Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghiên cứu văn bản tây sơn bang giao tập b luận văn ths hán nôm 60 22 40 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------PHẠM THỊ HƢƠNG LAN

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN
TÂY SƠN BANG GIAO TẬP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Hán Nôm
Mã số: 602240

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh

HÀ NỘI - 2014

1


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM TẠ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………. … .6
2. Lịch sử vấn đề ……………………………………………………6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………13
4. Cơ ở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu …………………….13
5. Những đóng góp của đề tài ……………………………………..14
6. Bố cục luận văn …………………………………………………14
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………
CHƢƠNG 1: BANG GIAO THỜI TÂY S ƠN VÀ VĂN BẢN TÂY
SƠN BANG GIAO TẬP………………………………………….17


1. 1. Bối cảnh xã hội và bang giao thời Tây Sơn ……………..17
1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII…………………..17
1.2.1. Sự ra đời của triều đại Tây Sơn……………………………20
1.3.1. Hoạt động bang giao thời Tây Sơn………………………..23
1.2. Khảo sát văn bản Tây Sơn bang giao tập…………………26
1.2.1. Giới thiệu văn bản ………………………………………...26
1.2.1.1. Tây Sơn bang giao tập, kí hiệu A.2364…………………26
1.2.1.2. Bang giao tập, kí hiệu A.1916…………………………..30
1.2.1.3 Bang giao lục, kí hiệu A. 691/2…………………………..34
1.2.1.4. Bang giao hảo thoại kí hiệu A.117a/7…………………..39

2


1.2.2. so sánh đối chiếu văn bản tác phẩm Tây Sơn bang giao tập 西山邦
交集, kí hiệu A.2364. với Bang giao lục, kí hiệu A. 1916, Bang giao lục, kí hiệu
A. 691/2 và Bang giao hảo thoại, kí hiệu A.117a/7….45
1.2.3. Xác định niên đại tác phẩm Tây Sơn bang giao tập………..60
Tiểu kết…………………………………………………………..62
CHƢƠNG 2: GIỚI THIỆU GIÁ TRỊ TÁC PHẨM TÂY SƠN BANG
GIAO TẬP……………………………………………………...63
2.1. Giá trị nội dung tác phẩm Tây Sơn bang giao tập………..63
2.1.1. Giữ quan hệ hòa hiếu với nước láng giềng ……………….63
2.1.2. Khẳng định độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước………69
2.1.3. Sự kiện lịch sử đáng được ghi nhận trong lịch sử bang giao
2.2. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Tây Sơn bang giao tập……...74
2.2.1. Thể văn ……………………………………………………74
2.2.2. Thủ pháp ngôn từ………………………………………….77
Tiểu kết…………………………………………………………..79
KẾT LUẬN……………………………………………………...80

TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………...82
PHỤ LỤC …………………………………………………………86

3


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Trịnh Khắc Mạnh. Các số liệu, kết quả nghiên cứu
trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, không trùng lặp với bất cứ công trình
nghiên cứu khoa học nào trước đây.

Hà Nội ngày 20 tháng 12 năm 2014
Tác giả Luận văn

Phạm Thị Hƣơng Lan

4


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc của mình đối với PGS.TS Trịnh Khắc
Mạnh, người thầy đã tận tụy hướng dẫn và giúp đỡ tôi để hoàn thành tốt Luận
văn này.
Tôi xin chân thành tri ân và cảm tạ quý vị Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ
phụ trách giảng dạy các chuyên đề Hán Nôm lớp Cao học khóa 2009, đợt 2009 2014 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Tôi cũng xin tri ân Phòng Quản lý Sau Đại học, Giáo vụ bộ môn Hán

Nôm khoa Văn học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành biết ơn Phòng Biên tập và Trị sự Tạp chí Hán Nôm,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tận tình tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành
Luận văn này.

Hà Nội ngày 20 tháng 12 năm 2014
Tác giả Luận văn

Phạm Thị Hƣơng Lan

5


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử ngoại giao là một phần không thể tách rời của lịch sử dân tộc
trong suốt chặng đường dựng nước và giữ nước. Đây có thể nói là một mặt trận
thầm lặng nhưng có sức mạnh vô cùng to lớn về phương diện chính trị. Lịch sử
Việt Nam đã từng ghi nhận về những cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược,
ngoài sách lược quân sự ra thì các văn kiện ngoại giao như tấu, biểu, thư… cũng
là những nhân tố quan trọng góp phần thống nhất đất nước bảo toàn lãnh thổ
quốc gia. Tác phẩm Quân trung từ mệnh tập 軍中詞命集 của Nguyễn Trãi, đã
cho chúng ta thấy ý chí kiên cường, bền bỉ, khôn khéo của cha ông trên mặt trận
ngoại giao. Thời Tây Sơn đã tiếp nối truyền thống ngoại giao của các triều đại
trước, thông qua các văn kiện ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo, cương quyết đã
tạo nên thế và lực của dân tộc Việt Nam thời bấy giờ.
Khảo sát và nghiên cứu tác phẩm Tây Sơn bang giao tập 西山邦交集
chúng tôi muốn góp phần làm nổi bật thành quả ngoại giao trong thời kì Tây

Sơn. Hơn nữa cho đến nay đã có rất nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên
cứu về khía cạnh lịch sử quân sự của thời đại Tây Sơn mà chưa đi sâu làm rõ
thành quả ngoại giao triều đại Tây Sơn giành được thông qua tác phẩm Tây Sơn
bang giao tập.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu về lịch sử bang giao giữa Việt Nam và
Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc vốn có truyền thống bang giao hữu hảo lâu đời.
Hai tác giả Phạm Thiều - Đào Phương Bình sưu tầm biên dịch và công bố với
tiêu đề Thơ đi sứ, (Nxb. KHXH, H, 1993). Trong tác phẩm này tác giả đã nêu
bật được thành quả ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, đồng
thời cũng vẽ ra lộ trình mà các sứ thần Việt Nam sẽ phải đi qua. Ở những thời ấy
sứ thần thường phải đi đường thủy từ Thăng Long đến Yên Kinh, hay Phú Xuân
6


