Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội ở nhật bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ và bài học kinh nghiệm cho việt nam lu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.21 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN THI ̣NHUNG

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN
TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN THẦN KỲ VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN THI ̣NHUNG

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN
TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN THẦN KỲ VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành : KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số
: 60 31 0101

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP

HÀ NỘI – 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận Văn thạc sĩ là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu khoa học, kết quả nghiên cứu của Luận văn là
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Nhung

i


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện Luận văn Thạc sỹ, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện nhiệt tình và quý báu của nhiều cá
nhân và tập thể
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tời cô giáo PGS. TS
Phạm Thị Hồng Điệp đã tận tình hướng dẫn trong suốt thời gian nghiên cứu
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi tìm tài
liệu. nguồn tham khảo để hoàn thành luận văn này.
Mặc dù tôi đã cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và
năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót hoặc có
phần nghiên cứu chưa sâu. Rất mong nhận được sự chỉ bảo thông cảm của các
thầy cô.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Nhung


ii


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ v
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3
4. Dự kiến đóng góp mới của luận văn ......................................................... 3
5. Kết cấu luận văn ....................................................................................... 4
CHƢƠNG 1...................................................................................................... 5
TỔNG QUAN VỀ PHÚC LỢI XÃ HỘI ....................................................... 5
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................... 5
1.2 Khái niệm và đặc điểm của phúc lợi xã hội ........................................... 7
1.2.1 Khái niệm phúc lợi xã hội ................................................................ 7
1.2.2 Những đặc điểm cơ bản của phúc lợi xã hội ................................. 13
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới phúc lợi xã hội ......................................... 15
1.3.1 Yếu tố kinh tế .............................................................................. 16
1.3.2 Yếu tố chính trị ........................................................................... 17
1.3.3 Yếu tố văn hóa – xã hội ............................................................. 18
1.4 Cấu trúc hệ thống phúc lợi xã hội .................................................... 19
1.4.1 Bảo hiểm xã hội.......................................................................... 19
1.4.2 Bảo trợ (cứu trợ) xã hội ............................................................. 27
CHƢƠNG 2.................................................................................................... 31
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................ 31
2.1 Cách tiếp cận nghiên cứu ...................................................................... 31
2.2 Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 31
2.2.1Phương pháp nghiên cứu chung ..................................................... 31
2.2.2 Các phương pháp cụ thể ................................................................ 32

CHƢƠNG 3.................................................................................................... 36
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN
TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN THẦN KỲ...................................... 36
3.1 Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội Nhật Bản giai đoạn 1953 -1973 36
3.1.1 Bối cảnh kinh tế .......................................................................... 36
3.1.2. Bối cảnh chính trị - xã hội ........................................................ 40
3.2 . Tình hình giải quyết phúc lợi xã hội của Nhật Bản giai đoạn 1953 1973 ......................................................................................................... 41
3.2.1. Các chương trình bảo hiểm xã hội ............................................ 41
3.2.2 Bảo trợ (cứu trợ) xã hội ............................................................. 45
3.3. Đánh giá việc giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội ở Nhật Bản giai
đoạn 1953 -1973 .................................................................................. 52
iii


3.3.1. Những thành công trong việc giải quyết phúc lợi xã hội của
Nhật Bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ ...................................... 52
3.3.1.1. Thành công trong việc giải quyết bảo hiểm xã hội ................ 52
3.3.1.2. Thành công trong việc giải quyết hỗ trợ xã hội ..................... 56
3.3.2. Những hạn chế trong việc giải quyết phúc lợi của Nhật Bản
trong giai đoạn phát triển thần kỳ. ..................................................... 63
CHƢƠNG 4.................................................................................................... 68
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÚC
LỢI XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG Ở VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.................................................... 68
4.1 Những điểm tương đồng và khác biệt về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã
hội giữa Nhật Bản và Việt Nam .................................................................. 68
4.2 Bài học kinh nghiệm trong việc giải quyết phúc lợi xã hội của Nhật Bản
..................................................................................................................... 69
4.2.1Kinh nghiệm trong việc giải quyết các chính sách bảo hiểm xã
hội ........................................................................................................ 69

4.2.2. Kinh nghiệm trong việc giải quyết các chính sách hỗ trợ xã hội
............................................................................................................. 71
4.3. Một vài nét về thực trạng và những vấn đề đặt ra trong giải quyết phúc
lợi xã hội ở Việt Nam hiện nay ................................................................... 72
4.3.1.Những thành công và hạn chế của bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................... 72
4.3.2.Thành công và hạn chế trong hoạt động bảo trợ ( cứu trợ )xã hội
ở Việt Nam hiện nay ............................................................................ 79
4.4. Khả năng vận dụng kinh nghiệm giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội
Nhật Bản ở Việt Nam hiện nay ............................................................... 81
4.4.1.Khả năng vận dụng các chính sách bảo hiểm xã hội................. 81
4.4.2.Khả năng vận dụng các chính sách hỗ trợ xã hội...................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 Diễn biến tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Nhật Bản 36
giai đoạn 1966 -1970 (đơn vị tính %)
Bảng 3.2 Số phƣơng tiện giải trí cho trẻ em

49

Bảng 3.3 Sự biến động của thất nghiệp và tỷ lệ đƣợc hƣởng 55thất nghiệp của Nhật Bản giai đoạn 1953 – 1973

