Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi việt nam ra nhập WTO luận văn ths kinh tế 60 31 01 pd

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.12 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

Nguyễn Thanh Thảo

Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước sau khi Việt Nam ra nhập WTO

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà nội - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ

Nguyễn Thanh Thảo

Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước sau khi Việt Nam ra nhập WTO

Luận văn Thạc sĩ
Mã Số: 60.31.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Minh Khải

Hà nội - 2007


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài


Việc tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO) đang diễn ra sôi
động trong đời sống toàn cầu và là xu thế nổi bật của thời đại. Không một
quốc gia nào có thể đứng ngoài quá trình gia nhập WTO nếu muốn tranh thủ
thời cơ để phát triển vì WTO là tổ chức Thương mại lớn nhất toàn cầu với
150 nước thành viên, chiếm trên 90% kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu toàn
thế giới.
Với việc gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn, trọn vẹn
và toàn diện hơn vào sân chơi rộng lớn của thế giới. Mỗi doanh nghiệp Việt
Nam đứng trước những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen
nhau. Từ nay, họ thường xuyên hằng ngày, hằng giờ sống chung với áp lực
cạnh tranh từ nhiều phía, cả từ thị trường trong nước và thị trường thế giới.
Trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thì doanh nghiệp nhà nước có
vai trò quan trọng nhất trong việc chủ động gia nhập WTO vì hiện nay doanh
nghiệp nhà nước đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, 20% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư Nhà nước, 60% tổng lượng
tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước ngoài, trên 90%
đối tác Việt Nam tham gia các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước
ngoài là doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa, việc doanh nghiệp nhà nước thích
ứng nhanh, rộng và sâu với những chuẩn mực của WTO (chủ yếu là tự do hóa
đầu tư và thương mại trên bình diện quốc tế) chẳng những sẽ tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính mình mà còn mở ra cơ hội
cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển và cạnh tranh lành mạnh.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của quá trình đổi mới, phát triển và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế thì doanh nghiệp nhà nước vẫn còn nhiều yếu kém,
hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế
có được đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước?

1



Đây đang là một yêu cầu bức thiết, được sự quan tâm lớn của Đảng, Nhà
nước và của từng doanh nghiệp. Vì vậy, việc tiếp tục nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh hiện nay mang một ý nghĩa
hết sức quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Với quan niệm như vậy, tác giả
lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau
khi Việt Nam gia nhập WTO” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu các vấn đề về doanh nghiệp nhà nước,
một bộ phận kinh tế quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, luôn được sự
quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu, quản lý và hoạch định chính sách.
Nhiều công trình nghiên cứu về doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai và
nhiều kết quả nghiên cứu đã được áp dụng vào đời sống thực tiễn cải cách
doanh nghiệp nhà nước như:
- “Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế” (2002), luận văn thạc sỹ kinh tế của Dương Thị Hồng Nhung - Khoa
Kinh Tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- “Giải pháp huy động và sử dụng vốn đối với doanh nghiệp nhà nước
hoạt động kinh doanh ở Việt Nam” (2002), luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn
Văn Tạo, Đại học kinh tế quốc dân.
- “Những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước và vận dụng
nó vào việc tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” (2002), luận
án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Mạnh Quân, Đại học Kinh tế quốc dân.
- “Tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam giai đoạn đến 2010” (2003), luận án tiến sỹ của Đỗ Thị Phi Hoài,
Viện Kinh tế học.
- “Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
từ 1986 đến nay - Thực trạng và giải pháp” (2005), luận án tiến sỹ của Hoàng
Hà, Đại học Kinh tế quốc dân.


2


- “Cơ chế quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước” (2005),
luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Thị Mai Hương, Đại học kinh tế quốc dân.
- “Tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trước
sức ép hội nhập” (2003), của GS.TS Tào Hữu Phùng, Tạp chí Ngoại thương,
số 13+14.
- “Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế”, (2006), của PGS.TS Cao Duy Hạ, Tạp chí lý
luận, số 1.
Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình này đã đề cập đến
việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên,
chưa đi sâu vào khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nhà nước.
Trên thực tế, đã có công trình nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nhưng đó là doanh nghiệp Việt Nam nói chung, ít có
đề tài nào đi sâu vào vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nhà nước khi Việt Nam gia nhập WTO.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu: Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nhà nước. Qua đó, đề xuất một số quan điểm và giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi
Việt Nam gia nhập WTO.
Nhiệm vụ:
* Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp nhà nước
* Khảo sát thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước
trước khi Việt nam gia nhập WTO.
* Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng

cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam gia
nhập WTO
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp nhà nước Việt Nam.
Phạm vi:
* Không gian: các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam
* Thời gian: từ 1995 đến nay
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như: duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp kết hợp
logíc và lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê, phân tích và tổng hợp,
phương pháp chuyên gia.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Khẳng định có căn cứ khoa học và thực tiễn về sự cần thiết phải nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
- Hệ thống hóa kinh nghiệm của Trung Quốc về nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi gia nhập WTO
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của DNNN trước
khi gia nhập WTO, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng
cao năng lực cạnh tranh của DNNN sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp nhà nước khi gia nhập WTO
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước

trước khi Việt Nam gia nhập WTO
Chương 3: Những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước sau khi Việt Nam gia
nhập WTO
4


