Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Luận văn: Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam - thực trạng và giải pháp potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.77 KB, 108 trang )


1



Luận văn

Đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Singapo vào
Việt Nam - thực trạng và
giải pháp

2
LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh
chóng và sâu sắc.Việt Nam với chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ quốc tế đã từng bước hội nhập vào nền kinh tế - thương mại và
toàn cầu : là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, đã ký hiệp định
thương mại Việt-Mỹ và đang xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) Các nước đánh giá cao vai trò và vị trí của Việt Nam ở khu vực
và thế giới , đồng thời đánh giá cao tiềm năng phát triển của Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình hoạt động kinh tế
quốc tế ra, đời và phát triển có tính tất yếu, lâu dài cùng với xu thế toàn cầu
về kinh tế. FDI có vai trò vị trí quan trọng, tích cực đối với cả nước tiếp
nhận FDI lẫn nước đi đầu tư. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là nhiệm vụ
của Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH . Trong
suốt quá trình này, chúng ta cần nhiều vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản
lý. Nên việc thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài , nhất là các nước
trong cùng khu vực có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, văn hoá, xã hội
là rất quan trọng. Một trong những nhà đầu tư nước ngoài có số vốn đầu tư
lớn vào Việt Nam phải kể đến Singapo. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của


Singapo góp phần làm tăng thêm vốn để đầu tư phát triển sản xuất, cung
cấp cho nền kinh tế nước ta những máy móc kỹ thuật và quy trình công
nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao, tạo thêm
nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần làm tăng kim ngạch
XK của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần ổn định nền tài chính
tiền tệ quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Với luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành từ năm 1987,
được sửa đổi bổ sung qua các năm 1990, 1992, 1996 và đầu năm 2000 vừa
qua đến nay luật đầu tư nước ngoài đã thông thoáng hơn, tạo nhiều điều

3
kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Sau gần 13 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đến
nay điều được khẳng định chắc chắn : chủ trương thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài là đúng đắn và cần thiết của Đảng và Nhà nước ta, góp
phần quan trọng đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu và khu vực.
Nhận thấy tính cấp thiết và quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài,
đặc biệt là các nguồn vốn từ các nước trong cùng khu vực nên đề tài “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam - thực trạng và giải
pháp” đã được chọn làm nội dung luận văn tốt nghiệp. Luận văn được viết
thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo tại
Việt Nam, giai đoạn 1988-2000.
ChươngIII: Triển vọng quan hệ hợp tác và một số giải pháp đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam.
Trong quá trình làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em xin trân trọng
cảm ơn Ths Đỗ thị Hương, cùng các cô, chú và đặc biệt là giáo sư Hàn

Mạnh Tiến - Giám đốc Công ty TNHH CONCETTI đã tận tình hướng
dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Nhưng do khuôn khổ có hạn và trình độ còn nhiều hạn chế, chuyên đề
này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong được
sự đóng góp ý kiến của tất cả các thầy cô và các bạn.



4
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I/KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN GỐC CỦA FDI :
1.Khái niệm .
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là việc bỏ ra hay hy sinh một nguồn
lực ở hiện tại nhằm thu được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong
tương lai.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện từ thời kỳ tiền tư
bản và đã có nhiều lý thuyết đề cập về nó. Tuy không có nhiều tranh cãi
nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về đầu tư trực tiếp
nước ngoài được thừa nhận rộng rãi .
Nói một cách khái quát đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động
có những đặc điểm sau:
- Có sự thiết lập quyền sỡ hữu về vốn và tài sản của người nước này
ở một nước khác .
- Chủ đầu tư chịu hoàn toàn trách nhiệm về quản lý dự án và hiệu
quả của vốn đầu tư .
- Thường do các cá nhân hay các công ty đặc biệt là các công ty
xuyên quốc gia tiến hành thông qua việc thành lập mới mở rộng các cơ sở
sản xuất hiện có nhằm mở rộng thị trường.

- Thường gắn liền với hoạt động chuyển giao công nghệ.
Như vậy, có thể rút ra một định nghĩa về FDI như sau:

