Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Định hướng và giải pháp phát triển dịch vụ của các ngân hàng thương mại việt nam trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.68 KB, 76 trang )

-1-

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
----------------------------------




NGUYỄN NGỌC QUẾ CHI





ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP









LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ










TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2005



-2-

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG 6
1.1. Khái niệm về dòch vụ ngân hàng 6
1.2. Các loại dòch vụ ngân hàng 9
1.2.1. Huy động tiền gởi 9
1.2.2. Cấp tín dụng 11
1.2.2.1. Cho vay 11
1.2.2.2. Bảo lãnh ngân hàng 12
1.2.2.3. Cho thuê tài chính 13
1.2.2.4. Chiết khấu 13
1.2.2.5. Bao thanh toán 14
1.2.3. Dòch vụ thanh toán và ngân quỹ 14
1.2.3.1. Thanh toán nội đòa 14
1.2.3.2. Thanh toán quốc tế 14
1.2.3.3. Dòch vụ thu chi hộ 16

1.2.4. Các dòch vụ khác 16
1.2.4.1. Bảo quản an toàn vật có giá 16
1.2.4.2. Dòch vụ ủy thác 16
1.2.4.3. Các dòch vụ khác 16
1.3. Tác động của hội nhập quốc tế đối với hoạt động ngân hàng
và phát triển dòch vụ ngân hàng 17
1.3.1. Hội nhập quốc tế trong lónh vực ngân hàng là gì 17
1.3.2. Động lực của hội nhập quốc tế 18
1.3.2.1. Hội nhập ngân hàng là xu thế tất yếu 18
-3-

1.3.2.2. Hội nhập ngân hàng là một phần của phát triển kinh tế
19
1.3.3. Các đặc điểm của hội nhập quốc tế 20
1.3.4. Các cam kết và lộ trình về mở cửa trong lónh vực ngân hàng
20
1.3.4.1. Gia nhập WTO 21
1.3.4.2. Hiệp đònh thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ
22
1.3.4.3. Hiệp đònh khung của ASEAN về dòch vụ 23
1.3.5. Tác động của hội nhập quốc tế đối với lónh vực ngân hàng và
24
phát triển dòch vụ ngân hàng
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG HỆ THỐNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
VIỆT NAM VÀ CÁC NGUYÊN NHÂN TỒN TẠI 27
2.1. Thực trạng của hệ thống dòch vụ ngân hàngVN 27
2.1.1. Hạn chế về số lượng và chất lượng dòch vụ 28
2.1.1.1. Huy động vốn 28
2.1.1.2. Cấp tín dụng 32
2.1.1.3. Các dòch vụ khác 37

2.1.2. Hạn chế về thò trường 37
2.1.3. Hạn chế về tính cạnh tranh 38
2.1.4. Tỷ trọng các loại dòch vụ ngân hàng 39
2.1.5. Hoạt động tín dụng 40
2.1.6. Nhận thức của bản thân các NHVN 41
2.2. Một số nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém của
hệ thống dòch vụ NHVN. 41
2.2.1. Nguyên nhân từ bản thân các NHTMVN 42
-4-

2.2.2. Nguyên nhân từ các cơ quan quản lý nhà nước 44
2.2.3. Nguyên nhân từ điều kiện nền kinh tế VN 44
2.2.4. Nguyên nhân từ môi trường pháp lý 45
2.2.5. Nguyên nhân từ NHNN 45
2.2.6. Nguyên nhân từ hệ thống CNTT 46
CHƯƠNG 3- ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM 48
3.1. Đònh hướng phát triển dòch vụ ngân hàng 48
3.1.1. Đònh hướng chung 48
3.1.2. Đònh hướng phát triển một số dòch vụ ngân hàng chủ yếu 49
3.1.2.1. Dòch vụ huy động vốn 49
3.1.2.2. Dòch vụ cấp tín dụng 51
3.1.2.3. Dòch vụ thanh toán và ngân quỹ 53
3.1.2.4. Các dòch vụ khác 55
3.2. Các giải pháp nhằm phát triển dòch vụ NHVN 56
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với bản thân các NHTMVN 56
3.2.1.1. Tăng cường năng lực tài chính 56
3.2.1.2. Nâng cao năng lực quản trò rủi ro 57
3.2.1.3. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 59
3.2.1.4. Phát triển nguồn nhân lực 61

3.2.1.5. Các giải pháp khác 62
3.2.2. Nhóm giải pháp mang tính vó mô 63
3.2.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách 63
3.2.2.2. Giải pháp đối với NHNN 65
KẾT LUẬN 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO

-5-

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên của hội nhập kinh tế và xu hướng toàn
cầu hoá diễn ra rộng khắp. Sự xuất hiện của các khối kinh tế và mậu dòch trên
thế giới là một tất yếu khách quan, một nấc thang phát triển mới trong quá trình
toàn cầu hoá nền kinh tế. Khi gia nhập vào các tổ chức thương mại trong khu vực
và trên thế giới, mỗi quốc gia đều có những mục đích riêng, nhưng nhìn chung
thì các nước đều muốn hướng tới một nền kinh tế phát triển, một xã hội văn
minh, hiện đại, đời sống xã hội được cải thiện.
Kinh nghiệm quốc tế đã đưa các nhà nghiên cứu đến kết luận là hệ thống
tài chính và ngân hàng cạnh tranh và mở cửa là hệ thống tài chính tốt nhất cho
phát triển và tăng trưởng kinh tế. Hội nhập toàn cầu sẽ mở ra và thúc đẩy sự
phát triển và sử dụng nguồn lực tiềm năng và tạo ra các cơ hội tăng trưởng từ sự
chuyên môn hoá, mà nếu không hội nhập sẽ không khai thác sử dụng được.
Cũng như nhiều ngành khác, các ngân hàng của VN đang đứng trước một cuộc
cạnh tranh được dự báo trước là vô cùng khốc liệt khi hội nhập khu vực và quốc
tế. Ngân hàng là lónh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) của VN với lộ trình 7 năm. Chính vì vậy, các chuyên gia cho
rằng, nếu khả năng VN gia nhập WTO vào cuối năm 2005 là hiện thực, thì hơn
bất cứ ngành nào, lónh vực ngân hàng cần phải tăng tốc nâng cao năng lực cạnh