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
KHI GIA NHẬP WTO
1.1 Tổng quan về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp
* Khái niệm cạnh tranh:
Kinh tế thị trường được xem như là một trong những thành tựu vĩ đại
nhất trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Nó luôn hàm chứa trong
mình những cơ hội và thách thức đối với sự nhạy bén và sáng tạo của con
người trong môi trường cạnh tranh.
Dưới tác động của quy luật cung cầu, quy luật giá trị, các chủ thể kinh
doanh đã cạnh tranh với nhau để cùng với bên kia của thị trường (người tiêu
dùng) xác định giá cả và sản lượng của hàng hóa. Dưới tác động của cạnh
tranh, thị trường tự thân nó luôn luôn phải giải quyết sự mâu thuẫn không
ngừng vận động giữa sở thích của người tiêu dùng và hạn chế kỹ thuật (giới
hạn khả năng sản xuất).
Do vậy, cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Nó
chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh tế thị trường, nơi mà cung và cầu là cốt
vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh
không những là môi trường và động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các

doanh nghiệp nói riêng mà còn là nhân tố quan trọng làm lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội.
Thực tế cho thấy cạnh tranh là hoạt động xã hội hết sức phức tạp đòi
hỏi được làm sáng tỏ ở nhiều tầng tiếp cận khác nhau.

5


Cạnh tranh theo định nghĩa của Đại từ điển Tiếng Việt là “ganh đua
giữa những cá nhân, tập thể có chức năng khác nhau, nhằm giành phần hơn,
phần thắng về mình”.
Theo Mác, “Cạnh tranh là nguồn gốc đẩy tới sự mù quáng của chủ
nghĩa tư bản tự do phóng túng, sự sung đột mãi mãi giữa các lực lượng cũ và
mới, đồng thời cũng là một cuộc vật lộn sống chết mà các nhà tư bản không
thể không tham dự”. Quan điểm này cho thấy sự cạnh tranh là sự ganh đua
gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Trong từ điển thuật ngữ kinh tế học (Nhà xuất bản Bách Khoa Hà Nội –
2001) thì cạnh tranh “là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, các tập đoàn
hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai hay nhiều bên cố gắng giành lấy
thứ mà không phải ai cũng có thể giành được”.
Trong từ điển kinh doanh (xuất bản tại Anh năm 1992). “Cạnh tranh là
sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình”.
Ủy ban cạnh tranh công nghiệp của tổng thống Mỹ cho rằng “ cạnh
tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện của thị
trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng
được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu
nhập thực tế của nhân dân nước đó”.

Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác – Lênin nêu ra định nghĩa: “Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản
xuất – kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất – kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo
đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh.

6


Các quan niệm trên đây có sự khác biệt trong diễn đạt và phạm vi,
nhưng có những nét tương đồng về nội dung. Từ đó có thể đưa ra một quan
niệm tổng quát sau đây về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Cạnh tranh
là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện
pháp để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng cũng như những điều kiện sản xuất, thị trường có lợi
nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh
là tối đa hóa lợi ích, đối với người sản xuất – kinh doanh là lợi nhuận, đối với
người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Như vậy, cạnh tranh, xét về bản chất luôn được nhìn nhận trong trạng
thái động và ràng buộc trong mối quan hệ so sánh tương đối. Vì vậy, mọi
quan hệ giao tiếp mà các bên tham gia nỗ lực tìm kiếm vị thế có lợi cho mình
đều có thể diễn tả trong khái niệm cạnh tranh. Khái niệm cạnh tranh được
xem xét đầy đủ trên cả hai mặt: tích cực tạo động lực cho sự vươn tới một kết
quả tốt nhất, nhưng một khi những kỹ năng này được thể hiện một cách cực
đoan, nó có thể dẫn đến một thực trạng tiêu cực với kết quả trái ngược nhau.
Trong xu thế hội nhập vào trào lưu tự do hóa thương mại, khái niệm cạnh
tranh và năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trên quy mô toàn cầu, việc
tiếp cận những khái niệm đó cũng cần được xác định trên cơ sở logic, hệ
thống. Theo đó, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp phải được phân tích

trong lợi thế cạnh tranh ngành, quốc gia, khu vực.
* Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được sử dụng khá phổ
biến trong lý thuyết về tổ chức ngành công nghiệp. Lý thuyết này cho rằng,
một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh khi doanh nghiệp đó đứng
vững trên thị trường bằng cách sản xuất ra những sản phẩm tương tự các đối
thủ với mức giá thấp hơn hay bằng cách cung cấp các sản phẩm tương tự với
các đặc tính về chất lượng hoặc dịch vụ hoàn hảo, đáp ứng được thị hiếu cho
khách hàng trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Một doanh nghiệp yếu