5
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các cá nhân hay
tổ chức kinh tế thực hiện nhằm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và
thị trường ở một nước khác thông qua việc di chuyển vốn, hay bất kỳ hình
thức giá trị nào như máy móc thiết bị, công nghệ và thiết lập quyền sở hữu
về vốn đầu tư của mình tại nước đó .
Một hình thức đầu tư nước ngoài khác tồn tại song song với đầu tư
trực tiếp là đầu tư gián tiếp. Đây là hoạt động đầu tư thường do Chính phủ
các nước hay các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức phi Chính phủ
(NGOs)cho một nước khác (thường là các nước đang phát triển ) vay vốn.
Theo hình thức này bên nhận vốn trở thành con nợ, họ có toàn quyền quyết
định việc sử dụng vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất, còn bên cho
vay không chịu rủi ro và hiệu quả của vốn vay mà chỉ huởng lãi suất theo
tỷ lệ cho trước của số vốn mà họ cho vay. Đầu tư gián tiếp bao gồm các
khoản viện trợ chính thức (ODA), tín dụng quốc tế, trái phiếu, cổ phần
Loại hình đầu tư này thường đi kèm với các điều kiện về kinh tế hay chính
trị bất lợi cho nước nhận vốn. Do vậy, loại hình đầu tư này chiếm tỷ trọng
không lớn lắm trong vốn đầu tư quốc tế, nó thường chỉ dành cho các nước
đang phát triển đang có nhu cầu cấp thiết về vốn.
Khác với các hình thức đầu tư gián tiếp, các hình thức đầu tư trực
tiếp phổ biến hơn và có xu hướng ngày càng tăng. Sở dĩ như vậy là do hình
thức đầu tư trực tiếp có mộ số lợi thế hơn hẳn. Đối với các nước đang phát
triển, nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế rất lớn trong lúc đó kinh
nghiệm quản lý của họ còn yếu kém nên hiệu quả vốn đầu tư thấp. Bởi vậy,
cho các nước này vay vốn sẽ có nhiều rủi ro, khả năng thu hồi vốn thấp.
Trong hoàn cảnh đó, đầu tư trực tiếp sẽ là giải pháp tốt nhất vì vốn được
mang sang nước họ cùng với công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm sản xuất

nhiều, do đó làm tăng hiệu quả vốn đầu tư. Nước nhận vốn bên cạnh đó còn
tiếp nhận được cả phương thức sản xuất mới hoà nhập vào thị trường quốc

6
tế. Một lợi thế nữa là đầu tư trực tiếp nước ngoài không đưa những nước
nhận vốn đến gánh nặng nợ nần, không bị các ràng buộc về kinh tế và
chính trị bất lợi cho đất nước.Tuy nhiên, hạn chế của nguồn vốn đầu tư trực
tiếp là nếu các nước nhận vốn không có định hướng rõ ràng, không quản lý
tốt thì sẽ dẫn đến sự phát triển kinh tế không cân đối tạo ra một cơ cấu đầu
tư, cũng như cơ cấu kinh tế không phù hợp.
2. Nguồn gốc và bản chất của FDI.
Theo định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trên ta thấy đặc
điểm cơ bản nhất của nó là việc người nước ngoài đưa vốn vào một nước
khác để mở rộng cơ sở sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường. Việc sản
xuất hàng hoá tại nước mình rồi xuất sang nước khác như vậy làm cho chi
phí vận chuyển tăng lên. Thay vào đó, chủ đầu tư đưa vốn sang nước khác
để sản xuất và bán ngay tại thị trường nước sở tại thì họ không những giảm
được chi phí vận chuyển mà còn tránh được thuế nhập khẩu hàng hoá vốn
do các nước đặt ra để bảo vệ nền kinh tế của họ. Điều này lý giải tại sao lại
có dòng vốn đầu tư cùng chảy vào và chảy ra tại cùng một nước, tại sao
đầu tư vốn mà không nhập khẩu hàng hoá.
Theo học thuyết của D.Ricardo, mỗi nước có lợi thế riêng về các yếu
tố sản xuất mà ông gọi đó là lợi thế so sánh, ở các nước phát triển đó là lợi
thế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm sản xuất còn ở các nước đang phát
triển đó là lao động rẻ, tài nguyên tại chỗ phong phú, thị trường sơ khai. Do
vậy, khi chi phí sản xuất ở một nước (thường là nước phát triển) cao họ tìm
cách đưa vốn sang nước khác để tận dụng hết lợi thế so sánh của mỗi nước
bằng cách đó họ đã nâng cao được tỷ lệ lợi nhuận biên/chi phí biên.
Mọi nhà kinh doanh đều có xu hướng đa dạng hoá danh mục đầu tư.
Thiết lập nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh ở các nước khác, tức là họ đã

thực hiện mục tiêu của mình một cách hợp lý. Sự thay đổi thường xuyên

7
của tỷ giá hối đoái cũng là nhân tố khiến cho việc di chuyển tư bản trên
phạm vi quốc tế diễn ra mạnh hơn. Chẳng hạn, khi đồng USD tăng giá so
với đồng Việt Nam thì hàng hoá nhập khẩu của Mỹ tại thị trường Việt Nam
trở nên đắt hơn so với trước. Nhưng nếu hàng hoá đó sản xuất tại Việt Nam
sử dụng đầu vào tại chỗ thì nó sẽ không thay đổi về giá cả, thậm chí khi đó
chủ đầu tư còn có lợi nếu xuất khẩu trở lại Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề này có
tính hai mặt tức là khi tỷ giá hối đoái biến động ngược lại thì chủ đầu tư lại
bị thiệt hại.
Trước những năm 1970, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường chỉ diễn
ra ở các nước phát triển với nhau hoặc từ các nước phát triển sang các nước
đang phát triển. Sau đó cùng với sự thịnh vượng của khối OPEC (tổ chức
các nước xuất khẩu dầu lửa) và các nước công nghiệp mới (NICs) thì một
lượng vốn đầu tư lớn do các nước này đưa sang nước phát triển và đang
phát triển khác. Thể hiện rõ nét cho các xu hướng này là đầu tư từ các nước
Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapo sang khu vực Tây Âu và các
nước đang phát triển ngày càng tăng.
Sự phát triển của thương mại và thị trường tài chính quốc tế và các
công ty đa quốc gia đã tạo điều kiện cho FDI phát triển mạnh. Các công ty
đa quốc gia thường là các phương tiện cho việc đi vay và cho vay quốc tế
chiếm 70% từ FDI quốc tế. Công ty mẹ thường chuyển giao vốn của mình
qua các công ty chi nhánh ở nước ngoài. Vì vậy, khi nói tới FDI người ta
cũng thường ám chỉ các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, trong đó một công ty
ở một nước tạo ra hoặc mở rộng chi nhánh ở nước khác. Vì vậy FDI luôn
gắn liền với công ty đa quốc gia ở đó việc chuyển giao vốn không đơn
thuần là sự chuyển giao nguồn lực mà còn là sự mở rộng thị trường mở
rộng sự kiểm soát và quản lý .