tranh vì chính cạnh tranh cho phép các doanh nghiệp có động lực để nâng cao
chất lượng và đổi mới toàn diện các mặt hoạt động.
Trong lòch sử ngành ngân hàng, chưa có thời điểm nào các NHTM lại phát
triển mạnh như hiện nay. Ngoài 5 NHTMNN, còn có đến 37 NHTM cổ phần, 13
công ty tài chính, 26 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh và
một hệ thống cả ngàn quỹ tín dụng nhân dân cả trung ương lẫn cơ sở. Hệ thống
-6-

ngân hàng VN cũng đã có sự lớn mạnh đáng kể về dòch vụ, chất lượng hoạt động
nhờ ứng dụng những công nghệ hiện đại trong ngành ngân hàng.
Sự lớn mạnh này vẫn chưa đủ trong cuộc cạnh tranh với ngân hàng khu
vực và trên thế giới vào thời điểm VN chính thức hội nhập. Từng dòch vụ ngân
hàng chưa tạo dựng được thương hiệu riêng, qui mô của từng dòch vụ còn nhỏ,
chất lượng dòch vụ còn hạn chế, sức cạnh tranh thấp, đặc biệt là tiện ích của một
số dòch vụ chưa cao, chưa thật sự đa dạng và đáp ứng mọi nhu cầu của khách
hàng. Dòch vụ ngân hàng được dự báo là lónh vực cạnh tranh khốc liệt khi vòng
bảo hộ cho ngân hàng thương mại trong nước không còn.
Xuất phát từ yêu cầu của hội nhập, một trong những giải pháp để nâng
cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại VN là phát triển các dòch
vụ ngân hàng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chính là lý do mà tôi chọn
đề tài này.
2. Xác đònh vấn đề:
Với nhiều chuyển biến tích cực của ngành ngân hàng trong thời gian gần
đây, song nhìn chung dòch vụ NHVN vẫn còn rất nhiều hạn chế, hạn chế về số
lượng dòch vụ nghèo nàn, đơn điệu, hạn chế về chất lượng dòch vụ thật sự vẫn
chưa đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Nếu như Việt Nam
chính thức gia nhập WTO vào cuối năm 2005 thì ngành ngân hàng sẽ là một
trong những ngành bò cạnh tranh nhiều nhất. Với thực trạng về hệ thống dòch vụ
của các NHVN như hiện nay, chắc chắn ngân hàng thương mại trong nước sẽ
không đủ sức để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài chưa kể những yếu tố

khác như về qui mô vốn, trình độ quản lý, hệ thống công nghệ thông tin, sự hiểu
biết các nghiệp vụ của một ngân hàng hiện đại trên thế giới….
Vấn đề trọng tâm mà Luận văn muốn đề cập là làm thế nào để phát triển
các dòch vụ để NHVN có thể nâng cao năng lực cạnh tranh khi Việt Nam hội
nhập quốc tế. Nghiên cứu thực trạng hệ thống dòch vụ ngân hàng trong nước và
-7-

hệ thống dòch vụ ngân hàng nước ngoài để từ đó có thể đưa ra được những đònh
hướng và giải pháp thích hợp nhằm phát triển dòch vụ ngân hàng trong nước về
số lượng cũng như chất lượng trong những năm tiếp theo.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Ngân hàng Việt Nam tham gia hội nhập trong bối cảnh trình độ phát triển
kinh tế và công nghệ thấp, đặc biệt các dòch vụ ngân hàng còn hết sức nghèo
nàn, chủ yếu là các dòch vụ mang tính truyền thống (huy động vốn và cho vay),
chất lượng dòch vụ thấp, mức độ phổ biến của dòch vụ không cao, đối tượng sử
dụng dòch vụ còn phân tán. Trong hoạt động ngân hàng, xu thế mở rộng dòch vụ
ngân hàng hiện đại đã và đang là mục tiêu phấn đấu, là lónh vực cạnh tranh hiệu
quả giữa các ngân hàng. Hơn nữa, khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại
Quốc tế (WTO), dòch vụ ngân hàng còn là môi trường thuận lợi cho các nhà đầu
tư, cho việc thông giao quốc tế và mở rộng dòch vụ, du lòch.
Trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngoài là sự đa dạng của các
loại hình dòch vụ (chiếm hơn 50% trên tổng thu nhập) thì thu nhập từ hoạt động
cấp tín dụng vẫn còn phổ biến ở hầu hết các ngân hàng TMVN. So sánh dòch vụ
hiện có của các NHTMVN và dòch vụ của một số ngân hàng nước ngoài ở các
nước phát triển như Citibank, HSBC, UOB, Wachovia, American Express …. qua
đó đưa ra đònh hướng và giải pháp cho sự phát triển dòch vụ ngân hàng hiện đại
đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong quá trình hội nhập chính là mục đích nghiên
cứu của luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu luận văn:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận một cách có hệ

thống của vấn đề cần nghiên cứu:



-8-



DVNH là gì và vì sao phải phát triển
DVNH khi nền kinh tế VN hội nhập QT




Thực trạng của hệ thống DVNHVN khi
so sánh với các nước phát triển và tìm
hiểu nguyên nhân của nó