56

Bảng 3.4 Số lƣợng những ngƣời tàn tật về mặt thể lực đang 58

đƣợc thuê mƣớn làm việc
Bảng 3.5 Sự thay đổi hàng năm về số trƣờng hợp sử dụng tƣ

59

vấn đối với ngƣời bị suy nhƣợc thần kinh tại các văn
phòng phúc lợi
Bảng 3.6 số lƣợng ngƣời tham gia bảo hiểm y tế

62

Bảng 3.7 Số lƣợng ngƣời tham gia bảo hiểm y tế

74

Bảng 3.8 cân đối thu chi bảo hiểm y tế giai đoạn 2008 -2011

74

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề mà các quốc gia trên thế giới quan tâm hàng
đầu là phát triển kinh tế. Tuy nhiên phát triển kinh tế không chỉ bao gồm sự
tăng trưởng kinh tế mà còn có cả tiến bộ về mặt xã hội. Do đó, muốn đạt mục
tiêu này, các nước phải quan tâm đến phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế là
điều kiện cần cho sự cải thiện phúc lợi xã hội. Khi thành quả tăng trưởng kinh
tế được phân phối công bằng, hợp lý, tăng trưởng nhanh sẽ giúp tăng thu nhập

của cả nước, nhờ đó cải thiện chất lượng cuộc sống như kéo dài tuổi thọ, giảm
tỷ lệ tử vong trẻ em và giảm tình trạng suy dinh dưỡng, giáo dục và văn hóa
phát triển, tạo nhiều công ăn việc làm. Tuy nhiên, bản thân nó chưa giải quyết
được các vấn đề phúc lợi xã hội cho dù các chương trình phát triển kinh tế có
được kết hợp, lồng ghép để giải quyết các vấn đề như đói nghèo, tệ nạn xã
hội...Vì vậy, cần đến vai trò của nhà nước trong giải quyết vấn đề phúc lợi xã
hội. Hoạt động phúc lợi được giải quyết tốt nó lại có tác dụng góp phần ổn
định xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nếu như các yếu tố tăng trưởng kinh tế, chính trị xã hội... là những
điều kiện khác quan cần phải xem xét khi nghiên cứu phúc lợi xã hội thì yếu
tố quyết định đến thành công trong lĩnh vực này lại phụ thuộc vài các chính
sách và biện pháp mà chính phủ các nước thi hành. Vấn đề trên đã được Nhật
Bản chú trọng giải quyết ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là
trong giai đoạn phát triển thần kỳ ( 1953 – 1973). Trong giai đoạn này, Nhật
Bản không chỉ quan tâm đến thực hiện cải cách kinh tế và đạt được những chỉ
số tăng trưởng ngoạn mục;mà còn đạt được những thành công đáng kể trong
việc đáp ứng phúc lợi con người. Hệ thống phúc lợi xã hội của Nhật Bản bắt
đầu hình thành từ việc ban hành quy định cứu trợ nghèo đói vào năm 1847,
sau đó lần lượt các luật liên quan đến vấn đề phúc lợi xã hội ra đời như: Luật
1


hưu trí, luật bảo hiểm y tế, luật phúc lợi xã hội, luật vô gia cư...Trong đó, một
phần chi tiêu cho phúc lợi xã hội lấy từ ngân sách nhà nước, còn lại nguồn
cung cấp chính là các công ty và tập đoàn kinh tế. Nhờ đó, nguồn lực cho
thực hiện phúc lợi xã hội ở Nhật Bản hết sức to lớn, tạo điều kiện cho mở
rộng mức độ bao phủ của hệ thống phúc lợi. Trên thực tế, mô hình này của
Nhật Bản đã được nhiều quốc gia đang phát triển nghiên cứu và học hỏi.
Ở Việt Nam, giải quyết các vấn đề phúc lợi vốn được Đảng và Nhà
nước quan tâm từ lâu. Sau gần ba mươi năm đổi mới, nước ta đạt được nhiều

thành tựu trong tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ờ nước ta cũng xuất hiện
nhiều vấn đề mới như khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân
cư có xu hướng tăng nhanh, một số vấn đề phúc lợi xã hội chưa được quan
tâm đúng mức như vấn đề người già, người tàn tật, trẻ em...
Việc nghiên cứu vấn đề giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản sẽ đem
lại cho Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích . Tuy vậy, Việt Nam cần
học tập những gì trong giải quyết phúc lợi xã hội cho phù hợp với thực trạng
phát triển kinh tế hiện nay ? Đó là lý do, tôi chọn đề tài “Giải quyết vấn đề đề
phúc lợi xã hội ở Nhật Bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam ” để làm luận văn thạc sỹ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích
Trên cơ sở phân tích lý luận chung về phúc lợi xã hội và phân tích
thực trạng giải quyết phúc lợi xã hội của Nhật Bản trong giai đoạn phát triển
“thần kỳ”, luận văn sẽ rút ra các bài học kinh nghiệm và chỉ rõ khả năng vận
dụng kinh nghiệm Nhật Bản vào giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
 Nhiệm vụ nghiên cứu