7


kém về năng lực cạnh tranh sẽ bị đẩy ra khỏi thị trường nếu như doanh nghiệp
đó không kịp thời thay đổi “ hình ảnh” của mình trước các đối thủ. Lợi ích mà
doanh nghiệp này đạt được trong cạnh tranh đồng nghĩa với việc gây ra những
“ tổn thương” cho doanh nghiệp khác là đối thủ tham gia cạnh tranh với mình.
Cạnh tranh của các doanh nghiệp trong một ngành nào đó có tính chất sống
còn sẽ được đặc trưng bởi trò chơi mà nếu một bên được thì bên kia phải mất:
zero- sumgame
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và chương trình
phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của
doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước”(1). Có
ý kiến khác: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phát huy thực lực, sử
dụng lợi thế để tồn tại và phát triển trên thị trường một cách vững chắc nhằm
thu được lợi nhuận ngày càng cao”(2).
Cuốn sách Asian Development Outlook, xuất bản năm 2003, trang 205
định nghĩa năng lực cạnh tranh (Competitiveness) là “Khả năng của một công
ty tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng

lợi nhuận, giá cả, lợi tức và chất lượng các sản phẩm cũng như năng lực của
nó để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh các thị trường
mới” và “một công ty có sức cạnh tranh nếu có thể sản xuất các sản phẩm và
dịch vụ chất lượng cao và chi phí thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trong nước
và quốc tế của nó. Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với lợi nhuận dài hạn và
khả năng của nó để bồi hoàn cho người lao động và tạo ra thu nhập cho các
chủ sở hữu”.
Có ý kiến khác chi tiết và tổng quát hơn cho rằng : “Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp được phản ánh không chỉ bằng năng lực cạnh tranh
của các sản phẩm, dịch vụ do nó cung ứng, mà nó còn bằng năng lực tài
chính, năng lực quản lý (cả đối nội và đối ngoại), vị thế của doanh nghiệp trên

8


thị trường cũng như uy tín của chính doanh nghiệp. Nhưng, năng lực cạnh
tranh của các sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp phản ánh tập trung
và hội tụ các yếu tố khác quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để có hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao, giá rẻ, doanh nghiệp phải tổ chức
sản xuất và tiêu thụ hiệu quả sao cho không lãng phí ở bất cứ khâu nào, sao
cho công nghệ của doanh nghiệp luôn ở thế hệ hiện đại nhất. Đồng thời,
doanh nghiệp phải có khả năng tự đổi mới, biết tìm và đưa ra các sản phẩm,
công nghệ mới. Muốn vậy, phải đầu tư cho công nghệ, cho con người để họ
lao động sáng tạo và có năng suất cao. Ngoài ra, doanh nghiệp còn cần có
tiềm lực tài chính để đương đầu với các doanh nghiệp cạnh tranh, phải có đủ
thông minh để dàn xếp quan hệ đối tác và quan hệ với Nhà nước sao cho
không chỉ sức mạnh kinh tế mà uy tín của doanh nghiệp cũng không ngừng
tăng lên. Ngoài ra, sức cạnh tranh so sánh giữa doanh nghiệp nước này, địa
phương này với doanh nghiệp nước khác, các địa phương khác…còn phụ
thuộc vào sự thuận lợi hay không thuận lợi của kết cấu hạ tầng, và các chi phí

trung gian, vào sự dễ hay khó có được các dịch vụ công với các chi phí thấp.
Nói cách khác, môi trường kinh doanh cũng ảnh hưởng lớn đến sức cạnh
tranh của DN, nhất là môi trường tài chính và môi trường luật pháp”.
Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, nhưng theo tác giả: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
hiệu quả của sự kết hợp các yếu tố cấu thành về chất tạo nên sức mạnh cạnh
tranh kinh tế của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh trong một giai
đoạn nhất định thuộc môi trường cạnh tranh lành mạnh, được thể hiện qua
những tiêu chí khác nhau như: Doanh thu, thị phần, tỷ suất lợi nhuận, sức
mạnh thương hiệu, thị giá cổ phiếu…
Với quan niệm như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần
được nhận thức đồng thời trên hai góc độ: các yếu tố cấu thành về chất của
năng lực cạnh tranh và các chỉ tiêu về lượng đo lường năng lực cạnh tranh.

9


* Khái niệm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Theo cách tiếp cận trên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn
trong trạng thái vận động dẫn đến kết quả là lợi thế cạnh tranh, thị phần và lợi
nhuận của doanh nghiệp có thể thay đổi theo chiều hướng bất lợi hay thuận
lợi. Do vậy, để duy trì năng lực cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh của
kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào cũng phải thường xuyên nâng cao năng
lực cạnh tranh bằng các biện pháp và hành động cụ thể. Cho đến nay, vẫn
chưa có một quan niệm chính thức nào mang tính học thuật về nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện gia nhập WTO. Theo tác giả
để có thể tiếp cận khái niệm nâng cao năng lực cạnh tranh cần chú ý đến
những vấn đề sau:
Một là, nói đến nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hay một
chủ thể kinh tế nào đó là nói đến một hành vi kinh tế đặc trưng - khả năng đổi

mới và sáng tạo không ngừng của nó để vượt qua đối thủ do động lực lợi ích
kinh tế và áp lực cạnh tranh chi phối. Nếu thiếu một trong hai yếu tố trên thì
không có hành vi cạnh tranh hay nâng cao năng lực cạnh tranh. Hai yếu tố
này chỉ tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi có sự độc lập về kinh tế của
nhiều chủ thể cùng theo đuổi một mục tiêu nào đó trên thị trường.
Hai là, Hoạt động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao
hàm cả việc giải quyết các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp (cốt lõi là
tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế) và giải quyết các mối quan hệ
bên ngoài doanh nghiệp (giành lấy điều kiện thuận lợi hơn, thị phần lớn hơn).
Trong khi hành vi cạnh tranh chỉ bao hàm giải quyết các mối quan hệ bên
ngoài giữa doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh. Cả hai mối quan hệ trên
đều cần có những biện pháp và thủ đoạn nhất định để đạt được mục tiêu,
nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về phạm vi xử lý.
Ba là, Hoạt động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn
được đặt trong môi trường kinh tế - xã hội (môi trường kinh doanh) nhất định.

