Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Phát triển mô hình công ty mẹ công ty con ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế luận văn ths kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

Phạm Thị Vân Anh

Phát triển mô hình công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà nội - 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

Phạm Thị Vân Anh

Phát triển mô hình công ty mẹ - công ty con ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Luận văn Thạc sĩ
Mã Số: 60 31 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trịnh Thị Hoa Mai

Hà nội - 2006


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài


Mô hình công ty mẹ – công ty con là một mô hình liên kết chặt chẽ về
lợi ích kinh tế giữa công ty mẹ và công ty con. Một công ty mẹ với nhiều
công ty con hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều địa bàn khác
nhau, tạo ra một thế mạnh chung gọi là “Tập đoàn”.
Hiện nay, đây là mô hình tiên tiến mà các Tập đoàn lớn xuyên quốc gia
trên thế giới đều áp dụng. Mô hình này cũng có nhiều điểm tương đồng với
mô hình Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc áp dụng hiệu
quả mô hình này cần được vận dụng sáng tạo cho phù hợp với những điều
kiện thực tế ở Việt Nam.
Các Tổng công ty nhà nước được thành lập từ hơn 10 năm qua ở Việt
Nam trong các ngành công nghiệp, năng lượng, giao thông, viễn thông… đều
nắm giữ những vai trò chủ chốt trong nền kinh tế, là lực lượng bảo đảm các
cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô, cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho
nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đóng góp cho ngân sách, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Trong thực tế khách quan, cũng cần thấy rằng mô hình Tổng
công ty chưa tạo ra sự liên kết kinh tế, gắn bó về lợi ích, thị trường trong nội
bộ Tổng công ty, chưa thể hiện được sức mạnh tổng hợp. Do đó, việc đổi mới
và tổ chức lại các Tổng công ty sẽ giúp sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn
của quốc gia, phát huy tốt vị trí, vai trò của các Tổng công ty trong phát triển
để phù hợp với cơ chế thị trường.
Như vậy, sự ra đời mô hình công ty mẹ – công ty con ở Việt Nam là
một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Trong xu thế hội nhập và
phát triển hiện nay, Việt Nam muốn tham gia vào hợp tác quốc tế ngày càng
sâu rộng cần phải xây dựng các Tập đoàn kinh tế mạnh. Ở Việt Nam, quá

1


trình sắp xếp lại các Tổng công ty và thí điểm chuyển sang mô hình công ty
mẹ – công ty con trong thời gian qua là nhằm tạo điều kiện cho các Tổng

công ty lớn phát triển thành Tập đoàn kinh tế.

.

Trong mấy năm gần đây, mô hình này mới xuất hiện ở Việt Nam, được
đưa vào triển khai thí điểm thực hiện từ sau Hội nghị lần thứ Ba, Ban chấp
hành Trung Ương khoá IX “… Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc
thực hiện chuyển tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty
mẹ – công ty con, trong đó Tổng công ty đầu tư vốn vào các đơn vị thành
viên là những công ty Trách nhiệm hữu hạn một chủ (TCTy) hoặc là công ty
cổ phần mà Tổng công ty giữ cổ phần chi phối. Ngoài ra, Tổng công ty có thể
đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác… ”.
Sự áp dụng có hiệu quả mô hình này, phù hợp và cần thiết với các điều
kiện thực tế ở Việt Nam minh chứng cho quá trình đổi mới theo hướng hình
thành các Tập đoàn kinh tế mạnh, thể hiện được vị trí, vai trò của các Tổng
công ty trong điều kiện cạnh tranh mới trên thương trường quốc tế. Vậy trong
những năm sắp tới, hướng đi nào cho các Tổng công ty theo mô hình công ty
mẹ – công ty con để nó thực sự giữ vững được những mục tiêu đề ra. Trước
yêu cầu đó, tôi chọn đề tài “Phát triển mô hình công ty mẹ – công ty con ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” làm Luận văn Thạc sỹ
kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc chuyển các Tổng
công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con đã
được nhiều nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách và các doanh nghiệp quan
tâm. Ở Việt Nam thời gian qua, đã có không ít những công trình, hội thảo,
báo cáo, luận án nghiên cứu, các bài báo đề cập đến vai trò, vị trí của mô hình

2



Công ty mẹ - công ty con cũng như sự cần thiết và tác dụng của loại hình
doanh nghiệp này. Có thể kể ra một số tác phẩm tiểu biểu sau:
- Đỗ Bình Trọng, Hoàn thiện tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước
theo mô hình công ty mẹ và công ty con trong điều kiện Việt Nam (Vận dụng
vào Tổng công ty cơ khí xây dựng), Luận án PTS khoa học kinh tế, Hà Nội
1995: Hệ thống hoá các vấn đề về đổi mới tổ chức quản lý các Doanh nghiệp
nhà nước; Kinh nghiệm tổ chức quản lý ở các nước và nghiên cứu tổ chức
quản lý theo mô hình Công ty mẹ- công ty con làm cơ sở hoàn thiện tổ chức
hoàn thiện các doanh nghiệp cơ khí.
- Trần Nam Anh, Tìm hiểu những quy định được pháp luật thành lập, tổ
chức, quản lý Tổng công ty theo mô hình Công ty mẹ - công ty con, Nxb Lao
động xã hội, Hà Nội 2004. Cuốn sách bao gồm các Văn bản pháp luật theo
những quy định mới nhất của nhà nước, các Văn bản pháp luật về việc thành
lập, tổ chức và quản lý tổng công ty theo mô hình Công ty mẹ - công ty con.
- Lê Sỹ Thiệp (2001), “Để đưa mô hình Công ty mẹ – công ty con vào
cuộc sống” , Tạp chí quản lý nhà nước (Số 12): Thực chất mô hình Công ty
mẹ – công ty con, thực trạng tình hình hoạt động của các Tổng công ty,
Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay và sự cần thiết để chuyển sang
mô hình Công ty mẹ - công ty con.
- Đào Xuân Tiên (2005), “Đổi mới và phát triển các Tổng công ty theo
mô hình Công ty mẹ - công ty con hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và phát triển
(Số 94): Phân tích các mặt hạn chế của mô hình Tổng công ty và ưu điểm của
mô hình Tập đoàn kinh tế; Giới thiệu chủ trương của Đảng và chính phủ về
việc lựa chọn mô hình Công ty mẹ - công ty con làm định hướng sắp xếp,
kiện toàn các Tổng công ty nhà nước hiện nay và giải pháp bước đi của quá
trình thực hiện.