Đònh hướng để phát triển DVNH
và các giải pháp cụ thể



Khi nghiên cứu luận văn, phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp được
vận dụng để đánh giá thực trạng hoạt động dòch vụ của các NHVN trong các
năm qua cho đến hiện nay và so sánh với hệ thống ngân hàng của các nước phát

triển khác.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, tức đưa
ra đònh hướng và đề xuất các giải pháp phát triển dòch vụ ngân hàng trên cơ sở
đã phân tích thực trạng và những nguyên nhân tồn tại của hệ thống dòch vụ
NHVN nhằm đánh giá được bản chất của vấn đề đang nghiên cứu.
5.
Nội dung nghiên cứu:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương. Chương I sẽ
đi sâu vào tìm hiểu thế nào là dòch vụ ngân hàng, những dòch vụ truyền thống
của một ngân hàng như đi vay và cho vay có phải là dòch vụ ngân hàng không.
-9-

Qua đó việc tìm hiểu lý do vì sao phải phát triển dòch vụ ngân hàng trong nền
kinh tế hội nhập quốc tế.
Khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO mà dự kiến là cuối năm 2005, sự
cạnh tranh sẽ diễn ra hết sức khốc liệt trong đó lónh vực hoạt động ngân hàng sẽ
chòu ảnh hưởng trực tiếp. Các NHVN hầu như chưa có kinh nghiệm trong việc
tiếp cận với dòch vụ ngân hàng hiện đại khi hệ thống ngân hàng VN còn hết sức
non trẻ (lâu đời nhất cũng chỉ 30 năm) trong khi đó nhiều ngân hàng nước ngoài
đã có quá trình phát triển trên hàng trăm năm qua. Nhận dạng được những thực
trạng của hệ thống dòch vụ NHVN và tìm hiểu nguyên nhân của những bất cập,
yếu kém sẽ được trình bày ở Chương II của luận văn.
Cuối cùng, ở Chương III luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu đònh hướng
phát triển của hệ thống dòch vụ NHVN và qua đó đề ra những giải pháp cụ thể
nhằm phát triển dòch vụ ngân hàng VN nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và hội
nhập quốc tế.
6.
Ý nghóa nghiên cứu:


Dòch vụ ngân hàng hết sức đa dạng, với nhu cầu ngày càng cao của xã hội
thì dòch vụ ngân hàng cũng không ngừng cải tiến về chất lượng và phát triển về
số lượng, nên không thể giới hạn hay nêu cụ thể tất cả các dòch vụ mà ngân hàng
VN cần phải thực hiện bởi môi trường hoạt động, năng lực hoạt động của mỗi
ngân hàng là khác nhau. Đề tài nghiên cứu cần hướng đến là làm thế nào để dòch
vụ ngân hàng ngày càng trở nên đa năng và hiện đại khi Việt Nam hội nhập quốc
tế.







-10-




CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG

1.1. Khái niệm về dòch vụ ngân hàng:
Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có một khái niệm nào được nêu cụ thể
về dòch vụ ngân hàng. Có không ít quan niệm cho rằng dòch vụ ngân hàng không
thuộc phạm vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng theo
chức năng của một trung gian tài chính (huy động tiền gởi, cho vay…), chỉ những
hoạt động ngân hàng không thuộc nội dung trên mới gọi là dòch vụ ngân hàng
như dòch vụ chuyển tiền, thu hộ ủy thác, mua bán hộ, môi giới kinh doanh chứng

khoán … Một số khác lại cho rằng tất cả hoạt động của ngân hàng phục vụ cho
khách hàng là cá nhân và doanh nghiệp đều gọi là dòch vụ ngân hàng.
Ngay cả Hệ thống tài khoản kế toán của ngân hàng hiện nay cũng đã có
sự phân biệt dòch vụ ngân hàng không có hoạt động từ tín dụng và các ngân hàng
thương mại khi công bố thông tin về tỷ lệ thu dòch vụ trên tổng thu nhập cũng đã
bao hàm thu dòch vụ không có thu nhập từ tín dụng. Đối với hoạt động huy động
vốn và cho vay, các ngân hàng thường tránh né sử dụng thuật ngữ “dòch vụ” mà
thay vào đó là cụm từ “sản phẩm”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng do NHNNVN ban hành, dòch vụ ngân hàng
cũng không được đònh nghóa và giải thích cụ thể. Tại khoản 1 và khoản 7, điều
20 thì hoạt động kinh doanh tiền tệ và dòch vụ ngân hàng bao hàm cả ba nội
dung: nhận tiền gởi, cấp tín dụng và cung ứng dòch vụ thanh toán, nhưng đâu là
kinh doanh tiền tệ và đâu là dòch vụ ngân hàng thì vẫn chưa được phân đònh rõ
ràng.
-11-

Như vậy, dòch vụ ngân hàng sẽ được hiểu theo hai nghóa: nghóa rộng và
nghóa hẹp.
Theo nghóa rộng, lónh vực dòch vụ ngân hàng là toàn bộ hoạt động tiền tệ,
tín dụng, thanh toán, ngoại hối…của hệ thống ngân hàng đối với khách hàng là
doanh nghiệp và cá nhân (nhưng không bao gồm hoạt động tự làm cho mình của
các tổ chức tín dụng). Quan niệm này được sử dụng để xem xét lónh vực dòch vụ
ngân hàng trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân của một quốc gia. Quan niệm
này phù hợp với cách phân ngành dòch vụ ngân hàng trong dòch vụ tài chính của
WTO và của Hiệp đònh thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, cũng như của nhiều
nước phát triển trên Thế giới.
Theo nghóa hẹp, dòch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động ngoài
chức năng truyền thống của đònh chế tài chính trung gian (huy động vốn và cho
vay). Quan niệm này chỉ nên dùng trong phạm vi hẹp, khi xem xét hoạt động của
một ngân hàng cụ thể để xem các dòch vụ mới, phát triển như thế nào, cơ cấu ra