2


Để đạt được mục tiêu trên, luận văn sẽ trả lời các câu hỏi nghiên cứu
sau đây:
 Nhật Bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ đã có những thành công
và hạn chế gì trong việc giải quyết phúc lợi xã hội ?
 Có thể rút ra bài học gì cho Việt Nam trong việc giải quyết phúc lợi
xã hội giai đoạn 2014 -2030 từ việc nghiên cứu giải quyết phúc lợi xã hội ở
Nhật Bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ?
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, các nhiệm vụ cụ thể được

đặt ra là:
 Làm rõ khái niệm, đặc điểm và cấu trúc của phúc lợi xã hội
 Nghiên cứu bối cảnh kinh tế, chính trị, lịch sử của Nhật bản giai
đoạn phát triển “thần kỳ” và thực trạng giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội của
Nhật Bản trong giai đoạn này.
 Từ điểm tương đồng và khác biệt về kinh tế, chính trị, văn hóa của
Việt Nam và Nhật Bản; rút ra những bài học kinh nghiệm trong giải quyết
vấn đề phúc lợi xã hội cho Việt Nam giai đoạn 2014 -2030.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc giải quyết các vấn đề
phúc lợi xã hội ở Nhật Bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ ( 1953 –
1973) và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản
trong giai đoạn phát triển thần kỳ (1953 -1973) . Rút ra bài học kinh nghiệm
và khả năng áp dụng cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (2014 - 2030)
4. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
Phân tích, đánh giá tình hình giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội của
Nhật Bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ 1953 -1973.

3


Tác giả đưa ra một số vận dụng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay từ
kinh nghiệm giải quyết phúc lợi xã hội của Nhật Bản trong giai đoạn phát
triển thần kỳ.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 4 chương :
Chương 1: Tổng quan về phúc lợi xã hội
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Thực trạng giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản
Chương 4: Bài học kinh nghiệm giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội
của Nhật Bản và khả năng vận dụng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

4


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ PHÚC LỢI XÃ HỘI
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề phúc lợi xã
hội của Nhật Bản và nghiên cứu về an sinh xã hội của một số quốc gia trên
thế giới. Có thể kể đến các công trình như:
 Nhóm nghiên cứu về phúc lợi xã hội nói chung phải kể đến
Nguyễn Duy Dũng (1998) chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi
xã hội ở Nhật Bản, Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội. Cuốn sách nghiên
cứu về sự hình thành và phát triển phúc lợi xã hội ở Nhật Bản, các hình thức
và biện pháp phúc lợi xã hội ở Nhật Bản. Tuy nhiên, công trình này chưa
phân tích giải quyết phúc lợi xã hội ở từng thời kỳ nhất định. Từ đó, chưa
thấy thực trạng của giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản trong giai đoạn phát
triển thần kỳ.
Dương Phú Hiệp, Nguyễn Duy Dũng (1998) “một số vấn đề phúc lợi xã
hội của Nhật Bản và Việt Nam” Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản. Cuốn sách
này được biên tập trên cơ sở tập hợp 17 bài báo nghiên cứu một số vấn đề
phúc lợi xã hội ở Nhật Bản và Việt Nam. Tuy nhiên cuốn sách này mới chỉ
phân tích vấn đề phúc lợi xã hội của Nhật Bản và Việt Nam những năm gần
đây.
Trần Thị Nhung (2002), tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ở Nhật
Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội. Đề tài đi sâu nghiên cứu tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ở

Nhật Bản; mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ở Nhật
Bản từ sau chiến tranh. Tuy nhiên đề tài vẫn chưa đưa ra bài học kinh nghiệm

5


rút ra từ nghiên cứu giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội ở Nhật Bản. Từ đó
chưa đưa ra khả năng vận dụng cho Việt Nam.
Đỗ Thiên Kính (2005) “ Kinh nghiệm Nhật Bản trong việc xây dựng
hệ thống phúc lợi xã hội”, đề tài cấp Viện – Viện khoa học xã hội Việt Nam.
Đề tài đã phân tích hệ thống phúc lợi của Nhật Bản và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển các chính sách phúc
lợi xã hội.
 Nhóm công trình nghiên cứu về an sinh xã hội
Đinh Công Tuấn ( 2008), “hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam”, Nhà xuất bản khoa học xã hội , Hà Nội. Trên cơ
sở nghiên cứu hệ thống an sinh xã hội của một số nước EU điển hình như
Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển... tác giả đã phân tích, đánh giá những thành
công và hạn chế của các hệ thống đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho việc
hoạch định hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam trong thời gian tới.
Năm 2008,hội thảo với chủ đề: Bảo đảm an sinh xã hội - Kinh nghiệm
Nhật Bản” do Viện Khoa học xã hội Việt Nam (VASS) và cơ quan Hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JICA) phối hợp tổ chức tại Hà Nội đã cung cấp nhiều kinh
nghiệm quý báu của Nhật Bản trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội
làm cơ sở thực tiễn cho việc vận dụng vào Việt Nam.
Nhật Bản cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu mang tính hệ thống
về an sinh xã hội của đất nước, điển hình là : Shuzo Nishimura (2011) “ an
sinh xã hội ở Nhật Bản”, Viện Dân số và An sinh xã hội Nhật Bản; Toshiaki
Tachibanaki (2006 ) “cải cách an sinh xã hội Nhật Bản trong thế kỷ 21” Đại
học Kyoto.