10


Nó không giống nhau ở mỗi quốc gia do độ mở của thị trường, thể chế chính
trị và trình độ phát triển kinh tế. Do đó, doanh nghiệp ở mọi quốc gia đều phải
cạnh tranh quyết liệt với nhau để đưa ra lợi thế riêng so với đối thủ cả trong
và ngoài nước.
Bốn là, Kết quả của nâng cao năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp phải
giữ vững, mở rộng được thị phần và lợi nhuận trước các đối thủ cạnh tranh
hiện có và tiềm tàng nhờ tạo ra được những sản phẩm và dịch vụ có sức cạnh
tranh cao, chiếm lĩnh được niềm tin của khách hàng.
Với cách tiếp cận đó có thể quan niệm: nâng cao năng lực cạnh tranh
của DN trong điều kiện gia nhập WTO là hoạt động không ngừng đổi mới,
sáng tạo ra lợi thế cạnh tranh mới có tính vượt trội từ những nguồn lực hoặc

yếu tố sản xuất mà doanh nghiệp huy động được so với các đối thủ cạnh
tranh hiện có và tiềm tàng nhằm giữ vững, mở rộng thị phần và lợi nhuận cho
doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng.
1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chìa khóa để hiểu và phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
khi gia nhập WTO là phải xác định được các yếu tố cấu thành của chúng.
Khái quát lại, nó bao gồm các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
1.1.2.1 Các nhân tố bên trong năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Nhân tố bên trong năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tập hợp
bao gồm: Chiến lược kinh doanh; tiềm lực tài chính; chất lượng nguồn nhân
lực; trình độ khoa học công nghệ; chi phí kinh doanh; năng lực tiếp cận thị
trường; văn hóa doanh nghiệp.
* Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Michael E.Porter, Giáo sư nổi tiếng về chiến lược kinh doanh của
trường Đại học Harvard, đã phát biểu những quan điểm của mình về chiến
lược qua bài báo “ Chiến lược là gì” (năm 1996):

11


Thứ nhất, chiến lược là sự sáng tạo ra vị thế có giá trị và độc đáo bao
gồm các hoạt động khác biệt.
Thứ hai, chiến lược là sự lựa chọn, đánh đổi trong cạnh tranh.
Thứ ba, chiến lược là việc tạo ra sự phù hợp giữa tất cả các hoạt động
của công ty.
Chiến lược có thể coi là tập hợp những quyết định và hành động hướng
tới mục tiêu để các năng lực và nguồn lực của tổ chức đáp ứng được những cơ
hội và thách thức bên ngoài. Theo Albert.J.Dunlap, “Chiến lược của doanh
nghiệp phải hội tụ như tia laze, không tỏa rộng như viên đạn ghém”.
Hội tụ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp gồm nhiều loại chiến

lược phân theo các cấp độ khác nhau gắn với từng lĩnh vực cụ thể của doanh
nghiệp như: chiến lược về vốn, chiến lược khoa học và công nghệ, chiến lược
phát triển nguồn nhân lực; chiến lược sản phẩm; chiến lược khai thác thị
trường và phục vụ khách hàng; chiến lược cạnh tranh với từng đối thủ xác
định…Thành công ở từng chiến lược là bằng chứng xác đáng nhất về hiệu
quả của chiến lược kinh doanh. Chẳng hạn, đứng trước một đối thủ xác định ,
muốn chiến thắng trong cạnh tranh phải phân tích kỹ đối thủ (cả đối thủ “trên
cơ” và đối thủ “dưới cơ”). Nhận thức được điều này là đã tuân thủ nguyên tắc:
“Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Khi phân tích đối thủ cạnh tranh
cần chú ý mấy điểm sau:
Điểm 1: Xác định đối thủ (bao gồm các đối thủ hiện tại và các đối thủ
tiềm tàng). Nhờ xác định một tập hợp đối thủ mà phân loại được đối thủ, qua
đó tìm cách đối phó với từng đối thủ cụ thể đảm bảo được tính thực tiễn trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Điểm 2: Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ tức là tìm ra được
lợi thế và những bất lợi thế của đối thủ khi tiếp cận cạnh tranh với doanh
nghiệp của mình trên thị trường. Điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ không
12


phải là một hằng số, nó luôn thay đổi, tùy thuộc vào mục tiêu kinh doanh của
đối thủ đó ở từng thời gian và trong từng không gian nhất định; biến thiên
theo đà thành đạt và phản ứng linh hoạt khi đối thủ vấp phải rủi ro. Càng phân
tích kỹ điểm này doanh nghiệp càng phát huy được lợi thế của mình trong
cạnh tranh.
Điểm 3: Biết được chiến lược kinh doanh của đối thủ, đẩy mạnh việc
nhận thức đối thủ lên một bước ở từng loại sản phẩm cụ thể. Khi nắm bắt
được càng rõ những “chiêu bài” của đối thủ (về chất lượng sản phẩm, giá cả,
hệ thống phân phối, marketing, chuyên biệt hóa…) thì hành động phản ứng
“bắt bài” đối thủ sẽ hiệu quả hơn rất nhiều.

* Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp
Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp không chỉ thể hiện ở quy mô vốn
kinh doanh. Có những doanh nghiệp quy mô vốn “lớn” nhưng “không mạnh”,
đó là do cơ cấu tài sản, nguồn vốn không phù hợp với quy mô và đặc thù sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp chưa biết khai thác và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của mình và không tránh được nguy c
nợ đọng trong thanh quyết toán. Ngược lại, có những doanh nghiệp quy mô
nhỏ nhưng vẫn được coi là mạnh vì doanh nghiệp đã duy trì tình trạng tài
chính tốt, biết cách huy động những nguồn tài chính thích hợp để sản xuất
kinh doanh những sản phẩm có sức cạnh tranh phục vụ tốt thị trường mục tiêu.
Như vậy, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải
nâng cao tiềm lực tài chính của doanh nghiệp mình không chỉ bằng cách tăng
quy mô vốn mà quan trọng hơn là phải nâng cao khả năng huy động vốn, bởi
vì khả năng huy động vốn có hiệu quả phục vụ cho quá trình tái sản xuất là
một nội dung rất quan trọng, nó không những phản ánh năng lực của doanh
nghiệp trong việc tiếp cận những yếu tố đầu vào của sản xuất, mà còn tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tiêu thụ sản phẩn sau này.

13


* Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa sống còn đối với năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, nó cho phép doanh nghiệp thực hiện được chủ trương
chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo chiều sâu, ứng dụng rộng rãi kỹ thuật và công
nghệ tiên tiến vào các quy trình sản xuất nhằm thực hiện chuyên môn hóa sâu
rộng, chuyên biệt hóa sản phẩm… Vì thế, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thông điệp ở đây là : Thu hút và phát triển nguồn nhân lực tài năng là yếu tố
chủ chốt quyết định tốc độ tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh cho

doanh nghiệp trong dài hạn.
* Trình độ khoa học công nghệ
Nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh
tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trình độ khoa học công nghệ
có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên sức cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác
động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm phát triển và
đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh.
Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh
tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng
khoa học công nghệ cao. Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các doanh
nghiệp sản xuất trong nước tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ
tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền
kinh tế quốc dân. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình.
* Chi phí kinh doanh
Bao gồm chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D); các chi
phí tiện ích (điện, nước, điện thoại…); chi phí vận tải; chi phí thuê mặt bằng

14


sản xuất kinh doanh… là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới
là chi phí quan trọng trong nền kinh tế hiện đại bởi các doanh nghiệp muốn
tồn tại, có sức cạnh tranh thì cần phải biết đổi mới mình. Do đó, đối với hầu
hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là tại các nước phát triển chi
phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ
cấu chi phí nhằm tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn

các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và tạo một
vị trí vững chắc trên thị trường. Các chi phí điện nước… luôn là một yếu tố
được xem xét khi có dự án đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài. Nó cũng được
xem xét đến khi so sánh sức cạnh tranh giữa các nước. Điều này cho thấy chi
phí điện, nước… ảnh hưởng không nhỏ tới giá thành sản phẩm trong một số
ngành và có ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Năng lực tiếp cận thị trường
Thị trường là nơi kiểm chứng tốt nhất cho sức cạnh tranh của doanh
nghiệp. Theo quan điểm sản xuất, có thị trường các yếu tố đầu vào và thị
trường các yếu tố đầu ra với hai hoạt động cơ bản là nghiên cứu nhu cầu thị
trường và xác định thị trường mục tiêu. Hiểu biết, nắm bắt thị trường nhạy
bén đi đôi với khai thác và chiếm lĩnh thị trường mục tiêu là nhiệm vụ sống
còn của doanh nghiệp vì nó tác động trực tiếp đến quá trình tái sản xuất mở
rộng. Quá trình này đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, khoa học và
chấp nhận chi phí thỏa đáng. Sức mạnh cạnh tranh quốc tế đòi hỏi sự phân
tích chính xác từng đoạn thị trường nhằm đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi từ
phía cầu.
* Văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp vì yếu tố này tác động đến cách thức các cá
nhân, nhóm, bộ phận tương tác với nhau và khả năng sáng tạo của họ. Nếu
doanh nghiệp xác định được truyền thống văn hóa thích hợp sẽ là nhân tố

