Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

LUẬN văn kinh tế tập thể trong ngành thủy sản tỉnh bến tre thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.53 KB, 95 trang )

LUẬN VĂN:

Kinh tế tập thể trong ngành thủy sản
tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bến Tre là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, gồm ba cù lao kết hợp
mà thành, với diện tích tự nhiên 2321km2, trong đó có 65 km bờ biển và địa hình sông rạch
chằng chịt là điều kiện tự nhiên thuận lợi phát triển ngành kinh tế thủy sản. Trong nhiều
năm qua, Tỉnh ủy Bến Tre luôn xác định thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn nên đã có sự
tập trung đầu tư phát triển và đã tạo được kết quả nhất định.
Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng ta về chính sách kinh tế nhiều thành phần,
định hướng XHCN, trong đó xác định thành phần KTTT cùng với kinh tế nhà nước trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện cụ thể của tỉnh Bến
Tre, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (năm 2000) đã xác định thủy sản là mũi
đột phá về kinh tế của tỉnh, trên cơ sở đó đã ra nhiều nghị quyết chuyên đề để phát triển
ngành thủy sản của tỉnh, trong đó đặc biệt quan tâm về công tác tổ chức lại sản xuất trong
ngành thủy sản, khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất công ty cổ phần,
HTX, THT… để tác động tích cực trong phát triển kinh tế ngành. Thực tế trong những
năm qua KTTT trong ngành thủy sản đã có nhiều chuyển biến tốt theo xu thế phát triển
khách quan trong sản xuất kinh doanh của ngành, song bên cạnh cũng còn nhiều vấn đề đặt
ra về tổ chức, cơ chế hoạt động, chính sách, con người… do ảnh hưởng tư duy, nhận thức
cũ về KTTT trong một số cán bộ và nhân dân, nên lĩnh vực KTTT trong ngành thủy sản
chuyển biến chậm, đóng góp chung cho sự phát triển của ngành nói riêng và kinh tế tỉnh
nhà nói chung chưa cao.
Vì vậy, tôi chọn đề tài " Kinh tế tập thể trong ngành thủy sản tỉnh Bến Tre: Thực
trạng và giải pháp " làm đối tượng nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ khoa học Kinh tế,
chuyên ngành Kinh tế chính trị, nhằm góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá


trình phát triển của tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhìn một cách khái quát, về các thành phần kinh tế, KTTT, KTHT và HTX trong quá
trình đổi mới kinh tế ở nước ta đã được nhiều nhà lãnh đạo, các nhà khoa học, nhà nghiên


cứu quan tâm ở góc độ, phạm vi, mức độ khác nhau và đã có nhiều bài viết của Trương
Tấn Sang, GS. Lê Xuân Tùng, GS.Lưu Văn Sùng, PGS. Hoàng Việt, PGS.TS Vũ Văn
Phúc, PGS.TS Nguyễn Huy Oánh, … được đăng trên báo, tạp chí; cùng với một số công
trình, đề tài tiến sĩ, thạc sĩ viết về KTTT như:
- "Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", năm 2001 của tiến sĩ
Nguyễn Thanh Hà.
- "Những hình thức kinh tế hợp tác ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay" năm 1997,
của thạc sĩ Lê Công Đấu.
- "Kinh tế hợp tác trên địa bàn tỉnh Hải Dương - Thực trạng và giải pháp", năm
2003, của thạc sĩ Lê Thúy Hường.
Trong ngành thuỷ sản, đã có luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Hồng Minh về đề tài
"Phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công nghiệp chế biến thủy sản xuất
khẩu", năm 1996 và một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu đề tài công nghiệp chế biến thủy
sản của Lê Thị Đào Thanh (Kiên Giang), Lưu Vĩnh Nguyên (An Giang) hoặc đi vào thành
phần kinh tế tư nhân như luận văn "Phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong ngành thủy
sản ở Kiên Giang" của thạc sĩ Võ Thị Xinh.
Nhìn chung đã có rất nhiều công trình, bài viết, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ
nghiên cứu về KTTT nhưng ở góc độ chung của nền kinh tế quốc dân hoặc trong lĩnh vực
nông nghiệp chung, và cũng chưa có đề tài luận văn nào nghiên cứu về KTTT trong ngành
thủy sản nói chung, trên địa bàn tỉnh Bến Tre nói riêng.
Trong khuôn khổ của luận văn này, tôi muốn kế thừa những thành quả nghiên cứu từ
những đề tài có liên quan trên, cùng với quá trình nghiên cứu, thực tế của bản thân từ
những kết quả đã đạt được và những vấn đề còn tồn tại về KTTT trong ngành thủy sản trên
địa bàn tỉnh Bến Tre để đề xuất giải pháp phát triển trong thời gian tới.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Luận văn nhằm mục đích: Khẳng định rõ hơn vai trò, tính tất yếu khách quan của
việc phát triển KTTT trong ngành thủy sản, đồng thời thông qua việc nghiên cứu thực
trạng, tình hình KTTT trong ngành thủy sản ở tỉnh Bến Tre để đưa ra các giải pháp để tiếp


tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT trong ngành thủy sản
tỉnh Bến Tre.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Luận giải vai trò và sự cần thiết phải phát triển KTTT trong ngành thủy sản ở Bến
Tre.
+ Phân tích đánh giá thực trạng KTTT trong ngành thủy sản Bến Tre từ năm 2000 đến
nay, mặt được, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
+ Từ thực trạng, xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp để tiếp tục phát
triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT trong ngành thủy sản Bến Tre trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn lấy đối tượng là KTTT trong ngành thủy sản Bến Tre từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
đường lối, quan điểm cùng những tổng kết kinh nghiệm của Đảng về chính sách kinh tế
nhiều thành phần; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần
gũi với đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu: Vận dụng những phương pháp chung của kinh tế
chính trị, đó là phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý
luận với thực tiễn, đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá
vấn đề, rút ra kết luận.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn vận dụng lý luận chung vào việc phân tích tình hình cụ thể trong một lĩnh
vực của địa phương làm rõ vai trò của KTTT trong ngành thủy sản của tỉnh Bến Tre. Trên

cơ sở đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi cho việc phát triển thế mạnh kinh tế ở địa
bàn tỉnh Bến Tre.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua nghiên cứu, phân tích thực trạng tình hình, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát
triển, nâng cao hiệu quả kinh tế trong ngành thủy sản ở Bến Tre, luận văn có thể làm tài


liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách, chỉ đạo thực tiễn góp phần thúc
đẩy quá trình phát triển ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Đồng thời có thể dùng làm tài
liệu nghiên cứu, tham khảo trong công tác giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương,
6 tiết.