Tóm lại, những nghiên cứu này đã đề cập đến những khái niệm cơ bản
và đưa ra những đánh giá ban đầu về hệ thống phúc lợi xã hội ở Nhật Bản.
Tuy nhiên các công trình chưa đánh giá được thực trạng của giải quyết phúc
6


lợi xã hội ở Nhật Bản trong giai đoạn phát triển thần kỳ 1953 -1973. Trong
phạm vi của luận văn, tác giả hệ thống hóa cơ sở sở lý luận về lý luận chung
về phúc lợi xã hội, phân tích thực trạng giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản
giai đoạn phát triển thần kỳ -từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Luận văn sẽ chỉ khả năng vận dụng bài học giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội
của Nhật Bản phù hợp với thực tế hiện nay của Việt Nam.
1.2 Khái niệm và đặc điểm của phúc lợi xã hội
1.2.1 Khái niệm phúc lợi xã hội

Sức lao động là yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người.
Con người sử dụng sức lao động để tạo ra của cải vật chất, nhằm đáp ứng nhu
cầu của bản thân. Tuy nhiên, không phải lúc nào con người cũng có khả năng
tạo ra thu nhập. Khi điều kiện tự nhiên và xã hội không thuận lợi như khi ốm
đau, tai nạn, tuổi giá hoặc rủi ro do thiên tai xảy ra khiến con người không có
thu nhập để đảm bảo cuộc sống bình thường. Khi đó, để tồn tại và phát triển,
con nguời cần sự giúp đỡ của cộng đồng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Điều này tạo cơ sở cho sự hình thành hệ thống phúc lợi xã hội cùng với quá
trình phát triển của xã hội loài người.
Cho đến nay, do sự khác biệt về nhận thức nên quan niệm về phúc lợi xã
hội còn khác nhau giữa các quốc gia.
Thuật ngữ phúc lợi xã hội đã được sử dụng từ vài chục năm nay ở Việt
Nam với những phạm vị khác nhau. Từ những năm 60, thuật ngữ này sử dụng
miền Bắc để chỉ những chế độ chính sách áp dụng cho cán bộ công nhân viên
chức nhà nước ( chẳng hạn quỹ phúc lợi xí nghiệp), đây là một thực tế vẫn tồn

tại đến ngày nay. Về sau, người ta sử dụng một số thuật ngữ khác nhau như:
bảo đảm xã hội, an sinh xã hội, dịch vụ xã hội...Ở Việt Nam và hầu hết các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây, khái niệm phúc lợi xã hội được hiểu là:
“phúc lợi là những lợi ích mà người lao động và các thành viên trong gia

7


đình được hưởng từ thành quả lao động của mình thông qua việc đáp ứng nhu
cầu vật chất và tinh thần, nhằm duy trì và nâng cao chất lượng lao động và
chất lượng cuộc sống” (Trần Thị Nhung, 2002). Từ điển tiếng Việt xuất bản
năm 2000 của Hoàng Phê đưa ra định nghĩa phúc lợi xã hội là “lợi ích công
cộng mà người dân được hưởng không phải trả tiền hoặc chỉ phải trả một
phần”(Hoàng Phê, 2000). Như vậy, phúc lợi xã hội những đồng nghĩa với
những gì xã hội đem lại, hay những lợi ích mà nhà nước đem lại thông qua
các dịch vụ xã hội mà người dân không phải trả tiền hoặc chỉ trả một phần.
Cách hiểu này xuất phát từ quan niệm về phúc lợi xã trong mô hình quản lý
theo phương thức kế hoạch hóa tập trung trước đây, khi mà người ta hiểu
“phúc lợi” là phần thù lao mà người lao động nhận từ cơ quan hay xí nghiệp,
ngoài phần tiền lương, tiền phụ cấp và tiền thưởng, nhằm hỗ trợ thêm về mặt
đời sống.
Thứ hai, là quan niệm phúc lợi xã hội ở các nước phương Tây. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai các nước này đã đạt được thành tựu nổi bật về
kinh tế. Họ cho rằng cần phải giải quyết tốt tăng trưởng kinh tế gắn liền với
các vấn đề xã hội. Chẳng hạn, ở Anh ( báo cáo điều tra phúc lợi xã hội quốc tế
lần thứ nhất) năm 2005 cho rằng: “phúc lợi xã hội từ trước tới nay không phải
chỉ là các hoạt động liên quan đến phúc lợi đối với người già, người tàn tật,
tội phạm, tức là những người cần quan tâm đặc biệt”.(Nguyễn Duy Dũng,
1998,tr24,). Ở Mỹ, phúc lợi xã hội được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp. Theo
nghĩa hẹp, phúc lợi xã hội “bao gồm những hoạt động phi lợi nhuận của xã

hội, nhà nước hay các tổ chức tình nguyện nhằm xóa đói giảm nghèo hoặc cải
thiện điều kiện thường ngày của xã hội” (Trần Thị Nhung, 2002). Nói cách
khác, phúc lợi xã hội được nhìn nhận là những hoạt động hướng tới việc giúp
đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn để họ không bị chết đói hoặc không
có chốn nương thân. Định nghĩa này đã loại trừ nhiều chương trình phúc lợi