3



- Ban Đổi mới doanh nghiệp Trung ương: Báo cáo triển khai mô hình
Công ty mẹ - công ty con, ngày 22/9/2005.
Trong các công trình nghiên cứu trên mô hình Công ty mẹ - công ty con
được nghiên cứu ở các góc độ khác nhau nhưng chưa có tài liệu nào tập trung
một cách hệ thống vai trò của việc phát triển mô hình Công ty mẹ - công ty
con trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, đề tài này được lựa chọn
để tìm hiểu, đánh giá vai trò của việc phát triển mô hình Công ty mẹ - công ty
con ở Việt Nam, định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh, đổi
mới hiệu quả phát triển mô hình Công ty mẹ - công ty con trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích tình hình và đánh giá mô hình Công ty mẹ - công ty con được
triển khai thời gian qua ở Việt Nam để từ đó đề xuất giải pháp và kiến nghị
nhằm thúc đẩy phát triển mô hình này ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn trong xây dựng và phát triển
mô hình công ty mẹ – công ty con.
- Phân tích thực trạng của các mô hình công ty mẹ – công ty con ở Việt
Nam, đưa ra những đánh giá cần thiết làm cơ sở để tiếp tục sắp xếp, tổ chức
lại hoạt động của các mô hình công ty mẹ – công ty con.
- Đề xuất phương án đổi mới tổ chức hoạt động của mô hình công ty
mẹ- công ty con ở Việt Nam nhằm thúc đẩy việc áp dụng có hiệu quả mô hình
này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: mô hình công ty mẹ - công ty

con ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu thực trạng mô hình công
ty mẹ - công ty con từ năm 2001 - 2005 ở Việt Nam để phát triển mô hình này
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cơ bản như: phương pháp Duy vật biện chứng - Duy vật lịch sử; phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê toán học, phương pháp phân
tích hệ thống, phương pháp dự báo mô phỏng. Các phương pháp này được sử
dụng kết hợp hoặc riêng rẽ trong quá trình nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích hệ thống các Văn bản pháp quy về tổ chức quản lý doanh
nghiệp nhà nước, chỉ ra những bất cập cần được hoàn thiện.
- Đề xuất những ý kiến cho việc chuyển đổi tổ chức hoạt động của các
Tổng công ty nhà nước theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
- Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện và phát triển mô hình công ty mẹ
– công ty con trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành mô hình công ty
mẹ – công ty con

5


Chương 2: Quá trình triển khai mô hình công ty mẹ - công ty con ở
Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển mô hình công ty mẹ
- công ty con ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH
CÔNG TY MẸ – CÔNG TY CON
1.1 Mô hình công ty mẹ – công ty con
1.1.1 Khái niệm
“Công ty mẹ – công ty con” là cách gọi được chuyển ngữ từ Tiếng Anh
“Holding company” và “Subsidiaries” sang tiếng Việt. Holding company là
công ty nắm vốn, Subsidiaries company là công ty nhận vốn. Từ “mẹ – con”
là cách gọi ở Việt Nam. Thực chất, công ty mẹ là nhà tài phiệt, quan hệ giữa
công ty mẹ và công ty con là sự chi phối của nhà tài phiệt vào hoạt động sản
xuất – kinh doanh của công ty con nhờ vốn của nhà tài phiệt tại các Tổng
công ty đó. Nhà tài phiệt này khác các cổ đông thông thường ở chỗ, do có
nhiều vốn nên có thể cùng lúc là cổ đông của nhiều công ty. Vì là cổ đông của
nhiều công ty, hơn thế nữa là cổ đông chi phối hoặc đặc biệt, nên nhà tài phiệt
có thể tác động đặc biệt đối với hoạt động của các công ty con. Tính chất đặc
biệt này thể hiện trước hết ở sự chi phối lớn do tỷ trọng vốn lớn trong các
công ty con. Thứ đến là khả năng tác động toàn diện của công ty mẹ vào các
công ty con do cùng lúc có vốn tại nhiều công ty con nên có tầm nhìn bao
quát toàn ngành, toàn thị trường, biết chỗ yếu, chỗ mạnh của nhiều công ty để
có hành vi tác động chính xác tại mỗi công ty con cụ thể. Công ty mẹ có thể là
một công ty hoạt động tài chính thuần tuý (chuyên dùng vốn để mua cổ phần

6


tại các công ty con), cũng có thể là một công ty vừa hoạt động tài chính, vừa
trực tiếp sản xuất-kinh doanh.
Việc hình thành công ty mẹ, công ty con sẽ dẫn đến hình thành Tập
đoàn kinh tế. Trong một TĐKT có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi

phối hoạt động của các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển.
Tập đoàn kinh tế được gọi là Holding company ở Anh, là Tập đoàn
(Corporation) ở Mỹ, Nhật Bản là Keiretsu hay Zaibatsu, Hàn Quốc là
Chaebol, Trung Quốc là các Tập đoàn xí nghiệp,… Ở Việt Nam, Quyết định
91 ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ gọi là Tập đoàn kinh doanh. Theo
tinh thần của Nghị quyết Trung ương 3 – Khoá IX về sắp xếp, đổi mới và
nâng cao hiệu quả DNNN đưa ra mô hình công ty mẹ – công ty con (công ty
mẹ – công ty con). Khi nói đến công ty mẹ – công ty con là nhấn mạnh sự chi
phối hoặc lệ thuộc chủ yếu về mặt tài chính của một doanh nghiệp với một
DN khác thay cho mối quan hệ hành chính không hiệu quả ở các Tổng công
ty Nhà nươc hiện nay.
Đến nay, có nhiều định nghĩa về mô hình công ty mẹ – công ty con:
- Theo diễn giải của chuẩn mực kế toán quốc tế ISA (International
Acounting Standard), công ty mẹ (Parent company) là một thực thể pháp lý có
ít nhất một đơn vị trực thuộc - gọi là công ty con (Subsidiary). Công ty con là
thực thể pháp lý bị kiểm soát bởi công ty mẹ. Kiểm soát ở đây được hiểu là:
sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp nhiều hơn 50% số phiếu bầu; hoặc sở hữu 50%
số phiếu bầu hoặc ít hơn nhưng nắm quyền đối với hơn 50% số phiều bầu
theo sự thoả thuận với các cổ đông khác; hoặc nắm quyền lãnh đạo, điều hành
liên quan đến các chính sách tài chính hay sản xuất kinh doanh của các công
ty và được quy định tại điều lệ, theo sự thoả thuận hay hợp đồng; hoặc có
quyền bổ nhiệm hay miễn nhiệm phần lớn các thành viên của HĐQT, ban