15


thuận lợi khai thông mọi ý tưởng sáng tạo, kích thích tiềm năng của các cá
nhân và hệ thống, gắn kết được các hoạt động các cá nhân, bộ phận trong
doanh nghiệp thành thể thống nhất, thực hiện hài hòa lợi ích và gắn kết được
người lao động và quản lý với sự phát triển của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu

văn hóa doanh nghiệp đề cao cách làm việc mang tính “rập khuôn” máy móc,
thụ động, không khuyến khích những ý tưởng mới sẽ làm hạn chế khả năng
đổi mới của doanh nghiệp.
1.1.2.2 Các nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
* Chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Michael.E.Porter chỉ ra bốn yếu tố quyết định môi trường kinh doanh
của doanh nghiệp trong phạm vi quốc gia. Tư tưởng này được khái quát như
sau:
Một là, đầu vào cho quá trình sản xuất
Các doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh nếu họ sử dụng tốt các
nhân tố đầu vào có chi phí thấp, chất lượng cao như: chất lượng và số lượng
nguồn lao động; hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ ; nguồn tài nguyên; khí
hậu, vị trí địa lý thuận lợi; nguồn vốn tài chính và chiến lược phát triển khoa
học - công nghệ quốc gia…Năm nhóm đầu vào này được phân ra thành 2
dạng cơ bản là đầu vào sơ cấp và đầu vào cao cấp, được sử dụng chung cho
mọi ngành hay có tính chất chuyên ngành.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại thì
cạnh tranh dựa vào những yếu tố đầu vào sơ cấp - phổ biến (tài nguyên, khí
hậu, vị trí địa lý, lao động giản đơn …) phải nhường vị trí ưu tiên hàng đầu
cho phát triển cạnh tranh dựa vào yếu tố đầu vào cao cấp - chuyên ngành (hệ
thống viễn thông hiện đại, lao động kỹ thuật cao, công nghệ cao…). Đầu vào

16


chuyên ngành có vai trò quyết định hơn, bền vững hơn đầu vào phổ biến, mặt
khác đầu vào chuyên ngành thường là đầu vào cao cấp. Như vậy, lợi thế cạnh
tranh của DN chủ yếu phụ thuộc vào việc tạo ra các yếu tố đầu vào hơn là

việc sử dụng các yếu tố đầu vào đã có. Chẳng hạn như ngành sản xuất thép ở
Nhật Bản có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới dù họ không có lợi thế
về tài nguyên sắt hoặc than mà ở chỗ họ có công nghệ sản xuất thép rất tốt.
Hai là, sức ép từ phía cầu
Ba khía cạnh chủ yếu của nhu cầu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp: bản chất của nhu cầu, dung lượng và tốc độ của tăng
trưởng của nhu cầu, cơ chế lan truyền nhu cầu trong nước ra thị trường quốc
tế. Khi người tiêu dùng đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm và các dịch vụ đi
kèm theo sẽ tạo áp lực đối với các doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn
về chất lượng sản phẩm, đặc tính kỹ thuật, dịch vụ… tạo sức ép chuyển sang
đáp ứng đoạn nhu cầu mới cao cấp hơn qua đó nâng vị thế của doanh nghiệp
trong cạnh tranh. Tốc độ tăng trưởng của nhu cầu trong nước ở một khía cạnh
khác là nhu cầu bão hòa nhanh chóng sẽ kích thích doanh nghiệp phải thường
xuyên quan tâm đến đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động… Tức là
phải liên tục đổi mới.
Với những doanh nghiệp cạnh tranh mạnh trong môi trường trong nước
thì khi tham gia cạnh tranh quốc tế sẽ có nhiều cơ may chiến thắng hơn.
Chẳng hạn, như các doanh nghiệp trong ngành chế biến thức ăn nhanh của
Hoa Kỳ có sức cạnh tranh rất mạnh trên thị trường thế giới là do người tiêu
dùng trong nước là những khách hàng đòi hỏi tốc độ và sự thuận tiện nhất thế
giới.
Ba là, ngành công nghiệp phụ trợ
Ngành công nghiệp phụ trợ là ngành mà doanh nghiệp có thể phối hợp
và chia sẻ trong chuỗi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chúng có tính

17


chất bổ trợ ở các khâu của quá trình sản xuất. Ngành công nghiệp phụ trợ bao
gồm sản xuất chi tiết linh kiện, các công nghệ sản phẩm đầu vào để sản xuất

ra sản phẩm cuối cùng. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành phụ trợ
càng mạnh thì tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp mũi nhọn (chính) càng
lớn, cơ hội thành công trong cạnh trạnh của doanh nghiệp càng cao.
Sự hiện diện của các cụm công nghiệp tạo ra cho doanh nghiệp một lợi
thế kinh tế theo quy mô, giảm thiểu chi phí sản xuất và hiệu ứng lan truyền,
chuyển giao, chia sẻ công nghệ rất hữu ích. Sở dĩ ngành sản xuất máy tính của
của Hoa kỳ là một trong những đầu đàn vì các công ty có nhiều sáng kiến,
phát minh, ứng dụng công nghệ mới trong ngành công nghệ bán dẫn, vi xử lý,
hệ thống điều hành và dịch vụ máy tính.
Bốn là, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp phù hợp với cạnh tranh quốc tế
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp bị tác động rất lớn từ cấu trúc của
sở hữu (Nhà nước, tập thể, tư nhân, hỗn hợp). Cơ cấu tổ chức và hoạt động
nhanh gọn, mô hình quản lý doanh nghiệp hướng tới hiệu quả, chiến lược
cạnh tranh rõ nét kết hợp các yếu tố phân tích ở trên có vai trò rất lớn đối với
thành công của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Những doanh nghiệp có chiến lược cạnh tranh và cơ cấu tổ chức tốt,
hiểu biết về ngành nghề kinh doanh, có kế hoạch theo sát với các quy định
của Chính phủ, hoạt động trong môi trường cạnh tranh trong nước khốc liệt sẽ
có cơ hội thành công nhiều hơn khi tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc
tế. Sở dĩ các công ty xe hơi của Nhật Bản vững vàng trên thị trường thế giới,
có thị phần khổng lồ vì họ đã cạnh tranh mạnh mẽ ở thị trường trong nước,
luôn suy nghĩ và hành động mang tính chiến lược.
Tóm lại, khi nào môi trường cạnh tranh trong nước tạo được sức ép
mạnh mẽ để doanh nghiệp không ngừng cải tiến, đổi mới theo hướng dựa ít
hơn vào lợi thế nguồn lực tài nguyên và chi phí lao động thấp mà chủ yếu dựa