8
II. CÁC HÌNH THỨC CHỦ YẾU CỦA FDI :
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam đầu tư trực tiếp
nước ngoài bao gồm các hình thức chủ yếu sau :

1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh .
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa hai bên
hay nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh
doanh ở Việt Nam trên cơ sở qui định trách nhiệm và phân chia kết quả
kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới .
Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức liên kết kinh
doanh giữa chủ đầu tư trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài theo
từng trường hợp cụ thể, trong đó các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân
riêng chứ không tạo nên bất cứ một pháp nhân mới nào. Ởđây cũng không
chỉ góp vốn và các phương tiện sản xuất mà còn thoả thuận về nghĩa vụ và
quyền hạn của mỗi bên bằng hợp đồng trong việc tiến hành một công việc
sản xuất kinh doanh và những quyền lợi mà họ được hưởng. Hình thức này
rất đa dạng và phù hợp với những dự án có qui mô nhỏ thời hạn hoạt động
ngắn.
2. Doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư trong đó bên nước
ngoài và Việt Nam cùng góp vốn thành lập liên doanh theo một tỷ lệ đã
thỏa thuận. Theo luật định doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt
Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký hoặc là doanh nghiệp do doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc
do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở
hợp đồng liên doanh.

9
Doanh nghiệp liên doanh đươc thành lập theo hình thức công ty trách

nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.Thời gan
hoạt động của các doanh nghiệp khoảng từ 30-50 năm. Doanh nghiệp hoàn
toàn tự chủ về tài chính vì vốn pháp định do mỗi bên liên doanh góp (mức
góp của bên Việt Nam ít nhất là 30%). Trong quá trình liên doanh, doanh
nghiệp không được giảm vốn nếu muốn tăng vốn phải làm biên bản giải
trình lên Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư để xem xét và giải quuyết.
Thông thường, khi thành lập liên doanh phía Việt nam có lượng vốn
rất nhỏ, vì vậy sẽ dẫn đến tỷ lệ phần quyền lợi rất ít. Do đó, vốn pháp định
của doanh nghiệp liên doanh được qui định luôn nhỏ hơn vốn đầu tư thực
tế để đảm bảo quyền lợi cho phía Việt Nam cũng như đảm bảo tỷ lệ chia lãi
hợp lý hơn. Đối với loại hình này, nhà nước đã giành được nhiều ưu đãi mà
cả bên nước ngoài và bên Việt Nam đều được hưởng.
3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam (luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam) Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập
theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp
luật Việt Nam .Vốn pháp định của doanh nghiệp ít nhất phải bằng 30%vốn
đầu tư của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp không
được giảm vốn pháp định. Các doanh nghiệp này thường ở trong khu chế
xuất hay trong khu công nghệ cao.
Ngoài ra còn có một số hình thức biến dạng khác như :
* Hình thức đầu tư BOT.
BOT là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó nhà
đầu tư bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian

10

nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi nhuận thoả đáng sau đó chuyển giao

không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước sở tại.
Hình thức BOT ra đời nhằm tạo ra loại hình công việc có chất lượng
ở các nước chậm và đang phát triển khi các nước này không có đủ vốn. Đặc
điểm chung của hình thức này là nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ vốn nhiều,
thời gian thu hồi vốn chậm .
Các công ty ký hợp đồng BOT với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
được hưởng nhiều ưu đãi về thuế, được nhà nước bảo lãnh để tránh rủi ro…
Hình thức hợp đồng BOT là hình thức đầu tư mới xuất hiện ở Việt Nam,
song nó có vai trò to lớn làm thay đổi bộ mặt mặt nền kinh tế. Nhờ nó chất
lượng kết cấu hạ tầng được nâng cao một cách rõ rệt, tạo đà thu hút hơn
nữa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như đáp ứng tốt hơn nhu cầu
tăng lên của nhân dân.
* Hình thức đầu tư BTO.
BTO ( Built-Transfer-Operate) hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh
doanh là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư nước ngoài để xây dựng công trình, sau khi đã xây dựng xong nhà đầu tư
nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước sở tại và được dành quyền
kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu
tư và lợi nhuận hợp lý.
* Hình thức đầu tư BT.
BT (Built-Transfer) hợp đồng xây dựng chuyển giao là văn bản ký
kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư nước ngoài để xây
dựng công trình, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
công trình đó cho nước chủ nhà và tạo điều kiện thực hiện dự án khác nhằm
thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.

