ứng nghi ngờ. Như vậy phải có Sp1 đưa ra một phát ngôn xác tín về một
sự việc hành động đã xảy ra (có thể của Sp 1 hoặc người thứ 3). Sp2 đưa ra
phát ngôn thể hiện phản ứng của mình – nghi ngờ tính xác thực của sự kiện,
hành động đó. Hoặc một người đưa ra phát ngôn trước một sự kiện, hành động
đã xảy ra mà mình đã biết.
Còn theo bảng phân loại của J. Searle: Hành vi nghi ngờ thuộc nhóm
biểu hiện: Là nhóm hành động thể hiện cái mà người nói tin tưởng có là một
sự kiện hay không. Hành động này thể hiện ở những câu mà người nói phải
chịu trách nhiệm về giá trị chân lí của mệnh đề được biểu đạt?
Các điều kiện để thực hiện hành vi ngờ vực theo Searle là:
Nội dung mệnh đề: Sự kiện hành động của Sp1, hoặc của người thứ 3 mà cả
Sp1 và Sp2 đều biết.
Điểu kiện chuẩn bị: Có những bằng chứng thuyết phục Sp2 tin
Điều kiện chân thành: Sp2 ngạc nhiên, không chắc chắn hay phỏng đoán về sự
kiện, hành động mà Sp1 nêu ra trước đó, hoặc thậm chí là phủ nhận, bác bỏ
chúng..

Điều kiện căn bản: Phản ứng của người Sp2 trước phát ngôn của Sp1
1.4.2. Các loại hành vi ngờ vực
Phát ngôn ngờ vực có thể chia thành phát ngôn ngờ vực trực tiếp và
phát ngôn ngờ vực gián tiếp. Phát ngôn ngờ vực trực tiếp là phát ngôn có chứa
biểu thức ngờ vực tường minh, phát ngôn ngờ vực gián tiếp là phát ngôn chức
biểu thức ngôn hành ngờ vực hàm ẩn.
Ngoài ra, khi giao tiếp ngoài việc thể hiện hành vi ngờ vực, người nói
còn đưa ra thái độ quan điểm của mình về sự việc. Người nói thể hiện thái độ
của mình như thế nào là tùy thuộc vào ngữ cảnh; vào mối quan hệ giữa người
nói và người nghe; vào trạng thái tâm lý của mình khi sự kiện hành động được
nêu ra. Chúng tôi xin nêu ra một số kiểu hành vi ngờ vực phổ biến như sau:

11


- Ngờ vực với tính chất ngạc nhiên: Trước một sự việc, hành động
không bình thường, trái với quy luật tự nhiên, hoặc không có đủ bằng chứng
để tin người nói đưa ra phát ngôn chứa hành vi ngờ vực của mình đồng thời
cũng tỏ ý ngạc nhiên.
Ví dụ trong tiếng Anh:
A: …… How many people live with you?
B: Seven!
A: Seven! Wow!
[Basic Tactics Listening]
Ví dụ trong tiếng Việt
Sp1: Thế à? Bận sau, thấy ông ấy sắp đánh, mày nói với ông ấy rằng để mày
đánh hộ nhé.
Sp 2; Vâng, nhưng con sợ ông ấy mắng. Vì ông ấy dặn con đừng nói với ông.
Sp1: Thế à? Quái nhỉ.
[Nguyễn Công Hoan - "Bạc đẻ"]

- Ngờ vực với tính chất phỏng đoán: Đi kèm hành vi ngờ vực là sự
phỏng đoán của người nói. Người nói nêu ra ý kiến chủ quan của mình, phỏng
đoán về nguyên nhân dẫn đến sự việc, hoặc dự đoán về kết quả, hiệu lực tiếp
theo của sự việc hành động.
Ví dụ trong tiếng Anh:
Sp1: Yes. Now I thought Harry was great. He said his lines so confidently,
and his timing was superb. I think he was really made for the part.
Sp 2: You seem to have made up your mind, don’t you?
[Headway - Upper Intermediate]
Ví dụ trong tiếng Việt
Ðã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ
con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?...
[Lời của lão Hạc trong "Lão Hạc" - Nam Cao]
12


- Ngờ vực với tính chất phủ nhận: Khi nghi ngờ của người nói được đẩy
lên cao đến mức hoàn toàn không tin vào sự việc (có thể là do không có bằng
chứng về sự việc), hành vi ngờ vực của người nói đã chuyển thành hành vi phủ
nhận, bác bỏ.
Ví dụ trong tiếng Anh:
What do I care for your big brother? I've got a brother that's bigger than he is
- and what's more, he can throw him over that fence, too. (Both brothers were
imaginary)
- That's a lie
- Your saying so don't make it so
[Mark Twain - " Tom Sawyer"]
Ví dụ trong tiếng Việt
Sp1: Anh Hùng, người khỏe mạnh, sung sướng như thế mà chết.
Sp2: Chết về bệnh gì?

