ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
BÙI BÌNH AN
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội – Năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
BÙI BÌNH AN
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở TỈNH NINH BÌNH
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM VĂN DŨNG
Hà Nội – Năm 2014
Mục lục
Trang
Danh mục các ký hiệu viết tắt
i
Danh mục các bảng
ii
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
11
5. Đóng góp của đề tài
12
6. Phương pháp nghiên cứu
12
7. Kết cấu luận văn
15
Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
16
1.1. Khái luận về chất lượng đội ngũ giảng viên các trường ĐH, CĐ
16
1.1.1. Đội ngũ GV các trường ĐH, CĐ và yêu cầu về trình độ đối với đội ngũ này
16
1.1.2. Vai trò của đội ngũ giảng viên các trường ĐH, CĐ
23
1.1.3. Nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
29
1.1.4. Những điều kiện nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
35
1.1.5. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên
40
1.2. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của một số nước, một số địa
phương và bài học cho Ninh Bình
44
1.2.1. Tổng quan kinh nghiệm một số nước như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc
45
1.2.2. Từ thực tiễn kinh nghiệm của một số trường và địa phương
46
1.2.3. Những bài học kinh nghiệm cho Ninh Bình
50
Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng ở
tỉnh Ninh Bình
56
2.1. Thực trạng về đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình từ
năm học 2005-2006 đến năm học 2011-2012
56
2.1.1. Khái quát các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình
56
2.1.2. Thực trạng về đội ngũ giảng viên các trường ĐH, CĐ ở tỉnh Ninh Bình từ năm
học 2005-2006 đến năm học 2011-2012
58
2.2. Các chính sách của Ninh Bình nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các
trường Đại học, Cao đẳng
77
2.2.1. Các chủ trương, chính sách của địa phương
77
2.2.2. Đối với các trường Đại học, Cao đẳng
79
2.3. Đánh giá chung
84
2.3.1. Thành tựu nâng cao chất lượng đội ngũ GV các trường ĐH, CĐ
84
2.3.2. Hạn chế về chất lượng đội ngũ GV các trường ĐH, CĐ
84
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
86
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường
ĐH, CĐ ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2020, tầm nhìn 2030
88
3.1. Bối cảnh mới tác động đến chất lượng đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao
đẳng ở tỉnh Ninh Bình
88
3.1.1. Quốc tế
88
3.1.2. Đất nước và tỉnh Ninh Bình
89
3.2. Quan điểm cơ bản về nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường Đại học,
Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình
93
3.2.1. Nâng cao chất lượng trên cơ sở số lượng và cơ cấu hợp lý, phải chú ý đến tính
đồng bộ, toàn diện, đồng thời phải có trọng tâm, trọng điểm
93
3.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, gắn
với nhiệm vụ chính trị của nhà trường và địa phương
93
3.2.3. Nâng cao chất lượng ĐNGV phải đổi mới hệ thống tổ chức CB, cơ chế chính sách
hợp lý, nhưng để nâng cao chất lượng trước hết phải do chính bản thân GV
94
3.2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên phải đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực ở bậc Đại học, Cao đẳng và đội ngũ công nhân có trình độ, tay nghề cao, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững
95
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường Đại
học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2020, tầm nhìn 2030
95
3.3.1. Xây dựng quy hoạch tổng thể về đội ngũ giảng viên, xác định biên chế cho từng
giai đoạn của nhà trường
96
3.3.2. Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ giảng viên cơ hữu
của nhà trường
97
3.3.3. Mở rộng hợp tác, liên kết với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học để phát
triển đội ngũ giảng viên
99
3.3.4. Xây dựng, hoàn thiên cơ chế, chính sách thu hút cán bộ, giảng viên có trình độ
cao về công tác tại trường
100
3.3.5. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyển dụng, quản lý, đánh giá
đội ngũ giảng viên
102
3.3.6. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất; đổi mới cơ chế chính sách, tạo điều kiện làm
việc, nâng cao chất lượng đời sống cho giảng viên an tâm công tác, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao
102
KẾT LUẬN
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
106
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CH
:
Cao học
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
ĐH, CĐ
:
Đại học, Cao đẳng
HĐND
:
Hội đồng nhân dân
HSSV
:
Học sinh sinh viên
KT
:
Kế toán
KT-KT
:
Kinh tế - Kỹ thuật
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
QTKD
:
Quản trị Kinh doanh
NGƯT
:
Nhà giáo ưu tú
NCKH
:
Nghiên cứu khoa học
NCS
:
Nghiên cứu sinh
SL
:
Số lượng
SC
:
Sơ cấp
SĐH
:
Sau đại học
SP
:
Sư phạm
ThS
:
Thạc sĩ
TS
:
Tiến sĩ
TC
:
Trung cấp
VH-DL
:
Văn hóa - Du lịch
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
i
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng các trường ĐH, CĐ ở tỉnh Ninh Bình
56
Bảng 2.2. Số lượng CB,GV,VC/HSSV trường Đại học Hoa Lư
57
Bảng 2.3. Số lượng CB,GV,VC/HSSV các trường Cao đẳng tỉnh Ninh Bình
59
Bảng 2.4. Về độ tuổi, giới tính, thâm niên công tác của giảng viên ĐH Hoa Lư
60
Bảng 2.5. Về giới tính, tuổi đời, thâm niên công tác của đội ngũ giảng viên các trường
Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình
61
Bảng 2.6. Học hàm, học vị của giảng viên trường ĐH Hoa Lư.