11







III. TÁC ĐỘNGCỦA FDI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ :
1. Đối với quốc gia đi đầu tư.
Thứ nhất, để mở rộng thị trường tiêu thụ, ngay tại nước chủ đầu tư,
nhà đầu tư có thể đã có một vị trí nhất định trên thị trường. Cũng có thể loại
hàng hoá hoặc dịch vụ mà nhà đầu tư có cung cấp đang bị cạnh tranh gay
gắt tại thị trường trong nước. Việc tìm kiếm những thị trường ngoài nước
với những nhu cầu lớn về loại hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà đầu tư sẽ đáp
ứng được việc mở rộng sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra,
các chủ đầu tư có thể có lợi thế độc quyền nhờ sở hữu một nguồn lực hay
kỹ thuật mà các đối thủ cạnh tranh của họ không có được ở thị trường sở
tại. Điều này sẽ mang lại cho nhà đầu tư nhiều lợi nhuận hơn.
Thứ hai là xâm nhập thị trường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Theo lý
thuyết về tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nếu cứ tiếp tục đầu tư vào một dự án
nào đó ở một quốc gia nào đó, tỷ suất lợi nhuận chỉ tăng đến một mức độ
nhất định rồi sẽ giảm dần. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn chú trọng tìm kiếm
những thị trường đầu tư mới mẻ đề đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Đồng thời, ở các nước công nghiệp phát triển thường có hiện tượng thừa
“tương đối” vốn nên việc đầu tư ra nước ngoài giúp các nhà tư bản nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba, sử dụng các yếu tố sản xuất ở nước nhận đầu tư. Do sự phát
triển không đều về trình độ của lực lượng sản xuất, ở các quốc gia khác
nhau chi phí sản xuất là không giống nhau. Giữa các quốc gia có sự chênh
lệch về giá cả hàng hoá, sức lao động, tài nguyên, khoa học kỹ thuật, vị trí

12

địa lý Các nhà đầu tư thường lợi dụng sự chênh lệch này để thiết lập hoạt

động sản xuất ở những nơi có chi phí sản xuất thấp nhằm hạ giá thành sản
phẩm. Đầu tư ra nước ngoài có thể giúp các nhà đầu tư hạ thấp chi phí sản
xuất do khai thác được nguồn lao động dồi dào với giá rẻ ở nước sở tại.
Đồng thời, khi đầu tư sản xuất ở nước sở tại, nhà đầu tư có thể sử dụng
nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành sản xuất của mình ở chính nước này.
Việc này giảm bớt được chi phí vận tải cho việc nhập nguyên nhiên liệu,
nhất là khi các nhà đầu tư muốn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng ở nước ngoài.
Đối với việc thiết lập nhà máy sản xuất ở các nước Tư bản phát triển
các nhà đầu tư có thể học tập công nghệ tiên tiến của các nước đó. Và
những công nghệ này có thể sẽ được áp dụng ở nhiều nhà máy hay chi
nhánh của công ty ở các nước khác. Những công nghệ hiện đại sẽ góp phần
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất để đưa đến mục
đích cuối cùng của nhà đầu tư là lợi nhuận cao.
Cuối cùng, đó là tránh được các hàng rào thương mại. Xu thế bảo hộ
mâu dịch trên Thế giới ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở các nước công
nghiệp phát triển. Đầu tư ra nước ngoài là biện pháp hữu hiệu để xâm nhập
chiếm lĩnh thị trường và tránh được các hàng rào bảo hội mậu dịch giúp các
chủ đầu tư giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tránh được các trướng ngại cho
việc tiêu thụ hàng hoá hay dịch vụ của mình như tránh được thuế nhập
khẩu, hạn ngạch.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, tích cực trên đây, FDI cũng có thể
chứa đựng những thách thức đối với nước có đầu tư ra nước ngoài. Đó là
các vấn đề quản lý vốn, công nghệ, sự ổn định của đồng tiền, cán cân thanh
toán quốc tế, vấn đề việc làm của lao động trong nước .
- Có khả năng làm lộ các bí quyết kinh doanh: Do CGCN nên nhà
ĐTNN thường phải hướng dẫn, truyền đạt một số kinh nghiệm của mình