đến Bắc Kinh. Thông thường các sứ đoàn hay theo lộ trình: Thăng Long Quảng Tây - Hồ Nam - Hồ Bắc - An Huy - Giang Tô - Sơn Đông - Hà Bắc Yên Kinh. Những chuyến đi về trên đất Trung Quốc rộng lớn, các sứ giả - nhà
thơ có dịp tận mắt thưởng ngoạn nhiều danh lam thắng cảnh.
Năm 2010, Viện Nghiên cứu Hán Nôm hợp tác với Viện Nghiên cứu Văn
sử thuộc Trường Đại học Phúc Đán Thượng Hải (Trung Quốc) tiến hành sưu
tập, chỉnh lý, biên tập và xuất bản các tư liệu thư tịch Hán Nôm dưới dạng tùng
thư với tên gọi Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành (Nxb. Phúc Đán
Thượng Hải, 25 tập, 2010). Bộ tập thành này bao gồm 79 tác phẩm của hơn 60
tác giả người Việt Nam. Các tác phẩm được viết bằng chữ Hán trong các chuyến
đi sứ của sứ thần Việt Nam sang Trung Hoa trên đoạn đường đi từ Mục Nam
Quan đến Yên Kinh. Nội dung bao gồm thơ ca ghi về đất nước con người,
phong tục tập quán và cảnh quan của Trung Quốc trên chặng đường đi sứ. Đây
là những tư liệu rất có giá trị khi nghiên cứu về đất nước Trung Quốc qua sự ghi
chép của các sứ thần Việt Nam, giúp cho các học giả Trung Quốc có sự đánh giá
đúng đắn về Trung Quốc với tinh thần khoa học “Trung Quốc nhìn từ bên

ngoài”.
Chính vì thế mục đích của luận văn tập trung nghiên cứu về bang giao
thời Tây sơn qua văn bản Tây Sơn bang giao tập, nên chúng tôi tập trung giới
thiệu về nghiên cứu bang giao thời Tây Sơn
2.2. Tư liê ̣u li ̣ch sử về thời Tây Sơn
Triều đại Tây Sơn tuy tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng cũng để lại
cho lịch sử nhiều chiến công vang dội trên mặt trận quân sự lẫn ngoại giao, điều
này đã được tư liệu Hán Nôm ghi nhận và các nghiên cứu chứng minh.
Lịch triều tạp kỉ 歷朝雜紀 do Ngô Cao Lãng biên soạn, Xiển Trai bổ
sung, Bản dịch của Hoa Bằng, được xuất bản do Nxb. KHXH, H, 1975 và được
tái bản năm 1995, là bộ sử viết theo thể tài biên niên, ghi chép các sự kiện lịch
sử từ năm Lê Gia Tông, Dương Đức thứ 1 (1672) đến năm thứ 3 niên hiệu Chiêu
Thống (1789). Quyển 6 của bộ sử này có ghi lại những sự kiện lịch sử năm Kỷ
Dậu (1789). Mở đầu là trận đại thắng quân Thanh, kết thúc là bức thư của viên
7


Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc An Khang gửi Quang Trung, báo tin đã đưa Lê
Chiêu Thống lên an trí ở Yên Kinh. Lịch triều tạp kỷ chú trọng ghi lại những
văn kiện ngoại giao giữa Nguyễn Huệ và Càn Long trong suốt năm 1789.
Hoàng Lê nhất thống chí 皇黎一統誌, một cuốn tiểu thuyết chương hồi
trong Ngô gia văn phái 吳家文派. Tuy là tiểu thuyết chương hồi song Hoàng
Lê nhất thống chí do tính chất nguyên hợp của tư duy văn sử bất phân, nên đã
ghi chép được những sự kiện lịch sử xác thực. Nội dung của tác phẩm, ngoài
việc miêu tả cuộc tranh ngôi đoạt quyền giữa các tập đoàn phong kiến Đàng
Ngoài thời Lê Trung hưng, tác phẩm còn phản ánh phong trào nông dân Tây
Sơn và những tư liệu về quan hệ bang giao Việt Nam và Trung Quốc cuối thế kỉ
XVIII.
Bang giao hảo thoại 邦交好話 trong bộ Ngô gia văn phái 吳家文派 tập
hợp nhiều văn kiện ngoại giao như biểu, tấu, thư của Quang Trung, Quang Toản

gửi vua quan triều Thanh do Ngô Thời Nhậm soạn thảo. Những văn bản đặc sắc
này đã phản ánh khá rõ đường lối ngoại giao đối với Trung Quốc của triều Tây
Sơn. Không chỉ là cuốn sách tập hợp những văn kiện ngoại giao mà còn là tác
phẩm chính luận quan trọng của Ngô Thì Nhậm.
Một số bộ sử biên soạn dưới thời Nguyễn như Khâm định Việt sử thông
giám cương mục 欽定越史通鑒綱目, bộ quốc sử do Quốc sử quán triều
Nguyễn biên soạn hồi cuối thế kỉ XIX viết theo thể biên niên cương mục, bao
gồm nội dung lịch sử Việt Nam từ đời Hùng Vương tới đời Lê Chiêu Thống thứ
3 (1789). Các sự kiện về quan hệ ngoại giao vào thời kì đầu của triều đại Tây
Sơn đã được phản ánh trong tập XX từ năm 1788 đến năm 1789.
Thanh thực lục sử liệu chiến tranh Thanh - Tây Sơn, Nxb. Hà Nội, 2008
do dịch giả Hồ Bạch Thảo sưu tầm dịch. Quyển sách này gồm các chỉ dụ ban
hành từ buổi đầu nhà Thanh can thiệp vào Việt Nam cho đến khi vua Gia Long
lên nắm quyền (1802), đã được tác giả sưu tầm dịch thuật kèm theo lời bình.
Đây là những tài liệu quý về lịch sử.

8


2.3. Các công trình nghiên cứu về thời Tây Sơn
Cho đến nay , nghiên cứu về thời đa ̣i Tây Sơn cũng như nghiên cứu về
anh hùng Nguyễn Huê ̣ là mô ̣t chủ đề đươ ̣c nhiề u ho ̣c giả trong và ngoài
nước quan tâm , và đã có rất nhiều học giả nổi tiếng trong nước xuất bản
những tác phẩ m nghiên cứu c huyên sâu về những vấ n đề thời đa ̣i Tây Sơn
con người Nguyễn Huê ̣ và bang giao thời Tây Sơn với nhà Thanh

,

. Chúng


tôi xin lươ ̣c thảo giới thiê ̣u mô ̣t vài tác phẩ m mang tiń h tiêu biể u nghiên
cứu về thời đa ̣i Tây Sơn và con người Nguyễ
n Huê ̣ , trong đó chủ yếu là
những tác phẩ m có liên quan đế n bang giao thời Tây Sơn
.
Ngay từ những năm giữa thế kỷ XX
, nhà nghiên cứu Hoa B ằng đã
cho ra đời mô ̣t tác phẩ m Quang Trung anh hùng dân tộc, Nxb. Bốn Phương,
1944, sách có 4 chương, nội dung hết sức phong phú về tư liệu Nguyễn Huệ
và triều đại Tây Sơn, nhất là những vấn đề giao thiệp giữa hai triều Tây Sơn
và Mãn Thanh.
Sách Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (gồm 3 tập), Nxb. Giáo dục,
1960, tập I trong chương 8 đã đánh giá những điểm tiến bộ của triều Tây
Sơn và vai trò của Nguyễn Huệ, lãnh tụ xuất sắc của triều đại này. Các tác
giả đã viết “Dựa vào thắng lợi oanh liệt về quân sự, Quang Trung tiến hành
những biện pháp ngoại giao tích cực để dập tắt ý đồ phục thù và can thiệp
của nhà Thanh”. Trong tập III các tác giả một lần nữa lại nêu bật được
chính sách đối ngoại khôn khéo, mềm dẻo của Quang Trung.
Nhà sử học Văn Tân có cuốn Cách mạng Tây Sơn, (Nxb. Văn sử địa,
H,1958), tác giả đã dành nhiều trang phân tích về quan hệ bang giao giữa
hai nước Việt Nam và Trung Quốc vào những năm 1789 - 1802. Đặc biệt
tác giả đã lưu ý tới sách lược khéo léo của Quang Trung nhằm ngăn chặn
âm mưu tái xâm lược của triều đình Mãn Thanh.
Hai tác giả Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng trong cuốn Tìm
hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, (Nxb. Quân đội nhân dân. H.
1963). Nô ̣i dung ch ủ yếu của cuốn sách bàn về nghệ thuật chiến tranh.
Trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của vua Quang Trung trong việc
9