7


lãnh đạo; hay có quyền quyết định, định hướng đến phần lớn số phiếu bầu tại
các cuộc họp HĐQT, ban lãnh đạo.
- Theo Luật công ty của Anh năm 1985, công ty mẹ được hiểu là công
ty nắm cổ phần khống chế (trên 50%) ở công ty khác (công ty con). Tuy

nhiên, theo từ điển chính thức năm 1989 để phù hợp với “Hướng dẫn chính
thức lần thứ 7 về Luật công ty (Seven Company Law Directive) của Cộng
đồng châu Âu (EC) thì (A) là công ty mẹ của công ty con (B) khi: (1) A là cổ
đông nắm giữ đa số phiếu bầu ở B; (2) là cổ đông và có quyền bổ nhiệm,
miễn nhiệm phần lớn thành viên HĐQT của B; (3) A có quyền quyết định về
chính sách tài chính và sản xuất kinh doanh của B bằng sự thoả thuận chính
thức, hợp đồng; (4) A là cổ đông của B và có quyền kiểm soát phần lớn phiếu
bầu một cách độc lập hay liên kết với các cổ đông khác; hoặc (5) A có quyền
lợi tham gia điều hành (participating interest - được hiều là nắm giữ 20% cổ
phần) và trên thực tế thực hiện quyền chi phối đối với B hoặc A và B có cùng
một cơ chế quản lý thống nhất. Ngoài ra, nếu giữa B và C có quan hệ tương tự
như A và B thì giữa A và C có quan hệ như mô hình trên (công ty mẹ – công
ty con).
Định nghĩa cụ thể là: Công ty mẹ – công ty con là hình thức tổ chức tổ
chức sản xuất kinh doanh được liên kết bởi nhiều pháp nhân kinh doanh,
nhằm thống nhất mục tiêu chiến lược hợp nhất những nguồn lực của các
doanh nghiệp, đồng thời thực hiện sự phân công, hợp tác theo chiến lược dài
hạn hoặc kế hoạch ngắn hạn trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp
để tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Công ty
mẹ giữ vai trò trung tâm đầu tư vốn vào các công ty con, theo đó, chi phối các
công ty con theo nhiều cấp độ, tuỳ theo tỷ lệ vốn đầu tư vào công ty đó. Mức
đầu tư của công ty mẹ vào các công ty con có thể là 100% vốn, giữ cổ phần
chi phối, hoặc cổ phần không chi phối. Các doanh nghiệp là công ty con tham
8


gia mô hình này đều là những pháp nhân đầy đủ, được liên kết công ty mẹ
theo những mức độ khác nhau: chặt chẽ, nửa chặt chẽ và không chặt chẽ.
Định nghĩa trên có ý nghĩa khái quát cao, đã phản ánh đầy đủ các đặc
điểm chung: Công ty mẹ và công ty con đều là các doanh nghiệp độc lập, có

tư cách pháp nhân, có vốn và tài sản riêng; Công ty mẹ là một trong các chủ
sở hữu của công ty con; Công ty mẹ có thể có một hoặc nhiều công ty con.
Công ty con là công ty có vốn đầu tư của công ty mẹ, bị công ty mẹ chi phối
bằng việc nắm giữ trên 50% vốn cổ phần và do đó có quyền biểu quyết trong
Hội đồng quản trị. Những công ty mặc dù có vốn của công ty mẹ nhưng công
ty mẹ không nắm quyền chi phối thì không phải là công ty con. Mối quan hệ
giữa công ty mẹ và công ty con được xác định theo quy định pháp luật và điều
lệ công ty, nó tương đối ổn định song việc hình thành công ty mẹ – công ty
con lại rất linh hoạt. Một công ty hôm nay là công ty con song ngày mai có
thể chỉ là công ty liên kết hoặc hoàn toàn độc lập nếu công ty mẹ bán một
phần hoặc toàn bộ cổ phần của công ty con đó cho một công ty khác. Ngược
lại, một công ty có thể trở thành công ty mẹ của công ty khác nếu nó mua lại
được số cổ phần đủ để chi phối công ty đó. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và
công ty con là mối quan hệ của chủ sở hữu với doanh nghiệp có vốn đầu tư
của mình. Ngoài mối quan hệ chủ sở hữu thì các mối quan hệ khác về kinh tế
như mua – bán, thuê - cho thuê, vay – cho vay đều là mối quan hệ giữa hai
pháp nhân đầy đủ và thể hiện thông qua hợp đồng kinh tế.
Tóm lại, mô hình công ty mẹ – công ty con là mô hình tổ chức sản xuất
thể hiện sự kết hợp hài hoà các loại hình doanh nghiệp trên cơ sở quyền sở
hữu được phân tách rõ ràng. Với nhiều loại hình DN, nhiều hình thức sở hữu
khác nhau, việc huy động vốn giữa các thành phần kinh tế được thuận lợi, quá
trình tích tụ và tập trung vốn được đẩy nhanh. Các doanh nghiệp thành viên
trong mô hình có mức độ tự chủ cao, tự thân hoạt động theo thị trường miễn
9


sao đạt được lợi nhuận cao nhất. Mô hình này cho phép huy động tối đa
nguồn lực xã hội đầu tư vào sản xuất - kinh doanh mà quyền sở hữu điều tiết
của Nhà nước vẫn được đảm bảo. Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang
được trao đổi sôi nổi, việc mô hình hoá các công ty của Việt Nam cũng mang