8


xã hội quan trọng như: chương trình bảo hiểm hay chương trình đáp ứng nhu
cầu vui chơi giải trí cho trẻ em và người già mà nhiêu nước đang thực hiện.
Theo nghĩa rộng “ phúc lợi xã hội là tất cả các hoạt động có tổ chức của các
đơn vị tình nguyện và chính phủ để tìm cách ngăn chặn, xóa bỏ hoặc góp
phần tìm ra các giải pháp cho các vấn đề xã hội, hoặc làm tăng thêm niềm
hạnh phúc của các cá nhân, nhóm người, cộng đồng” (Trần Thị Nhung,
2002).Phúc lợi xã hội theo nghĩa này bao hàm quá nhiều vấn đề đồng thời lại
loại trừ việc cung cấp dịch vụ xã hội để thu lợi nhuận của khu vực tư nhân.
Các khái niệm nêu trên cho thấy cách hiểu về phúc lợi xã hội căn cứ vào đối
tượng cần được hỗ trợ. Tuy nhiên bản thân đối tượng này vẫn chưa được xác
định một cách rõ ràng và hầu như không đề cập đến chức năng của phúc lợi
xã hội.
Khái niệm về phúc lợi xã hội trong báo cáo điều tra phúc lợi xã hội và
giáo dục quốc tế lần thứ V năm 1971 được nhiều người ủng hộ. Ở đây: “phúc
lợi xã hội là biện pháp, thủ tục hỗ trợ một cách gián tiếp và là dịch vụ xã hội
nhằm tăng cường phúc lợi cho mỗi cá nhân, với mục đích cải thiện mối quan
hệ xã hội và công việc xã hội đối với mỗi thành viên trong xã hội. Biện pháp
này được tiến hành ở tất cả mọi trình độ, cấp độ xã hội từ cá nhân, đoàn thể
đến toàn xã hội. Phúc lợi xã hội ngoài việc đóng bảo đảm sức khỏe, giáo dục,
còn nhằm cải thiện và nâng cao đời sống, công việc cho mọi người. Nó là
biện pháp tổng hợp toàn diện để giải quyết các vấn đề của cá nhân và xã hội

hiện tại.” (Nguyễn Duy Dũng, 1998,tr25). Như vậy khái niệm này đã cho thấy
chức năng cũng như đối tượng của phúc lợi xã hội.
Thứ ba, quan niệm của Nhật Bản về phúc lợi xã hội. Ở Nhật Bản, vào
giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ hai, phúc lợi xã hội được hiểu là những
chế độ, chính sách của nhà nước với người nghèo, người gặp khó khăn. Trong
đó, chính sách phúc lợi y tế là những biện pháp nhằm giúp người không đủ

9


khả năng thích nghi với những biến đổi trong cuộc sống để có được cuộc sống
bình thường như những người khác. Đó là những người già, trẻ em, người tàn
tật, thần kinh, ốm đau, bệnh tật, người có thu nhập thấp... Sự phát triển kinh tế
kéo theo những thay đổi về đời sống xã hội và theo đó, quan niệm về phúc lợi
xã cũng có sự thay đổi tương ứng. Năm 1979, trong “kế hoạch 7 năm về kinh
tế xã hội”, Nhật Bản đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn về phúc lợi xã hội với
nội dung: “Hoàn thiện cơ sở y tế, khám chữa bệnh, xây dựng các trung tâm
dành cho người già bị liệt, người thần kinh nặng với mục đích tạo cho họ
tham gia vào đời sống xã hội, đưa ra các chính sách động viên, khuyến khích,
bổ xung và mở rộng dịch vụ giúp đỡ tại nhà, dịch vụ ngày, dịch vụ ngắn hạn,
phục hồi chức năng cho người già, người tàn tật, giáo dục và chăm sóc sức
khỏe cho trẻ em (Nguyễn Duy Dũng, 1998,tr128)
Thuật ngữ phúc lợi xã hội trong tiếng Việt tương ứng với cụm từ social
welfare trong tiếng Anh.
Bên cạnh thuật ngữ phúc lợi xã hội, hiện nay còn có thuật ngữ an sinh
xã hội. Thuật ngữ này tương đương với cụm từ social security. Thuật ngữ này
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn thuật ngữ phúc lợi xã hội (social welfare).
Trong thực tiễn, do sự đa dạng về nội dung, phương thức và góc độ tiếp
cận nên hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau về an sinh xã hội
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): An sinh xã hôị là những biện pháp

công cộng nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu
và kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn
thương và những bấp bênh thu nhập ( Nguyễn Thị Kim Phụng, 2013) .
- Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): An sinh xã hội
là hình thức bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông
qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó
khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu

10


nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử
vong, cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em.
(Nguyễn Thị Kim Phụng, 2013). Theo tổ chức này hệ thống an sinh xã hội
gồm: chăm sóc y tế, trợ cấp bệnh tật, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ
cấp tai nạn nghề nghiệp, trợ cấp gia cảnh, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật và
trợ cấp người kiêm hưởng
- Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi An sinh xã hội là thành tố của hệ
thống chính sách công liên quan đến sự bảo đảm an toàn cho tất cả các thành
viên xã hội chứ không chỉ có công nhân. Những vấn đề mà ISSA quan tâm
nhiều trong hệ thống an sinh xã hội là chăm sóc sức khoẻ thông qua bảo hiểm
y tế; hệ thống Bảo hiểm xã hội, chăm sóc tuổi già; phòng chống tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; trợ giúp xã hội. Theo ISSA , an sinh xã hội bao
gồm: các chương trình bảo hiểm xã hội, các chương trình phổ quát ( universal
programmes), các chương trình tương trợ ( mutual benefit schemes), các quỹ
dự phòng quốc gia (national provident funds) và các chương trình khác trong
đó kể cả những chương trình mang tính thương mại
Ở Việt Nam, mặc dù an sinh xã hội là một lĩnh vực còn nhiều mới mẻ
nhưng cũng đã dành được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý
nghiên cứu về vấn đề này. "Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 –