đánh tan vài chục vạn quân xâm lược Mãn Thanh giữ vững nền độc lập dân
tộc, đặt nền móng cho công cuộc thống nhất đất nước.
Đỗ Bang , Hoàng Phủ Ngọc Tường , Lê Văn Hảo , Phan Thuâ ̣n An , Mai
Khắ c Ứng trong cuố n Nguyễn Huê ̣ Phú Xuân (Nxb. Thuâ ̣n Hoá , 1983) đã đi
sâu tim
̀ hiể u con người và mả nh đấ t Phú Xuân cũng như những trang sử đấ u
tranh của người dân Thuâ ̣n Hóa dưới thời Nguyễn Huê ̣

.

Tập 4 của bộ sách Bang giao Đại Việt, xuấ t bản năm 2005, của tác
giả Ngô Thế Long đã giúp chúng ta tìm hiểu mối quan hệ bang giao giữa
triều đình nhà Tây Sơn với triều đình nhà Thanh.
Tác giả Nguyễn Duy Chính trong cuốn sách Bão kiến hay bão tất,
xuất bản năm 2004 đã giải thích cặn kẽ về hai chữ bão kiến và bão tất qua
đó đã đưa ra những chứng cớ để chứng minh rằng sự hiểu lầm từ bão kiến
ra bão tất đã khiến cho chúng ta đánh giá sai lạc chuyến đi sứ lịch sử có
một không hai này, không những coi nhẹ vua Quang Trung mà còn hạ thấp
cả Đại Việt ở vị trí khu vực, không giải thích được nhiều vấn đề bang giao
Việt - Thanh cuối thế kỷ XVIII và lúng túng trong việc nhận định về tương
quan giữa hai nước.
Năm 2001 Trung tâm Nghiên cứu Quốc học đã xuất tác phẩm Ngô
Thì Nhậm, T1 do các tác giả Mai Quốc Liên, Đỗ Thị Hảo, Kiều Thu Hoạch
dịch và giới thiệu các sách Bang giao hảo thoại, Hàn Các anh hoa. Trong
tập sách này các tác giả đã dịch và chú thích rất công phu và tỉ mỉ từng văn
kiện ngoại giao nhằm giúp cho người đọc hiểu rõ hơn sâu hơn về văn phong
ngoại giao thời Tây Sơn.
Bên ca ̣ch đó , phong trào khởi nghiã Tây Sơn cũng đư

ợc các học giả


nước ngoà i quan tâm . Mô ̣t trong những cuố n sách tâ ̣p hơ ̣p những bài nghiên
cứu của các ho ̣c giả nước ngoài và dich
Phong trào
̣ sang tiế ng Viê ̣t đó là
nông dân Tây Sơn dưới con mắ t người nước ngoài

. Trong đó gi ới thiệu

trích dẫn một số nghiên cứu của các ho ̣c giả nổ i tiế ng nước noài về thời đa ̣i
và tiến trình di ễn ra cuô ̣c khởi nghiã Tây Sơn . Ví dụ : Charles B . Maybon
mô ̣t nhà sử ho ̣c Pháp khi nhâ ̣n đinh
̣ về nguyên nhân dẫn đế n sự suy yế u của
10


hai nhà Trịnh - Nguyễ n, ông viế t : “Sự suy yế u của hai dòng ho ̣ lớn thố ng tri ̣
Viê ̣t Nam trong hơn 200 năm có lẽ là do nguyên nhân chính của tình trạng rối
loạn và cả tranh chấp , từ biên giới Trung Hoa cho đế n Vinh
̣ Xiêm ở thế ỷ
XVIII”(1)
Tác giả Jean Chesnneaux mô ̣t giáo sư sử ho ̣c người Pháp chuyên gia
nghiên cứu lich
̣ sử Đông Nam Á , có một cái nhìn hoàn toàn khác về

cuộc

khởi nghiã Tây Sơn . Ông cho rằ ng cuô ̣c khởi Nghiã Tây Sơn vố n là mô ̣t
cuô ̣c khởi nghiã của những thương d
ân. Ông viế t : năm 1772 , ba anh em

Nguyễn Văn Huê ̣ , Nguyễn Văn Nha ̣c và Nguyễn Văn Lữ

, chắ c chắ n xuấ t

thân ở tầ ng lớp thương nhân đã tổ chức mô ̣t cuô ̣c nổ i dâ ̣y ở vùng Quy Nhơn
và An Khê cuộc nổi dậy đã nhanh chóng lan rộng đến nhữ
ng người nông
dân trong vùng miề n núi phía Tây
đồ ng thời là cuô ̣c khởi ngh

(Tây Sơn )… Cuô ̣c nổ i dâ ̣y này cũng

ĩa nông dân . Nông dân đã giữ mô ̣t vai trò chủ

yế u .
Đánh giá về tài ngoa ̣i giao của Nguyễn Huê ̣ tác giả Muraseva G
mô ̣t học giả người Nga đã viế t :

.F

“Từ khi H oàng đế Trung Hoa công nhận Nguyễn Huệ là người cầm
quyề n hơ ̣p pháp ở Viê ̣t Nam , mô ̣t giai đoa ̣n mới , hoà bình trong quan hệ
giữa hai nước bắ t đầ u , đánh dấ u bằ ng mô ̣t loa ̣t nhươ ̣ng b ộ của t riề u Thanh
mà ta có thể xem là những thành tích của Nguyễn Huệ trên trường ngoại
giao”
Tạp chí Hán Nôm số 2 năm 2011 có giới thiệu bài viết của tác giả
Nghiêm Thu Nga với tiêu đề “Tìm hiểu quan hệ giữa La Sơn Phu tử
Nguyễn Thiếp với vua Quang Trung Nguyễn Huệ qua văn bản Hạnh am di
văn”. . Thông qua tác phẩm này người đọc có thể hiểu được mối giao thiệp
giữa La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp với các vua Tây Sơn, đặc biệt là vua

Quang Trung Nguyễn Huệ rất là thân tình. Điều đó được thể hiện qua
những sự việc như khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế đã nhờ La Sơn Phu
1