ý nghĩa mới này.
1.1.2 Các hình thức tổ chức mô hình công ty mẹ – công ty con
Mối liên kết giữa công ty mẹ và công ty con rất phong phú và đa dạng,
tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh, vào sức mạnh và khả năng chi phối của
công ty mẹ, có 3 dạng liên kết sau:
- Mô hình liên kết bằng vốn được áp dụng với những công ty mẹ có khả
năng tiềm lực tài chính to lớn (thường là các ngân hàng hoặc công ty tài
chính), được hình thành thông qua con đường nhất thể hoá kinh doanh bằng
cách thôn tính, sáp nhập hoặc xoá bỏ tư cách pháp nhân của một số doanh
nghiệp. Qua việc nắm giữ các cổ phần chi phối, thuê mướn các doanh nghiệp
có liên quan. Công ty mẹ nắm giữ quyền lãnh đạo các doanh nghiệp này trong
việc đua ra các quyết sách về nhân, tài, vật lực, biến chúng thành các công ty
con. Khi đó công ty mẹ với tư cách thực hiện quyền chủ sở hữu quyết định về
cơ cấu tổ chức quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức
danh chủ yếu; quyết định điều chỉnh vốn điều lệ; chuyển nhượng một phần
hoặc toàn bộ vốn điều lệ cho công ty khác; quyết định dự án đầu tư theo quy
định của Nhà nước, lập báo cáo tài chính của công ty mẹ; quyết định việc sử
dụng lợi nhuận của công ty con,… Tuy nhiên, công ty con vẫn là một pháp
nhân độc lập, tiến hành các hoạt động kinh doanh độc lập tương đối. Thực
hiện liên kết bằng vốn kiểu này là các Chaelbol Hàn Quốc như Daewoo ,
Samsung; các Tập đoàn của Nhật bản lấy ngân hàng làm trung tâm như Fuji,
Mitsubishi…

10


- Mô hình liên kết theo kiểu dây chuyền sản xuất kinh doanh được áp
dụng đối với những ngành mà sản phẩm có cấu tạo nhiều cấp, nhiều bộ phận.
Công ty mẹ có tiềm năng lớn, thực hiện chức năng trung tâm như xây dựng
chiến lược kinh doanh tiếp thị, phát triển sản phẩm, huy động và phân bổ vốn

đầu tư, quan hệ đối ngoại, đào tạo nhân lực, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh…
Công ty mẹ kiểm soát một mạng lưới các công ty con, cháu theo dạng hình
chóp, tạo thành một quần thể doanh nghiệp khổng lồ, mối quan hệ về các hợp
đồng sản xuất chuyên môn hoá và việc phân chia, hỗ trợ thị trường rất được
chú trọng.
- Mô hình liên kết giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh
được áp dụng đối với các công ty mẹ đồng thời là những trung tâm nghiên
cứu lớn, lấy việc phát triển công nghệ mới là đầu mối cho sự liên kết. Các
công ty con là những đơn vị sản xuất kinh doanh có chức năng ứng dụng
nhanh kết quả nghiên cứu công nghệ mới của công ty mẹ, biến nó thành sản
phẩm có ưu thế trên thị trường. Năng lực của Tổng công ty biểu hiện chính ở
khả năng liên kết, từ nghiên cứu đến ứng dụng. Liên kết kiểu này rất hiệu quả
đối với một số ngành tạo sản phẩm có sức tiêu thụ lớn như cơ khí, điện tử, sản
xuất ô tô, tàu thuỷ…
Tuy các dạng liên kết giữa công ty mẹ với công ty con dựa trên các nền
tảng khác nhau, phù hợp với từng hình thức sản phẩm khác nhau, song suy
cho cùng đều là sự chi phối bởi yếu tố tài chính, trong đó tài sản vô hình, như
sở hữu công nghiệp, phát minh khoa học công nghệ, uy tín sản phẩm, thị
trường ngày càng quan trọng và nó đang là quá trình đổi mới, tìm kiếm của
các Tập đoàn quốc tế. Đó chính là cơ sở tạo sự ràng buộc vững chắc giữa
công ty mẹ với các công ty con. Công ty mẹ còn sử dụng được lợi thế của các
công ty con về các mặt lao động, tài nguyên, thị trường… khi công ty con ở

11


những nước có lợi thế về mặt này. Đây còn là cơ sở để giải thích về việc đẩy
mạnh đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn xuyên quốc gia.
Hiện nay, nếu đứng trên giác độ liên kết và tính chất ngành thì Tập
đoàn kinh tế trên thế giới có các hình thức sau:

- Hình thức thứ nhất
Các Tập đoàn liên kết các công ty trong cùng một ngành. Đây còn gọi
là liên kết ngang. Trong hình thức này, quan hệ liên kết giữa các thành viên
tương đối lỏng lẻo thông qua thoả thuận hoặc cam kết hợp tác. Các Tập đoàn
này được gọi là Cartel hoặc là Syndicate. Trong Cartel các công ty thành viên
vẫn giữ tính độc lập về pháp lý còn tính độc lập về kinh tế được điều hành
thông qua hợp đồng kinh tế. Trong Tập đoàn, các công ty cùng sản xuất một
loại sản phẩm hoặc kinh doanh cùng một dịch vụ. Các công ty liên kết nhằm
mục đích hạn chế sự cạnh tranh thông qua các thoả thuận về giá cả, phân chia
thị trường tiêu thụ, nguyên liệu, thống nhất về chuẩn mực, mẫu mã, kiểu loại,
kích cỡ sản phẩm, dịch vụ.
Syndicate là một dạng đặc biệt của Cartel. Điểm khác biệt so với Cartel
là Syndicate có một văn phòng thương mại chung do một ban quản trị điều
hành và tất cả các công ty phải tiêu thụ hàng hoá của họ qua kênh văn phòng
này. Như vậy, đây là hình thức liên kết hết sức lỏng lẻo. Các công ty liên kết
với nhau nhằm mục đích lợi dụng ưu thế kinh tế của hợp tác và tính kinh tế
nhờ quy mô.
- Hình thức thứ hai
Các TĐKT theo chiều dọc giữa các ngành trong cùng một dây chuyền
công nghệ. Các Tập đoàn lớn thuộc dạng này là Trust, Concern,… Các công
ty thành viên trong Trust liên kết theo kiểu dây chuyền công nghệ cùng sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các công ty thành viên của Trust đều mất tính độc
12


lập về sản xuất và thương mại, các nhà đầu tư tham gia Trust với tư cách cổ
đông.
Concern là một tổ chức TĐKT phổ biến hiện nay ở nhiều nước dưới
hình thức công ty mẹ đầu tư vào các công ty khác thành các công ty con,
cháu. Công ty mẹ điều hành hoạt động của Concern. Mục tiêu thành lập