Chương 1
KINH TẾ TẬP THỂ VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ
TẬP THẾ TRONG NGÀNH THỦY SẢN Ở BẾN TRE

1.1. KINH TẾ TẬP THỂ VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ TẬP THỂ TRONG
NGÀNH THỦY SẢN
1.1.1. Lý luận chung về kinh tế tập thể
Xây dựng và phát triển KTTT là một nhiệm vụ quan trọng trong đường lối xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta, được khẳng định trong nhiều
nghị quyết của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước. Điều 20 Hiến pháp nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 đã nêu: "Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp
sức hợp tác sản xuất kinh doanh, được tổ chức dưới nhiều hình thức, trên nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ và cùng có lợi, Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã
hoạt động có hiệu quả" [14, tr.143]. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định "Kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế

quốc dân" [9, tr.96] và "kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong
đó hợp tác xã là nòng cốt" [9, tr.98]. Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX đã cụ thể hóa quan điểm nghị quyết Đại hội IX, chỉ ra bước đi
cho KTHT, HTX "cần củng cố những tổ hợp tác và hợp tác xã hiện có, tiếp tục phát triển
rộng rãi kinh tế hợp tác với nhiều hình thức, quy mô, trình độ khác nhau trong các ngành,
lĩnh vực, địa bàn có điều kiện" [10, tr.29].
1.1.1.1. Khái niệm về kinh tế tập thể
* Về phạm trù kinh tế tập thể
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nước ta có 5 thành phần kinh tế, đó là:
kinh tế nhà nước, KTHT (mà nòng cốt là các HTX), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Nghị quyết nêu "Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp
tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh
của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của
sản xuất kinh doanh và đời sống" [8, tr.95].


Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta chủ trương giữ cách phân định các thành phần kinh
tế chủ yếu căn cứ vào tính chất sở hữu, bao gồm các thành phần kinh tế đã được Cương
lĩnh Chính trị năm 1998 và Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng xác định và căn cứ vào
tình hình thực tế Đảng ta xác định nước ta có 6 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước,
KTTT, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, KTTT là một thành phần kinh tế nằm trong tổng thể cơ cấu thành phần kinh
tế ở nước ta. KTTT là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động, các hộ sản
xuất, kinh doanh, nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải
quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất, kinh doanh và đời sống mà từng hộ không
làm được hoặc làm không có hiệu quả. KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng từ thấp
đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến HTX, mà nòng cốt là HTX, dựa trên sở hữu của các thành
viên và sở hữu tập thể.
Các thành viên KTTT bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và người

nhiều vốn cùng góp vốn và góp sức, tuân thủ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân
chủ và cùng có lợi.
Căn cứ vào tính chất, mức độ gắn kết của quan hệ hợp tác, vào tính chất, trình độ
pháp lý trong cơ chế điều hành các quan hệ hợp tác giữa các thành viên tham gia, vào tính
chất nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động, vào tính chất mục đích của các chủ thể tham gia hợp
tác mà KTTT có thể được phân chia thành nhiều hình thức, quy mô, trình độ khác nhau, từ
thấp đến cao.
* Các mô hình KTTT
- Hợp tác và KTHT
Hợp tác: là sự kết hợp sức lực của các cá nhân, đơn vị để tạo ra sức mạnh lớn hơn,
sức mạnh của tập thể để thực hiện những công việc mà từng cá nhân, đơn vị riêng lẻ khó
thực hiện, không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả so với không hợp tác.
C.Mác viết: “Cái hình thức lao động, trong đó có nhiều người làm việc theo kế hoạch
bên cạnh nhau và cùng với nhau, trong một quá trình sản xuất hay trong những quá trình
khác nhau nhưng gắn liền với nhau thì gọi là hợp tác” [23, tr.473].


Hợp tác xuất phát từ nhu cầu khách quan, là hình thức tất yếu nẩy sinh trong quá
trình lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người, C.Mác đã chỉ rõ:
Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản
xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và
quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn
khổ và những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó [26, tr.552].
Mặt khác, từ khi xuất hiện, loài người đã sống thành cộng đồng, có tổ chức, nhu cầu
đòi hỏi phải có sự hợp tác phối hợp hoạt động với nhau trong lao động sản xuất, trong
chinh phục tự nhiên và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khái niệm hợp tác
được dùng phổ biến cho nhiều lĩnh vực xã hội loài người. Còn KTHT là phạm trù hẹp hơn,
chỉ phạm vi hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, là sự hợp tác tự nguyện phối hợp, hỗ trợ, giúp
đỡ nhau giữa các chủ thể kinh tế. C.Mác đã chỉ ra rằng trong lao động sản xuất hợp tác lao

động làm nảy sinh sức sản xuất của lao động xã hội, nó có tác dụng làm tăng năng suất lao
động. So với sản xuất nhỏ cá thể (riêng lẻ) hợp tác có những ưu thế là:
+ Tiết kiệm được tư liệu sản xuất.
+ Kích thích thi đua, do đó nâng cao năng suất lao động.
+ Tạo ra sức sản xuất mới, sức sản xuất cộng thể.
+ Mở rộng hoặc thu hẹp không gian khi cần thiết.
Ngoài ra, nó còn đảm bảo tính liên tục đều đặn, tính thời vụ, tính khẩn trương của
quá trình sản xuất.
Chính vì vậy, sự phát triển của các hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác có tác
dụng thúc đẩy phát triển kinh tế.
Cùng với tiến trình phát triển của xã hội, phân công lao động xã hội và chuyên môn
hóa sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, thì nhu cầu về hợp tác lao
động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ và mở rộng.
Trong lao động sản xuất, các hình thức hợp tác diễn ra do nhu cầu tất yếu khách quan
với nhiều loại hình, tính chất hợp tác, quan hệ hợp tác cũng được nâng dần từ thấp đến cao.


+ Hợp tác giản đơn: Là loại hình hợp tác đơn giản nhất, đã xuất hiện từ xa xưa ở
nông thôn nước ta.
Trong quá trình lao động sản xuất nảy sinh nhu cầu phải có sự gắn kết nhau, thoạt
đầu chỉ là những hình thức hợp tác đơn giản; diễn ra ngẫu nhiên, nhất thời như vần đổi
công cho nhau như trong canh tác nông nghiệp, hợp tác với nhau để cày bừa, gieo trồng,
thu hoạch nhằm đảm bảo tính mùa vụ; cùng nhau khắc phục thiên tai, sâu bệnh... loại hình
hợp tác này thường tồn tại dưới dạng tổ vạn vần đổi công, các chủ thể hợp tác đổi công
cho nhau theo từng khâu công việc, không thường xuyên, loại hình hợp tác này không tính
giá trị ngày công, họ tự nguyện thỏa thuận nhau khi có nhu cầu, không xây dựng thành văn
bản quy chế hoạt động, không mang tính pháp lý.
+ Tổ nghề nghiệp, tổ tương trợ kinh tế: là loại hình hợp tác giản đơn được hình
thành, phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản hiện nay, các tổ chức
này được thành lập tự nguyện trên cơ sở có cùng nội dung, hình thức, mục đích kinh doanh