. Trương Hữu Quýnh chủ biên (1988) Phong trào nông dân Tây Sơn dưới con mắ t
người nước ngoài, Nxb Tổ ng hơ ̣p Nghiã Biǹ h, tr.9.
11


tử xem đất định đô ở Nghệ An, lập viện Sùng Chính để Nguyễn Thiếp làm
Viện trưởng. Chính vì

sự qua lại này dần dần mối quan hệ giữa hai người

chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác và gắn bó ân tình sâu nặng giữa
một vị tân vương của triều đại mới với bậc cựu thần tiền triều
Tạp chí Hán Nôm số 4 năm 2014 có đăng bài viết của hai tác giả Ngô
Thế Long - Ngô Thế Lân với tiêu đề “Giới thiệu sưu tập văn kiện bang giao
thời Tây Sơn”. Nội dung của bài viết này chủ yếu so sánh dị bản giữa hai
quyển Bang giao lục, kí hiệu A.1916 và cuốn Bang giao hảo thoại, kí hiệu
A.117a/7 về tình trạng văn bản trong đó có bàn về tác giả, trật tự sắp xếp
những văn kiện bang giao trong hai quyển sách này. Đây có thể nói là bài
tạp chí
chúng

đầu tiên đề cập đến những văn kiện bang giao Tây Sơn và sắp xếp
thành một hệ thống như thế.

Về luâ ̣n án, cho đế n nay đã có mô ̣t L uận án Tiến sĩ của Nguyễn Ngọc
Nhuận với đề n tài : Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn bang giao đi sứ

của Phan Huy Ích. Trong luận án này tác giả đã nêu bật được thành quả
ngoại giao của triều đại Tây Sơn mà Phan Huy Ích là một trong hai người
đảm trách soạn thảo công văn giao thiệp với nhà Thanh.
Năm 2014, NCS Hoàng Phương Mai đã bảo vệ thành công đề tài luận
án TS: Nghiên cứu văn kiện ngoại giao của triều đình nhà Nguyễn (Việt
Nam) gửi triều đình nhà Thanh (Trung Quốc) giai đoạn 1802- 1885. Luận
án này đã giới thiệu các văn kiện ngoại giao của triều đình nhà Nguyễn gửi
triều đình nhà Thanh giai đoạn 1802- 1885 nhằm góp phần tìm hiểu đường
lối đối ngoại của nhà Nguyễn đối với nước láng giềng Trung Quốc trong
một giai đoạn lịch sử gần nhất với thời đại của chúng ta, cũng là giai đoạn
vừa kế thừa mối quan hệ bang giao truyền thống cũ, vừa chịu tác động bởi
xu hướng chính trị thế giới mới.
Lược qua phần tư liệu chúng ta có thể thấy từ trước đến nay những
quyển sách đã được xuất bản và những bài tạp chí ở một góc cạnh nào đó đã
nói về các văn kiện bang giao thời Tây Sơn, nhưng chỉ là điểm qua, chưa có
sách nào giới thiệu kĩ lưỡng và tỉ mỉ. Vì vậy xét thấy tầm quan trọng của
các văn kiện bang giao thời Tây Sơn là những văn kiện quý, là những áng
12


văn chương chính luận đặc sắc cho nên chúng tôi xin được giới thiệu và
khảo cứu tác phẩm Tây Sơn bang giao tập, kí hiệu A.2364.
3. Đối tƣợng và phạm vị nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn bản Tây Sơn bang giao tập 西山邦交集 và các văn bản có cùng nội
dung hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn mở rộng phạm vi khảo sát văn bản
có nội dung liên quan tới hoạt động ngoại giao của triều đại Tây Sơn, từ đó luận

văn tiến hành khảo sát các văn bản Hán Nôm bang giao thời Tây Sơn hiện lưu giữ
tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Trên cơ sở đó luận văn bước đầu nghiên cứu giá trị
nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Tây Sơn bang giao tập trong hoạt động ngoại
giao thời Tây Sơn nói riêng và ngoại giao Việt Nam nói chung.
4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý thuyết
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa văn nghệ,
đồng thời vận dụng đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc sưu
tầm, bảo vệ, nghiên cứu khai thác và phát huy vốn thư tịch cổ xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Những tri thức về phương pháp Ngữ văn Hán Nôm, phương pháp Văn
bản học, nghiên cứu liên ngành, phân tích tác phẩm đã được vận dụng lý thuyết
nghiên cứu khoa học trong từng chương của luận văn.
Luận văn đã tiếp thu, kế thừa thành quả nghiên cứu từ các công trình
nghiên cứu đi trước của giới nghiên cứu trong và ngoài nước được công bố có
liên quan đến đề tài, để tập trung khai thác văn bản Tây Sơn bang giao tập, qua
đó góp phần vào các kết quả nghiên cứu về hoạt động ngoại giao thời Tây Sơn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, luâ ̣n văn s ử dụng phương pháp nghiên
cứu văn bản học Hán Nôm, nhằm tìm hiểu tìm hiểu các văn bản bang giao thời

13


Tây Sơn hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, qua đó có những
nhận xét về mức độ tin cậy của văn bản Tây Sơn bang giao tập.
Ngoài ra, luâ ̣n văn còn sử dụng nghiên cứu liên ngành, để khai thác tư liệu
lịch sử liên quan đến bang giao thời Tây Sơn; pháp phân tích tác phẩm, nhằm
nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật văn bản tác phẩm Tây Sơn bang giao
tập.

5. Những đóng góp mới của đề tài
- Qua việc khảo sát văn bản tác phẩm Tây Sơn bang tập, luận văn cung
cấp các dị bản của văn bản, từ đó đưa ra một số ý kiến về văn bản bang giao thời
Tây Sơn.
- Góp phần giới thiệu bối cảnh chính tri xã hội văn hóa giáo dục thời Tây
Sơn chung và ngoại giao thời Tây Sơn nói riêng.
- Đưa ra một số nhận xét, đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật mà
tác phẩm mang lại, góp phần làm nổi bật hiệu quả hoạt động ngoại giao thời Tây
Sơn.
6. Bố cục luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Phụ lục, Luận văn gồm những phần
chính sau:

14


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: BANG GIAO THỜI TÂY SƠN

VÀ VĂN BẢN TÂY

SƠN BANG GIAO TẬP
1. 1. Bối cảnh xã hội và bang giao thời Tây Sơn
1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII
1.2.1. Sự ra đời của triều đại Tây Sơn.
1.3.1. Hoạt động bang giao thời Tây Sơn
1.2. Khảo sát văn bản Tây Sơn bang giao tập
1.2.1. Giới thiệu văn bản
1.2.1.1. Tây Sơn bang giao tập, kí hiệu A.2364
1.2.1.2. Bang giao tập, kí hiệu A.1916

1.2.1.3 Bang giao lục, kí hiệu A. 691/2
1.2.1.4. Bang giao hảo thoại kí hiệu A.117a/7
1.2.2. so sánh đối chiếu văn bản tác phẩm Tây Sơn bang giao tập 西山邦
交集, kí hiệu A.2364. với Bang giao lục, kí hiệu A. 1916, Bang giao lục, kí hiệu
A. 691/2 và Bang giao hảo thoại, kí hiệu A.117a/7
1.2.3. Xác định niên đại tác phẩm Tây Sơn bang giao tập
Tiểu kết