13

cho đối tác bên nước sở tại để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh cho cả

hai bên
- Dễ tạo ra đối thủ cạnh tranh trong tương lai: Trong th
ời gian
dài của quá trình CGCN, đối tác nước sở tại thường có nhiều cơ hội học
hỏi, hiện đại hoá chính mình và từ đó làm tăng khả năng trở thành đối thủ
mạnh trong tương lai đối với các nh
à ĐTNN .
- Chịu nhiều rủi ro và có thể không thu hồi được vốn: Hoạt động
ĐTQT là hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro do sự khác biệt về môi
trường kinh doanh giữa nước này với nước kia và những tác động củ yếu tố
ngoại cảnh.
2. Đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những đáp ứng được nhu cầu và
lợi ích của nước chủ đầu tư mà còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Nó thể hiện ở những khía cạnh sau
:
Thứ nhất : Đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp cho nước sở tại một
nguồn vốn lớn để bù đắp sự thiếu hụt nguồn vốn trong nước. Hầu hết các
nước, nhất là các nước đang phát triển đều có nhu cầu vốn để thực hiện
công nghiệp hoá và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước đã thu
hút được một lượng vốn nước ngoài lớn từ đầu tư trực tiếp để giải quyết
khó khăn về vốn và do đó đã thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá đất
nước.
Thứ hai : Cùng với việc cung cấp vốn là kỹ thuât. Qua thực hiện đầu
tư trực tiếp nước ngoài, các chủ đầu tư đã chuyển giao công nghệ từ các chi
nhánh, nhà máy của họ ở nước khác sang nước sở tại. Chuyển giao công
nghệ là kết quả của quá trình nghiên cứu và phát triển nhằm vào việc phát
minh ra sản phẩm hay kỹ thuật sản suất mới hoặc cả hai.Cho nên, nhờ có sự

14


chuyển giao đó mà các nước đang phát triển có điều kiện tốt hơn để khai
thác các thế mạnh sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, tăng sản xuất, sản
lượng và khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thị trường Thế giới
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ ba : Việc thiết lập các cơ sở sản xuất ở nước sở tại, chủ đầu tư
cần sử dụng lao động ở chính nơi đây. Sự xuất hiện hàng loạt các nhà máy
mới, nông trại mới đã thu hút được nhiều lao động vào làm việc. Hơn thế
nữa, các nhà đầu tư nước ngoài còn phải đào tạo những người lao động
thành những công nhân lành nghề cho doanh nghiệp của mình. Điều này
góp phần tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động cho
nhân dân nước sở tại, do đó làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở những nước này.
Thứ tư : FDI đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về
ngoại tệ của nước nhận. Điều này có nghĩa là việc thiếu hụt thương mại có
thể được bổ xung bằng nguồn vốn FDI.
Khi FDI chảy vào một nước nó có thể làm giảm thâm hụt cán cân
vãng lai. Nó cũng có thể làm triệt tiêu khoản thâm hụt đó qua thời gian khi
các công ty nước ngoài thu được những khoản xuất khẩu ròng.Thêm nữa
khi những lợi thế của nền sản xuất nước ngoài được đưa vào nước chủ nhà
như công nghệ, kỹ năng sản xuất chúng cũng làm nâng cao sức cạnh
tranh quốc tế của các hãng trong nước do đó có thể làm tăng xuất khẩu góp
phần tạo ra ngoại tệ cải thiện cán cân thương mại .
Thứ năm : Tác động giữa FDI và công nghệ được coi như một trong
những nội dung quan trọng trong việc xem xét đầu tư nước ngoài cả cho
nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư. Lý do của điều này là công nghệ mang
lại những lợi ích cho cả hai đặc biệt là nước nhận đầu tư .Đầu tiên người ta
hy vọng FDI đem đến những công nghệ tiên tiến cho nước sở tại. FDI có
thể mang đến cho nước chủ nhà các bí quyết sản xuất và công nghệ tiên

15


tiến. FDI có thể thúc đẩy quá trình cải tiến công nghệ của các nước đang
phát triển làm tăng năng suất lao động.Thông qua FDI các nước chủ nhà sẽ
có được những tiến bộ trong nền sản xuất và xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cung cấp cho nước chủ nhà các kỹ
năng, khả năng quản lý mới thông qua việc đầu tư của mình các nhà đầu tư
nước ngoài mang đến những kinh nghiệm quản lý kỹ năng áp dụng công
nghệ mới thực hiện thông qua các chương trình đào tạo vừa học vừa làm .
Thứ sáu : Do tác động của vốn và khoa học công nghệ, đầu tư trực
tiếp sẽ tác động mạnh đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ
cấu ngành, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động. Bên cạnh đó,
thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện
để mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các nước nhận đầu tư sẽ có
thêm nhiều sản phẩm để không những phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong
nước mà còn để xuất khẩu sang các nước khác và mở rộng quan hệ thương
mại quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư nước ngoài vào nước sở tại sẽ thúc đẩy
sự cạnh tranh về đầu tư của các nước ở ngay nước sở tại làm cho môi
trường đầu tư ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không khi nào và bất cứ đâu
cũng phát huy vai trò tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước chủ
nhà. Nó chỉ có thể phát huy tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn
định, đặc biệt là khi Nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của
mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm trong nó những mặt hạn chế đối
với nước nhận đầu tư như :
- Các nước nhận FDI thường không dễ giải quyết mối quan hệ giữa
mở cửa thu hút FDI với việc bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước, thị trường
trong nước, giữ vững độc lập chủ quyền về kinh tế, an ninh chính trị và ổn
định, an toàn xã hội .