62
Bảng 2.7. Học hàm học vị của GV các trường CĐ ở tỉnh Ninh Bình
63
Bảng 2.8. Chuyên môn của đội ngũ giảng viên Đại học Hoa Lư
65
Bảng 2.9. Chuyên môn của đội ngũ GV các trường CĐ ở tỉnh Ninh Bình
66
Bảng 2.10. Kết quả NCKH của trường Đại học Hoa Lư
68
Bảng 2.11. Kết quả NCKH của các trường CĐ ở tỉnh Ninh Bình
69
Bảng 2.12. Số giờ dạy (hệ chính qui) năm học 2005-2006 đến 2011-2012 của giảng viên
trường ĐH Hoa Lư
71
Bảng 2.13. Số giờ dạy (hệ chính qui) năm học 2005-2006 đến 2011-2012 của giảng viên
các trường Cao đẳng tỉnh Ninh Bình
72
ii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực gắn với chất lượng nguồn nhân lực, chất
lượng và bản sắc văn hóa, liên quan đến sự tồn vong, hưng thịnh của một quốc
gia. Vì vậy, từ xa xưa đến nay, dù trong hoàn cảnh nào, đất nước ta cũng luôn
quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài.
Sự phát triển của con người được Liên hiệp quốc thừa nhận là vấn đề trung
tâm và là thước đo để đánh giá, xếp hạng mức độ phát triển kinh tế - xã hội của
các Quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến
nguồn lực con người, coi đó là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất
nước. Trên cơ sở những chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước luôn xác
định vai trò của Giáo dục và Đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Kế thừa và phát huy những tinh hoa và truyền thống qui báu của nền giáo
dục và đào tạo dân tộc, khắc ghi lời dạy “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”,
nhanh chóng đưa đất nước ta “sánh ngang với các cường quốc năm châu” như
Bác Hồ hằng mong muốn, trong nhiều thập kỷ qua Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm lo đến việc “trồng người” vì lợi ích
trăm năm của đất nước.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chúng ta lấy việc “phát huy nguồn
nhân lực con người” làm yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của
mọi tài nguyên. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định Giáo dục - Đào tạo và khoa
học, công nghệ là quốc sách hàng đầu và lấy Giáo dục - Đào tạo và khoa học, công
nghệ làm yếu tố cơ bản, coi đó là khâu đột phá trong sự nghiệp CNH, HĐH;
1
Mặc dù, hiện nay phương pháp dạy học có nhiều thay đổi, song người thầy
vẫn là một trong những nhân tố quyết định chất lượng giáo dục. Trình độ của một
nền giáo dục không thể cao hơn trình độ của những người đã làm ra nó - đó là
người thầy. Trong bối cảnh khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển mạnh mẽ
tạo ra sự chuyển dịch định hướng giá trị, xã hội biến đổi nhanh chóng, đội ngũ
giảng viên không chỉ đóng vai trò truyền đạt tri thức mà còn phải có năng lực
phát triển cảm xúc, thái độ, hành vi của người học; là người gợi mở, hướng dẫn,
tổ chức, cố vấn, định hướng đảm bảo cho người học tiếp nhận và ứng dụng hợp lý
những tri thức vào thực tiễn cuộc sống.
Trong chiến lược phát triển Giáo dục và Đào tạo, bậc giáo dục Đại học
được xác định là yếu tố quyết định diện mạo nguồn nhân lực bậc cao. Thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, đã tạo cho giáo dục đào tạo phát triển, trong đó giáo
dục Đại học có nhiều cơ hội phát triển mới nhưng cũng buộc ngành Giáo dục và
Đào tạo, nhất là giáo dục Đại học phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt. Đại
hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định “Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu, trong đó tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi
trọng giáo dục đạo đức lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng
lập nghiệp và đẩy mạnh nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên
nghiệp”.
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giáo
dục Đại học nói chung và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường Đại
học, Cao đẳng nói riêng là một việc làm rất quan trọng và hết sức cần thiết.