15


CHƢƠNG 2: GIỚI THIỆU GIÁ TRỊ TÁC PHẨM TÂY SƠN BANG
GIAO TẬP
2.1. Giá trị nội dung tác phẩm Tây Sơn bang giao tập
2.1.1. Giữ quan hệ hòa hiếu với nước láng giềng
2.1.2. Khẳng định độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước
2.1.3. Sự kiện lịch sử đáng được ghi nhận trong lịch sử bang giao
2.2. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Tây Sơn bang giao tập
2.2.1. Thể văn
2.2.2. Thủ pháp ngôn từ
Tiểu kết
KẾT LUẬN

16


CHƢƠNG 1
BANG GIAO THỜI TÂY SƠN VÀ
VĂN BẢN TÂY SƠN BANG GIAO TẬP


1. 1. Bối cảnh xã hội và bang giao thời Tây Sơn
1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII
Trước khi đi vào tìm hiểu bối cảnh xã hội chính trị thời Tây Sơn
chúng tôi xin điểm qua vài nét về tình hình xã hội Việt Nam giữa thế kỷ
XVIII, để thông qua đó chúng ta có thể phác thảo được diện mạo xã hội một
cách đầy đủ nhất, sinh động nhất.
Như chúng ta đã biết thế kỷ XVIII được mệnh danh là thế kỷ của
những cuộc khởi nghĩa. Vì những năm giữa thế kỷ XVIII đất nước ta rơi
vào tình trạng hết sức bế tắc, cục diện chính trị như một bức tranh đa chiều,
đa màu và đa sắc. Việc tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn phong kiến
đã âm ỉ kéo dài từ những thế kỷ trước, đưa đến việc đất nước chia làm hai
miền, miền Bắc gọi là Đàng Ngoài thuộc sự cai quản của vua Lê chúa
Trịnh. Miền Nam gọi là Đàng Trong hay Nam Hà, thuộc quyền cai quản
của chúa Nguyễn. Sự chia rẽ này bắt đầu manh nha từ sau khi vua Lê Thánh
Tông mất, cục diện chính trị đã bị biến động không ngừng. Chỉ trong vòng
ba mươi năm cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI, các triều vua thay đổi liên tiếp
từ Hiến Tông đến Túc Tông, Uy Mục, Tương Dực, Quang Trị, Chiêu Tông
cuối cùng là Cung Hoàng. Đến năm 1527 khi Mạc Đăng Dung lên ngôi thì
cục diện chính trị còn biến đổi mạnh mẽ hơn, nó thực sự là ngòi nổ để một
lần nữa lại bùng lên thay đổi xã hội, tạo ra sức phản kháng lớn trong tư
tưởng thời đại và cũng là quá trình để phôi thai các tập đoàn phong kiến sau
này. Nguyễn Khắc Thuần trong sách Đại c ương li ̣ch sử c ổ - trung đại Viê ̣t
Nam viế t : “Lê Thánh Tô ng mấ t (1497 ) cuô ̣c suy thoái của bộ máy triều đình
nhà Lê bắt đầu… năm

1516 , Trịnh Sản giết chết Lê Tương Dực và đưa Lê

Quang Thiệu lên ngôi, nhưng đươ ̣c ba ngày đã bi ̣giế t , Lê Y mới 10 tuổi đã
17



đươ ̣c tôn lâ ̣p làm vua

. Đó là Lê Chiêu T ông (1516-1522 ). Hoàng Đế nhỏ
tuổ i , đa ̣i thầ n chuyên quyề n , triề u điǹ h bi ̣chia bè kế t cánh , chính quyền rệu
rã, nguy cơ hỗn chiế n ngày càng đế n gầ n

”[16, 273]. Bắt đầu từ đây đấ t

nướ c la ̣i đang rơi vào tin
̀ h tra ̣ng Nam Bắ c phân tranh sau khi nhà Ma ̣c phế
truấ t nhà Lê lâ ̣p lên nhà Ma ̣c trong suố t giai đoa ̣n từ
1527 đến 1592 . Nhà Lê
phải dạt vào phía Nam , cho đế n năm 1592 sau khi nhà Lê đánh ba ̣i nhà Ma ̣c
thì đất nư ớc mới trở về một mối

, nhưng cũng từ đó mo ̣i quyề n hành đề u

nằ m trong tay ho ̣ Trinh
̣ .
Đế n năm 1600, sau khi Nguyễn Hoàng vào Nam và củng cố lực
lượng, hình thành một thế lực chống đối nhà Lê và chúa Trịnh
nước l ại một l ần nữa rơi vào tiǹ h tra ̣ng Nam Bắ c phân tranh

, từ đó đấ t
.

Ở Đàng Ngoài , song song với viê ̣c can gián vào triề u chiń h

, các đời


chúa Trịnh còn ra sức củng cố quyền uy bằng cách thu hết các quyền hành
vào tay chúng để củng cố sứ c ma ̣nh . Từ đó thế lực nhà Trinh
̣ ngày mô ̣t lớn
mạnh khống chế điều hành đất nước , hầ u hế t các công viê ̣c đáng lý chỉ có
vua mới đươ ̣c phép thì nay đã rơi vào tay Chúa Trinh
̣
Động trong quyển

. Tác giả Nguyễn Văn

Nghiên cứu

về hê ̣ thố ng pháp luật Viê ̣t Nam thế kỷ
XV-thế kỷ XVIII , đã có mô ̣t bài nghiên cứu rấ t kỹ về hê ̣ thố ng phá p luâ ̣t Nhà
Lê với tiêu đề Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương thời vua Lê chúa
Trịnh 1599-1788 đã chỉ ra những điể m yế u của vua Lê trước sự chèn ép của
chúa Trịnh được quy định rõ trong các văn bản
. Cụ thể tác giả đã chỉ ra
những vấ n đề sau :
“Trong liñ h vực hành pháp

(quản lý hành chính ): vua có quyề n gia

phong , thăng giáng , bãi nhi ệm đối với những quan lại cao cấp từ tam phẩm
trở lên , kể cả chúa Trinh
i đứng đầ u
̣ . Còn chúa Trịnh mới thực sự là ngườ
nề n hành chính quố c gia , có quyền tuyển bổ , thăng giáng , cách chức những
quan la ̣i trong bô ̣ máy hành

mê ̣nh lê ̣nh đố i với

chính nhà nước , có quyền chi phối và ban hành

các quan từ tứ phẩm trở xuống và những quan chức

ngoại ” [20, 90- 91].