giống nhau để nhằm trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ, và được xây dựng dựa trên cơ sở quan hệ tình cảm tự nguyện và
cơ sở tập quán, truyền thống cộng đồng. Đây tuy là loại hình hợp tác giản đơn, song có tác
dụng tốt trong lĩnh vực hoạt động sản xuất nông nghiệp hiện nay nói chung và trong ngành
thủy sản nói riêng tồn tại dưới dạng các chi hội, câu lạc bộ nông dân như: tổ chăn nuôi (tổ
nuôi cá, tổ nuôi tôm, tổ nuôi ong…), tổ làm vườn, tổ trồng trọt, tổ dịch vụ,…. Các thành
viên trong tổ giúp nhau trao đổi kinh nghiệm, trao đổi kỹ thuật, chăm sóc, phát hiện, phòng
trừ sâu bệnh, chọn giống, giúp nhau về thông tin tiếp cận thị trường, về nhu cầu, giá cả, nơi
tiêu thụ sản phẩm.
+ Tổ KTHT (gọi tắt là THT).
Là loại hình KTHT giản đơn, song khác với sự hợp tác nhất thời, ngẫu nhiên (là loại
hình khi không có nhu cầu, thì THT hầu như không hoạt động), mà đây là loại hình hợp
tác diễn ra thường xuyên và ổn định hơn, dựa trên cơ sở phân công lao động và chuyên
môn hóa sản xuất.
Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ xã hội hóa sản xuất
phát triển, nhu cầu hợp tác ngày càng tăng đòi hỏi hình thành liên kết hợp tác giữa các chủ


thể sản xuất, một số hộ chuyên sản xuất, đảm nhiệm một khâu công việc, liên kết hợp tác
với các hộ ở khâu khác trong quá trình tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Sự liên kết trong sản
xuất dần phát triển hơn, trước hết là chức năng lưu thông ở hợp tác sản xuất, dần tách ra
thành một số THT đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như chỉ chuyên làm dịch vụ
cung ứng vật tư đầu vào, chuyên chế biến, hay chuyên tiêu thụ sản phẩm... Vì vậy loại
hình KTHT này được hình thành gắn với nhiều tên gọi khác nhau tùy theo tính chất nghề
nghiệp phạm vi hoạt động mà có tên gọi như THT tín dụng, THT nuôi cá, THT nuôi tôm,
tổ trồng và bảo vệ rừng..., Đặc trưng chung của loại hình hợp tác này mang tính ổn định,
thường xuyên, có cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý lãnh đạo, có quy chế hoạt động được
các thành viên thảo luận dân chủ và được xây dựng thành văn bản.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, và hợp tác
là một nhu cầu khách quan, là hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế hộ có điều

kiện phát triển. Chính vì vậy, quan hệ KTHT phải được xây dựng trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng cùng có lợi và tính tự chủ, độc lập của các thành viên tham gia.
Trong các loại hình KTHT thì hình thức THT có nội dung nguyên tắc hoạt động gần
giống với HTX nhưng THT hoạt động không có điều lệ và không có tư cách pháp nhân.
- Hợp tác xã:
Hợp tác xã là loại hình KTHT phát triển ở trình độ cao hơn loại hình KTHT giản
đơn. Trên bình diện thế giới, HTX xuất hiện trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
đầu tiên là ở nước Anh vào giữa thế kỷ XIX. Để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh
tế tự do cạnh tranh, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp tác, hợp vốn với nhau với tôn
chỉ, mục đích chung để nương tựa nhau chống lại sự chèn ép, bóc lột và bần cùng hóa của
các nhà tư bản lớn, quá trình đó đã cho ra đời và hình thành các hình thức liên kết, hợp tác
có tổ chức của những người lao động, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi, có nhiều đóng
góp vào phúc lợi của dân chúng trong nhiều nước.
Liên minh HTX quốc tế ICA (International cooperative alliance) được thành lập
tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương Quốc Anh đã xây dựng và đưa ra định nghĩa về
HTX và các nguyên tắc của nó để làm cơ sở cho các hoạt động của HTX. Đến đại hội lần
thứ 31 vào tháng 9/1995 ICA đã thông qua tuyên bố về sự xác nhận HTX, hoàn thiện định


nghĩa, các giá trị cơ bản và các nguyên tắc đã sửa đổi của HTX nhằm hướng dẫn hoạt động
của các tổ chức HTX trong giai đoạn đầu của thế kỷ XXI. Theo đó “HTX là một hiệp hội
tự chủ của những người tự nguyện liên kết với nhau để đáp ứng những nguyện vọng và
nhu cầu chung về kinh tế, xã hội và văn hóa của họ, hoạt động thông qua một tổ chức sở
hữu chung, được quản lý và kiểm soát dân chủ bởi các xã viên” và:
Hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình
đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra
hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung
thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác [1].
Đối với nước ta, trong quá trình xây dựng cải tạo XHCN, phát triển KTTT mà nòng
cốt là HTX là vấn đề hết sức to lớn và quan trọng đã được khẳng định trong nhiều nghị

quyết của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Thời kỳ 1958 - 1980 KTHT với
HTX phát triển mạnh trong phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng góp to lớn trong xây
dựng nông thôn, phát triển cộng đồng, đặc biệt trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc ta. Song một thời gian dài do nhận
thức chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan chúng ta đã đồng nhất cải tạo HTX
với tập thể hóa, hợp tác hóa với HÎP T¸C X·; xây dựng các HTX không hoàn toàn dựa trên
nguyên tắc tự nguyện mà thực hiện bằng các biện pháp hành chính, xem nhẹ các biện pháp
kinh tế, coi thường các bước quá độ trung gian trong cải tạo XHCN. Ở thời kỳ này, nếu có
các hình thức tổ chức sản xuất ở trình độ thấp như tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, HTX
bậc thấp cũng chỉ là tạm thời, xu hướng chung nhảy lên mau trình độ tập thể hóa bậc cao.
Chính vì vậy đã tạo nên nhiều bước thăng trầm trong lịch sử quá trình phát triển tổ chức
HTX. Khó khăn nhất là thời điểm nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế mới,
hàng loạt HTX bị đổ vỡ. Song, từ nhu cầu thực tế khách quan và quá trình thực hiện Chỉ
thị 100, Nghị quyết 10 và các giải pháp hiệu quả của Chính phủ đề ra hằng năm để vực dậy
khu vực KTTT, đã nảy sinh nhiều hình thức KTHT, liên kết sản xuất, song chưa được định
hình về tổ chức. Ở các địa phương một số HTX đã tìm tòi thử nghiệm các giải pháp thiết
thực để củng cố và chuyển đổi hình thức tổ chức quản lý nhằm thích ứng cơ chế mới.