Sp1: Tự tử.
Sp2: Tự tử! Vô lý!
[Khái Hưng - " Điên "]
Ngoài các kiểu hành vi ngờ vực phổ biến nêu trên, có thể xuất hiện những kiểu
hành vi ngờ vực khác nữa bởi giao tiếp trong xã hội bị chi phối bởi nhiều yếu
tố. Những yếu tố chi phối đó bao gồm ngữ cảnh với các vai giao tiếp, các quan
hệ liên cá nhân; hiện thực ngoài diễn ngôn; hoàn cảnh giao tiếp; tâm lý khi
tham gia giao tiếp. Nhưng do khuôn khổ có hạn của luận văn, chúng tôi chỉ đề
cập tới những dạng phổ biến nói trên của hành vi ngờ vực.
1.5. Chiến lƣợc giao tiếp – Phép lịch sự
1.5.1. Lịch sự
Lịch sự là một nhân tố quan trọng trong giao tiếp xã hội, Nó có tác động
chi phối không những đối với quá trình giao tiếp mà cả đối với kết quả giao
tiếp. Nhiều người nghiên cứu ngữ dụng học coi lịch sự như một nguyên tắc
13


giao tiếp bên cạnh nguyên tắc hợp tác trong hội thoại và gọi là nguyên tắc lịch
sự.
Trước hết, người ta có thể coi lịch sự như một chuẩn mực xã hội. Các
nhà văn hóa thuộc nhiều dân tộc khác nhau đã quan niệm lịch sự là hành vi xã
hội có lễ độ hay là phép xã giao trong phạm vi văn hóa. Người ta cũng có thể
quan niệm lịch sự là những nguyên tắc chung trong tương tác xã hội của mỗi
nền văn hóa. Những nguyên tắc đó có thể bao gồm sự tế nhị, sự khoan dung,
sự khiêm tốn, sự cảm thông đối với người khác: Trong những hoàn cảnh giao
tiếp nào đó, người ta không tiện nói thẳng mà phải nói bóng gió, xa xôi. Hoặc
tránh gọi tên trực tiếp của sự vật hiện tượng cũng là một cách nói tế nhị. Khi
chính kiến hoàn toàn khác nhau, người ta vẫn cố tìm những nét khả thủ trong
suy nghĩ của đối phương, tránh phủ định sạch trơn, gây mâu thuẫn căng thẳng.
Đó chính là nguyên tắc cảm thông với người khác trong giao tiếp.

Tuy nhiên, trong giao tiếp còn có một kiểu lịch sự nữa được thực hiện.
Để miêu tả kiểu lịch sự này cần biết khái niệm thể diện (face). Thể diện là hình
ảnh bản thân trước công chúng của một cá nhân, nó liên quan đến ý thức xã
hội và tình cảm mà mỗi cá nhân có và mong muốn người khác tri nhận. Trong
giao tiếp, phép lịch sự có thể được định nghĩa là phương tiện được dùng để thể
hiện hiểu biết về thể diện của người khác. Như thế, phép lịch sự thực hiện
trong các tình huống có khoảng cách xã hội và có sự thân hữu. Khi có khoảng
cách xã hội thì người ta thể hiện sự hiểu biết về thể diện của người khác bằng
cách sử dụng những từ ngữ tôn trọng, chiều lòng. Khi có sự thân hữu thì người
ta thể hiện bằng việc dùng các từ ngữ có tính thân tình, đoàn kết.
Trong giao tiếp hàng ngày người ta cư xử y như mong muốn của họ về
nhu cầu thể diện sẽ được tôn trọng. Nếu một người nói cái gì đó có biểu hiện
đe dọa sự mong đợi của người khác về mặt thể diện thì đó là hành động đe dọa
thể diện (face threatening act). Nếu người nói nói thế nào để làm giảm khả
năng đe dọa thể diện thì hành động đó gọi là hành động giữ thể diện (face
saving act).