18


Bước sang thế kỷ XVIII , đă ̣c biê ̣t là giữa thế kỷ XVIII , phong trào
nổ i dâ ̣y của nhân dân diễn ra ở khắp nơi . Năm 1737 , có cuộc nổi dậy của
nhà sư Nguyễn Dương Hưng ở vùng Sơn Tây
nghĩa do Lê Duy Mật ở Thanh Hoá

. Năm 1738 , có cuộc khởi

, cuô ̣c khởi ngh ĩa này duy trì được đến

năm 1770. Năm 1740 - 1741 có cuộc khởi nghĩ a do thủ liñ h Thoan , thủ lĩnh
Thiề u lañ h đa ̣o ở

Hưng Hoá. Ở Sơn Tây có cuộc kh

ởi nghiã của thủ liñ h

Tương từ năm 1741 đến năm 1752. Hay Toản Cơ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
ở Lạng Sơn từ năm 1740 đến 1742 . Ngoài ra còn có các cu ộc khởi nghĩa
khác ở vùng trung tâm đồng bằng bắc bộ như Nguyễn Tuyển


, Nguyễn Cừ ,

Vĩ Trác Oánh , Vũ Đình Dung , Đoàn Danh Chấ n , Tú Cao , Nguyễn Danh
Phương (1741 - 1751), Nguyễn Hữu Cầ u (1741 - 1751), Hoàng Công Chất
(1739 - 1769). Mă ̣c dù hầ u hế t các cuô ̣c khởi nghiã này đề u thấ t ba ̣i

, nhưng

ít nhiều nó đã góp phầ n làm cho bô ̣ máy chính tri ̣của chúa Trinh
̣ ngày mô ̣t
suy tàn và sau đó bi ̣kế t thúc bởi cuô ̣c Bắ c tiế n của Nguyễn Huê ̣

.

Về mặt kinh tế có thể nói giai đoạn này cuộc sống của người dân vô
cùng kiệt quệ vì những cuộc nội chiến kéo dài, xen kẽ những cuộc hưu
chiến bất thường. Chính trị bất ổn dẫn đến nền kinh tế cũng dần suy thoái,
cộng thêm sự áp bức của tầng lớp quan lại, gánh nặng thuế khóa và quân
dịch mỗi ngày càng trở nên nặng nề. Thêm nữa nạn đói bùng phát ở khắp
mọi nơi nhất là ở hai vùng Thanh - Nghệ rồi lan tỏa đi khắp mọi nơi. Hai
thập niên cuối thế kỉ XVII và suốt thế kỉ XVIII, nạn đói triền miên diễn ra
do thiên tai, thời gian diễn ra các nạn đói ngày càng hẹp lại, hầu như xảy ra
hàng năm. Các trận đói thường bắt đầu từ một vùng thiên tai rồi lan sang
các vùng kế cận, mà nó thường xảy ra ở các vùng đồng bằng đông dân cư.
Khủng hoảng trong lĩnh vực cung cấp lương thực, kết hợp với hiện tượng
vùng nông thôn bị nghèo hóa đã dẫn đến một loạt các hậu quả. Các hậu quả
này tác động lẫn nhau cuối cùng dẫn đến tình trạng rất đông người rời bỏ
nông thôn. Nông dân phiêu tán, đất đai bị bỏ hoang, nền sản xuất bị giảm
xuống mức thấp nhất, và hậu quả là đồng ruộng bị chiếm cứ, các điền trang

lớn được tái lập, rất nhiều yếu tố làm cho sự cùng khốn thêm trầm trọng,
khó khăn về lương thực thêm gay gắt. Đây cũng chính là nguyên nhân gây
19


ra sự hỗn loạn trong xã hội. Nội chiến cộng với nghèo đói khiến cho lòng
người trở nên bi quan với cuộc sống hiện tại. Sự xuất hiện của đội quân Tây
Sơn như một luồng gió mới thổi bùng niềm tin trong xã hội, nhân dân hi
vọng nhà Tây Sơn sẽ mang lại cho mình một cuộc sống mới bình yên ấm
no.
1.2.1. Sự ra đời của tri ều đại Tây Sơn.
Nhà Tây Sơn được ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Ở Đàng
Ngoài thế lực họ Trịnh ngày một suy yếu, mệt mỏi bởi các cuộc khởi nghĩa
liên miên, bản thân nội bộ họ Trịnh cũng lục đục chia rẽ. Bên cạnh đó thế
lực họ Trịnh đã từ lâu không thể kiểm soát nổi họ Nguyễn ở Đàng Trong,
nên lúc này họ Trịnh không còn thời gian chú ý đến các việc xảy ra ở Đàng
Trong nữa. Trong khi đó ở Đàng Trong, tuy các cuộc khởi nghĩa không
nhiều nhưng đúng lúc đó nhà Nguyễn rơi vào cảnh suy tàn dưới tay của
Trương Phúc Loan. Chính vì thế, sau khi cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Nhạc
phát động với khẩu hiệu diệt Trương Phúc Loan phò chúa Nguyễn đã nhanh
chóng được người dân ủng hộ, khiến cho cuộc khởi nghĩa Tây Sơn từ một
cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ bỗng chốc gặt hái được nhiều thành công. Trong
khoảng thời gian từ 1771 đến 1789 không chỉ dẹp tan chế độ Trịnh Nguyễn
mà đội quân Tây Sơn với sức mạnh phi thường đã đánh tan được các cuộc
ngoại xâm Trung Hoa.
Như trên đã nói, nhà nước Tây Sơn được ra đời từ cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn do ba anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và
Nguyễn Huệ, trong đó đứng đầu là Nguyễn Nhạc. Năm 1771, trong khi
Đàng Ngoài chế độ Lê - Trịnh ngày một suy yếu. Đàng Trong chúa Nguyễn
cũng rơi vào tình cảnh bị Truơng Phúc Loan cô lập thao túng, đời sống

người dân rơi vào giai đoạn hết sức khốn khó bởi sưu cao thuế nặng, lúc
này anh em nhà Tây Sơn đã cùng dân chúng nổi dậy với khẩu hiệu diệt Phó
Quốc, phù Hoàng Tôn. Với chủ trương này, cuộc khởi nghĩa đã nhận được
sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt với chính sách lấy của nhà
giàu chia cho nhà nghèo càng khiến cho cuộc khởi nghĩa được nhiều người
hưởng ứng: “Chẳng bao lâu sau khi dựng cờ khởi nghĩa, quân Tây Sơn đã
20