Concern là tạo thế lực tài chính mạnh để phát triển kinh doanh nhằm hạn chế
rủi ro đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ trong nghiên cứu khoa học, ứng dụng công
nghệ mới, phương pháp quản lý hiện đại.
Các công ty con là thành viên của Concern hoạt động trong nhiều lĩnh
vực như hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ, ngoại thương. Các công ty
con chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn kinh doanh của mình và giữ độc
lập về pháp lý nhưng phụ thuộc vào Concern về mục tiêu hoạt động. Đây là
mô hình có nhiều tác dụng tích cực, có nhiều khả năng hoạt động tốt, thúc đẩy
sự phát triển và liên kết giữa các công ty, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học
công nghệ phục vụ cho hoạt động SX-KD của Concern.
- Hình thức thứ ba
Các Tập đoàn liên kết hỗn hợp có cơ cấu SX-KD trong tất cả các
ngành nghề kể cả các ngành không có liên quan với nhau. Điển hình cho hình
thức này là Conglomerate. Đây là TĐ kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, các
công ty thành viên ít có quan hệ về công nghệ sản xuất với nhau, thậm chí
không có quan hệ nào về mặt công nghệ sản xuất. Mối quan hệ ở đây chủ yếu
về mặt hành chính và tài chính. Conglomerate được hình thành bằng cách thu
hút cổ phần của những công ty có lợi nhuận cao nhất đặc biệt là những công
ty đang ở giai đoạn phát triển cao. Trong Conglomerate không có ngành nghề
nào là chủ chốt. Thông qua hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường,
cơ cấu sản xuất của Conglomerate thường có xu hướng chuyển đến những

13


ngành nghề có lợi nhuận cao. Sự hoạt động tích cực của nó trên thị trường
chứng khoán giúp nó nuốt dần các công ty có lợi suất cao và làm cho cơ cấu
thay đổi nhanh chóng. Nhờ hoạt động tích cực trên thị trường chứng khoán
nên Conglomerate có thể thu hút vốn từ thị trường vốn thông qua phát hành
tín phiếu và trái phiếu. Như vậy, đặc điểm cơ bản của hình thức TĐKT này là

hoạt động của nó nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát tài chính, mở rộng quy
mô ngành nghề và phạm vi hoạt động của mình.
Trên thực tế, công ty mẹ có thể biểu hiện dưới hai hình thức như sau:
a. Công ty mẹ là công ty lớn nhất chi phối các công ty thành viên, qua
đó chi phối cả Tập đoàn, trong đó công ty mẹ vừa làm nhiệm vụ của một công
ty đầu tư vốn, vừa có các hoạt động kinh doanh khác.
b. Công ty mẹ là một công ty tài chính sở hữu vốn trong các công ty
thành viên và thuần tuý hoạt động trong lĩnh vực đầu tư tài chính.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, do sự phát triển còn hạn chế của
thị trường chứng khoán, hình thức biểu hiện thứ nhất dễ xây dựng hơn. Giai
đoạn đầu tiên, hầu hết các công ty mẹ sẽ là những công ty phi tài chính. Về
sau sẽ xuất hiện những tập đoàn mà trong đó công ty mẹ là công ty tài chính.
Trong một Tập đoàn kinh doanh, việc xác định cấu trúc tài chính có
ảnh hưởng rất quan trọng đối với sự phát triển của Tập đoàn. Giả sử, cấu trúc
tài chính và cấu trúc công ty mẹ – công ty con của một tập đoàn tương lai ở
nước ta được minh hoạ trong mô hình:
M
60%

6

51%

55%
12%

A2

B2


C2

D2

60%

14


30%

40%

E4

B31

B32

B33

10%
%

D31

D32

D33


20%

Công ty mẹ ký hiệu là M. Các mũi tên thể hiện quan hệ sở hữu với
những ví dụ về tỷ lệ phần trăm vốn.
Như đã trình bày trên đây trong mô hình, giữa các chủ thể của Tập
đoàn có các dạng kiểm soát vốn cổ phần như sau:
- Công ty mẹ (M) kiểm soát các công ty con ở cấp 2 (như A2, B2, C2,
D2).
- Công ty mẹ kiểm soát các công ty thành viên thuộc cấp tiếp theo
(công ty cháu – cấp 3 như B31, B32, D31, D32).
- Các công ty đồng cấp và khác cấp nắm giữ vốn cổ phần của nhau
(như B2 và C2).
- Một số các công ty ở các cấp khác nhau, trong và ngoài tập đoàn cùng
tham gia sở hữu một công ty thành viên của tập đoàn (các tỷ lệ % chỉ là các ví
dụ).
Công ty mẹ có thể đầu tư trực tiếp vào công ty chi nhánh ở các cấp
dưới nhằm kiểm soát một số lĩnh vực nào đó có tầm quan trọng đặc biệt, hoặc
do các yêu cầu về vốn đầu tư. Chẳng hạn, trong tập đoàn Petronas, khi hình
thành một công ty chi nhánh thuộc hàng “công ty cháu” là Kuala Lumpur City
Centre Bhd, công ty mẹ đã đầu tư 100% vốn của công ty chi nhánh này.
Cơ sở kinh tế của cấu trúc sở hữu “mẹ – con” là quyền nắm giữ vốn cổ
phần, biểu hiện qua việc sở hữu một tỷ lệ cổ phần nào đó. Phương tiện để
thực hiện là cổ phiếu của các công ty.
15