Chất lượng đào tạo được xây dựng trên ba yếu tố đó là: Chương tình đào
tạo, đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất. Tại hội nghị quốc tế bàn về giáo dục và
đào tạo cho thế kỷ XXI tại Giơ – ne – vơ đã nhấn mạnh “Muốn có nền giáo dục
2
tốt cần phải có những giáo viên tốt”. Đội ngũ giáo viên chính là nhân tố quyết
định cho sự nghiệp và nâng cao chất lượng giáo dục.
Chất lượng đội ngũ giảng viên ĐH, CĐ có vai trò quyết định trong việc
đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mặc dù đã đạt được nhiều
thành tựu, cung cấp hàng triệu nhân lực có trình độ cao làm nòng cốt phục vụ sự
nghiệp đổi mới đất nước, nhưng giảng viên ĐH, CĐ nước ta hiện nay cũng bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập. Chất lượng đào tạo nhìn chung chưa đáp ứng được yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Do vậy, việc
phát triển đội ngũ giảng viên được coi là giải phát đột phá trong việc nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Để phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên ĐH, CĐ đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và có chất lượng, bảo đảm
sự kết nối một cách nhuần nhuyễn giữa các thế hệ, trên cơ sở phân tích những vấn
đề lý luận cơ bản về chất lượng giảng viên, thực trạng đội ngũ giảng viên, xây
dựng cơ sở vật chất và thiết bị; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay.
Trong đó phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên được coi là
khâu đột phá có tính quyết định, nó tạo nên vị thế và tầm trí tuệ của một cơ sở đào
tạo ra nguồn nhận lực có chất lượng cao cho đất nước. Điều đó đã được khẳng
định qua sự phát triển của nhiều trường có danh tiếng hàng đầu trong nước.
Sau hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, sự nghiệp
Giáo dục - Đào tạo của Việt Nam đã có những biến đổi mạnh mẽ cả về quy mô và
hình thức đào tạo, có bước phát triển đáng kể về chất lượng và nội dung đào tạo;
trong đó, có sự đóng góp tích cực của các trường Đại học, Cao đẳng ở địa phương.
Đội ngũ giảng viên đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, từng bước đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3
Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra nền giáo dục và đào tạo của nước ta hiện
nay còn thấp xa so với yêu cầu của đất nước, chưa thật sự là một động lực thúc
đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Song, vấn đề về chất lượng đội ngũ giảng viên của các trường Đại học, Cao
đẳng vẫn đang còn khoảng cách so với thực tiễn xã hội đặt ra, nhất là ở các
trường địa phương. Do đó, việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trong
trường Đại học, Cao đẳng trên toàn quốc nói chung, ở các trường Đại học, Cao
đẳng ở địa phương, trong đó có Ninh Bình đang là nội dung cần quan tâm thực
hiện ngay.
Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm của Nhà nước và địa phương và
sự nỗ lực, cố gắng của các trường, đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao
đẳng ở Ninh Bình đã có những bước tiến đáng kể cả về phẩm chất chính trị, đạo
đức nghề nghiệp lẫn số lượng, trình độ và năng lực chuyên môn. Tuy nhiên, trước
yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, thực trạng về chất lượng của đội
ngũ giảng viên ở các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình hiện nay còn
nhiều bất cập, tồn tại và hạn chế, chưa hợp lý về cơ cấu.
Đội ngũ giảng viên ĐH,CĐ ở các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh
Bình có trình độ sau đại học chiếm tỷ lệ chưa cao; giảng viên cốt cán, chuyên gia
đầu ngành hầu như không có, nội dung chương trình; phương pháp giảng dạy
chậm đổi mới chưa theo kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại...
Bên cạnh đó còn tồn tại một số yếu kém như: Chất lượng giảng dạy còn
chưa đạt yêu cầu, đặc biệt trong gắn việc dạy học với nghiên cứu khoa học và
phục vụ sản xuất. Nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới.
Trình độ đào tạo chưa theo kịp với phát triển khoa học công nghệ hiện đại.
4
Việc mở rộng nhanh quy mô đào tạo ở một số cơ sở cùng với đó là sự gia
tăng số lượng HSSV cũng khiến các giảng viên phải giảng dạy quá nhiều, không
đủ thời gian cho việc tự học, tự bồi dưỡng, tham gia nghiên cứu và triển khai hoạt
động khoa học & công nghệ.
Trong công tác đào tạo đội ngũ giảng viên Đại học, Cao đẳng còn nhiều bất
cập: Nhìn chung các trường chưa có kế hoạch đào tạo dài hạn, thiếu chủ động và
chưa tận dụng thời cơ. Cơ chế chính sách trong việc tuyển dụng nhân tài chưa có
sức thu hút.