sao trong hoạt động của mình.
Khi nói lónh vực dòch vụ ngân hàng đối với nền kinh tế, các nước đều
quan niệm dòch vụ ngân hàng theo nghóa rộng. Trong thực tế, một ngân hàng bán
lẻ lớn thường có trên 300 dòch vụ khác nhau cho khách hàng cá nhân hay doanh
nghiệp. Dòch vụ ngân hàng ngày càng hiện đại và không có giới hạn khi nền
kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh và nhu cầu của con
người ngày càng cao và đa dạng.
Theo Tổ chức thương mại Thế Giới (WTO): một dòch vụ tài chính là bất
kỳ dòch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dòch vụ tài chính
cung cấp. Dòch vụ tài chính bao gồm mọi dòch vụ bảo hiểm và dòch vụ liên quan
đến bảo hiểm, mọi dòch vụ ngân hàng và dòch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo
hiểm). Như vậy dòch vụ ngân hàng là một bộ phận cấu thành nên dòch vụ tài
-12-

chính và cũng khó phân đònh rõ đâu là dòch vụ ngân hàng và đâu là dòch vụ tài
chính như :
- Nhận tiền gởi
- Tất cả các loại hình cho vay
- Cho thuê tài chính
- Dòch vụ thanh toán và chuyển tiền
- Bảo lãnh và cam kết
- Buôn bán cho chính tài khoản của mình hoặc cho tài khoản của người tiêu
dùng hoặc là tại sở giao dòch, tại thò trường phi tập trung hoặc ở các nơi khác các
sản phẩm sau: các công cụ của thò trường tiền tệ, ngoại tệ, các sản phẩm phái
sinh, tỷ giá và các công cụ lãi suất, các chứng khoán chuyển nhượng được, các
công cụ mua bán được khác và các tài sản chính
- Tham dự vào tất cả các vấn đề liên quan đến chứng khoán, bao gồm nhận
bảo lãnh và đầu tư như một đại lý và cung cấp các dòch vụ có liên quan
- Môi giới tiền tệ
- Quản lý tài sản

- Các dòch vụ thanh toán đối với tài sản chính
- Các dòch vụ tư vấn và phụ trợ khác
- Cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý các dữ liệu tài chính và
phần mềm liên quan được cung cấp bởi các nhà cung ứng dòch vụ tài chính khác.
Hiệp đònh thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ và Hiệp đònh khung ASEAN về
dòch vụ (AFAS) đã được ký kết cũng hiểu và phân loại dòch vụ tài chính (trong
đó có dòch vụ ngân hàng) tương tự như WTO.
Tóm lại, dòch vụ ngân hàng là một bộ phận của dòch vụ tài chính và cần
phải được hiểu theo nghóa rộng như Luận văn đã đề cập ở phần trên.


-13-

1.2. Các loại dòch vụ ngân hàng:
Dòch vụ ngân hàng là một bộ phận của dòch vụ tài chính nên dòch vụ ngân
hàng rất đa dạng. Với nhu cầu ngày càng cao của xã hội, dòch vụ ngân hàng
ngày càng phát triển kể cả về mặt lượng và chất, nên không thể thống kê hết
toàn bộ các dòch vụ ngân hàng. Mặt khác việc áp dụng từng loại dòch vụ ngân
hàng còn tuỳ thuộc vào năng lực, quy mô… của từng ngân hàng khác nhau và tập
quán, thói quen, cách sống, thu nhập của người dân nhưng cơ bản dòch vụ ngân
hàng bao gồm những loại dòch vụ như huy động tiền gởi, cấp tín dụng, dòch vụ
thanh toán và ngân quỹ và các dòch vụ khác.
1.2.1. Huy động tiền gởi:
Các NH thực hiện một dòch vụ rất quan trọng đối với tất cả các khu vực
của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi cho việc gởi tiền
tiết kiệm của dân chúng bằng cách đưa ra những phương thức dễ dàng để thực
hiện các mục đích có tính chất xã hội. Người gởi tiền tiết kiệm sẽ được hưởng
một lãi suất được ấn đònh trên tổng số tiền gởi với mức độ an toàn và thanh
khoản cao.
Các loại hình tiền gởi phổ biến:

¾
Tiền gởi thanh toán:
Tiền gởi thanh toán của các ngân hàng thương mại là tiền gởi của cá
nhân, của các nhà doanh nghiệp và nhiều nước trên thế giới chính phủ trung
ương và đòa phương cũng mở tài khoản thanh toán tại các ngân hàng thương mại.
Đối với loại tiền gởi này, mục đích gởi là nhằm đảm bảo an toàn về tài
sản và thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng. Đối với phần lớn các khách hàng, mục đích hưởng lợi đối với loại tiền gởi
này chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Tài khoản được sử dụng cho tiền gởi thanh toán được gọi là tài khoản giao
dòch hay còn gọi là tài khoản cheque (séc), vì phần lớn các khoản giao dòch
-14-

không qua tài khoản này được thực hiện bằng séc, mặc dù ngày nay việc chuyển
tiền qua mạng và thẻ thanh toán đã trở thành phổ biến.
¾
Tiền gởi có kỳ hạn:
Các doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập tạm thời chưa sử dụng trong
một thời gian nhất đònh có thể gởi vào ngân hàng dưới hình thức ký thác có kỳ
hạn. Theo nguyên tắc đối với loại tiền gởi này, người gởi chỉ được rút ra khi đáo
hạn. Tuy nhiên trên thực tế do áp lực cạnh tranh mà các ngân hàng thường cho
phép khách hàng rút ra trước hạn với điều kiện là người gởi không được trả lãi,
hoặc chỉ hưởng lãi không kỳ hạn hoặc phải chòu một mức phạt nào đó.
Tiền gởi đònh kỳ với nhiều loại kỳ hạn khác nhau thông thường bao gồm
các lọai sau: 1tuần, 1tháng, 2 tháng … đến 36 tháng.
Khác với tiền gởi thanh toán, tiền gởi đònh kỳ là tiền tạm thời chưa sử
dụng của doanh nghiệp, cá nhân mà chủ yếu là cá nhân. Vì vậy mục đích gởi
tiền vào ngân hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Đối với ngân hàng tiền gởi đònh kỳ
là nguồn vốn ổn đònh trong kinh doanh, do đó lãi suất mà các ngân hàng chi trả
cho loại tiền gởi này cao hơn lãi suất chi trả cho tiền gởi thanh toán. Mặt khác,