Tổng kết thực tiễn, Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã đề ra
nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới - HTX cổ phần và 3/1996 Quốc hội khóa IX đã
ban hành Luật HTX với những nội dung về tổ chức, quản lý, về phương thức hoạt động
đối với HTX kiểm mới. Theo đó, luật HTX năm 1996 đã định nghĩa:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ, do những người lao động có nhu cầu,
lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp
luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau thực
hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện
đời sống, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước [33, tr.5].
Qua thời gian tổ chức thực hiện, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, tại kỳ họp
thứ tư Quốc hội khóa XI ngày 18 tháng 11 năm 2003 đã thông qua Luật HTX mới đã được

bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh. Luật HTX năm 2003 đã định nghĩa "HTX là tổ chức KTTT
do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích
chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh
tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt
động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển
KT-XH của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và
các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật” [34, tr.8].
* Đặc trưng của mô hình kinh tế hợp tác xã
Qua các định nghĩa về HTX đã thể hiện những đặc điểm chung cơ bản của mô hình
HTX kiểu mới, đó là:
Thứ nhất: HTX là tổ chức KTTT do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân góp sức,
góp vốn lập ra, hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình và được bình đẳng như các thành phần kinh
tế khác.
Định nghĩa đã thể hiện rõ bản chất HTX là tổ chức KTTT mang tính xã hội cao bao
gồm cả thể nhân, pháp nhân (các tổ chức KT-XH có tư cách pháp nhân), cán bộ công


chức, cả người ít vốn lẫn người nhiều vốn nhưng phải tuân theo những điều kiện nguyên
tắc chặt chẽ về gia nhập, ra khỏi HTX, tổ chức quản lý HTX được quy định trong luật.
Mặt khác, HTX là tổ chức kinh tế tự nguyện và có quyền tự chủ, bình đẳng với các
loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động và chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
tài chính của mình đối với các tổ chức kinh tế khác theo thỏa thuận, hợp đồng đã ký kết.
Định nghĩa khắc phục được tư tưởng xem HTX nặng về tổ chức xã hội và là tổ chức công
cụ của chính quyền cơ sở.
Thứ hai: Trong xây dựng và phát triển phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của HTX:
- Tự nguyện gia nhập và ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX. Các đối tượng

trên cơ sở có nhu cầu phù hợp, giác ngộ tôn chỉ, mục đích của HTX mà hoàn toàn tự
nguyện giam gia và khi vì lý do nào đó muốn xin ra thì nguyện vọng của họ cũng phải
được tôn trọng, tránh cưỡng bức gò ép. Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo động viên
được nhiệt tình của các đối tượng tham gia.
- Dân chủ, bình đẳng và công khai, xã viên có quyền trong tham gia quản lý, kiểm
tra, giám sát HTX; những vấn đề lớn trong sản xuất, kinh doanh của HTX đều phải được
đại hội xã viên thảo luận dân chủ và thông qua, các xã viên đều có quyền ngang nhau trong
biểu quyết theo hình thức mỗi người một phiếu bầu; giá trị mỗi phiếu như nhau, không phụ
thuộc vào mức vốn góp; đồng thời HTX phải thực hiện tốt việc công khai cho xã viên biết
theo định kỳ về phương thức kế hoạch sản xuất kinh doanh, công khai tài chính, phân phối
thu nhập của HTX. Đây là nguyên tắc then chốt có liên quan đến sự tồn tại và phương
hướng phát triển lành mạnh của HTX.
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX là tổ chức kinh tế, hoạt động với
mục đích lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể,
đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên. Trong thành lập và hoạt động HTX
có quyền được lựa chọn ngành, nghề sản xuất kinh doanh phù hợp mà pháp luật không
cấm theo ý chí và nguyện vọng của xã viên; hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường, liên doanh liên kết với các đơn
vị thuộc mọi thành phần kinh tế, trong phân phối lợi ích và giải quyết những vấn đề có liên


quan đến nghĩa vụ và quyền lợi, phải tuân thủ nguyên tắc cùng có lợi, hài hòa giữa xã viên
và xã viên, giữa xã viên và HTX, HTX với lợi ích cộng đồng. Nguyên tắc này đã xác định
rõ được điều kiện tồn tại và phát triển của HTX ở chỗ vai trò trách nhiệm làm chủ của các
xã viên đối với HTX, chủ động trong phát huy nguồn lực, nhất là nguồn lực sẵn có trong
xã viên HTX, năng động, khôn ngoan trong tìm kiếm cơ hội kinh doanh và trong cạnh
tranh để tồn tại và phát triển.
- Hợp tác và phát triển cộng đồng: là nguyên tắc và tiêu chí mang tính đặc trưng của
HTX kiểu mới gắn kết lợi ích kinh tế của các thành viên HTX với lợi ích xã hội và phát
triển cộng đồng. HTX là tổ chức KTHT tự nguyện, mọi hoạt động đều nhằm mục đích

phục vụ hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm hợp tác giúp đỡ
lẫn nhau để vượt qua khó khăn, tăng thu nhập cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
các thành viên tham gia. Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao vai trò, tính chất xã hội của
HTX trong tác động tích cực giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần tích cực trong thực
hiện chủ trương giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ
tầng văn hóa xã hội, tăng cường tình làng nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng, đó là nhân tố
quan trọng để HTX phát triển bền vững.
Thứ ba: Quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối trong HTX.
- Về quan hệ sở hữu, khác với mô hình HTX kiểu cũ là sở hữu tập thể về tư liệu sản
xuất, khi người nông dân vào HTX phải góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu
vào thành tài sản chung của tập thể, sở hữu cá nhân, sở hữu gia đình không được thừa
nhận; còn đối với HTX kiểu mới được “dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập
thể”.
- Khi gia nhập HTX, mọi xã viên bắt buộc phải góp vốn theo quy định của điều lệ,
vốn góp của xã viên là số tiền hoặc giá trị tài sản, bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu các phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật và các loại giấy tờ có giá trị khác
được quy ra tiền. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người không có khả năng về tài chính góp
vốn, nghị định Chính phủ hướng dẫn thi hành luật quy định người tham gia có thể góp vốn
bằng giá trị sức lao động được quy ra tiền. Vốn góp cổ phần có thể nhiều hơn mức tối


thiểu nhưng không được vượt quá 30% tổng vốn điều lệ của HTX. Vốn góp cổ phần của
xã viên chỉ giao quyền sử dụng cho tập thể và được trả lại cho xã viên khi ra khỏi HTX.
Sở hữu tập thể bao gồm tài sản chung của tập thể, thành quả lao động chung của tập
thể, tài sản tập thể được cho tặng… cụ thể gồm các công trình phục vụ sản xuất, công trình
phúc lợi văn hóa, xã hội, kết cấu hạ tầng phục vụ chung cho cộng đồng dân cư được xây
dựng từ quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi của HTX, các nguồn vốn do Nhà nước trợ
cấp, quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
Đối với HTX kiểu mới, tài sản riêng của cá nhân và hộ gia đình được tôn trọng, xã
viên có toàn quyền sử dụng vốn, các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu riêng để sản xuất