Về số lượng: Kể từ năm 2005 đến nay, số lượng đội ngũ giảng viên Đại
học, Cao đẳng (GVĐH,CĐ) của tỉnh đã có sự gia tăng đáng kể, từ 561 người vào
năm học 2005-2006 lên 1.013 người vào năm học 2011-2012 và dự báo sẽ còn
tăng tiếp vào những năm sau. Mặc dù vậy, so với sự gia tăng về quy mô của các
ngành và sự đòi hỏi nâng cao về chất lượng đào tạo thì số lượng đội ngũ GVĐH
của các trường trong tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỉ lệ sinh viên/giảng viên
(SV/GV) của một số ngành, một số trường còn ở mức quá cao so với quy định
(tập trung vào khối ngành Kinh tế và Y, Dược,..): trung bình là 22 HSSV/GV vào
năm học 2006 – 2007 tăng lên từ 40 - 45 HSSV/GV vào năm học 2009 - 2010; tỉ
lệ này tại một số trường còn lên tới trên 50 HSSV/GV, cao hơn nhiều so với quy
định hiện hành của Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Về cơ cấu: Tỉ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên chiếm chưa tới 20%
tổng số GVĐH, CĐ trong đó trình độ tiến sĩ chiếm tỷ lệ quá nhỏ (thậm chí một số
trường tỷ lệ giảng viên có trình độ Thạc sĩ chiếm không quá 10% và không có
giảng viên trình độ Tiến sĩ). Con số này còn quá thấp so với mục tiêu của Bộ
Giáo dục và Đào tạo đề ra là đến năm 2020 phải đạt ít nhất 35% giảng viên có
trình độ tiến sĩ.
5
Tại một số trường, nhất là các cơ sở xin mở thêm được mã ngành mới, số
lượng giảng viên thỉnh giảng cao hơn nhiều lần so với đội ngũ cán bộ cơ hữu, làm
ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo của nhà trường. Một số trường có số
lượng giảng viên thỉnh giảng gấp 2 lần số giảng viên cơ hữu; cá biệt có trường tỷ
lệ giảng viên cơ hữu chỉ chiếm 1/3, trong khi số giảng viên thỉnh giảng là 2/3.
Không ít trường hợp danh sách GV thỉnh giảng của một số trường trùng nhau, tập
trung ở một số ngành được gọi là “HOT”. Việc sử dụng quá đông giảng viên
thỉnh giảng một mặt làm cho cơ sở đào tạo khó chủ động thực hiện kế hoạch đề ra
và chất lượng đào tạo không cao do GV thỉnh giảng ít có điều kiện tham gia sinh
hoạt chuyên môn tại cơ sở thỉnh giảng và không có thời gian tập trung nghiên cứu,
nâng cao chất lượng giảng dạy, cập nhật kiến thức mới,..
Chất lượng đội ngũ GVĐH, CĐ được thể hiện chủ yếu qua chất lượng hoạt
động giảng dạy và chất lượng NCKH của giảng viên. Ở nội dung này, thực tế ở
các trường cho thấy có tình trạng một số ngành quá tải giờ dạy của đội ngũ giảng
viên do thu hút được HSSV vào học trong khi số lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy
không tăng kịp theo tốc độ tăng quy mô. Thực tế này diễn ra tập trung vào một số
ngành, như: ngoại ngữ, quản lý kinh tế, công nghệ thông tin, tài chính kế toán, YDược... Có những giảng viên dạy hơn 1.000 tiết/năm trong khi quy định là 260
tiết/năm, như trường Cao đẳng nghề: LILAMA I, trường Cao đẳng Y tế Ninh
Bình (năm học 2008-2009, 2009-2010,..) Tình trạng quá tải giờ dạy diễn ra liên
tục làm cho rất nhiều giảng viên không còn thời gian dành cho học tập nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không cập nhật được một cách thường xuyên các
kiến thức, kỹ năng mới,.. vì vậy nội dung bài giảng của họ nghèo nàn, lạc hậu và
không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Phương pháp giảng dạy của một bộ
phận không nhỏ giảng viên chậm được đổi mới, chủ yếu vẫn là thuyết trình theo
kiểu thầy đọc – trò chép. Trong khi đó, công tác nghiên cứu khoa học (NCKH)
chưa được chú trọng; nội dung NCKH không có chất lượng, hiệu quả, thiếu tính
6
thực tiễn và khả năng ứng dụng mà chỉ nhằm đối phó hoặc để chấm điểm bình xét
thi đua, xét phong danh hiệu.
Công tác quản lý, sử dụng, đãi ngộ đội ngũ giảng viên hiện nay chưa phát
huy hết tiềm năng của cả đội ngũ và từng cá nhân, không kích thích được sự phấn
đấu trong chuyên môn; không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những
người yếu kém. Cơ chế, chính sách đãi ngộ, động viên khuyến khích chưa tương
xứng, vẫn dựa chủ yếu vào khối lượng giảng dạy và thâm niên công tác mà không
căn cứ vào thành tích và khả năng nghiên cứu của cá nhân; chưa bảo đảm cho
giảng viên có cuộc sống đủ để có thể toàn tâm, toàn ý cho việc bảo đảm chất
lượng hoạt động giảng dạy và NCKH để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
Những hạn chế về số lượng và chất lượng đội ngũ GVĐH, CĐ hiện nay ở tỉnh
Ninh Bình như đã đề cập trên đây cũng nằm chung trong trạng thái của cả nước
và được đánh giá xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu:
(1) Tiêu chuẩn về giảng viên được quy định trong Luật giáo dục, các văn bản
dưới luật còn nhiều bất cập, chưa sát tình hình thực tiễn đặt ra, thậm chí còn bị
thụt lùi không theo kịp sự phát triển của giáo dục hiện đại.