16


- Đầu tư trực tiếp nước ngoài gây sự rối ren, mất ổn định cho nền
kinh tế nước sở tại.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử
dụng theo những mục tiêu của họ.
- Những công nghệ chuyển giao sang các nước đang phát triển
thường không phải là những công nghệ tiên tiến nhất mà là những công
nghệ không còn được sử dụng ở các nước tư bản phát triển vì đã quá thời
hạn sử dụng hoặc không còn đáp ứng được những yêu cầu mới về chất
lượng và gây ô nhiễm môi trường. Trên thực tế đã diễn ra nhiều hiện tượng
chuyển giao công nghệ nhỏ giọt, từng phần và mất nhiều thời gian.
- Nếu không định hướng và quản lý tốt FDI, nợ quốc gia sẽ tích tụ, tăng
dần , ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thanh toán quôc tế và sự ổn định của
đồng tiền.
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học ,
dễ dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột
quá mức.
- Nước sở tại phải đương đầu với chủ đầu tư giầu kinh nghiệm, sành sỏi
trong kinh doanh. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng những sở hở
trong luật pháp sở tại để trốn thuế, xâm phạm lợi ích của nước sở tại.

17

Mặc dù vậy, những hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài không
thể phủ nhận được vai trò tích cực của nó đối với cả nước chủ đầu tư và
nước nhận đầu tư. Vấn đề là ở chỗ các nước tiếp nhận đầu tư phải kiểm
soát đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hữu hiệu để phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
IV. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA FDI TRÊN THẾ GIỚI VÀ
TRONG KHU VỰC :

1. FDI luôn phát triển với tốc độ nhanh và trở thành một loại
hình quan hệ kinh tế có vai trò quan trọng, có tính tất yếu đối với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới và hầu hết các quốc gia ; trong đó,
các nước công nghiệp phát triển là lực lượng chi phối chủ yếu .
Từ đầu những năm 1960 đến nay, FDI thế giới luôn tăng nhanh qua
các năm , bình quân khoảng 20%/năm . Nếu như tổng FDI thế giới chỉ là
vài chục tỷ USD/năm trong những năm 70s thì đến những năm 80s đã là
hàng trăm tỷ USD/năm ; đặc biệt là đến năm 1995 đã đạt 315 tỷ USD, năm
1997 đạt 400 tỷ USD, năm 1998 đạt trên 600 tỷ USD, năm 1999 trên 700 tỷ
USD . Hầu hết các nước trên thế giới, bao gồm cả nước công nghiệp phát
triển lẫn nước đang phát triển đều mở cửa thu hút FDI. Tuy nhiên, nếu như
trong những năm 50s , 60s , FDI tập trung chủ yếu vào các nước đang phát
triển ( khoảng 70%, chỉ có khoảng 30% còn lại vào các nước công nghiệp
phát triển ) thì từ những năm đầu thập kỉ 70s trở lại đây, tình hình đã thay
đổi theo chiều ngược lại. Trong những năm 90s, trung bình khoảng 75%
FDI thế giới chảy vào các nước công nghiệp phát triển. Các nước này đồng
thời cũng là các nước xuất khẩu FDI lớn nhất, chiếm khoảng 80% FDI toàn
cầu. Dòng vốn FDI trên thế giới lưu chuyển chủ yếu trong nội bộ và giữa
ba trung tâm kinh tế thế giới Bắc Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản và Đông Bắc á .

18

2. Xuất hiện xu hướng đa cực, đa biên và hiện tượng hai chiều hay
lưỡng tính trong FDI ; các công ty xuyên quốc gia trở thành chủ thể
đầu tư quan trọng nhất .
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ và các công ty Mỹ, trước hết
là các công ty xuyên quốc gia (TNC) của Mỹ là nước và lực lượng gần như
độc tôn tiến hành các hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo kế hoạch
Marshall. Nhưng sau đó không lâu, các công ty, đặc biệt là các TNC của
các nước Tây Âu, Nhật Bản đã lớn mạnh và tiến hành các hoạt động FDI