14


Trước hết, cần phân biệt thể diện âm tính (negative face) và thể diện dương
tính (positive face). Thể diện âm tính của một người là nhu cầu được độc lập,
được tự do hành động và không bị người khác áp đặt. Thể diện dương tính
của một người là nhu cầu được người khác chấp nhận, thậm chí được người
khác yêu mến đối xử như người cùng nhóm.
Nói cách khác, thể diện âm tính là nhu cầu được độc lập còn thể diện
dương tính là nhu cầu được quan hệ.
Như vậy, một hành động giữ thể diện hướng vào thể diện âm tính của
một người sẽ phải thể hiện sự tôn trọng, nhấn mạnh tầm quan trọng của thời
gian và quan hệ của người khác, thậm chí bao gồm cả việc xin lỗi về sự áp đặt

hoặc làm gián đoạn. Cái đó được gọi là phép lịch sự âm tính. Một hành động
giữ thể diện hướng vào thể diện dương tính của người khác sẽ phải thể hiện
tình đoàn kết, nhấn mạnh nguyện vọng chung, mục đích chung của hai người.
Cái đó được gọi là phép lịch sự dương tính. [II-2, 100]
1.5.2. Chiến lược giao tiếp
Chiến lược là phương châm và kế hoạch có tính toàn cục trong lĩnh vực
hoạt động nào đó. Người ta thường nói đến chiến lược cách mạng, chiến lược
ngoại giao .... Và hiện nay người ta còn nói đến chiến lược giao tiếp nữa.
Chiến lược giao tiếp là phương châm và các biện pháp sử dụng các hành
vi ngôn ngữ trong giao tiếp nhằm giữ thể diện và tránh đe dọa thể diện của
người tham gia giao tiếp. Lựa chọn cách xưng hô nào là phụ thuộc vào chiến
lược giao tiếp; lựa chọn cách nói thẳng hay nói vòng là tùy thuộc vào tình
huống giao tiếp và văn hóa của cộng đồng; Tránh hành động đe dọa thể diện
được thể hiện bằng hành động giữ thể diện. Hành động giữ thể diện dùng chiến
lược lịch sự dương tính và chiến lược lịch sự âm tính.
Chiến lược lịch sự dương tính cần phải chú ý đến mục đích chung, đến
tình thân hữu, vì thế có thể coi chiến lược lịch sự dương tính là chiến lược
đoàn kết. Các hình thức lịch sự dương tính nhấn mạnh sự gần gũi giữa người
nói và người nghe. Từ xưng hô là một phương tiện thể hiện lịch sự dương tính.
15


Nếu nói trống không là không lịch sự. Để xưng hô người ta có thể dùng các đại
từ nhân xưng, tên riêng, các từ chỉ quan hệ họ hàng và các từ chỉ chức tước,
địa vị. Tùy thuộc vào quan hệ giữa người nói và người nghe mà người ta lựa
chọn từ xưng hô cho thích hợp. Trong quan hệ bình đẳng, dùng tên riêng để
xưng hô sẽ tạo ra không khí thân mật. Trong quan hệ không bình đẳng, chẳng
hạn người dưới nói với người trên, không thể hô gọi chỉ bằng tên riêng. Nếu
dùng các từ chỉ chức vụ thì tuy bảo đảm sự lễ độ nhưng không thân mật. Để
tạo không khí thân hữu giữa người nói và người nghe, người Việt thường sử

dụng các từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô.
Lựa chọn các vị từ thích hợp cũng là một cách tạo sự gắn bó giữa người
nói và người nghe. Các tiểu từ tình thái cũng là một phương tiện thể hiện lịch
sự dương tính. Trong các phương tiện lịch sự dương tính còn có những thành
phần bổ trợ thể hiện mục đích chung, sự thân thiện của người nói và người
nghe.
Trong giáo trình Ngôn ngữ học đại cương tập hai - Ngữ dụng học, giáo
sư Đỗ Hữu Châu đã đưa ra một danh sách các chiến lược lịch sự dương tính
(theo C.K Orecchioni, Brown và Levinson) như sau:
1. Bày tỏ cho Sp2 sự chú ý của mình đối với Sp2
2. Nói quá sự tán dương, thiện cảm của mình đối với Sp2
3. Gia tăng sự quan tâm của mình đối với Sp2
4. Sử dụng những dấu hiệu báo mình cùng nhóm với Sp2 (dùng những từ
xưng hô kiểu anh trai ơi, em gái ơi, ...)
5. Tìm kiếm sự tán đồng (tìm những đề tài đôi bên cùng quan tâm)
6. Tránh sự bất đồng
7. Nêu ra những lẽ thường (chung cho cộng đồng của Sp1 và Sp2)
8. Hãy biết nói đùa, nói vui.
9. Quan tâm tới sở thích của Sp2
10. Mời, hứa hẹn
11. Hãy tỏ ra lạc quan
12. Lôi kéo Sp2 cùng với mình làm chung một việc
16