(2) Chủ trương nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên chưa được các trường cụ
thể hóa thành các quy hoạch, kế hoạch và triển khai thực hiện đầy đủ…
(3) Hiện nay, nhà nước vẫn còn tồn tại cơ chế bao cấp trong hệ thống đào tạo
nguồn nhân lực nói chung và đào tạo Đại học, Cao đẳng nói riêng; Công tác tuyển
dụng đội ngũ giảng viên và kinh phí hoạt động vẫn còn ràng buộc bởi cơ chế xin
cho theo chỉ tiêu,…
(4) Công tác đào tạo, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ của đội ngũ GVĐH, CĐ chưa trở thành điều kiện tiên quyết và
chưa được sự quan tâm và ưu tiên hàng đầu của các trường và chính đội ngũ
giảng viên…
7
(5) Công tác quản lý, sử dụng và đánh giá về hoạt động giảng dạy và NCKH của
giảng viên chưa được quan tâm đúng mức và còn nhiều bất cập,…
(6) Chính sách đãi ngộ của tỉnh Ninh Bình đối với đội ngũ nhà giáo nói chung và
GVĐH, CĐ nói riêng ở trong tỉnh tuy được quan tâm nhưng vẫn chưa bảo đảm
cuộc sống. Chủ yếu vẫn chỉ sống bằng đồng lương, thu nhập còn thấp…
(7) Về hoạt động sư phạm: Các trường chưa xây dựng và công bố chuẩn đầu ra
của các ngành đào tạo; chưa xây dựng và ban hành đây đủ chương trình khung
giáo dục đại học trình độ Đại học và Cao đẳng; Chất lượng giảng viên ĐH, CĐ
chậm được nâng cao (tỷ lệ giảng viên có trình độ TS và Thạc sĩ thấp, chỉ chiếm tỷ
lệ khá khiêm tốn); phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá chưa thực hiện
thường xuyên; Thư viện các trường còn nghèo, giáo trình tài liệu chưa đáp ứng
yêu cầu cả về số lượng và chất lượng; Tỷ lệ thời gian cho thực hành còn ít và chất
lượng thực hành của các ngành đào tạo nói chung còn hạn chế; chưa triển khai
việc HSSV đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên
Những kết quả đạt được, cũng như các hạn chế, yếu kém nêu trên đã ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo, giảng dạy của các cơ sở đào tạo Đại học,
Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình. Vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để tháo gỡ những
khó khăn, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trường Đại học, Cao
đẳng trong tỉnh được xem là khâu mấu chốt để nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo nguồn nhân lực của tỉnh Ninh Bình và khu vực lân cận đang trở thành một yêu
cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lƣợng đội ngũ giảng
viên các trƣờng Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề giáo viên và việc phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ này đã
8
được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả, của nhiều nhà khoa học ở các cấp
cũng như các trường… Qua tìm hiểu, sưu tầm và dựa trên các tài liệu đã thu thập
được, thời gian qua đã có nhiều đề tài, hội thảo, bài viết của nhiều tác giả nghiên
cứu, tiếp cận dưới những góc độ khác nhau:
Nhóm công trình, bài viết mang tính nghiên cứu về lý luận chung:
Trần Bá Hoành “Vấn đề giáo viên - những nghiên cứu lý luận và thực
tiễn”, NXB Đại học Sư phạm. Tác giả đã đề cập những vấn đề nội hàm của đối
tượng giáo viên và việc nghiên cứu từ lý luận và thực tiễn để có cái nhìn rõ nét về
giáo viên và những vấn đề cần được quan tâm nhìn nhận về đội ngũ này.
Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng “Giáo dục Việt Nam hướng tới tương
lai - Vấn đề và giải pháp”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả Cuốn sách
đã bàn về giáo dục ở nước ta và đưa ra những giải pháp định hướng cho phát triển
giáo dục Việt Nam trong tương lai.
Đại học Quốc gia Hà Nội “Chất lượng giáo dục và vấn đề đào tạo giáo
viên”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội. Đây là tập hợp những bài viết của nhiều
tác giả tại hội thảo bàn về chất lượng giáo dục và vấn đề giáo viên.