để khuyến khích khách hàng gởi tiền theo kỳ hạn dài ngân hàng thường áp dụng
nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đang áp dụng hai loại tiền
gởi đònh kỳ là: tiền gởi theo tài khoản và tiền gởi đònh kỳ dưới hình thức phát
hành kỳ phiếu ngân hàng.
Ngoài ra các ngân hàng thương mại của các nước phát triển còn huy động
vốn bằng cách phát hành một loại giấy nhận nợ có mệnh giá cao gọi là chứng chỉ
tiền gởi được chuyển nhượng.
¾
Tiền gởi tiết kiệm:
Tiền gởi tiết kiệm đối với các nước trên thế giới có hai loại chính:
-15-

Loại 1: Tiền gởi tiết kiệm theo tài khoản có thông tri, tức là tiền gởi
không có thời gian đáo hạn mà người gởi khi muốn rút ra phải báo trước cho
ngân hàng một thời gian, tuy nhiên ngày nay các ngân hàng thường cho phép
khách hàng được rút tiền tiết kiệm mà không cần báo trước.
Loại 2: Tiền gởi tiết kiệm có mục đích: người gởi ký thác ở ngân hàng để
sử dụng vào một mục đích nhất đònh như mua nhà ở, trang trãi chi phí học tập…
Đối với những người gởi tiền loại này ngân hàng thường cấp tín dụng để bù đắp
thêm phần thiếu hụt khi sử dụng theo mục đích của tiền gởi tiết kiệm.
Đối với Việt Nam tiền gởi tiết kiệm hết sức đa dạng như tiền gởi không
kỳ hạn; tiền gởi tiết kiệm có mục đích (tiết kiệm an cư của Ngân hàng Đông Á,
tích luỹ thưởng của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín); tiết kiệm có lãi và có
thưởng (tiết kiệm ngoại tệ có thưởng của Ngân hàng Á Châu, cơ hội vàng của
Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín); tiết kiệm luỹ tiến ….
1.2.2. Cấp tín dụng
Cấp tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất đem lại nguồn
thu nhập chủ yếu cho các NHTM, cấp tín dụng bao gồm những dòch vụ chủ yếu
như sau:

1.2.2.1. Cho vay:
Tín dụng là được hiểu như là một giao dòch về tài sản (tiền hoặc hàng
hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các đònh chế tài chính khác) và bên đi vay
(cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao
tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất đònh theo thoả thuận, bên
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi
đến hạn thanh toán.
Có rất nhiều cách để phân loại cho vay:
-16-

¾ Căn cứ vào mục đích cho vay, gồm có: cho vay sản xuất kinh doanh; tài
trợ xuất nhập khẩu; cho vay mua sắm bất động sản; cho vay mua sắm xe ô tô;
cho vay tiêu dùng; cho vay nông nghiệp; cho vay góp chợ; cho vay du học.
¾ Căn cứ vào thời hạn cho vay, gồm có: cho vay ngắn hạn: dưới 12 tháng;
cho vay trung hạn: từ 1 đến 5 năm (một số nước trên thế giới là7 năm), cho vay
dài hạn: trên 5 năm (đối với Việt Nam), trên 7 năm (đối với các nước trên thế
giới).
¾ Căn cứ vào mức độ tín nhiệm, gồm có:
- Cho vay có đảm bảo: người đi vay phải có tài sản để thế chấp hoặc cầm
cố hoặc được bên thứ 3 bảo lãnh.
- Cho vay không có đảm bảo: người đi vay không có tài sản để thế chấp
hoặc cầm cố hoặc được bên thứ 3 bảo lãnh mà chủ yếu chỉ dựa vào uy tín của
bên đi vay. Loại hình này chỉ áp dụng đối với khách hàng có tình hình tài chính
lành mạnh, có khả năng tài chính tốt hoặc những cá nhân làm việc ở cơ quan đơn
vò.
¾ Căn cứ vào phương pháp hoàn trả, gồm có:
- Cho vay trả góp: vốn và lãi trả hàng tháng
- Cho vay món: vốn trả cuối kỳ, lãi trả hàng tháng.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu: áp dụng kỹ thuật thấu chi.
1.2.2.2. Bảo lãnh ngân hàng:

Bảo lãnh ngân hàng cũng là một loại tín dụng được áp dụng phổ biến,
nhưng tín dụng dưới dạng chữ ký, chưa phát sinh giao dòch về tài sản (tiền hoặc
hàng hoá). Để đảm bảo thực hiện một nghóa vụ của khách hàng, ngân hàng đứng
ra bảo lãnh cho khách hàng bằng việc phát hành các chứng thư bảo lãnh.
Chứng thư bảo lãnh là giấy cam kết của ngân hàng sẽ thực hiện nghóa vụ
thay người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghóa vụ.
-17-

Bảo lãnh ngân hàng có các loại thông dụng như sau: bảo lãnh dự thầu;
bảo lãnh thực hiện hợp đồng; bảo lãnh mua hàng trả chậm; bảo lãnh thanh toán;
bảo lãnh thuế quan; bảo lãnh thanh toán khoản tạm ứng; bảo lãnh bảo hành sản
phẩm; bảo lãnh vay vốn….
1.2.2.3. Cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính là một giao dòch hợp đồng giữa hai chủ thể gồm bên
chủ sở hữu tài sản và bên sử dụng tài sản, trong đó bên chủ sở hữu tài sản (bên
cho thuê) chuyển giao tài sản cho bên đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất
đònh và bên sử dụng tài sản phải thanh toán tiền thuê cho bên chủ sở hữu tài sản.
Cho thuê tài chính là loại cho thuê vốn dài hạn, bên thuê không được huỷ
bỏ hợp đồng. Bên đi thuê chòu trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài
sản. Phần lớn các hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê được quyền gia hạn hợp
đồng hoặc được quyền mua đứt tài sản sau khi thời hạn hợp đồng kết thúc. Thực
chất của cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ vốn, trong đó theo yêu cầu sử
dụng của bên đi thuê, bên cho thuê tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho
bên đi thuê sử dụng.
Các loại cho thuê tài chính:
- Tái cho thuê hay còn gọi là bán và thuê lại, là một dạng đặc biệt của
phương thức cho thuê có sự tham gia của hai bên.
- Cho thuê hợp tác: bên cho thuê đã vay phần lớn vốn từ ngân hàng để mua
tài sản cho thuê.
- Cho thuê giáp lưng.