kinh doanh, một thành viên có thể tham gia ở nhiều HTX nếu có nhu cầu; và nếu HTX có
nhu cầu sử dụng các phương tiện sản xuất đó thì phải thuê của xã viên.
- Về quan hệ tổ chức quản lý: khác với cơ chế quản lý HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã
viên với HTX là quan hệ phụ thuộc; xã viên bị tách rời khỏi tư liệu sản xuất, trở thành lao
động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX, tập trung quyền quản lý điều hành ở
Ban chủ nhiệm. Đặc trưng chung của HTX kiểu mới là hoạt động sản xuất kinh doanh của
HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của xã viên, mà chỉ diễn ra ở
từng công đoạn, khâu công việc nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng hộ và do đó phát
huy quyền làm chủ của xã viên. Xã viên trực tiếp tham gia quản lý, giám sát hoạt động
HTX theo nguyên tắc quản lý dân chủ, xã viên quyết định công việc quan trọng của HTX
một cách bình đẳng, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX được tổ
chức gọn nhẹ, hiệu quả nhưng phải tách rõ chức năng quản lý với chức năng điều hành,
nhưng tùy theo yêu cầu, trình độ phát triển của HTX mà có thể thành lập một bộ máy vừa
quản lý vừa điều hành hoặc thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành. Ban
quản trị HTX là bộ máy quản lý HTX do đại hội xã viên bầu trực tiếp. Trường hợp HTX
không tổ chức riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành thì người đứng đầu bộ máy quản
lý và điều hành là chủ nhiệm HTX, chủ nhiệm HTX đồng thời là trưởng ban quản trị ở
trường hợp này phải là xã viên HTX và do đại hội xã viên bầu. Trường hợp HTX tổ chức
riêng bộ máy quản lý và điều hành thì người đứng đầu bộ máy quản lý là trưởng ban quản
trị; bộ máy điều hành là Ban chủ nhiệm và người đứng đầu là chủ nhiệm HTX, ở trường


hợp này chủ nhiệm có thể thuê người ngoài, không phải là xã viên HTX để điều hành
HTX.
- Về quan hệ phân phối: Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối cho xã viên HTX
được tính theo giá trị ngày công lao động, nặng tính bình quân. Còn đối với HTX kiểu mới,
phần lãi của HTX sau khi nộp thuế và trả bù các khoản lỗ của năm trước (nếu có) phải được
trích lập các qũy không chia: qũy phát triển sản xuất, quỹ dự phòng và các qũy khác, sau đó
mới chia lãi cho xã viên, ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất lượng lao động, còn
được nhận lãi theo vốn góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của xã viên.

Lợi nhuận của HTX càng cao lợi tức cổ phần theo vốn góp càng lớn là động lực
khuyến khích cho xã viên hăng say làm việc và gắn bó với HTX. Mặt khác, lợi nhuận
HTX càng cao thì bộ phận vốn và tài sản thuộc sở hữu tập thể thông qua việc trích qũy phát
triển sản xuất, quĩ dự phòng, quỹ phúc lợi càng lớn tạo được tiềm lực kinh tế của bản thân
HTX và là điều kiện để HTX phát triển bền vững, phục vụ cho lợi ích của xã viên tốt hơn.
Thứ tư: Tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa
bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng) với quy mô linh hoạt và đa dạng về hình thức,
phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng ngành, với nhiều trình độ phát triển từ thấp đến
cao. Có những HTX chỉ hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu chung về một hay một số dịch
vụ đầu vào, đầu ra, chuyên ngành, dịch vụ tổng hợp đa chức năng; có HTX sản xuất kết
hợp dịch vụ, HTX sản xuất kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện, từ hợp tác phát triển
thành các liên hiệp HTX, liên minh HTX.
Thứ năm: KTTT mà nòng cốt là các HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó
tác động hỗ tương, cùng nhau phát triển. Nếu như trong HTX kiểu cũ, kinh tế cá thể, hộ
gia đình không được chấp nhận, hoặc chỉ được coi là kinh tế phụ và bị hạn chế trong một
giới hạn nhất định, thì trong HTX kiểu mới được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế
hộ. Vì HTX không thủ tiêu tính tự chủ sản xuất kinh doanh của các thành viên, chỉ làm
những gì mà mỗi thành viên riêng lẻ không làm được hoặc làm không hiệu quả để hỗ trợ
cho các thành viên phát triển. Khi kinh tế hộ càng phát triển càng cần có nhu cầu hợp tác
và KTHT phát triển tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển. Bởi lẽ trong nông nghiệp, hộ
nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ, lại vừa là người chủ của HTX, là người tiêu dùng


các dịch vụ đầu vào và bán sản phẩm cho HTX, do đó, kinh tế hộ càng phát triển càng tạo
ra những tiền đề kinh tế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế HTX và đồng thời KTTT, kinh
tế HTX phát triển là môi trường quan trọng để hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ phát huy hết
khả năng của mình trong sản xuất kinh doanh.
Như vậy, HTX kiểu mới không tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất, mà còn tạo
những điều kiện để cho họ phát huy những năng lực lao động và tiềm năng của tư liệu sản xuất.
Khi HTX trở thành đòn bẩy để phát triển kinh tế của các chủ thể kinh tế tự chủ, thì HTX càng có

cơ sở để tồn tại, hợp tác kinh tế càng trở thành nhu cầu cần thiết của kinh tế hộ trong quá trình
sản xuất kinh doanh.
1.1.1.2. Vai trò của kinh tế tập thể trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Kinh tế tập thể là một hình thức tổ chức kinh tế để đưa người sản xuất từ sản xuất
nhỏ đi lên sản xuất lớn
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin bằng cơ sở lý luận và thực tiễn khoa học
khẳng định tính tất yếu và vai trò to lớn của KTTT trong nền kinh tế quốc dân. Các ông
đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của hình thức KTHT là con đường để đưa nông dân đi
tới CNXH. Trong tác phẩm "Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức", Ph. Ăng ghen cho rằng sau
khi giành chính quyền: Nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông, trước hết phải hướng
quyền sở hữu cá thể và nền kinh doanh cá thể của họ vào con đường kinh doanh hợp tác,
không phải bằng bạo lực mà bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội. Vì
theo các ông, KTHT có vai trò hết sức quan trọng, lôi cuốn đại bộ phận dân cư hoạt động
trong nền kinh tế, cũng là hình thức tổ chức kinh tế mà qua đó có thể dần xóa bỏ tình trạng
bóc lột, nhưng mặt khác là hình thức có hiệu quả để đảm bảo được sự kết hợp hài hòa lợi
ích của những tiểu nông với lợi ích của xã hội. Hợp tác hóa là con đường để lôi cuốn
những người sản xuất nhỏ vào công cuộc xây dựng CNXH. Ph.Ăng ghen viết:
Chúng ta… chỉ có cách là đề nghị thực hiện tập hợp các tài sản lại thành
một cơ sở kinh doanh hợp tác xã khiến cho có thể xóa bỏ được dần tình trạng
bóc lột công nhân làm thuê và có thể dần dần tiến hành việc cải tạo thành những
ngành có những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong một hợp tác xã sản xuất
toàn quốc quy mô lớn [26, tr.589].