Nguyễn Thanh Bình “Giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” Tác giả
đánh giá cơ bản về tình hình giáo dục Việt Nam trong thời ký đổi mới và đề xuất
những ý kiến đóng góp cho sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn phát triển đất
nước.
Bộ Giáo dục & Đào tạo “Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục Đại học giai
đoạn 2010 – 2020”; Là quyển sách tổng hợp những bài viết nhấn mạnh việc đổi
mới công tác quản lý hệ thống giáo dục Đại học giai đoạn 2010 – 2020.
Phạm Minh Hạc “Nhân tố mới về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH”. Tác giả muốn nhấn mạnh đến việc phát triển những nhân tố
mới trong Giáo dục và Đào tạo trong thời kỳ đổi mới đất nước.
9
Nguyễn Văn Nhã “Đổi mới giáo dục đại học những vấn đề đạt ra hiện
nay”. Đây là quyển sách mà tác giả tập hợp nhiều những nội dung đề cập đến
thực trạng và nêu những ý kiến đặt ra cho sự phát triển giáo dục Đại học hiện nay.
Nhóm những đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về đối tƣợng cụ thể:
Luận văn Thạc sĩ như: Dương Đức Hùng “Một số giải pháp về phát triển
đội ngũ cán bộ giảng dạy trường đại học Sư phạm Hải Phòng”, trong Luận văn
tác giả đã nêu lên thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ
giảng viên của Trường Đại học sư phạm Hải Phòng;
Trần Thị Thanh Hà “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên giảng dạy Tiếng Anh các trường Trung học cơ sở thị xã Hà Tĩnh” Luận văn
này tác giả đánh giá thực trạng và đã đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên nhưng nó chỉ dừng lại phạm vi giảng dạy môn Tiếng Anh ở
cấp THCS của tỉnh Hà Tĩnh;
Đỗ Thị Thu Hằng “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên Học viện Thanh Thiếu nhi Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Luận văn này
tác giả tập trung đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ của
Học viện Thanh Thiếu nhi Việt Nam.
Phan Thị Phương “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên các trường nghiệp vụ thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội”. Đây là
Luận án tiến sĩ quản trị nhân lực tập trung đề xuất một số giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên của các trường nghiệp vụ của Bộ LĐTB & XH.
Dương Trọng Hạnh “Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao
đẳng trên địa bàn Ninh Bình”. Luận văn này được hoàn thành năm 2011 trong
phạm vi nghiên cứu là việc phát triển đội ngũ giảng viên, tác giả cũng đã nêu ra
thực trạng và đề xuất các giải pháp để phát triển đội ngũ này.
Các luận văn và bài nghiên cứu trên đều nhấn mạnh đến yêu cầu cấp thiết
10
của việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đội ngũ giảng viên
trong các trường ĐH, CĐ. Từ đó, xác định những nội dung và giải pháp cơ bản về
phát triển đội ngũ giảng viên của các trường ĐH, CĐ trong điều kiện hiện nay.
Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào thuộc lĩnh vực
“Nâng cao chất lƣợng đội ngũ giảng viên các trƣờng Đại học, Cao đẳng ở
tỉnh Ninh Bình” một cách toàn diện và có hệ thống. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn
đề tài này để nghiên cứu với tư cách là đề tài độc lập ở trình độ luận văn Thạc sĩ,
nhằm đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các
trường ĐH, CĐ ở Việt Nam hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực, phát triển đội ngũ
giảng viên nêu trên là những tài liệu giúp tác giả tham khảo về mặt lý luận, thực
tiễn, kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu luận văn này.
Câu hỏi nghiên cứu của luận văn là:
(i)
Tại sao phải nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường Đại
học, Cao đẳng hiện nay?
(ii)
Phải làm như thế nào để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở
các trường Đại học, Cao đẳng?
(iii)
Các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình cần phải làm gì để
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên?
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra các ưu nhược điểm của việc nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình
trong những năm qua, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình.
11
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
các trường Đại học, Cao đẳng.
- Phân tích, làm rõ thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên các trường
ĐH, CĐ ở tỉnh Ninh Bình hiện nay; chỉ ra các thành tựu và hạn chế chủ yếu cùng
nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các
trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đội ngũ giảng viên cơ hữu các trường
Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu chất lượng đội ngũ giảng viên dạy tại các
trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình về trình độ học vấn, khả năng giảng
dạy và trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp. Luận văn không nghiên cứu sức khỏe,
thể lực của đội ngũ này.
Thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến nay.
5. Đóng góp của đề tài
5.1. Về mặt lý luận
Đề tài góp phần xây dựng được cơ sở lý luận cho việc nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên dạy ở các trường ĐH, CĐ tỉnh Ninh Bình đến năm 2020.