Phương thức thực hiện của cơ chế sở hữu như vậy được tiến hành thông
qua việc mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Quá trình mua bán
các cổ phiếu được coi là hoạt động đầu tư của các công ty. Với cấu trúc công
ty mẹ – công ty con thì mối quan hệ giữa Tập đoàn và các đơn vị thành viên

và giữa các thành viên với nhau sẽ được giải quyết triệt để trên cơ sở đảm bảo
tư cách pháp nhân của các thành viên.
Trong mô hình trên, công ty mẹ trực tiếp nắm giữ cổ phiếu của công ty
D33. Trên thực tế hiện nay nhiều Tập đoàn đa quốc gia có cấu trúc sở hữu
thuộc loại này. Đây là hệ quả của sự phát triển ở trình độ cao của thị trường
tài chính với các ảnh hưởng của hoạt động đầu tư tài chính giữa các tổ chức
và cá nhân.
1.1.3 Các đặc trưng cơ bản của mô hình Công ty mẹ - công ty con
- Quy mô lớn về vốn và lao động:
Để hình thành Tập đoàn kinh doanh, vốn được tập trung huy động từ
nhiều nguồn khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng, bảo toàn và
phát triển nguồn vốn, đẩy nhanh tích tụ và tập trung sản xuất, đồng thời nâng
cao vị thế và khả năng của nó trong các thương vụ cũng như trong việc chi
phối và cạnh tranh trên thị trường, do đó TĐKT thường có quy mô lớn và rất
lớn. Mặt khác, ưu thế về tài chính của Tập đoàn còn được thể hiện rõ nét
trong việc sử dụng nhiều loại tiền tệ và nhiều loại hình thanh toán trong lưu
thông, từ đó tạo nên một cơ chế vận hành linh hoạt, mềm dẻo và thuận tiện
trong việc quản lý tài chính.
Từ ưu thế rất lớn về vốn, Tập đoàn có khả năng mở rộng nhanh chóng
quy mô sản xuất, kinh doanh, cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm, thoả mãn tối đa nhu cầu người tiêu dùng, do đó doanh thu
của các Tập đoàn là rất lớn.

16


Lực lượng lao động trong TĐKT thường lớn về số lượng, mạnh về chất
lượng, được tuyển chọn và đào tạo chặt chẽ. Trong số 50 TĐ lớn nhất thế giới
về lao động thì Tập đoàn US Postal Service (Mỹ) có số lao động được sử
dụng lớn nhất là 890.301 người, Tập đoàn có số lượng lao động ít nhất là

Philip Moris (Mỹ) với 152.000 người. [33]
Mặt khác, cần thấy rõ trong TĐ lực lượng lao động không giới hạn ở
một nước, mà được tuyển dụng ở nhiều nước khác nhau, ở đâu có chi nhánh ,
thì ở đó có công nhân bản địa được tuyển dụng. Do đó, lao động trong TĐ có
tính đặc trưng điển hình về đa quốc gia và đa ngôn ngữ. Nói cách khác, lao
động trong TĐ có tính chất quốc tế hoá.
- Phạm vi hoạt động rộng
Tập đoàn kinh tế thường có phạm vi hoạt động rất lớn, không chỉ trên
phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn ở khu vực và trên bình diện quốc tế.
Với quy mô lớn về vốn, lao động trong các TĐ đã hình thành mạng
lưới phân công nội bộ TĐ theo kiểu liên kết hỗn hợp, đồng thời do sự phát
triển của thông tin hiện đại và kỹ thuật vận tải làm cho phạm vi địa lý của
phân công nội bộ TĐ nhanh chóng được mở rộng. Dựa vào đặc điểm kỹ thuật
của mình, các TĐKT có thể sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trên một không gian
địa lý rộng lớn theo một hệ thống. Từ đó, có thể lợi dụng hiệu quả của tích tụ
và tập trung sản xuất, dựa vào ưu thế của thị trường hoặc các yếu tố tài
nguyên… để bố trí tách rời các khâu khác nhau của việc sản xuất thành phẩm.
Khi việc phân công nội bộ TĐ vượt khỏi phạm vi địa lý biên giới quốc gia thì
các TĐ thực hiện sự chiếm lĩnh thị trường quốc tế bằng cách cắm nhánh ở
nước ngoài để tối đa hoá lợi nhuận. Cho đến nay, đại đa số các TĐKT của các
quốc gia trên thế giới đều ít nhiều hoạt động dưới hình thức công ty xuyên
quốc gia (TNCs) và công ty đa quốc gia (MNCs).

17


Phạm vi hoạt động đa quốc gia cho phép TĐ có thể đồng thời phát huy
tối đa khả năng và đạt được nhiều mục tiêu như: sử dụng các lợi thế so sánh ở
từng khu vực, tránh (hoặc “lách”) được các hàng rào thuế quan, tìm được các
“kẽ hở thị trường”, … từ đó mở rộng, phát triển thị phần tiêu thụ sản phẩm.

Trong chiến lược chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế của các
TĐKT, việc mở rộng quy mô bằng cắm nhánh, mở rộng phạm vi hoạt động ở
nhiều quốc gia trở thành giải pháp hữu hiệu để tránh xu hướng giảm sút tỷ
suất lợi nhuận, đồng thời củng cố vị trí TĐ trên trường quốc tế.
- Kinh doanh đa ngành nghề
Tập đoàn kinh tế thường hoạt động sản xuất kinh doanh đa ngành hoặc
phát triển dần từ đơn ngành đến đa ngành, nhưng có thể thấy rõ mỗi TĐ đều
có định hướng vào lĩnh vực đầu tư chủ đạo với những sản phẩm đặc trưng của
TĐ. Ví dụ: nói đến ITT (Mỹ) là nói đến điện thoại; Huyndai (Hàn Quốc) là
sản xuất ô tô; Sony (Nhật Bản) là điện tử… Các sản phẩm của TĐ luôn đa
dạng, phong phú về chủng loại, thậm chí rất khác nhau: chẳng hạn sản xuất ô
tô là lĩnh vực chính của Huyndai, nhưng bên cạnh đó, nó còn sản xuất vô số
các loại sản phẩm từ kim khâu đến đóng tàu biển, công nghiệp vũ trụ… Vì
vậy, khả năng đáp ứng các nhu cầu sản phẩm cho thị trường có ưu thế hơn
hẳn các công ty riêng lẻ về mọi mặt, như: số lượng, chất lượng, mẫu mã,
chủng loại mặt hàng, thị hiếu tiêu dùng, không gian, thời gian…
Các TĐKT của Nhật Bản và của các NIEs Châu Á chủ yếu khởi đầu từ
lĩnh vực thương mại hoặc ngoại thương. Chúng thường chuyên môn hoá trong
các hoạt động thương mại với một số sản phẩm nhất định. Trong quá trình
hoạt động và phát triển thì quy mô và cơ cấu kinh doanh dần được mở rộng,
đa dạng hoá các loại hình kinh doanh. Cùng với sự đòi hỏi ngày càng cao của
thị trường, kinh nghiệm quản lý và nguồn vốn tích luỹ được từ các hoạt động