Và, trong bức thư gởi Bêben, Ph.Ăng ghen khẳng định "trong bước quá độ lên nền kinh
tế cộng sản chủ nghĩa đầy đủ, chúng ta phải áp dụng nền sản xuất hợp tác xã coi như một giai
đoạn trung gian trên quy mô rộng lớn" [25, tr.691].
Kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph. Ăngghen, bằng phương pháp biện chứng mác-xít
và bằng hoạt động thực tiễn của mình, Lênin đã nghiên cứu và phát triển các luận điểm
KTTT, KTHT mà chủ yếu là HTX trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và vận dụng vào

nước Nga Xô viết với Chính sách kinh tế mới (NEP). Trong tác phẩm "Bàn về chế độ hợp
tác xã", V.I.Lênin đã chỉ rõ vai trò quan trọng của HTX "hợp tác xã là bước quá độ sang
một chế độ mới bằng con đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông
dân". Bởi vì, theo V.I.Lênin, HTX là cơ sở để thiết lập và củng cố khối liên minh công
nông, đồng thời là tổ chức mà thông qua đó phát huy được sức mạnh của quần chúng lao
động. Người viết "hợp tác xã tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hợp và tổ chức hàng
triệu người, sau đó toàn thể dân chúng; và tình hình ấy lại là một điều lợi rất lớn cho bước
quá độ tương lai từ chủ nghĩa tư bản nhà nước lên chủ nghĩa xã hội" [20, tr.272].
- Kinh tế tập thể với nòng cốt là các HTX đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, làm cho sức sản xuất được giải phóng, các nguồn tiềm năng phục vụ sản xuất
như vốn, đất đai, lao động, công nghệ... được khai thác và sử dụng ngày càng hợp lý và
hiệu quả.
Cùng với sự giúp đỡ, kiểm soát, hướng dẫn của Nhà nước và tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, KTHT, HTX là môi trường thuận lợi để áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện tăng khả năng đầu tư,
đổi mới thiết bị, công nghệ, làm phát triển lực lượng sản xuất, nâng hiệu quả năng suất lao
động, từ đó tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, què quặt,
ít hiệu quả sang một cơ cấu ngày càng phù hợp xu hướng phát triển của nền sản xuất hiện
đại. Như vậy, có thể nói KTTT có vai trò to lớn trong tác động giúp nền kinh tế nhỏ phát
triển và tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ lên nền đại công nghiệp cơ khí
như V.I.Lênin đã khẳng định: "Chính sách hợp tác một khi thành công, sẽ giúp cho nền
kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ trong một
thời hạn không nhất định - lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp" [19, tr.273].


Kinh tế tập thể phát triển đa dạng với nhiều hình thức, cấp độ từ giản đơn đến phức
tạp, từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Thông qua các hình thức hợp tác lao
động sản xuất, liên kết, liên doanh đa dạng và linh hoạt đó, người nông dân và cán bộ quản
lý có điều kiện làm quen với nếp làm ăn tập thể, nâng cao trình độ tổ chức quản lý sản xuất
kinh doanh trước khi tiến tới các hình thức cao hơn trong quan hệ sản xuất.

- Là cầu nối cho sự phát triển, trao đổi hàng hóa giữa công nghiệp và nông nghiệp,
giữa thành thị và nông thôn, đồng thời là cơ sở thúc đẩy sự phân công lao động xã hội:
Kinh tế tập thể với nhiều loại hình tổ chức KTHT mà trong đó nòng cố là HTX với
nhiều loại hình sản xuất, dịch vụ phát triển làm cầu nối cho sự trao đổi hàng hóa giữa
công nghiệp và nông nghiệp, giữa Nhà nước và nông dân thuận lợi, trên cơ sở đó thúc
đẩy phân công lao động xã hội phát triển, tác động phân bố lại dân cư, tài nguyên thiên
nhiên, khai thác lợi thế so sánh giữa các vùng. Mặt khác, phân công và hợp tác là hai
mặt của quá trình phát triển kinh tế; nếu phân công lao động là con đường nâng cao
hiệu quả kinh tế thì hợp tác tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình phân công lao động
được thực hiện. Khi nghiên cứu về các loại hình HTX, V.I.Lênin khẳng định sự cần
thiết đối với HTX sản xuất và HTX tiêu dùng. Người định nghĩa:
Hợp tác xã tiêu dùng là sự tập hợp công nhân và nông dân, nhằm mục đích
cung cấp và phân phối những sản phẩm cần thiết cho họ. Hợp tác xã sản xuất là
tập hợp những người tiểu nông và thợ thủ công nhằm mục đích sản xuất và tiêu
thụ các sản phẩm vừa nông nghiệp (chẳng hạn như rau, sản phẩm sữa và...), vừa
phi nông nghiệp (sản phẩm công nghiệp đủ mọi loại, đồ bằng gỗ, bằng sắt, bằng
da,...) [20, tr.301].
Chính vì vậy, với vai trò to lớn của KTTT trong nền kinh tế hàng hóa là hết sức cần
thiết. Người khẳng định:
Thông qua hợp tác xã là bộ máy có khả năng tiến hành trao đổi hàng hóa,
đảm bảo cho các hợp tác xã những khả năng rộng rãi để tiến hành thu mua, phát
triển toàn diện công nghiệp địa phương và nâng cao đời sống nhân dân nói
chung… Thừa nhận lưu thông kinh tế ở địa phương thì dĩ nhiên chúng ta cần
hợp tác xã [20, tr.401].


- Vận dụng cụ thể vào cách mạng XHCN ở Việt Nam, Đảng ta cũng đã xác định thực
hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH, trong đó KTTT cùng với kinh tế nhà nước là nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã

nhận rõ vai trò quan trọng và Người đã đặc biệt quan tâm đến kinh tế HTX trong việc định
ra đường lối và chỉ đạo thực tiễn cho cách mạng Việt Nam. Từ năm 1927, trong tác phẩm
"Đường Kách mệnh", Bác đã dành hẳn một chương để nói về HTX, qua đó lý giải nhiều
vấn đề cốt lõi, cơ bản và mang tính định hướng về kinh tế HTX. Trong đó, Người viết:
"Hợp tác xã trước là lợi ích cho dân, sau là bớt sức bóp nặn của tụi tư bản và đế quốc chủ
nghĩa" [27, tr.314]. Và Người nhấn mạnh: "Nói tóm lại, hợp tác xã là rất có lợi, cho nên
dân các nước làm nhiều lắm" [27, tr.317].
Người xác định trong thời kỳ quá độ "chúng ta phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội", "phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa", nhưng Người lại nói
"Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp
làm gốc, làm chính" [30, tr.180]. Song muốn cho nông nghiệp thịnh, phát triển đầy đủ và người
nông dân giàu có, ấm no, hạnh phúc thì cần phải có HTX, con đường đó là: "nông thôn phải
kinh qua 2 cuộc cách mạng: cải cách ruộng đất là một cuộc, cuộc thứ hai là từ chỗ thực hiện tổ
đổi công, hợp tác xã; nông trường tập thể đến chỗ xã hội hóa nông nghiệp" [28, tr.76]. Và Người
cũng đã chỉ ra vai trò, ý nghĩa to lớn của việc tổ chức cho người nông dân vào làm ăn tập thể
nhằm để tạo nên sức mạnh tập thể, người nông dân sẽ có điều kiện thêm sức để cải tiến kỹ thuật,
phát triển sản xuất Người phân tích:
Chúng ta nhất định phải nâng cao dần đời sống của đồng bào nông dân.
Nhưng nếu nông dân cứ làm ăn riêng lẻ thì đời sống không thể nâng cao. Muốn
nâng cao đời sống thì chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể, tức là tổ
chức nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp. Tổ chức hợp tác xã tốt thì mới có thể
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, do đó mà nâng cao dần đời sống vật chất và
văn hóa của nông dân và củng cố khối liên minh công nông [30, tr.61].
Vì vậy, HTX chính là con đường đưa nông dân đi lên CNXH.