5.2. Về mặt thực tiễn
12
Đề tài đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình đủ về số
lượng, vững về môn và hợp lý về cơ cấu.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu
như: Phương pháp duy vật biện chứng; duy vật lịch sử; phương pháp hệ thống và
khái quát hóa; phương pháp toán thống kê, phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh và các phương pháp hỗ trợ, dự báo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
Chƣơng 2: Thực trạng đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng ở
tỉnh Ninh Bình hiện nay.
Chƣơng 3: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên các trường Đại học, Cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2020.
13
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Khái luận về chất lƣợng đội ngũ giảng viên các trƣờng đại học, cao đẳng
1.1.1. Đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng và yêu cầu về tình
độ đối với đội ngũ này
- Khái niệm về đội ngũ giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng
Để có được khái niệm tương đối đầy đủ về đội ngũ này, cần thiết phải hiểu
những đặc trưng cơ bản của đội ngũ trí thức nói chung.
Thông thường người ta dùng cụm từ “đội ngũ trí thức” để chỉ tập hợp
những nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, nhà văn,
nhà báo, nghệ sĩ, chuyên gia v.v..., tức là những người có trình độ học vấn và
chuyên môn cao, lao động bằng trí óc trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, có khả
năng sáng tạo ra tri thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn, làm ra của cải, phục
vụ nhu cầu con người và phát triển xã hội. Có bằng cấp hay không bằng cấp cũng
đều có thể được coi là trí thức.
Thế kỷ 19 ở Pháp người ta gọi trí thức (intellectuel) là “những người không
chỉ có học vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết phải là những người
quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị xã hội nóng bỏng của
thời cuộc”. Còn trong xã hội Nga lúc bấy giờ người ta gọi trí thức (intelligentsia)
là “những người đã dấn thân cho công cuộc hiện đại hóa nước Nga”. Họ coi nhà
trí thức như là một nhà hoạt động, nếu không làm cách mạng thì cũng là người
quan tâm sâu sắc về chính trị, tham gia tích cực hoạt động xã hội và văn hóa, là
người biết suy tư, nhìn xa trông rộng, và hiến mình cho công cuộc cải cách xã
14
hội. Bổn phận người trí thức là trung thực với lương tâm mình, kiên trì lý tưởng
được cống hiến cho xã hội, phục vụ tổ quốc và cả nhân loại.
Karl Marx nhắc nhở những người trí thức phải đấu tranh cho sự tiến bộ của
xã hội: “Trí thức là những người có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến
riêng đối với các vấn đề của xã hội, nên họ phải là những người phê bình không
nhân nhượng những gì đang hiện hữu…, không nhân nhượng với chính quyền,
bất cứ chính quyền nào”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính thực hành của trí thức: “Trí thức học
sách chưa phải là trí thức hoàn toàn, muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì
phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế. Lý luận phải đem ra thực hành. Thực
hành phải nhằm theo lý luận”.
Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức. Khoảng hơn 60
quan niệm khác nhau về trí thức đã được công bố. Nhưng chắc chắn những định
nghĩa chưa dừng lại ở con số đó. Đó là điều bình thường vì trí tuệ và năng lực
sáng tạo của con người không ngừng phát triển.
Theo Từ điển tiếng Nga (11/1991): Trí thức là những người có học vấn và
kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa và đang làm
nghề lao động trí óc.
Trong Từ điển tiếng Nga do C.I. Ozegov chủ biên, thì khái niệm trí thức
được định nghĩa là những người lao động trí óc có học vấn, có kiến thức nghề
nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau của khoa học, kỹ thuật và văn hóa.
Trong Từ điển bách khoa Liên Xô (1985) do A.M. Prokhorov chủ biên thì
khái niệm trí thức lại được khai thác từ chức năng xã hội: trí thức là tầng lớp
những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá
văn hóa.
Tương tự như vậy, trong Từ điển bách khoa Triết học (tiếng Nga M. 1983)
15
chúng ta thấy định nghĩa trí thức là tầng lớp những người làm nghề lao động trí
óc và thường có học vấn cao tương xứng, có chức năng sáng tạo, phát triển và
phổ biến văn hóa.
Những khái niệm trên chỉ khái quát những đặc trưng và tiêu chí cơ bản nhất
của trí thức, các nội dung của khái niệm gắn bó chặt chẽ với nhau không tách rời
khi nhìn nhận trí thức. Đồng thời nó đã xác định một số đặc điểm cơ bản, phổ
quát nhất mang tính nội hàm của trí thức. Tuy nhiên, chính do sự phong phú và đa
dạng của trí thức trong thực tiễn nên những khái niệm này chỉ dừng lại ở góc độ
trí thức của từng lĩnh vực mà tác giả đề cập và nó không thể bao quát được hết
các đối tượng trí thức cụ thể và những trường hợp ngoại lệ (được đào tạo hay tự
đào tạo, trí thức ở các thời kỳ lịch sử khác nhau…)
Theo Giáo sư Đặng Hữu, đặc điểm của trí thức không chỉ có trình độ học
vấn cao và có năng lực sáng tạo, mà điều quan trọng đó là có bản lĩnh, phẩm chất
luôn đem tri thức phục vụ nhân dân, đấu tranh cho tiến bộ xã hội, hạnh phúc của
nhân loại.