18


trên cơ sở phát triển tính chất độc đáo, kết tinh nhiều hàm lượng công nghệ

vào sản phẩm mới thì khi đó năng lực cạnh tranh được nâng cao do những ý
tưởng mới được phổ biến và sử dụng rộng rãi. Một môi trường có nhiều đối
thủ cạnh tranh sẽ giảm đi gánh nặng trợ cấp và bảo hộ từ phía Chính phủ. Tuy
vậy, tính chất cạnh tranh gay gắt trong nước chưa phải là điều kiện tuyệt đối
đảm bảo cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh toàn cầu.
* Những tác động tích cực từ phía Nhà nước để nâng cao năng lực
cạnh tranh cho doanh nghiệp
Được xem là tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là cơ sở tạo dựng năng lực cạnh tranh quốc gia. Không một quốc gia
nào có năng lực cạnh tranh cao mà lại thiếu vắng những doanh nghiệp có sức
mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tầm chiến lược phải được nhìn nhận
từ phía Nhà Nước, với tư cách là chủ thể tiều tiết vĩ mô nền kinh tế hướng tới
tạo dựng cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, môi trường kinh
doanh trong nước thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng, có thể dự
báo được, nền kinh tế duy trì ổn định, bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động
hiệu quả và có tính chuyên nghiệp cao.
Vai trò của Nhà nước đối với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh
cho doanh nghiệp thường diễn ra khá phức tạp, định tính nhiều hơn định
lượng, có thể gây ra tác động hai mặt thuận lợi và bất lợi. Đương nhiên,
những bất lợi thường nằm ngoài mong muốn của Chính phủ. Các cơ quan
chính phủ có thể xác lập các tiêu chuẩn hoặc quyết định về chất lượng, cơ cấu
sản phẩm trong nước; Chính phủ có thể là người mua lớn đối với nhiều loại
hàng hóa hoặc đặt hàng đối với doanh nghiệp; quyết định những sản phẩm
chiến lược, chủ lực ở từng giai đoạn phát triển cụ thể; kiến tạo hệ thống các
ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm cải thiện điều kiện kinh doanh; cũng có thể là
kiểm soát và tác động đến chiến lược và cấu trúc doanh nghiệp ở mức độ này

19



hay mức độ khác qua các công cụ quản lý như: thị trường vốn, thị trường
khoa học công nghệ, thị trường bất động sản, chính sách thuế khóa, Luật cạnh
tranh… Khái quát lại, quá trình này thể hiện trên mấy điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, định hướng phát triển thông qua phát triển cạnh tranh quốc
gia, chiến lược cạnh tranh gắn với quy hoạch tổng thể và chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ hai, tạo lập môi trường pháp lý ổn định và môi trường cạnh tranh
trong nước thuận lợi để các chủ thể tham gia cạnh tranh được thỏa sức phát
huy năng lực, tránh các thủ tục hành chính rườm rà, hướng tới môi trường
cạnh tranh lành mạnh hoạt động theo luật cạnh tranh Nhà nước đã ban hành.
Đảm bảo thống nhất giữa quá trình ban hành và quá trình thực thi luật, hướng
tới xây dựng có hiệu quả Nhà nước pháp quyền điều hành nền kinh tế thị
trường.
Thứ ba, điều tiết kênh phân phối lợi ích cho các doanh nghiệp một cách
công bằng thông qua các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước như: phân bổ
ngân sách, chính sách thuế khóa, tài chính, tín dụng, đối ngoại… đảm bảo
thống nhất mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, mang lại nhiều cơ hội thành công hơn cho người dân và đảm bảo một
cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người.
Thứ tư, giúp đỡ doanh nghiệp trong việc tìm hiểu, mở rộng thị trường
qua hoạt động kinh tế đối ngoại mà trọng tâm là xúc tiến thương mại và đầu
tư. Kinh tế đối ngoại không có mục tiêu tự thân mà phải vì lợi ích của mỗi
doanh nghiệp và lợi ích chung của đất nước khi tham gia hội nhập.
1.1.3 Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phạm trù tổng hợp thể hiện
sức mạnh và ưu thế tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
Doanh nghiệp có thể có lợi thế về mặt này nhưng lại bất lợi thế ở mặt khác.