làm chủ đuợc toàn bộ vùng rừng núi phía Tây phủ Quy Nhơn. Mùa thu năm
1773, Tây Sơn hạ thành Quy Nhơn, rồi nhân đà thắng lợi cho quân tiến ra
giải phóng Quảng Ngãi và một phần của Quảng Nam ngày nay. Chúa
Nguyễn hốt hoảng, vội điều đại binh vào dàn áp nhưng lại bị Tây Sơn phục
kích” [33, 45]. Mùa xuân năm Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn sai Tôn Thất
Thăng điều động các quân đi thảo trừ, Thăng sợ nửa đêm bỏ binh đội chạy
về. Mùa hè năm 1774, Tống Phúc Hiệp một tướng của chúa Nguyễn kéo
quân ra đánh chiếm đuợc khu vực từ Bình Thuận đến Phú Yên ngày nay.
Quân nhà Tây Sơn lúc này vẫn còn chiếm đóng từ Phú Yên ra đến hết
Quảng Nam. Tuy nhiên trong lúc tình hình vẫn đang rối loạn thì mùa đông
năm 1774, chúa Trịnh đã sai Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc đem quân
vào đánh chiếm Phú Xuân. Tháng 11 năm 1774, với khẩu hiệu diệt Trương
Phúc Loan, và anh em nhà Tây Sơn phù giúp chúa Nguyễn. Trước tình thế
đó chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Thuần) đã bắt Trương Phúc Loan giao nộp
cho quân chúa Trịnh, nhưng quân chúa Trịnh vẫn không tiến đánh, đến cuối
năm 1774 thì chiếm được thành Phú Xuân. Trước tình thế đó Chúa Nguyễn
phải kéo quân vào khu vực Gia Định. Mùa xuân năm 1775, chúa Nguyễn
dừng chân tại Giá Tân, triệu Cửu Dật đến bàn nghị, sách lập Hoàng Tôn
Dương làm Đông cung để vỗ yên quân đội. Nguyễn Nhạc sai Lý Tài đem
đội chiến thuyền ra cửa biển Đại Áp, Nguyễn Nhạc ven theo núi ra sông
Thu Bồn, hai đường cùng tiến đánh, Cửu Dật thua chạy về Trà Sơn.

Tháng 3 năm 1775, Quân Trịnh tiếp tục tấn công vào Quảng Nam
nhằm dẹp tan quân Tây Sơn. Năm 1776, Nguyễn Nhạc cho em là Nguyễn
Lữ làm Tiết chế dẫn quân vào đánh Gia Định, quân chúa Nguyễn bị thua
phải chạy vào Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay)
Trước tình hình phía Bắc bị tấn công bởi quân Trịnh, phía Nam bị
thúc ép bởi quân Chúa Nguyễn, Nguyễn Nhạc khôn khéo đã đưa ra một
chiến lược tạm thời hòa hoãn với Chúa Trịnh để tìm kế đánh tan quân của
Chúa Nguyễn. Để thực hiện kế hoạch này năm Đinh Dậu (1775), Nguyễn
Nhạc sai Đỗ Phú gặp chúa Trịnh xin quy hàng chúa Trịnh, đồng thời nộp

21


cho Chúa Trịnh ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên, rồi tự mình xin
được làm Khổn Tiết ở đất Quảng Nam, và được Trịnh Sâm đồng ý. [27, 39].
Truớc những thắng lợi to lớn như vậy, năm Mậu Tuất (1778), Nguyễn
Nhạc tự lập làm Hoàng đế lấy là năm đầu niên hiệu Thái Đức, gọi thành Đồ
Bàn là thành Hoàng Đế. Đồng thời phong cho Nguyễn Lữ là Tiết chế,
phong cho Nguyễn Huệ làm Long tướng Tuớng quân. Như vậy có thể nói
giai đoạn này quân Tây Sơn đã dần hình thành một vương triều phong kiến
chứ không còn mang dáng dấp của một cuộc khởi nghĩa nông dân nữa,
trong đó những quyền lợi của mỗi cá nhân cũng đuợc phân định theo ngôi
thứ.
Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ một lần nữa đại
thắng tại Cần Giờ, quân họ Nguyễn phải chạy ra đảo Côn Lôn. Năm Giáp
Thìn (1784) Nguyễn Vương phải chạy sang Xiêm cứu viện nhưng đã bị
Nguyễn Huệ đánh cho đại bại.
Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ tiếp tục phản công chiếm
đuợc thành Phú Xuân, sai người mang thư về cho Nguyễn Nhạc nói dẫn thủy
quân tiến thẳng ra Đàng Ngoài, trong vòng một tháng đã đánh tan quân Trịnh.

Trong suốt khoảng thời gian từ năm 1785 đến 1786 Nguyễn Huệ thực sự phát
huy đuợc vai trò của mình trong việc đánh tan giặc ngoại xâm và tiêu diệt hai
tập đoàn Trịnh - Nguyễn. không dừng ở đó, sau khi dẹp tan chế độ họ Trịnh và
trao quyền lại cho nhà Lê chẳng bao lâu, năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ
một lần nữa phải kéo quân ra Bắc để dẹp loạn. Lúc này để giữ yên Đàng Ngoài
vì bộ máy chính quyền nhà Lê thực sự đã suy yếu không còn sức để vực dậy
được nữa. Nên Nguyễn Huệ đã cho Ngô Văn Sở trấn giữ Thăng Long, đồng thời
chiêu mời các sĩ phu tài giỏi ở Bắc Hà như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch,
Phan Huy Ích, Trần Bá Lãm giúp mình giữ yên đất nước trên các mặt trận ngoại
giao cũng như chiến trận.
1.3.1. Hoạt động bang giao thời Tây Sơn
Trong lich
̣ sử Viê ̣t Nam , nhà Tây Sơn tuy tồn tại ngắ n ngủi nhưng để lại
mô ̣t vế t son chói lo ̣i trong lich
̣ sử dựng nước và giữ nước của dân tô ̣c ta cả về
22


quân sự lẫn nghê ̣ thuâ ̣t ngoa ̣i giao. Ngay từ những buổ i đầ u trứng nước , dưới sự
lãnh đạo tài tình và khéo léo của Nguyễn Huệ , nhà Tây Sơn đi từ thắ ng lơ ̣i này
đến thắng lợi khác . Điề u đáng chú ý hơn cả , với vai trò là mô ̣t người lañ h đa ̣o
đấ t nước, vấ n đề mà Nguyễn Huê ̣ luôn quan tâm, đó là viê ̣c tránh cho dân không
bị rơi vào cảnh chiến tranh , tận dụng cơ hội, tranh thủ xây dựng đấ t nước vững
mạnh. Chính vì thế ông đã có chính sách ngoại giao khôn khéo với nhà Thanh.
Quan điể m này đã đươ ̣c thể hiê ̣n rấ t rõ trong lời nói của Nguyễn Huê ̣

thể hiện

như sau: “Chẳng qua 10 ngày là có thể đuổi được người Thanh, nhưng nghĩ nó
là nước lớn gấp 10 nước mình, sau khi thua trận ắt lấy làm hổ thẹn mà cố báo

thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt, thật không phải phúc cho dân,
lòng ta không nỡ làm vậy. Tới lúc đó chỉ có một cách nói thật khéo thì mới ngăn
được cái ngòi chiến tranh” [25, 372]
Qua đây ta thấy thêm tình cảm yêu quý dân của Nguyễn Huệ, đồng thời
thấy được cả trách nhiệm của ông trong việc xác định phương thức ngoại giao.
Đối với nhà Thanh , mô ̣t kẻ thù ma ̣nh nhấ t lúc bấ y giờ , viê ̣c khôn khéo trong xử
lý khi nước nhà vẫn còn đang chìm trong thù trong giặc ngoà