13. Nêu ra lý do của hành động
14. Đòi hỏi sự có đi có lại
15. Trao tặng cho Sp2 cái gì đó
Chiến lược lịch sự âm tính đòi hỏi phải nói hay làm một cái gì đó để tỏ
ra anh không muốn can thiệp vào quyền tự do hành động và quyền không bị áp

đặt của người khác. Chiến lược lịch sự âm tính thể hiện ở những hình thức xin
lỗi, viện lí do, trao cho người nghe quyền lựa chọn của mình. Trong hội thoại
chúng ta còn gặp chiến lược âm tính ở cách nói ngập ngừng, lưỡng lự..
Khuynh hướng dùng hình thức lịch sự âm tính nhấn mạnh quyền tự do của
người nghe, có thể được coi là chiến lược tôn trọng. Đó có thể là chiến lược
tôn trọng của cả nhóm hoặc chỉ là sự lựa chọn trong tình huống đặc biệt. Chiến
lược lịch sự âm tính bao gồm cả những hình thức nói vô nhân xưng như: "Ở
đây không hút thuốc". Cách biểu hiện này, hướng cả người nói lẫn người nghe.
Vì thể diện của người nghe có nguy cơ bị đe dọa khi bản thân việc yêu cầu làm
cái gì đó làm liên lụy đến người nghe. Nguy cơ lớn nhất là đặt người nghe vào
tình thế khó xử. Để tránh nguy cơ này, người nói tạo ra lời ướm trước chứ
không nêu trực tiếp. Giáo sư Đỗ Hữu Châu cũng đưa ra các chiến lược giao
tiếp lịch sự âm tính như sau trong giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, tập 2:
1. Dùng lối nói gián tiếp thành quy ước
2. Dùng các yếu tố rào đón hay tình thái hóa
3. Hãy tỏ ra bi quan
4. Giảm thiểu sự áp đặt
5. Tỏ ra kính trọng
6. Xin lỗi
7. Phi cá nhân hóa cả Sp1 và Sp2, tức là dùng những diễn ngôn phiếm chỉ,
không có chủ thể rõ ràng.
8. Trình bày hành vi đe dọa thể diện như một quy tắc chung
9. Định danh hóa.
10. Bày tỏ bằng lối nói trắng rằng mình mang ơn Sp2 hoặc nói trắng ra rằng
Sp2 không phải chịu ơn mình vì mình đã giúp cho Sp2. [II-2, 272]
17