18


sản xuất kinh doanh, các TĐKT mở rộng sự hoạt động của mình sang các
ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác. Từ chỗ chỉ kinh doanh
thương mại, chúng bổ sung dần thêm các hoạt động dịch vụ đến các ngành
sản xuất, tài chính, ngân hàng, nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ.

Đặc điểm điển hình đối với các nước này là ngoại thương đóng vai trò rất
quan trọng, do đó những TĐ lớn nhất của họ hiện nay hầu hết là các TĐKT
xuất nhập khẩu hoặc liên quan để xuất nhập khẩu.
Đối với Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu, phương thức tác nghiệp của
các TĐKT lại bắt đầu từ các hoạt động sản xuất rồi mở rộng sang các lĩnh vực
như thương mại, vận tải, bảo hiểm, ngân hàng,…
Có nhiều lý do để các TĐKT chuyển từ kinh doanh đơn ngành sang
kinh doanh đa ngành song chủ yếu là để hạn chế rủi ro, phân tán rủi ro, tối đa
hóa lợi nhuận. Sự bành trướng bằng hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực của các
TĐKT sẽ tận dụng tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng sản xuất kinh
doanh, phát huy lợi thế về vốn, khoa học, nguồn nhân lực,… của Tập đoàn để
có lợi nhuận cao nhất.
- Đặc trưng về cơ cấu tổ chức
Với đặc thù là một tổ hợp các công ty, bao gồm: công ty mẹ, công ty
con, công ty cháu trong đó công ty mẹ sở hữu vốn đồng thời chi phối sự hoạt
động của các công ty con, công ty cháu về tài chính và chiến lược phát triển.
Từ đó có thể khảng định: sở hữu vốn của các TĐKT là sở hữu hỗn hợp trong
đó quyền chi phối, khống chế về tài chính thuộc về công ty mẹ.
Các công ty con (Subsidiary) là những công ty trong Tập đoàn có tư
cách pháp nhân riêng, trong đó một phần đáng kể vốn cổ phần thuộc quyền sở
hữu của công ty mẹ. Chi nhánh (Branch) khác với công ty con ở chỗ, nó
không phải là pháp nhân độc lập, mà là một bộ phận cấu thành của công ty mẹ

19


hoặc công ty con. Tuy nhiên, chúng cũng như công ty con là được lấy tư cách
pháp nhân của Tập đoàn để ký kết các hợp đồng kinh doanh.
Từ cơ cấu tổ chức chung như vậy, ở mỗi TĐKT lại có những hình thức
tổ chức khác nhau tuỳ theo tính chất đặc thù của từng Tập đoàn và tuỳ thuộc

vào điều kiện lịch sử mỗi nước. Có thể khái quát một số mô hình tổ chức
TĐKT như sau:
+ Mô hình tổ chức theo địa bàn hoạt động: mô hình này chủ yếu nhằm
phát triển những đơn vị tự quản dựa trên cơ sở các chi nhánh ở các nơi. Mỗi
đơn vị tự quản có một người quản trị đơn vị, chịu trách nhiệm toàn quyền về
chiến lược và điều hành. Cấu trúc này vào khoảng những năm 20 của thế kỷ
XX đã được General Motor và Dupont sử dụng lần đầu tiên, sau đó được
nhiều TĐ khác sử dụng rộng rãi.
+ Mô hình tổ chức theo đơn vị kinh doanh chiến lược: ở mô hình này,
Tập đoàn được tổ chức theo các nhóm thị trường – sản phẩm. Nó thích hợp
với các TĐ hoạt động đa dạng. Hiện nay, mô hình này được một số TĐ áp
dụng thành công như: General Electric, General Foods,…
+ Mô hình tổ chức theo khu vực: Cấu trúc khu vực là một cơ chế phối
hợp hữu hiệu để tập trung các đơn vị khác nhau của TĐ có sản phẩm và dịch
vụ liên quan với nhau. Kiểu cấu trúc này xuất hiện cuối thập kỷ 60 dựa trên
cơ sở tập hợp các công ty cùng một ngành hàng trong từng khu vực đặt dưới
sự điều hành của cùng một giám đốc khu vực.
+ Mô hình tổ chức theo ma trận: mô hình này được áp dụng phổ biến
trong các Concern từ những năm 70 cho đến nay, nhiều nhất là các TĐ của
Đức. Cấu trúc Ma trận có hai hệ thống chỉ huy cặp đôi: theo chức năng hoặc
theo mặt hàng hoặc theo khu vực,… trong đó bao trùm lên các ngành chức