cạnh tranh với các công ty của Mỹ. Thị trường FDI ngày nay không còn là
thị trường riêng của các công ty Mỹ và ngược lại có sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt giữa các công ty của nhiều nước khác nhau có đầu tư ra nước
ngoài. Cùng với sự vươn lên của Tây Âu, Nhật Bản và các nước NIC, nhất
là NIC Châu Á , tính “đa biên” , “đa cực” đã xuất hiện và hoàn toàn thay
thế tính đa cực của FDI .
Từ cuối những năm 70s , đầu những năm 80s trở lại đây, đã xuất
hiện hiện tượng “hai chiều” hay “lưỡng tính” trong FDI ; đó là hiện tượng
một nước vừa tiếp nhận FDI vừa đầu tư ra nước ngoài. Mỹ là nước điển
hình nhất về hiện tượng này, vừa là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất,
chiếm khoảng 17% FDI ra thế giới, nhưng cũng là nước thu hút FDI lớn
nhất, chiếm khoảng 30% FDI toàn cầu. Tổng FDI đầu tư ra nước ngoài của
các nước G7 chiếm khoảng 80% tổng FDI toàn cầu, nhưng chính họ lại thu
hút khoảng 70% FDI của thế giới vào nước mình. Tình hình tương tự cũng
diễn ra ở hầu hết các nước công nghiệp phát triển thuộc nhóm OECD và
các nước NIC. Nhiều nước đang phát triển, trong đó có các nước trong khu
vực, đồng thời với việc chú trọng thu hút FDI, vẫn tiến hành các hoạt động
xuất khẩu FDI.
Hiện nay, các TNC đang chi phối, kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh
doanh vào FDI trên thế giới. Kết quả nghiên cứu 100 TNC lớn nhất trên thế

19

giới cho thấy, các TNC này chiếm tới một phần ba FDI toàn thế giới và
tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới 1400 tỷ USD, sử dụng tới 72
triệu lao động trong đó có 12 triệu lao động nước ngoài. Thời kỳ 1990 -
1995, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNC
Mỹ là 42% ; của các TNC Nhật Bản là 48% ; và của các TNC Châu Âu là
59%. Thời kỳ 1996 - 2000, các TNC tiếp tục đẩy mạnh đầu tư ra nước
ngoài. Tỷ trọng đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNC

Mỹ sẽ là 55%, của các TNC Nhật Bản, các nước Tây Âu là 63%, và bình
quân chung sẽ là 60%.
Hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) giữa các công ty, đặc biệt là
các TNC trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, hoá chất, dược phẩm, viễn
thông tăng mạnh trong các năm 1997 - 2000 ; nhằm cơ cấu lại và củng cố
vị trí của các TNC trong các lĩnh này. Ngoài ra, các TNC còn đang thực
hiện mục tiêu chiến lược hoặc cơ cấu lại thông qua các hợp đồng giữa các
công ty thành viên trong nội bộ TNC nhằm nâng cao sức cạnh tranh về
công nghệ. Số lượng hợp đồng này đã tăng từ mức trung bình hàng năm
gần 300 vào đầu những năm 80s lên hơn 600 vào giữa những năm90s, chủ
yếu trong những ngành sử dụng nhiều chất xám như thông tin, dược phẩm,
công nghệ sản xuất ô tô Hoạt động M&A phát triển cực mạnh từ khi xảy
ra khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực Châu á, trở thành yếu tố quyết
định sự tăng vọt về FDI toàn cầu từ năm 1998 đến nay.


3. Cuộc cạnh tranh thu hut FDI giữa các nước, đặc biệt là giữa
các nước đang phát triển đang diễn ra hết sức gay gắt ; hình thành
nhiều định chế về hợp tác đầu tư ; xuất hiện làn sóng tự do hoá đầu tư
.

20

Nhận thức được vai trò quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh
tế và giải quyết vấn đề việc làm nên cả các nước công nghiệp phát triển lẫn
các nước đang phát triển đều chú trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với
việc hình thành NAFTA , EU , AIA , môi trường đầu tư ở các khu vực
này trở nên hấp dẫn cạnh tranh hơn do được mở cửa và tự do hoá ở mức
cao hơn. Các nước công nghiệp phát triển đang đàm phán để đi đến ký kết
hiệp định đa biên về đầu tư (MAI) nhằm tự do hoá đầu tư. Nhiều nước

đang tiếp tục nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi cho FDI thông qua các hiệp
định song phương và những chính sách ưu đãi đầu tư trong phạm vi khu
vực và từng bước để tạo đà đi lên. Các thoả thuận về hợp tác đầu tư, ở mức
độ khác nhau đều đề cập đến vấn đề mở cửa thị trường và tiến tới tự do hoá
đầu tư .
Trong năm 1997, đã có 151 thay đổi trong qui định về FDI ở 76
nước, 89% những thay đổi này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho FDI. Nhiều
ngành trước đây được xem như bị đóng cửa đối với FDI như viễn thông
bảo hiểm năng lượng đã được mở ra cho FDI và tự do hoá hơn, Trung
Quốc là nước thu hút FDI thành công nhất trong nước đang phát triển. Năm
1998, FDI vào Trung Quốc chiếm 80% tổng FDI vào Châu á và 35% của
toàn bộ FDI vào các nước đang phát triển. Ấn Độ, Hàn Quốc mới chuyển
hướng, chú trọng hơn vào FDI và đang trở thành đối thủ cạnh tranh đáng
gờm của các nước thu hút FDI Châu Á, nhất là trong bối cảnh do tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trong khu vực, nguồn cung cấp
FDI từ Châu Á, nhất là từ Nhật Bản, Hàn Quốc giảm đi rõ rệt ( của Nhật ,
giảm từ mức trung bình 33 tỷ USD/năm xuống mức 25 tỷ USD/năm)



21

V. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI .
Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài là tổng hoà các yêu tố đối nội,
đối ngoại, chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hoá và xã hội Có liên quan
đến các hoạt động của các nhà đầu tư. Qua thực tiễn của nhiều nước trên
thế giới cho thấy, một môi trường được coi là hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài phải đảm bảo các yếu tố cơ bản sau:
1.Sự ổn định về chính trị-xã hội.