1.6. Tiểu kết
Hành vi ngờ vực thuộc hệ thống các hành vi tại lời, là một hành động

ngôn từ. Nội dung mà luận văn muốn đề cập tới là tìm hiểu những biểu đạt
ngôn ngữ của hành vi ngờ vực của người Anh/Mỹ và người Việt trong các bối
cảnh giao tiếp xã hội.
Trên cơ sở lý thuyết của hành động ngôn từ, chúng tôi chia phát ngôn
ngờ vực thành hai loại: phát ngôn ngờ vực tường minh và phát ngôn ngờ vực
hàm ẩn. Phát ngôn ngờ vực tường minh được đánh dấu bằng việc xuất hiện các
động từ ngôn hành của hành vi ngờ vực. Phát ngôn ngờ vực hàm ẩn là các phát
ngôn không có động từ ngôn hành.
Hành vi ngờ vực được chia thành hành vi ngờ vực trực tiếp và hành vi
ngờ vực gián tiếp. Hành vi ngờ vực trực tiếp được thể hiện ở những phát ngôn
có quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng. Do đó, hành vi ngờ
vực trực tiếp được thể hiện qua các phát ngôn ngờ vực tường minh. Hành vi
ngờ vực gián tiếp là hành vi được thực hiện ở những phát ngôn có chứa quan
hệ gián tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng. Vì thế, các phát ngôn ngờ
vực hàm ẩn là các phát ngôn thể hiện hành vi ngờ vực gián tiếp.
Phát ngôn chứa hành vi ngờ vực gián tiếp được nhận biết thông qua các
phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời. Các phương tiện chỉ dẫn đó là: Các từ ngữ
chuyên dùng để biểu đạt hành vi ngờ vực, các kiểu kết cấu câu với trọng âm và
ngữ điệu của chúng.
Xét trong mối quan hệ với quan điểm, thái độ của người phát ngôn, bên
cạnh ngờ vực do không chắc chắn, hành vi ngờ vực còn có thể được phân
thành: Hành vi ngờ vực kết hợp ngạc nhiên, hành vi ngờ vực kết hợp phỏng
đoán, hành vi ngờ vực kết hợp phủ nhận.
Phát ngôn chứa hành vi ngờ vực còn là nơi thể hiện rất rõ các chiến lược
giao tiếp - phép lịch sự của người Anh/Mỹ và người Việt. Khảo sát các phạm
trù xưng hô, các kiểu chiến lược giao tiếp của người Anh và người Việt sẽ giúp
ta hiểu sâu hơn về con người và văn hóa của hai nước.

18



CHƢƠNG 2
CÁC BIỂU ĐẠT NGÔN NGỮ CỦA HÀNH VI NGỜ VỰC
TRONG TIẾNG ANH
2.1. Dẫn nhập
Trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, vai trò của tiếng Anh ngày
càng quan trọng trong sự phát triển ở Việt Nam. Tiếng Anh được coi là một
công cụ hữu hiệu nhất để chúng ta có thể tiếp cận nguồn thông tin trên khắp
thế giới, để mở ra cơ hội học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia khác,
để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển. Nhu cầu học tập tốt
tiếng Anh đã trở nên cấp thiết và phổ biến hơn. Để đáp ứng nhu cầu đó, nguồn
tài liệu để giảng dạy và học tập tiếng Anh cũng đã được phát triển phong phú,
đa dạng hơn với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, Internet và các phương
tiện truyền thông hiện đại.
Nguồn tài liệu phong phú đó bao gồm các sách giáo khoa, các tác phẩm
văn học. Ngoài mục đích giúp người ta học tập, trang bị một phương tiện ngôn
ngữ giao tiếp chung, chúng còn là nơi phản ánh trung thực những đặc điểm
riêng của ngôn ngữ tiếng Anh, của văn hóa Anh/Mỹ. Chúng là nguồn tư liệu
quý báu để chúng ta khảo sát các biểu đạt ngôn ngữ. Công tác khảo sát nghiên
cứu này sẽ giúp chúng ta đi sâu tìm hiểu hành động ngôn từ nói chung, hành vi
ngờ vực nói riêng của người Anh/Mỹ trong giao tiếp.
Với mục đích đề ra là tìm hiểu, làm rõ bản chất của hành vi tại lời - ngờ
vực của tiếng Anh, chương 2 sẽ lần lượt trình bày những phương tiện biểu đạt
hành vi ngờ vực bao gồm các biểu thức ngôn hành ngờ vực tường minh, các
biểu thức ngôn hành hàm ẩn với các từ ngữ chuyên dùng, cũng như các kiểu
kết cấu với ngữ điệu của chúng. Bên cạnh đó, chương 2 cũng đề cập tới chiến
lược giao tiếp của người Anh thông qua khảo sát kiểu xưng hô trong các biểu
thức ngôn hành của hành vi ngờ vực, và các kiểu chiến lược cũng như phép
lịch sự trong giao tiếp của họ.
19



2.2. Biểu đạt hành vi ngờ vực bằng biểu thức ngôn hành tƣờng minh
Theo J. Austin biểu thức ngôn hành tường minh là những biểu thức có
động từ ngôn hành. Động từ biểu thị hành vi ngờ vực trong tiếng Anh bao gồm
các động từ: doubt; suspect; wonder; suppose....
Ví dụ 1:
Poirot:

Observe the lamp--the chimney is broken in two places; they lie
there as they fell. But see, the coffee-cup is absolutely smashed to
powder."