20


năng là các nhà quản trị trung gian chịu trách nhiệm về những mặt hàng cụ
thể, về một dự án hoặc một chương trình của Tập đoàn.
+ Mô hình tổ chức đa dạng: Là loại hình tổ chức không giới hạn trong
việc sử dụng một loại cơ cấu riêng lẻ. Nhà quản trị có quyền tự do sử dụng và
có thể kết hợp tất cả các loại cấu trúc trên đây nhằm làm thích ứng các bộ

phận khác nhau của tổ chức với các điều kiện khác nhau của môi trường kinh
doanh.
Đây là kiểu cấu trúc phức tạp nhưng khá uyển chuyển và mang lại hiệu
quả cao, đặc biệt là đối với các Tập đoàn lớn, dạng Conglomerate. Do vậy, nó
thường được các TĐKT khổng lồ trên thế giới sử dụng.
Như vậy, đặc trưng của các Tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình
công ty mẹ – công ty con là:
- Tập đoàn kinh doanh là tổ chức kinh tế liên hiệp nhiều công ty, xí
nghiệp, hãng thuộc nhiều sở hữu khác nhau.
- Tập đoàn kinh doanh được hình thành trên cơ sở tập trung tư bản rất
lớn (ít nhất cũng phải trên 5 tỷ USD) do quá trình tích tụ tư bản lâu dài trong
môi trường kinh tế thị trường cạnh tranh quyết liệt.
- Có đội ngũ các chủ doanh nghiệp và đội ngũ các nhà quản lý điều
hành có tài, giàu kinh nghiệm quản lý và quản trị kinh doanh trong môi
trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường ngang tầm với quy mô tích tụ tư
bản.
- Sự liên kết giữa công ty mẹ và công ty con được thực hiện thông qua
sự liên kết về vốn. Với hình thức công ty mẹ giữ vai trò trung tâm, đầu tư vốn
vào các công ty con, chi phối các công ty con theo nhiều cấp độ, tuỳ theo tỷ lệ
vốn đầu tư vào công ty con đó. Mức độ đầu tư vốn của công ty mẹ vào các

21


công ty con có thể là đầu tư 100% vốn (đầu tư giữ cổ phần chi phối hoặc giữ
cổ phần không chi phối). Các doanh nghiệp là công ty con tham gia liên kết
theo mô hình này đều là những pháp nhân đầy đủ liên kết với công ty mẹ theo
nhiều mức độ: chặt chẽ, nửa chặt chẽ và không chặt chẽ, thông qua sự chi
phối vốn, phân công và hợp tác của công ty mẹ.
- Sự chi phối của công ty mẹ với công ty con đều thông qua sự chi phối

bằng yếu tố tài sản, bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình không xác
định được bằng lượng như: sở hữu công nghiệp, uy tín, thị trường, phát minh
khoa học… và trong quá trình hoạt động, việc sử dụng những tài sản này có
tác dụng rất tích cực trong việc bổ sung, điều chỉnh mối liên kết, chi phối của
công ty mẹ với các công ty con.
1.2 Mô hình Công ty mẹ - công ty con ở một số quốc gia và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
1.2.1 Mô hình công ty mẹ – công ty con ở một số quốc gia:
a. Công ty mẹ – công ty con ở Mỹ
Các Tập đoàn kinh tế Mỹ hầu hết là các công ty xuyên quốc gia được
cấu thành bởi một công ty mẹ ở Mỹ và nhiều công ty con, chi nhánh ở trong
và ngoài nước Mỹ. Chúng được tổ chức theo hình thức Concern,
Conglomerate hoặc phối hợp cả hai hình thức và được quản lý theo kiểu mạng
lưới, phi tập trung. Cách thức tổ chức và quản lý như vậy tạo điều kiện cho
các công ty Mỹ hoạt động rộng khắp trên thế giới. Tập đoàn General Electric
có công ty con và chi nhánh hoạt động trên 100 quốc gia, Tập đoàn IBM với
91 đơn vị sản xuất, 1002 đại diện bán hàng, 8 đơn vị nghiên cứu ở trên 165
quốc gia và vùng lãnh thổ ngoài Mỹ. [31]
Quy mô về vốn, doanh thu, lao động và thị trường là một trong những
đặc trưng cơ bản của các TĐKT. Vốn của các công ty xuyên quốc gia Mỹ
22


được hình thành do quá trình tích tụ và tập trung được đẩy mạnh từ các ngành
sản xuất vật chất, sau đó chuyển sang hoạt động ở các ngành dịch vụ. Thu
nhập và lợi nhuận khổng lồ của các TĐKD Mỹ luôn đứng đầu thế giới: các
công ty Mỹ chiếm gần 35% tổng thu nhập và gần 55% tổng lợi nhuận của 500
công ty lớn nhất thế giới năm 1998. Các công ty Mỹ cũng luôn là các công ty
tuyển nhiều lao động vào làm việc nhất: trong danh sách 500 công ty lớn nhất
về lao động, Mỹ có 18 công ty, hơn nước đứng thứ hai là Nhật Bản và Đức tới

10 công ty (Nhật Bản và Đức có 10 công ty). Không chỉ có số lượng lớn, các
TĐKD Mỹ còn hoạt động trên phạm vi rộng, đa ngành, đa lĩnh vực. Người
tiêu dùng trên khắp thế giới rất quen thuộc với các sản phẩm của các công ty
Mỹ như xe hơi, máy động lực,… của General Motor, General Electric, đồ
uống có ga của Coca cola, Pepsi; đồ điện tử, linh kiện, phần mềm vi tính của
IBM, Microsoft hay dịch vụ bảo hiểm của AIA,…
Đối với Mỹ và các Tập đoanh Châu Âu, đặc trưng chủ yếu về cơ cấu tổ
chức là sự tách rời của quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Các cổ đông là
người sở hữu không trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh, chỉ tác động vào
các quyết định của công ty thông qua HĐQT do Đại hội cổ đông bầu ra. Hội
đồng giám đốc thuê giám đốc chuyên nghiệp điều hành việc kinh doanh của
công ty. Giám đốc là người làm thuê cho công ty và chịu mọi trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của công ty.
Trong cơ cấu sở hữu, công ty mẹ ở Mỹ có xu hướng sở hữu toàn phần
hoặc giữ cổ phần đa số của các công ty con trong và ngoài nước Mỹ. Nếu
hình thức tổ chức của Tập đoàn là Concern, hình thành bằng cách công ty mẹ
mua lại các công ty con thì các công ty con đó là sở hữu toàn phần. Số công
ty con có sở hữu 100% vốn của công ty mẹ chiếm tới 80% Tổng công ty con
ở Mỹ. Nếu hình thức TĐ là Conglomerate, việc thôn tính diễn ra thông qua

23


×