i là mô ̣t điề u hế t

sức khôn ngoan . Để có thể có mô ̣t chiế n lươ ̣c lâu dài ra sức củng cố xây dựng
đất nước. Ông cho rằng chỉ có sức mạnh nội lực mới thực sự là chỗ dựa của đất
nước. Chính sách ngoại giao dù khôn khéo đến đâu nhưng nền kinh tế không đủ
mạnh thì không thể đem lại nền hòa bình thực sự và lâu dài. Điề u này đươ ̣c thể
hiê ̣n khi Nguyễn Huê ̣ ra Tam Điê ̣p đã từ ng nói với Ngô Thì Nhâ ̣m : “Cứ để cho
ta mười năm nữa, nước ta giàu dân ta ma ̣nh, thì ta có sợ gì chúng”. [25]
Cuô ̣c ngoa ̣i giao đầ u tiên giữa Nguyễn Huê ̣ với nhà Thanh k hông phải sau
khi nhà Tây Sơn chính thức được nhà Tha nh công nhâ ̣n, mà ngay từ khi Tôn Sỹ
Nghị đưa quân sa ng xâm lươ ̣c với danh nghiã giúp nhà Lê , thì Nguyễn Huệ đã
có những động thái ngoại giao quan trọng.
Khi sắp kéo quân sang Đại Việt, Tôn Sĩ Nghị cho người đưa thư loan báo :
“Ai bắt sống được Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem nộp sẽ được công đầu”. Đây
thực chấ t là mu ̣c đić h phô trương thanh thế , cũng như muốn thị uy với dâ n Đa ̣i
Viê ̣t của Tôn Sỹ Nghi ̣ . Y đã đưa ra mô ̣t chỉ du ̣ hòng mươ ̣n
23

tay của những kẻ


phản bội để giết anh em nhà Tây Sơn một cách dễ dàng


, từ đó có thể nhanh

chóng xâm lươ ̣c Viê ̣t Nam .
Sau khi chiế m đươ ̣c Thăng Long mô ̣t cách dễ dàng

, Tôn Si ̃ Nghi ̣vô

cùng hống hách . Hiể u rõ đươ ̣c vấ n đề này , Nguyễn Huê ̣ mô ̣t mă ̣t củng cố
lòng tin cho quân sỹ để chiế n đấ u chố ng quân Thanh , một mặt “Để nuôi lòng
kiêu căng của giặc, vua Quang Trung vừa cho gấp rút tiến quân vừa cử một
sứ đoàn gồm 8 người đi theo Trần Danh Bính đến gặp Tổng đốc họ Tôn với
ba đạo bẩm văn (một của Lê Duy Cẩn, một của các cựu thần nhà Lê, một của
nhân dân) bày tỏ sự tình phải thay nhà Lê và ngỏ ý "cung thuận" với "thiên
triều", đồng thời nhà vua lại nộp trả bọn tuần dương binh của nhà Thanh có
bốn chục người bị tướng Tây Sơn bắt được khi còn đóng ở Thăng Long. Tôn
Sĩ Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể nhân viên sứ đoàn lại,
rồi truyền hịch kể tội vua Quang Trung và cho biết sẽ bắt nhà vua cùng đánh
tới Quảng Nam cho sạch cả gốc lẫn ngọn”
Chính vì thế sau chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, Nguyễn Huệ đã rất
khôn khéo nhìn nhận rõ tình hình trong nước lúc bấy giờ không thể tiếp tục
gây chiến hoặc có thêm bất kỳ cuộc chiến nào với nhà Thanh, nên Nguyễn
Huệ đã sai nguời sang gặp Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp là Tả
giang Binh bị đạo để mở đường cho cuộc giảng hòa. Về Phía nhà Thanh sau
cuộc bại trận của Tôn Sĩ Nghị, các quan tướng nhà Thanh cũng rất e ngại thế
mạnh của Đại Việt, đặc biệt là Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp cũng
không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Nên khi đoàn sứ giả của Đại Việt
sang đã rất vui mừng và tận tình giúp đỡ. Thậm chí ngay cả sau này mọi
thuận lợi của Nguyễn Huệ có được cũng do sự giúp đỡ của Phúc Khang An
và Thang Hùng Nghiệp.

Ngoài việc cho sứ giả sang gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng để dọn đường
cho công việc giải hòa và cầu phong vương, ở trong nước Nguyễn Huệ cũng
thực thi những chính sách tạo nên uy tín và thể hiện thiện chí hòa hữu với
nhà Thanh. Cụ thể đối với đám tàn quân của nhà Thanh, Nguyễn Huệ đã
nghiêm cấ m quân lính và người dân
cho phép quân Thanh đươ ̣c ra đầ u thú

truy giết tàn quân nhà Thanh , đồ ng thời
. Đối với những binh liń h nhà Thanh
24


sau khi ra đầ u thú còn đươ ̣c cấ p lương ăn

, quầ n áo mă ̣c ch ờ ngày trao trả về

nước.
Với những chính sách nhân đạo của Nguyễn Huệ và đuợc sự giúp đỡ của
Tổng đốc Lưỡng Quảng, nhà Thanh đã chấp nhận phong vương cho Nguyễn
Huệ, đồng nghĩa với việc nhà Thanh công nhận Đại Việt chính thức có một
vương chủ mới. Đây được coi là một trong những thắng lợi lớn trên mặt trận
ngoại giao của nhà Tây Sơn với nhà Thanh. Điều đáng chú ý hơn nữa, khi
Nguyễn Huệ từ chối sang Trung Quốc nhận phong vương theo thông lệ thì nhà
Thanh đã cho sứ thần sang Đại Việt để thực hiện việc phong vương cho Nguyễn
Huệ. Lần thứ hai Nguyễn Huệ từ chối ra Thăng Long nhận phong vuơng với lý
do sức khỏe không tốt, thì nhà Thanh lại một lần nữa nhún mình đến tận Phú
Xuân để phong vuơng cho Nguyễn Huệ. Có thể nói, mặc dù Nguyễn Huệ trên
danh nghĩa chấp nhận triều kiến nhà Thanh, nhưng trên thực tế, nhà Thanh luôn
bị động trước những mưu tính khôn khéo của Nguyễn Hụê. Chính vì thế mà
nhà Thanh hết lần này đến lần khác phải nhựợng bộ những yêu cầu của Nguyễn

Huệ. Điều mà trong lịch sử Việt Nam trước đây chưa bao giờ làm được. Thậm
chí ngay việc sang dự lễ bát tuần của Càn Long Nguyễn Huệ cũng không đi mà
sai người đóng giả đi thay.
Sau những thành công được kể trên của nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã tiếp
tục thực hiện thêm những chính sách phản kháng của mình với nhà Thanh. Cụ
thể Nguyễn Huệ yêu cầu nhà Thanh bỏ tục cống nguời vàng, và mở chợ buôn
bán giao thương tại Cao Bằng và Lạng Sơn. Tiếp đó, năm 1792 Nguyễn Huệ
còn cử Vũ Văn Dũng làm Chánh sứ mang biểu sang cầu hôn công chúa nhà
Thanh và đòi lại vùng đất Lưỡng Quảng. Thật đáng tiếc ngày 16 tháng 9 năm
1792, Nguyễn Huệ đột ngột qua đời khiến cho những kế hoạch còn dang dở của
ông không thực hiện được.

25


×