Ở Việt Nam, cần đặc biệt lưu ý đến định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về trí thức. Trong “sửa đổi lề lối làm việc”, sau khi đánh giá cao vai trò của
những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là,
hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là, hiểu biết
tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái
đó, không có trí thức nào khác”, “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí
thức. Song Y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc và
không biết làm nhiều việc khác. Thế là Y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của Y
là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Muốn trở thành trí thức hoàn
toàn thì Y phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế” (1) ( Hồ Chí Minh: Toàn
tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr 5, tr 235).
16
Từ những định nghĩa và quan niệm kể trên, có thể khái quát người trí thức
có hai đặc trưng cơ bản sau đây: Một là, làm nghề lao động trí óc - lao động phức
tạp, có sức sáng tạo, phát triển và trình độ chuyên môn cao. Hai là, có học vấn
cao và có khả năng truyền bá văn hóa.
Đương nhiên, ngoài hai đặc trưng cơ bản trên, đòi hỏi người trí thức còn
phải có lương tri. Cho nên, không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn
dặn người trí thức phải luôn luôn chú ý cả hai mặt “đức” và “tài”, “Đức” là gốc,
“Tài” là cái quan trọng không thể thiếu. Thiếu Đức hoặc Tài đều không phải là
người trí thức hoàn toàn.
Ở nước ta cũng đã có rất nhiều định nghĩa về trí thức. Chẳng hạn, theo Từ
điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, 1994) thì: “Trí thức là người chuyên làm
việc trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của
mình”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005) thì: “Trí thức là tầng lớp xã hội
làm nghề lao động trí óc, trong đó bộ phận chủ yếu là những người có học vấn
cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát minh. Trí
thức bao gồm các nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy giáo, thầy thuốc, luật
sư, nhà văn, nghệ sĩ, v v... Trí thức nói chung thường nhạy cảm với cái mới, tiếp
thu và truyền bá những tư tương cách mạng, tiến bộ trong nhân dân, có vai trò
rất lớn đối với sự phát triển lịch sử, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học và
công nghệ ngày nay”…..
Từ định nghĩa trên, ta có thể hiểu trí thức là những người lao động trí óc,
trong đó có các nhà khoa học lớn có phát minh, sáng chế. Do sáng tạo, nên họ
nhạy cảm với cái mới, tiếp thu dễ dàng những tư tưởng tiến bộ, có vai trò lớn đối
với lịch sử. Khác với tất cả các tầng lớp lao động khác trong xã hội, trí thức có tài
sản vô giá là chất xám - trí tuệ. Tài sản này được nhân lên nhanh chóng rất nhiều
lần, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội nếu biết phát huy, khai
thác, sử dụng.
17
Đảng ta đã có chính sách rất đúng đắn và nhất quán đối với đội ngũ trí
thức: coi hiền tài là nguyên khí quốc gia, giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu v.v… Nhờ đó nước ta đã có một đội ngũ trí
thức khá mạnh, trung thành với đất nước và đã có đóng góp to lớn vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua. Thế nhưng đội ngũ ấy vẫn
chưa được phát huy tốt và còn bất cập trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đại hội X của Đảng đã khẳng định phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Nói kinh tế tri thức là nói đến việc sử
dụng có hiệu quả nhất tri thức mới của thời đại để phát triển nhanh đất nước
mình; điều đó đã nói lên vai trò ngày càng đặc biệt quan trọng của đội ngũ trí
thức. Trong thời đại cách mạng tri thức và cách mạng thông tin hiện nay nếu
không có môt đội ngũ trí thức đông và mạnh đủ khả năng nắm bắt, vận dụng tri
thức mới của thời đại đang bùng nổ và sáng tạo tri thức mới thì không thể hội
nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức được.
Tại Hội thảo Đề án xây dựng Đội ngũ trí thức Việt Nam… đã đưa ra 3 cách
hiểu chung nhất về trí thức với những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trí thức là người lao động trí óc, có hiểu biết sâu và rộng, thông
thường, có trình độ đại học và tương đương trở lên, có năng lực sáng tạo, có trình
độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với cái mới và quan tâm đến đổi mới để phát
triển.
Thứ hai, trí thức có trình độ chuyên môn sâu, rộng trong một lĩnh vực nhất
định, được hình thành qua đào tạo, bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng
con đường tự đào tạo, lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân.
Thứ ba, trí thức có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá
trị chân - thiện - mỹ; có lòng tự trọng, khát vọng tự do, dân chủ, công bằng.
18