2020”ghi nhận: “An sinh xã hội là sự bảo đảm mà xã hội cung cấp cho mọi
thành viên trong xã hội thông qua việc thực thi hệ thống các cơ chế, chính
sách và biện pháp can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến suy
giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế” [(Nguyễn Thị Kim Phụng, 2013).Trong bài
"Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội
dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020” Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng "an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là hệ
thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của

11


người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và
môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân" (Nguyễn Thị Kim Phụng, 2013).
Một quan niệm khác về an sinh xã hội cho rằng: An sinh xã hôi là
những can thiệp của Nhà nước và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để hạn
chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho các thành viên trong cộng đồng do
bị mất hoặc giảm thu nhập bởi các nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời, bảo đảm chăm sóc
y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con ( Nguyễn Thị Kim Phụng, 2013).
Bản chất của an sinh xã hội là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng,
nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập
hay khi gặp những rủi ro xã hội khác. Chính sách an sinh xã hội là một chính
sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn
chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các
thành viên trong xã hội do đó nó vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội và
nhân đạo sâu sắc.
Cần phải phân biệt giữa nội hàm cơ bản của hệ thống an sinh xã hội (
chỉ chăm lo cho một số đối tượng khó khăn ) với nội hàm đầy đủ của khái

niệm phúc lợi xã hội (chăm lo cho toàn dân). An sinh xã hội chỉ hướng tới
bảo trợ cho bộ phận đặc biệt khó khăn, hoặc gặp rủi ro còn phúc lợi xã hội
không chỉ thế mà còn hưởng tới sự bảo vệ an toàn xã hộ, phúc lợi toàn dân,
phúc lợi cao cấp của xã hội phát triển.
Tuy nhiên, ở Nhật Bản việc sử dụng hai khái niệm phúc lợi xã hội và
an sinh xã hội có nội dung là như nhau. Hai khái niệm này cũng bao hàm lẫn
nhau. Do vậy ở Nhật Bản hiện nay, khi sử dụng khái niệm phúc lợi xã hội
cũng đồng nghĩa với với việc được hiểu là sử dụng khái niệm an sinh xã hội,
và/ hoặc ngược lại. Nhưng theo thời gian, thì khái niệm phúc lợi xã hội được

12


sử dụng nhiều hơn và trở thành quan niệm chính thống được dùng trong văn
bản nhà nước Nhật Bản (Đỗ Thiên Kính, 2005).
Trong phạm vi luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm phúc lợi xã hội
trong báo cáo điều tra phúc lợi xã hội và giáo dục quốc tế lần thứ V năm
1971.
1.2.2 Những đặc điểm cơ bản của phúc lợi xã hội

Trên thực tế, do tính phức tạp và đa dạng của vấn đề nên đến nay vẫn
chưa có định nghĩa nào hoàn chỉnh về phúc lợi xã hội. Ở các quốc gia khác
nhau có thể định nghĩa khác nhau về phúc lợi xã hội. Điểm đáng lưu ý cách
hiểu về phúc lợi xã hội lại quyết định các hình thức, biện pháp cụ thể được áp
dụng trong thực tế của mỗi nước. Ta có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản
về phúc lợi xã hội như sau:
Thứ nhất, mục tiêu của phúc lợi xã hội là nâng cao chất lượng cuộc
sống, tạo lập công bằng xã hội.
Mục đích của phúc lợi xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người có
hoàn cảnh khó khăn, không may mắn và người lao động bị giảm hoặc mất khả

năng lao động. Đây là chính sách đối với con người nhằm đáp ứng môt trong
những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người. Chính sách phúc lợi
xãhoij còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng
tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nào đó nó còn thể
hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính
sách phúc lợi xã hội sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của con
người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đó, nâng cao
chất lượng cuộc sống, tạo lập công bằng xã hội.
Thứ hai, đối tượng của phúc lợi xã hội là những người có hoàn cảnh
khó khăn, không may mắn như người tàn tật, người già, trẻ em; tiếp đến là
các cá nhân, thành viên khác trong xã hội.

13


Trong cuộc sống hàng ngày, mọi rủi ro đều có thể xảy ra đối với người
dân, tại bất cứ thời điểm nào và gây ra cho họ những khó khăn về vật chất lẫn
tinh thần. Người được trợ giúp là những cá nhân, hộ gia đình, những thành
viên trong xã hội thực sự đang gặp hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh. Để
được hưởng trợ cấp, họ phải được pháp luật quy định. Theo quy định của
pháp luật, đối tượng được trợ giúp bao gồm những người già, trẻ em, tàn tật
và những cá nhân khác trong xã hội. Những người này không thể lo được thu
nhập cho cuộc sống hàng ngày hoặc tạm thời bị gián đoạn thu nhập.
Thứ ba, chính sách phúc lợi xã hội là những chính sách xã hội nhằm
đảm bảo cho mọi người được sống trong công bằng, bình đẳng. Chính sách
phúc lợi xã hội góp phần ổn định và phát triển xã hội.
Xã hội là một cộng đồng người đông đảo và phức tạp bao gồm nhiều
giai cấp, giai tầng khác nhau. Ở đó, các khả năng và nhu cầu của từng thành
viên là khác nhau: có người giàu, người nghèo, có người may mắn và kẻ bất
hạnh. Đối với một cá nhân cũng vậy, lúc khỏe mạnh, lúc ốm đau, lúc già yếu