1.2.2.4. Chiết khấu:
Ngân hàng được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với ngân hàng khác.

-18-

1.2.2.5. Bao thanh toán:
Đây là một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng cho bên bán hàng thông
qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã
được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng.
Bao thanh toán gồm các loại bao thanh toán nội đòa và bao thanh toán xuất nhập
khẩu.
1.2.3. Dòch vụ thanh toán và ngân quỹ:
1.2.3.1. Thanh toán nội đòa:
Khách hàng có thể sử dụng dòch vụ này để thanh toán cho các nhà cung
cấp, các chủ nợ khác hoặc dùng để trả lương trực tiếp cho nhân viên qua tài
khoản của họ. Có rất nhiều phương thức thanh toán qua hệ thống ngân hàng như:
- Thanh toán bằng ủy nhiệm thu
- Thanh toán bằng ủy nhiệm chi
- Thanh toán bằng thẻ
- Chuyển tiền qua điện thoại và mạng vi tính
- Chuyển tiền điện tử EFTPOS (Electronic Funds Transfer at Point of
Sales).
1.2.3.2. Thanh toán quốc tế:
Quan hệ thương mại quốc tế tất yếu dẫn đến nảy sinh những nghóa vụ tiền
tệ giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Việc thực hiện những nghóa vụ
tiền tệ này là thực hiện quan hệ thanh toán quốc tế.
Quan hệ thanh toán quốc tế được tiến hành thông qua các phương thức
thanh toán. Để phù hợp với tính đa dạng và phong phú của mối quan hệ thương

mại và thanh toán quốc tế, người ta đã đưa ra nhiều phương thức thanh toán khác
nhau.


-19-

¾ Chuyển tiền:
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán, trong đó một khách
hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất
đònh cho một người khác (người hưởng lợi) ở một đòa điểm nhất đònh.
Phương thức chuyển tiền có thể được tiến hành bằng hình thức chuyển
tiền thư (M/T) hoặc chuyển tiền bằng điện (T/T).
Việc chuyển tiền ngày nay có thể được thực hiện thông qua hệ thống
SWIFT. Phương thức chuyển tiền là một phương thức đơn giản, ngân hàng chỉ
đóng vai trò trung gian nên người bán sẽ gặp rủi ro nếu người mua không thực
hiện thanh toán.
¾ Phương thức nhờ thu:
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán, trong đó người bán
sau khi hoàn thành nghóa vụ chuyển giao hàng hoá hoặc cung ứng dòch vụ cho
khách hàng, ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền của người mua trên
cơ sở hối phiếu do người bán lập ra.
Các loại nhờ thu: nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
¾ Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary Credits):
Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng phổ
biến nhất hiện nay. Nó là sự thoả thuận trong đó một ngân hàng theo yêu cầu
của khách hàng của mình (người xin mở L/C) sẽ trả tiền cho người thứ ba hoặc
trả cho bất cứ người nào theo lệnh của người thứ ba hoặc sẽ trả, chấp nhận mua
hối phiếu do người hưởng lợi phát hành; hoặc cho phép một ngân hàng khác trả
tiền, chấp nhận hay mua hối phiếu khi xuất trình đầy đủ các chứng từ đã quy
đònh và mọi điều kiện đặt ra đều thực hiện đầy đủ.

Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức được sử dụng tương đối phổ
biến hiện nay.

-20-

1.2.3.3. Dòch vụ thu chi hộ:
Ngân hàng thay mặt khách hàng để thực hiện nghiệp vụ thu hộ khách
hàng tiền từ người mua hàng hoá, dòch vụ… hoặc chi trả hộ lương, chi trả tiền cho
đối tác của khách hàng.
Dòch vụ thu chi hộ có thể bằng tiền mặt hoặc bằng phương thức chuyển
khoản.
1.2.4. Các dòch vụ khác
1.2.4.1. Bảo quản an toàn vật có giá:
Bảo quản an toàn vật có giá là một trong những dòch vụ lâu đời nhất được
các ngân hàng thương mại thực hiện. Công việc bảo quản vật có giá được chia
thành hai bộ phận khác nhau:
- Két sắt bảo quản ký thác: được lập ra để cho khách hàng thuê. Khách
hàng được quyền kiểm tra tài sản có giá của họ vào bất kỳ thời điểm nào. Các
ngân hàng chỉ đơn thuần cung cấp kho bảo quản.
- Trực tiếp bảo quản các giấy tờ có giá trò: ngân hàng trực tiếp quản lý như
một đại lý đối với khách hàng
1.2.4.2. Dòch vụ ủy thác:
Đã nhiều năm qua ngân hàng đã và đang điều hành quản trò tình hình tài
chính, tài sản của các cá nhân và các công ty (với khoản phí nhất đònh tuỳ thuộc
vào đánh giá quy mô tài sản và các hoạt động). Hầu hết các ngân hàng đề xuất
thực hiện dòch vụ ủy thác cá nhân dành cho các cá nhân và hộ gia đình, dòch vụ
ủy thác thương mại- dành cho các doanh nghiệp.
Thông qua bộ phận dòch vụ ủy thác cá nhân, khách hàng có thể để dành
tiền chi trả học phí cho con cái sau này bằng cách chuyển giao cho ngân hàng
khả năng điều hành và đầu tư nguồn tiền của họ trong khi họ chưa cần đến. Các