Theo quan điểm Hồ Chí Minh phát triển nông nghiệp là phải phát triển toàn diện cả
nông, lâm, ngư nghiệp, trong đó cũng cần chú ý phát triển các ngành phụ bổ sung cho sự phát
triển của nông nghiệp. Người cũng rất chú ý việc đưa những người làm nghề thủ công vào
HTX tiểu thủ công nghiệp. Người viết: "đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ

khác, Nhà nước… khuyết khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện"
[29, tr.589].
Ngoài vai trò to lớn của HTX đối với phát triển kinh tế, theo Hồ Chí Minh, HTX còn
góp phần to lớn trong xây dựng tình đoàn kết xóm làng, tinh thần tương thân tương ái nhằm
xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn.
Chính vì vậy, Người đã chỉ chỉ ra "Đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng ta
đối với nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mầm mống
xã hội chủ nghĩa), tiến lên hợp tác xã cấp thấp (nửa xã hội chủ nghĩa) rồi tiến lên hợp tác
xã cấp cao (xã hội chủ nghĩa)". Và Người khẳng định "Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
vững chắc thì nông nghiệp nhất định phát triển tốt" [30, tr.15].
Củng cố và phát triển KTTT là quá trình phát triển lực lượng sản xuất song song với
xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN mà nền tảng là chế độ công hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu, đó chính là cơ sở kinh tế vững chắc thực hiện quyền làm chủ của người lao
động.
Từ vị trí, vai trò quan trọng của thành phần KTTT trong nền kinh tế quốc dân, vận
dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa; Nghị quyết Đại hội IX Đảng ta đã khẳng định mô hình tổng
quát thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế (6 thành phần), "trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân" [9, tr.96].
Trên cơ sở đó, thông qua các chủ trương, Nghị quyết và bằng các công cụ chính sách
vĩ mô trong từng thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta từng bước tạo điều kiện, cải cách đổi mới
KTTT và kinh tế nhà nước phát triển vững chắc nhằm thực hiện tốt vai trò hướng dẫn thúc


đẩy và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển phù hợp yêu cầu nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN.
Những tư tưởng, quan điểm của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh cho
thấy vai trò và ý nghĩa quan trọng của KTHT và HTX trong quá trình phát triển nền kinh tế

quốc dân. Nghiên cứu, vận dụng những tư tưởng đó nhằm phát triển KTTT trong lĩnh vực
nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng ở nước ta và cụ thể trên địa bàn tỉnh
Bến Tre là yêu cầu tất yếu khách quan, đúng quy luật, phù hợp quá trình phát triển KT-XH
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tập thể trong ngành thủy sản
Là loại hình kinh tế thuộc lĩnh vực nông nghiệp, ngành thủy sản với nhiều loại hình
hoạt động sản xuất kinh doanh phong phú như nuôi trồng, khai thác, đánh bắt, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm thủy sản. Trong nuôi, tùy đặc điểm điều kiện tự nhiên, môi trường thổ
nhưỡng (nước ngọt, mặn, lợ) mà có các đối tượng nuôi thích hợp như tôm sú, cua, nghêu,
sò… ở nước lợ, mặn; tôm càng xanh, cá, ốc… nước ngọt, trong từng loại đối tượng đó
cũng có hình thức nuôi khác nhau: nuôi kết hợp, nuôi quảng canh, nuôi bán công nghiệp,
nuôi công nghiệp. Đối với loại hình đánh bắt khai thác có hoạt động đánh bắt ở sông rạch,
biển gần bờ, đánh bắt xa bờ...
Tương ứng đặc điểm phong phú về các loại hình lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh
doanh của ngành thủy sản là các hoạt động dịch vụ đầu ra, đầu vào phục vụ cho quá trình
sản xuất của ngành như các dịch vụ phục vụ đầu vào cho hoạt động nuôi: con giống, thức
ăn, hoạt động dịch vụ kỹ thuật, phòng chống dịch bệnh… đầu vào cho khai thác đánh bắt:
phương tiện tàu thuyền, lưới, ngư cụ….; dịch vụ phục vụ đầu ra: bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản
phẩm.
Từ đặc trưng nhiều nghề trong các lĩnh vực sản xuất của ngành thủy sản xuất hiện
các nhu cầu hợp tác về vốn, kỹ thuật, tổ chức sản xuất, tìm kiếm thị trường tiêu thụ nhằm
đạt hiệu quả sản xuất cao hơn mà hộ, cá nhân riêng lẻ thực hiện có nhiều hạn chế. Hình thức
hợp tác cũng tùy theo phương thức, tính chất, nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành nghề mà có các loại hình tổ chức hợp tác đa dạng, từ thấp đến cao như hợp tác giản đơn
từng vụ việc, không thường xuyên; THT mang tính chất thường xuyên, trên nhiều lĩnh vực


hoạt động; HTX; liên doanh liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong từng loại
hình tổ chức hợp tác có những đặc điểm như sau:
1.1.2.1. Về mô hình tổ chức

- Tổ hội nghề nghiệp: Được hình thành giữa các cá nhân, hộ gia đình có cùng mục
đích sản xuất kinh doanh như cùng nuôi tôm, cá, hải sản dưới dạng tổ hội nuôi tôm, tổ hội
nuôi cá… nhằm để trao đổi kinh nghiệm, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong quá trình sản
xuất nuôi (trong nuôi trồng), trao đổi kỹ thuật trong các khâu của quá trình sản xuất như
chọn giống, chăm sóc phòng trừ dịch bệnh tôm, cá, vật nuôi… trao đổi về thông tin thị
trường, tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra với mục đích nâng cao được năng lực sản xuất, phát
triển ngành nghề.
Đặc điểm chung của loại hình này là các chủ thể tự nguyện thành lập khi có nhu cầu
hợp tác và có thể ra khỏi hội khi không có nhu cầu. Là loại hình tổ THT không hùn vốn để
hoạt động nên không có ăn chia lợi nhuận. Hội hoạt động không có điều lệ và không có tư
cách pháp nhân, quỹ hoạt động của hội do các hội viên thỏa thuận và đóng góp.
Tác dụng của loại hình tổ hội nghề nghiệp góp phần hạn chế được rủi ro; tích lũy
được kinh nghiệm sản xuất, qua đó tăng được năng suất sản xuất, tăng thu nhập cho hộ
nuôi thành viên.
- Tổ nhóm hợp tác: Là loại hình tổ chức hợp tác giản đơn giữa một số hộ gia đình
hoặc cá nhân chỉ 3 - 5 thành viên, thường là quan hệ trong gia đình, chòm xóm, láng giềng
khi có nhu cầu hợp tác để thực hiện một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất
như vần đổi công cho nhau làm ao nuôi, đắp bờ bao, thu hoạch; quan hệ hợp tác giữa chủ
ngư trường với nậu vựa trong tiêu thụ sản phẩm làm ra. Trong đánh bắt cũng đã hình
thành các hình thức hợp tác truyền thống như hợp tác giữa chủ tàu với lao động (bạn),
giữa chủ tàu với chủ tàu để tìm kiếm ngư trường, kỹ thuật, thông tin trên biển, hợp tác
giữa các chủ tàu với nậu, vựa để vay vốn, cung ứng vật tư, nhiên liệu, tiêu thụ sản phẩm,
hợp tác giữa chủ tàu với cơ sở chế biến... Nhằm mục đích tương trợ tạo điều kiện thuận
lợi, đảm bảo được thời vụ, kỹ thuật, đáp ứng kịp thời quy trình sản xuất, hạn chế rủi ro
thiệt hại, phát triển ngành nghề trong từng hộ gia đình.