bệnh tật. Tuy nhiên, không phải lúc nào cá nhân ấy cũng tạo ra thu nhập để
phục vụ cuộc sống. Một xã hội muốn phát triển bền vững là xã hội tránh được
sự phân của xã hội có khoảng cách quá lớn, dẫn đến mất ổn định. Vì vậy,
thông qua điều tiết điều kiện sống mà chính sách phúc lợi xã hội góp phần
nào vào việc đảm bảo sự công bẳng và ổn định xã hội. Việc điều tiết này tựu
trung là lấy thu nhập của người lao động lúc đang làm việc bù vào lúc nghỉ
việc và lấy thu nhập của người có thu nhập cao san sẻ cho người không có thu
nhập hoặc thu nhập không đủ sống do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bẳng
việc điều tiết như vậy, chính sách phúc lợi xã hội góp phần vào việc ổn định
xã hội, tạo điều kiện cho việc phát triển đất nước trong thế ổn định và bền
vững.

14


Thứ tư, phúc lợi xã hội được thực hiện thông qua chế độ phân phối bằng
các hình thức như trợ cấp, giúp đỡ, tạo điều kiện để mỗi người tự vươn lên
hòa nhập cộng đồng.
Mức trợ cấp của phúc lợi xã hội dựa vào những yếu tố khác nhau. Tuy
nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp của phúc lợi xã hội phải thấp hơn mức
lương tối thiểu lúc đi làm, hoặc vừa đủ chi phí những sinh hoạt tối thiểu của
những người gặp hoàn cảnh khó khăn. Quan điểm này vừa phản ảnh tính cộng
đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại thu nhập.
Thứ năm, sự phát triển của phúc lợi xã hội phụ thuộc vào nỗ lực của
nhà nước, các cá nhân và toàn xã hội trong điều kiện kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức, tính cộng đồng, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
Được hưởng phúc lợi xã họi là một trong những quyền của con người.
Tuy nhiên, quyền người dân được hưởng phúc lợi xã hội không phải là như
nhau đối với mỗi quốc gia. Vấn đề còn phụ thuộc vào chính sách của mỗi nhà
nước, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; Cũng như sự kế thừa những truyền

thống đạo đức vốn có của nước đó. Điều này giải thích tại sao cùng là chế độ
phúc lợi xã hội mà mỗi quốc gia sự thụ hưởng lại không giống nhau cả về
trường hợp hưởng, điều kiện hưởng cũng như mức hưởng. Để quản lý các
lĩnh vực phúc lợi xã hội, nhà nước cũng không phải chỉ định hệ thống các văn
bản pháp luật về phúc lợi xã hội mà còn dựa vào những điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội cũng như tâm lý, truyền thống dân tộc. Để thể chế hóa các
văn bản về phúc lợi xã hội nhà nước phải cùng phối hợp với các cá nhân,
công đồng cùng thực hiện.
1.3 Các yếu tố ảnh hƣởng tới phúc lợi xã hội

Sự khác biệt về khái niệm phúc lợi xã hội ở mỗi quốc gia là do sự khác
biệt về các yếu tố kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội. Nói cách khác, kinh tế,
chính trị và văn hóa xã hội là những yếu tố ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội.

15


1.3.1 Yếu tố kinh tế
Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở vật chất để giải quyết vấn đề phúc lợi xã
hội. Kinh tế tác động đến vấn đề phúc lợi xã hội thông qua hai con đường.
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế giúp nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống
người dân và của cả xã hội. Nhờ đó, con người mới có điều kiện để tích cực
tham gia vào các hoạt động cộng đồng, trong đó có hoạt động phúc lợi xã
hội. Thứ hai, kinh tế tăng trưởng tạo nguồn thu dồi dào cho ngân sách nhà
nước, nhờ đó có thể tăng chi tiêu cho hoạt động phúc lợi xã hội. Chính phủ
các nước thường dành một tỉ lệ nhất định trong tổng thu nhập quốc dân cho
hoạt động này. Sự tăng trưởng kinh tế đồng nghĩa với sự gia tăng trong tổng
thu nhập quốc dân và kéo theo sự gia tăng trong ngân sách dành cho phúc lợi
xã hội. Điều đó có nghĩa là kinh tế càng phát triển, tỉ lệ chi cho phúc lợi xã
hội sẽ càng tăng. Như vậy, tăng trưởng kinh tế là điều kiện và tiền đề cho sự

phát triển của hoạt động phúc lợi xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế tạo nên sự
gia tăng trong khối lượng của cải vật chất mà nhờ đó mới có thể đáp ứng
được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội trong lĩnh vực phúc lợi xã hội.
Thực tế cho thấy các nước có nền kinh tế phát triển có hệ thống phúc
lợi xã hội tốt hơn rất nhiều so với các nước có nền kinh tế kém phát triển. Một
tỉ lệ chi nhỏ trong GNP của một nước phát triển cũng lơn hơn rất nhiều lần so
với tỉ lệ chi lớn ở một nước kém phát triển. Có thể nói, kinh tế là yếu tố khách
quan, ảnh hưởng lớn đến phúc lợi xã hội của một quốc gia.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế nhanh, thiếu bền vững kết hợp với
những khuyết tật cơ chế thị trường sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực:
khoảng cách giàu nghèo, một bộ phận dân cư do nhiều nguyên nhân sẽ rơi
vào hoàn cảnh cần sự giúp đỡ của xã hội... khi đó các chính sách phúc lợi xã
hội giữ vai trò điều hòa quyền lợi và nghĩa vụ, đóng góp và hưởng thị của các