ngân hàng thường đóng vai trò thực hiện di chúc, điều hành tài sản của khách
-21-

hàng khi qua đời. Ngân hàng đảm bảo nguyên vẹn các tài sản quý giá để người
thừa kế nhận được tài sản này khi đến thời điểm phù hợp.
Thông qua dòch vụ ủy thác thương mại, ngân hàng điều hành danh mục
chứng khoán của công ty và cung cấp dòch vụ đại diện cho các công ty, phát
hành cổ phiếu hay trái phiếu, chi trả cổ tức hay lãi suất khi đến hạn…
1.2.4.3. Các dòch vụ khác:
Ngoài ra, dòch vụ ngân hàng còn bao gồm: dòch vụ đầu tư, dòch vụ bảo
hiểm, dòch vụ tư vấn, các nghiệp vụ phái sinh tiền tệ, tỷ giá, lãi suất …. Các dòch
vụ này đã được sử dụng phổ biến ở các nước trên thế giới nhưng hiện vẫn chưa
được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam.
1.3. Tác động của hội nhập quốc tế đối với hoạt động ngân hàng và phát
triển dòch vụ ngân hàng:
1.3.1. Hội nhập quốc tế trong lónh vực ngân hàng là gì?
Hội nhập quốc tế có rất nhiều khía cạnh. Về mặt chính sách nhằm khuyến
khích hội nhập quốc tế, các nước thường hành động bằng cách mở cửa khả năng
tiếp cận thò trường, đối xử quốc gia, và đảm bảo môi trường chính sách trong
nước hỗ trợ cho cạnh tranh. Mức độ hội nhập quốc tế đạt được trên thực tế tuỳ
thuộc vào sự phản hồi của các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong
nước đối với các cơ hội do sự thay đổi của chính sách. Do đó, các biện pháp hội
nhập quốc tế trong lónh vực ngân hàng có thể bao gồm việc đánh giá các rào cản
đối với sự tham gia hoặc “độ mở cửa”; về mức độ khác biệt về giá tài sản tài
chính và dòch vụ ở các nước (lãi suất thò trường sẽ phản ánh sự khác biệt về rủi
ro giữa các nước); mức độ tương tự giữa các chuẩn mực và các nguyên tắc quy
đònh hoạt động của các ngân hàng ở các nước khác nhau; hoặc mức độ cạnh
tranh trong khu vực ngân hàng, trong khi các biện pháp khác như chênh lệch giữa
lãi suất tiền gởi và cho vay, các tỷ lệ về mức độ tập trung được sử dụng không
phải lúc nào cũng đáng tin cậy; thò phần cho vay của các ngân hàng nước ngoài;

-22-

và mức độ của các luồng vốn quốc tế và thanh toán dòch vụ, kể cả chuyển lợi
nhuận về nước.
Ngoài việc cho phép các ngân hàng nước ngoài cạnh tranh trong một sân
chơi công bằng và tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước thâm nhập
thò trường quốc tế, hội nhập quốc tế còn liên quan đến các chuẩn mực tốt nhất
giúp cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế VN có thể tiếp cận với lưu chuyển
vốn và giao thương quốc tế.
Ngân hàng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính đối với các
quốc gia, đặc biệt là đối với VN khi thò trường vốn vẫn hãy còn nhỏ bé. Hội nhập
quốc tế trong lónh vực ngân hàng lại càng quan trọng trong một nền kinh tế hội
nhập quốc tế hoàn toàn như VN chúng ta.
1.3.2. Động lực của hội nhập quốc tế:
1.3.2.1. Hội nhập ngân hàng là xu thế tất yếu:
Việt Nam đã đi đúng con đường hội nhập quốc tế. Với Hiệp đònh thương
mại song phương đã ký với Mỹ (USVN BTA), các nghóa vụ trong khuôn khổ
Hiệp đònh khung về dòch vụ ASEAN và các cuộc đàm phán gia nhập Hiệp đònh
chung về Thương mại dòch vụ của Tổ chức thương mại thế giới (WTO-GATS),
Việt Nam cam kết nới lỏng các hạn chế đối với hoạt động của các ngân hàng
nước ngoài. Chẳng hạn như, trong Hiệp đònh thương mại Việt-Mỹ cho phép ngân
hàng và chi nhánh ngân hàng của Mỹ được phép huy động vốn bằng đVNĐ. Với
tư cách là hội viên của WTO, không chỉ ngân hàng Mỹ mà các ngân hàng nước
ngoài cũng có quyền tự do đó và có thể cung cấp các dòch vụ ngân hàng tại Việt
Nam.
Có rất ít các quốc gia không có kế hoạch hội nhập quốc tế đối với lónh vực
ngân hàng. Những quốc gia không cố gắng hội nhập quốc tế trong lónh vực ngân
hàng thì ít có khả năng hội nhập ở những lónh vực khác trong nền kinh tế của
mình. Một khi đã mở cửa thương mại, các doanh nghiệp sẽ yêu cầu được cung
-23-