Đặc điểm chung của loại hình hợp tác này là sự hợp tác thường chỉ diễn ra nhất thời,
chỉ hợp tác với nhau trong một, hai công đoạn nhất định trong quá trình sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm khi có nhu cầu hợp tác với nhau. Loại hình hợp tác này không có hùn vốn hoạt

động nên không ăn chia lợi nhuận. Không có quy chế, điều lệ, hợp đồng, cũng không có tổ
chức thành lập bộ máy quản lý nhất định.
- Tổ KTHT (thường gọi là THT): Là loại hình hợp tác tự nguyện xuất hiện khá phổ
biến trong thời gian gần đây, do nhu cầu phát triển ngành nghề theo chiều sâu trong nền
kinh tế hàng hóa phát triển đòi hỏi phương thức canh tác thay đổi theo hướng công nghiệp,
hiện đại để đạt được hiệu quả sản xuất cao trên một đơn vị diện tích. Trong nuôi trồng từ
hình thức nuôi tự nhiên, quảng canh nay chuyển sang nuôi bán công nghiệp và công
nghiệp với quy trình nuôi đảm bảo các yếu tố khoa học kỹ thuật chặt chẽ, vốn đầu tư sản
xuất cao. Từ tổ chức đánh bắt khai thác ven bờ với phương tiện nhỏ, lạc hậu chuyển dần
sang tổ chức đánh bắt khai thác xa bờ với tàu thuyền có công suất lớn, thiết bị hiện đại đòi
hỏi vốn lớn, điều kiện kỹ thuật cao trong quá trình sản xuất, nếu chỉ phạm vi hộ sản xuất
khó có điều kiện thực hiện được, vì vậy xuất hiện nhu cầu hợp tác nhất là về vốn, về kỹ
thuật. Loại hình tổ chức KTHT có những đặc điểm:
+ So với tổ nhóm hợp tác thì loại hình KTHT có quy mô lớn hơn, mỗi THT có từ 5
đến 10 thành viên, cá biệt nhiều tổ nuôi tôm công nghiệp có đến trên 200 thành viên tham
gia. Do tổ chức sản xuất tập trung và mức độ gắn kết chặt chẽ trong tất cả các khâu của
quá trình sản xuất nên tính chất hợp tác tương đối ổn định và bền vững hơn với mục đích
nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất nhằm đảm bảo được lợi nhuận tối đa cho các thành
viên trong một quy mô hợp tác, kinh doanh.
+ Vốn góp cổ phần bằng tiền hoặc bằng đất đai (trong nuôi), bằng tàu thuyền, công
cụ (trong đánh bắt, khai thác) được quy ra tiền. Sở hữu thuộc cá nhân các thành viên cổ
đông, nhưng giao cho THT quyền sử dụng.
+ Hoạt động không có điều lệ, không có tư cách pháp nhân, nhưng các tổ đều có
thành lập Ban quản lý điều hành hoạt động, có thành lập ban kiểm tra kiểm soát do đại hội
cổ đông bầu ra; Các THT đều có xây dựng quy chế hoạt động và các kế hoạch ngắn hạn


(theo vụ), hoặc dài hạn (hàng năm hoặc một hai năm theo thời gian hợp tác đã được định
trước).
+ Phân phối lợi nhuận theo tỷ lệ cổ phần và công sức đã đóng góp. Ngoài ra loại hình

THT cũng có xây dựng được các quỹ phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, thực hiện nghĩa vụ
với địa phương và thực hiện công trình phúc lợi xã hội nhưng tùy thuộc vào kết quả sản xuất
và tỷ lệ thực hiện các loại quỹ này do các thành viên cổ đông thỏa thuận, quyết định trong
từng mùa vụ.
Nhìn chung mô hình hợp tác trên địa bàn tỉnh phù hợp với trình độ sản xuất của kinh
tế hộ, là hình thức hợp tác có hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu vốn, ứng dụng khoa học
kỹ thuật phát triển ngành, cải thiện thu nhập, đời sống của các thành viên tham gia, góp
phần trong giữ gìn, đảm bảo an ninh trật tự xã hội địa phương và có sự đóng góp nhất định
đối với KT-XH ở địa phương. Mặt khác, về hình thức tổ chức, quản lý, ăn chia, phân phối
lợi nhuận chặt chẽ hơn các loại hình hợp tác giản đơn khác, đây là loại hình hợp tác có thể
nâng chất để trở thành HTX.
- Hợp tác xã: Cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy quản lý, chế độ hạch toán,
kiểm kê, kiểm soát, phân phối theo nguyên tắc HTX kiểu mới, nhưng có những đặc điểm
riêng:
+ Phần nhiều HTX được thành lập trên cơ sở tài sản chung là quỹ đất bãi bồi, đầm,
ao do nhà nước quản lý được giao cho HTX sử dụng nuôi và khai thác nguồn lợi thiên
nhiên. Trong đánh bắt khai thác được hình thành, tập hợp từ vay vốn tín dụng ưu đãi đóng
tàu khai thác hải sản xa bờ, đơn vị hợp tác cổ phần. Vốn điều lệ, cổ phần do xã viên đóng
góp được dùng cho vốn lưu động của quá trình tái sản xuất.
+ Đặc điểm của mô hình này là có sự sản xuất tập trung, có sự phân công lao động
chặt chẽ từng khâu, từng công đoạn trong quá trình sản xuất.
+ Đối với những HTX quy mô lớn, đảm bảo các yêu cầu về vốn, trình độ mở rộng
ngành nghề lĩnh vực hoạt động, nhất là các loại hình dịch vụ phục vụ cho quá trình sản
xuất về kỹ thuật, giống, ngư cụ cho xã viên. Những HTX quy mô nhỏ, không điều kiện thì
HTX đại diện cho các hộ thành viên quan hệ ký hợp đồng thực hiện các công đoạn, dịch
vụ đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất.


×