16


cá nhân, tập thể, cộng đồng, tầng lớp trong xã hội. Nó có nhiệm vụ giải quyết
những nhu cầu liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Đồng thời, các chính sách phúc lợi xã hội phải gắn liền với tình hình
kinh tế và quá trình phát triển của đất nước. Việc đề ra các chính sách phúc
lợi thiếu cơ sở thực tiễn hoặc sai lầm có thể kìm hãm sự tăng trưởng, hạn chế
tính năng động, sáng tạo, nhiệt tình của con ngưởi. Như vậy việc thực hiện
chính sách phúc lợi xã hội phù hợp là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng đi đôi với việc giải quyế các vấn đè phúc lợi xã hội sẽ tạo nên sự
cân bằng cần thiết, giúp những người gặp hoàn cảnh bất lợi có cơ hội vươn
lên sinh sống như những người bình thường.
Nói một cách khái quát, sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và giải
quyết các vấn đề phúc lợi xã hội là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu
phát triển con người và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề cho

phát triển của phúc lợi xã hội và ngược lại, phúc lợi xã hội là nhân tố quan
trọng tác động trở lại, là thước đo của sự công bằng, ổn định của đất nước.
1.3.2 Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị đóng vai trò quyết định trong việc thực hiên chính sách
phúc lợi xã hội. Nhà nước điều tiêt các hoạt động phúc lợi xã hội thông qua
chức năng lập pháp, tư pháp và hành pháp. Trên cơ sở chức năng lập pháp,
nhà nước ban hành các luật về phúc lợi xã hội với mục đích định hướng, điều
chỉnh các hoạt động phúc lợi xã hội. Các luật về phúc lợi xã hội đều được
xây dựng trên các nguyên tắc căn bản của hiến pháp mỗi nước, nhằm đảm
bảo lợi ích của công dân hài hóa với lợi ích của xã hội. Với chức năng tư
pháp, nhà nước thực hiện sự công bằng, bình đẳng trong quá trình thực hiện
các chính sách phúc lợi xã hội để tạo sự công bằng, bình đẳng với mọi công
dân, không phân biệt đối xử. Nhờ chức năng hành pháp, nhà nước ban hành
các văn bản dưới luật, tổ chức bộ máy thực hiện, xây dựng các chương trình,

17


dự án và tài trợ cho các hoạt động phúc lợi xã hội. Trong đó, cán bộ nhà
nước từ trung ương tới địa phương đều đóng vai trò hết sức quan trọng đối
với việc thi hành các chính sách. Như vậy, sự thành công trong lĩnh vực phúc
lợi xã hội phụ thuộc chặt chẽ bởi yếu tố chính trị thông qua các chính sách và
biện pháp của nhà nước.
1.3.3 Yếu tố văn hóa – xã hội
Yếu tố văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội thông qua yếu tố
chính trị và kinh tế. Mỗi xã hội khác nhau có đặc điểm văn hóa, xã hội khác
nhau. Các đặc điểm văn hóa, xã hội ấy ảnh hưởng quan trọng đến cơ cấu và
thể chế chính trị mỗi quốc gia. Các đặc điểm đó ảnh hưởng đến kinh tế thông
qua nhiều cách. Ví dụ, sở thích về thức ăn cũng ảnh hưởng đến việc tạo lập
chính sách sản xuất và tiêu dùng. Hệ thông giá trị niềm tin, ý nghĩa, hiểu biết

cũng đều nằm trong phạm trù văn hóa. Có thể nói văn hóa là bối cảnh mà
trong đó mọi quyết định được đề ra và thực hiện do đó mọi khía cạnh của
nền kinh tế, chính trị của mọi quốc gia đều liên quan đến văn hóa.
Thông qua hệ thống giá trị, niềm tin, hiểu biết...., văn hóa cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động phúc lợi xã hội. Chẳng hạn, trong lĩnh vực y
tế, một hệ thống y tế được hình thành do các định nghĩa chung về sức khỏe
và bệnh tật, cách chữa tốt nhất, mục tiêu phục hồi và những suy nghĩ, lòng
tin chịu sự chi phối bởi yếu tố văn hóa. Nói cách khác, hệ thống chăm sóc y
tế phản ánh kết quả một loạt những quyết định về điều gì có thể và cần làm
để bảo vệ sức khỏe và điều trị bệnh tật. Tất cả những quyết định ấy đều được
thực hiện trong sự tác động của yếu tố văn hóa. Có thể nói, cách giải quyết
các vấn đề phúc lợi xã hội nói chung hay y tế nói riêng, luôn chịu sự tác động
của yếu tố văn hóa.

18


×