cấp dòch vụ tài chính tốt hơn, khách hàng được nhiều quyền lựa chọn các nhà
cung cấp dòch vụ tài chính mang tính cạnh tranh hơn. Các công ty đa quốc gia
cũng muốn có các dòch vụ tài chính trong nước hỗ trợ cho vốn đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của mình. Các nước Liên Xô cũ đang vật lộn với khó khăn, không
tạo các điều kiện để khuyến khích hội nhập đã có những kết quả không tốt, trong
khi đó nhiều nước Đông u nhanh chóng hội nhập quốc tế đang phát triển rất
tốt.
1.3.2.2. Hội nhập ngân hàng là một phần của phát triển kinh tế:
Phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Vai trò của hội nhập quốc tế trong phát triển tài chính vẫn còn là điều
đang còn nhiều tranh cải. Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài trong việc
cung cấp các dòch vụ tài chính cho một quốc gia và sự tham gia vào thò trường
quốc tế của các ngân hàng trong nước đều tạo động lực và điều kiện để chuyển
giao công nghệ giữa các quốc gia với nhau. Đối với một số quốc gia với xuất
phát điểm là không có hệ thống ngân hàng thương mại (hệ thống ngân hàng nói
chung là sự mở rộng của chính sách tài khoá của chính phủ trong nền kinh tế
mệnh lệnh), sự chuyển giao công nghệ diễn ra trên toàn bộ các dòch vụ ngân
hàng. Đối với các nước khác, chuyển giao công nghệ là đưa ra các sản phẩm và
kỹ thuật quản lý mới.
Hệ thống tài chính và ngân hàng cạnh tranh và mở cửa là những hệ thống
tài chính tốt nhất cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Các cuộc tranh luận về
tăng trưởng kinh tế và phát triển tài chính đều ủng hộ công cuộc cải cách nhằm
tạo ra các điều kiện, theo đó sự cạnh tranh có thể lớn mạnh giữa các nhà cung
cấp dòch vụ tài chính ngân hàng nước ngoài và trong nước được giám sát và quản
lý an toàn.
Bằng chứng rõ ràng là sự cạnh tranh sẽ làm cho hệ thống ngân hàng lớn
hơn, hoạt động hiệu quả hơn và lành mạnh hơn. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho
-24-


phát triển và tăng trưởng kinh tế. Do vậy, các nước đang phát triển nói chung
mong muốn cải thiện hệ thống ngân hàng như một phần nỗ lực của họ nhằm phát
triển kinh tế. Cho phép các nhà cung cấp dòch vụ ngân hàng nước ngoài hoạt
động ở thò trường trong nước thường là một cách hiệu quả để áp dụng cạnh tranh
và đẩy mạnh phát triển tài chính.
Hội nhập quốc tế là một phần quan trọng và không thể thiếu trong chiến
lược phát triển kinh tế của một nước. Hội nhập toàn cầu sẽ mở ra và thúc đẩy sự
phát triển và sử dụng nguồn lực tiềm năng và tạo ra các cơ hội tăng trưởng từ sự
chuyên môn hoá, mà nếu không hội nhập sẽ không được khai thác sử dụng.
1.3.3. Các đặc điểm của hội nhập quốc tế:
Khi các nước hội nhập vào hệ thống tài chính quốc tế sẽ có những thay
đổi cơ bản:
‐ Mức độ sở hữu của ngân hàng nước ngoài trong các ngân hàng trong nước.
‐ Thò phần dòch vụ ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài.
‐ Thò phần dòch vụ ngân hàng của các ngân hàng đa quốc gia (ngân hàng
trong nước cùng với sự hiện diện nước ngoài, hoặc ngân hàng nước ngoài với sự
hiện diện trong nước).
‐ Phạm vi áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, quy chế và quy đònh.
‐ Phạm vi dòch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng là người cư trú.
Trong nhiều nước phát triển, hệ thống ngân hàng hội nhập quốc tế hoàn
toàn với hai đặc điểm cuối cùng, nhưng không hoàn toàn đối với đặc điểm đầu
tiên. Khi dòch vụ ngân hàng được cung cấp dưới các rào cản bảo hộ trong nước
sẽ làm tăng chi phí cho chính khách hàng của hệ thống ngân hàng.
1.3.4. Các cam kết và lộ trình về mở cửa trong lónh vực ngân hàng:
Trong tiến trình đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO, Việt Nam phải ký kết hàng loạt các Hiệp đònh song phương và đa phương
với hầu hết các nước thành viên WTO theo những nguyên tắc cơ bản và lộ trình
-25-

mở cửa được quy đònh trong Hiệp đònh chung về thương mại, dòch vụ (GATS) của

WTO như chế độ quốc gia, qui chế tối huệ quốc, tính minh bạch của các chính
sách liên quan đến hoạt động thương mại, dòch vụ.
1.3.4.1. Gia nhập WTO:
Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO vào năm 1995. Mục tiêu hiện
nay là hoàn tất đàm phán kòp để gia nhập cuối năm 2005. Các nước đang chuẩn
bò gia nhập WTO phải trải qua một quá trình đàm phán song phương đầy khó
khăn với tất cả các nước thành viên, một quá trình mà các nước thành viên ban
đầu không phải thực hiện. Các cuộc đàm phán song phương này thường điều
chỉnh quan hệ thương mại giữa các nước thành viên khi họ đã trở thành thành
viên chính thức.
Việc tiếp cận khu vực ngân hàng là do các quy đònh của GATS trong phụ
lục về dòch vụ tài chính. Các lónh vực cam kết là: tiếp cận thò trường và đối xử
quốc gia.
Nguyên tắc của WTO về tối huệ quốc (MFN) đòi hỏi tất cả các thành viên
phải được đối xử như nhau. Điều này khiến cho các cam kết trong USVNBTA trở
thành mức tối thiểu của GATS. Các trường hợp ngoại lệ về nguyên tắc tối huệ
quốc vẫn được chấp nhận, nhưng thông thường đối xử theo MFN cần phải áp
dụng vào một thời gian được xác đònh trong tương lai.
Theo quy đònh về tiếp cận thò trường, các hạn chế là không được cho phép
trừ các hạn chế đã được đưa vào cam kết. Các loại hạn chế cần phải được cam
kết là:
- Số lượng các nhà cung cấp; tổng giá trò các giao dòch dòch vụ hoặc tài sản;
- Tổng số những thể nhân có thể được thuê;
- Các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các loại pháp nhân hoặc liên doanh
nhất đònh; và
- Việc nước ngoài tham gia góp vốn.

×