20



Do đó, phân tích năng lực cạnh tranh đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện,
đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
1.1.3.1 Quy mô của doanh nghiệp
Quy mô thực chất là giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, tận dụng
lợi thế về quy mô sản xuất kinh doanh lớn. Cản trở về quy mô buộc các DN
mới xuất hiện phải tham gia vào kinh doanh với quy mô lớn mà đó là một rủi
ro đối với một DN mới. Trong nền kinh tế hội nhập, yếu tố vốn đối với doanh
nghiệp càng trở nên quan trọng, nó là cơ sở để doanh nghiệp có thể tiến hành
thực hiện tốt các nội dung hoạt động của mình, là cơ sở để doanh nghiệp phát
triển, mở rộng quy mô tạo thế cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Còn nếu
doanh nghiệp tham gia với quy mô nhỏ thì phải chấp nhận bất lợi về chi phí,
do đó rất khó có thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp hiện có.
1.1.3.2 Trình độ kỹ thuật công nghệ
Bao gồm các hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D), mức độ hiện
đại hóa các trang thiết bị và công nghệ trong quá trình sản xuất. Mức độ đó
diễn ra trên hai mảng chính: trình độ cơ khí hóa, tự động hóa thay thế số lao
động phổ thông bằng máy móc, thiết bị hiện đại và trình độ công nghệ chế tác
các sản phẩm đầu vào cho doanh nghiệp. Hai mảng chính yếu này được nâng
cấp thì chất lượng sản phẩm sẽ tăng cao, giá trị gia tăng trong sản phẩm lớn,
tạo tiền đề để doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Hiện
nay, lợi thế cạnh tranh dựa trên hao phí lao động rẻ của các nước đang phát
triển đã giảm mạnh và đã có cảnh báo là mất hẳn do quá trình tự động hóa, tin
học hóa ở các nước phát triển và công nghiệp hóa mới dưới tác động của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
Có thể nói, tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh
hưởng một cách sâu sắc tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu
tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh
nghiệp và tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản
21



xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm.
Một doanh nghiệp có trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ
nhất định có chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể
nói là có năng lực cạnh tranh cao khi mà trong tay họ là cả hệ thống máy móc
cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu.
1.1.3.3 Trình độ quản lý và năng lực sản xuất của người lao động
Đây là yếu tố quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì thế
đây là một tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Trình độ của các thành viên ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh
nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì
họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt, như tăng
doanh thu, lợi nhuận, mà còn cả uy tín và lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và
đây mới là yếu tố quan trọng tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ của người lao động và lòng
hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, chuyên môn cao lại cộng
thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu.
Đây là tiền đề để DN có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
1.1.3.4 Giá thành và chất lượng sản phẩm
Thứ nhất, về giá thành sản phẩm: là điểm hội tụ của các chi phí đầu vào
của doanh nghiệp, gồm chi phí trực tiếp phục vụ cho sản xuất, các loại chi phí
trung gian (giá điện, nước, điện thoại, giá bốc xếp ở cảng, thuê mặt bằng kinh
doanh, thuê văn phòng đại diện…) và tiền thuê nhân công, tiền lương nhân
viên; chi phí phục vụ công tác nghiên cứu và phát triển (R&D). Loại chi phí
này khá tốn kém và ngày càng trở nên quan trọng trong cấu thành năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, còn chi phí dành cho các mối


22


quan hệ , chi phí này có khi là hợp lý, nhưng đa số bất hợp lý do chính sách
nhiễu từ các cấp chính quyền. Các khoản chi phí này là những lực lượng vật
chất chủ yếu hình thành nên giá của sản phẩm khi tham gia cạnh tranh. Hiện
nay, yếu tố thương hiệu hàng hóa - tài sản vô hình của doanh nghiệp là tiền đề
rất quan trọng để tăng giá trị của sản phẩm mới.
Thứ hai, về chất lượng sản phẩm: được đo bằng mức độ thỏa mãn nhu
cầu của người tiêu dùng bằng những tiện ích của sản phẩm và sự chuyên biệt
hóa sản phẩm, tính năng đa dạng của sản phẩm…Vì nhu cầu của con người
luôn biến đổi, nên chất lượng cũng phải thường xuyên biến đổi theo thời gian,
không gian, điều kiện sử dụng.
Có thể nói, giá thành và chất lượng sản phẩm là một tiêu chí rất quan
trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu một doanh
nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh thì trong chiến lược kinh doanh của
mình doanh nghiệp đó phải hạ giá thành tới mức thấp nhất có thể và đồng thời
phải nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.1.3.5 Hoạt động maketing
Bao gồm khả năng thiết kế các kênh phân phối, hiệu quả hoạt động của
các kênh đó thông qua các trung gian phân phối, hạ tầng vật chất kỹ thuật
phục vụ cho quá trình chuyển hàng tới tay người tiêu dùng (khách hàng), hoạt
động chăm sóc khách hàng sau khi bán (bảo hành, khuyến mại, bảo dưỡng),
quảng cáo, tiếp thị, dùng thử ….sẽ tạo sức mạnh vượt trội và gây dấu ấn mạnh
mẽ về những hình ảnh tích cực của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng,
giúp doanh nghiệp vươn dài cánh tay trao đổi đến những thị trường mới,
khách hàng mới, khuyến khích sản xuất phát triển.
1.1.3.6 Thị phần của doanh nghiệp
Thị phần doanh nghiệp là phần thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm

được. Thị phần càng lớn thể hiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp càng

23


×