Sp 2: "Well," I said wearily, "I suppose some one must have stepped on it."
Poirot: "Exactly," said Poirot, in an odd voice. "Some one stepped on it."
[Agatha Christie - " The Mysterious Affairs at Styles "]
Trong đoạn thoại trên, Sp2 sau khi nghe Sp1 (Poirot) đưa ra một sự việc là cốc
cà phê đã bị nghiền nát ra như cám, Sp2 đưa ra một phát ngôn có chứa biểu
thức ngôn hành của hành vi ngờ vực: I suppose some one must have stepped
on it - rằng chắc phải có ai đó dẫm chân lên thì cái cốc mới bị bể vụn ra như
thế. Phát ngôn này của Sp2 đạt được sự đồng tình, chấp thuận của Sp1
“Someone stepped on it”. Hành động nghi ngờ của người nói 2 (Sp 2) được
biểu đạt bằng biểu thức ngôn hành với động từ ngôn hành: suppose
Ví dụ 2: Trong đoạn hội thoại giữa nhân vật Joe và Huck [Mark Twain "Tom Sawyer"] về việc làm thế nào để xác một người chêt đuối nổi lên mặt
nước:
"That's it!" said Huck, "they done that last summer, when Bill Turner
got drowned; they shoot a cannon over the water, and that makes him come up
to the top. Yes, and they take loaves of bread and put quicksilver in 'em and set
'em afloat, and wherever there's anybody that's drowned, they'll float right
there and stop"

"Yes, I've heard about that" said Joe, "I wonder what makes the bread do
that"
Joe đồng ý với Huck là cũng đã nghe câu chuyện người ta sử dụng bánh
mì phết thủy ngân để làm cho xác người chết đuối nổi lên, nhưng cậu lại tỏ ra
20


nghi ngờ hiệu quả của việc đó - "I wonder what makes the bread do that" (làm
thế nào mà bánh mì lại có thể làm như vậy?), Joe bày tỏ ý muốn được cung
cấp thêm bằng chứng hay giải thích về sự việc này để cậu có thể bị thuyết phục
hoàn toàn về hiệu quả của bánh mì phết thủy ngân.
Trong hai ví dụ nêu trên, chúng ta thấy rằng hành vi ngờ vực của người
nói đã được biểu đạt bằng các động từ ngôn hành wonder, suppose. Bên cạnh
đó, hành vi nghi ngờ còn được thể hiện bằng các động từ ngôn hành khác như:
doubt, suspect. Khi sử dụng những động từ này trong phát ngôn thì người nói
đã thực hiện hành vi nghi ngờ của mình rồi: Chẳng hạn I doubt that could
happen – tôi nghi ngờ điều đó có thể xảy ra, khi nói phát ngôn này người nói
đã thực hiện hành vi nghi ngờ của anh ta.
Chúng ta nên lưu ý rằng động từ ngôn hành là những động từ có thể
thực hiện chức năng ngôn hành trong phát ngôn. Có nghĩa là không phải bao
giờ một động từ ngôn hành cũng được dùng trong chức năng ngôn hành.
Theo J.Austin: động từ ngôn hành chỉ được dùng trong trong chức năng
ngôn hành – có hiệu lực ngôn hành trong khi phát ngôn đó được dùng ở ngôi
thứ nhất (người nói), thời hiện tại (hiện tại phát ngôn), thể (voice) chủ động và
thức (mood) thực thi [3, 98]. Chẳng hạn như động từ ngôn hành doubt chỉ có
chức năng ngôn hành trong phát ngôn “I doubt that could happen” với ngôi I,
thời hiện tại doubt, thể chủ động- I doubt và thức thực thi I doubt that could
happen. Chức năng ngôn hành của nó sẽ lập tức biến mất nếu ta thay ngôi thứ
nhất bằng ngôi thứ 3: “She doubts that could happen”, lúc này động từ doubt
là động từ được dùng với chức năng miêu tả, phát ngôn trên có thể là hành vi

miêu tả, có thể là hành vi thông báo. Hoặc nếu ta thay thời hiện tại của động từ
doubt sang quá khứ là doubted thì câu có thể là kể lại hành vi nghi ngờ do một
người khác thực hiện; cũng có thể là một cảnh báo: chị ta nghi ngờ về sự việc
rồi đấy, liệu liệu mà tìm cách khác để thuyết phục chị ta tin.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần lý thuyết, trong thực tế giao tiếp bằng
ngôn ngữ, phổ biến và thường xuyên được dùng là các biểu thức ngôn hành
21


×