Yếu tố này giữ vai trò quyết định đối với hoạt động của các nhà đầu
tư. Vì thực tế tình hình chính trị có ổn định, xã hội có trật tự, kỷ cương thì
các chính sách, chủ trương của Nhà nước mới có giá trị thực thi bền vững,
đặc biệt là các chủ trương chính sách nhất quán về đầu tư nước ngoài. Qua
kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới, ta thấy rằng ở
các quốc gia luôn xảy ra những biến động về chính trị (mâu thuẫn sâu sắc
giữa các Đảng phái, sắc tộc, đảo chính, nội chiến, chiến tranh biên giới )
thì rất khó thu hút các dự án đầu tư hoặc đang là quốc gia thu hút nhiều dự
án nhưng bất ngờ xảy ra những biến động kể trên thì ngay lập tức các nhà
đầu tư sẽ thu hẹp lại phạm vi hoạt động, chuyển vốn về nước hoặc sang
nước khác, còn các nhà đầu tư mới được cấp giấy phép hoặc đang nghiên
cứu tiền khả thi sẽ “lặng lẽ” rút lui. Thực trạng này có thể thấy ở các nước
trong khu vực như: Philipines, Malaixia, Indonexia, Thái Lan hoặc các
nước khác trên thế giới như CHLB Nga, Brazin hoặc các nước đi theo
chủ nghĩa cực đoan như Apganistan, Algieri thì chẳng có một nhà đầu tư
nào giám mạo hiểm thực hiện các dự án của mình.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu những năm 80 (khi ta mới chỉ có
Nghị định của Chính phủ về đầu tư nước ngoài và đất nước mới được giải
phóng) các nhà đầu tư còn thăm dò và chỉ đến khi chính sách của Đảng và

22

Nhà nước ta có nhiều thay đổi căn bản (chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN), có Bộ luật đầu tư nước ngoài khá hoàn
chỉnh và đặc biệt là tình hình chính trị-xã hội ở đất nước ta rất ổn định nên
mới thu hút một lượng vốn đầu tư nước ngoài đáng kể (khoảng 37 tỷ USD)
như ngày nay. Thêm vào đó, tình hình quốc tế, khu vực có nhiều chuyển
biến tích cực có lợi cho việc mổ rộng quan hệ kinh tế của Việt Nam nói
chung và của hợp tác đầu tư nói riêng. Hiện nay, Việt Nam là thành viên

của ASEAN, tham gia APEC, ASEM đang đàm phán gia nhập WTO, đã
ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, cùng với các chính sách đối ngoại
mềm dẻo trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ đã tạo ra lợi thế so sánh đáng kể của Việt Nam
trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2.Sự phát triển về kinh tế.
Sự phát triển kinh tế ở đây được hiểu là sự phát triển đồng bộ về các
mặt: tăng trưởng kinh tế, thu nhập GDP tính trên đầu người, kim ngạch
xuất nhập khẩu, hệ thống giao thông, bưu chính viễn thông, dịch vụ các
loại. Thực tế cho thấy ở các nước phát triển, tốc độ thu hút vốn đầu tư nước
ngoài bao giờ cũng cao hơn các nước đang phát triển. Ở nước ta sự phát
triển về kinh tế chưa được coi là hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vì hệ thống
giao thông tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn lộn xộn, hệ thống bưu
chính viễn thông có nhiều tiến bộ nhưng giá cước phí vẫn được xếp vào
hạng nhất nhì thế giới về đắt đỏ, hệ thống ngân hàng và các hoạt động dịch
vụ khác còn nhiều bất cập, chưa thuận lợi đối với các nhà đầu tư. Nhìn vào
phân bố địa bàn đầu tư ở nước ta, chúng ta nhận ra ngay rằng chỉ ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Tp.HCM, Hải Phòng. Bà Rịa Vũng Tàu mới có
nhiều dự án hoặc ở các địa phương có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với
các nhà đầu tư như Bình Dương, Đồng Nai mới thu hút được nhiều dự án

23

đầu tư. Còn ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa như Lào Cai, Yên Bái,
Hà Giang, Ban Mê Thuật, Đắc Lắc, Kiên Giang, An Giang Có rất ít thậm
chí không có dự án nào đầu tư vì cơ sở hạ tầng yếu kém, may ít rủi nhiều.
3.Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Đây là một yếu tố không thể thiếu được của môi trường đầu tư. Hệ
thống pháp luật về đầu tư ở đây được hiểu là Luật quốc gia điều chỉnh hoạt
động đầu tư như Luật đầu tư, các Luật khác có liên quan đến hoạt động đầu

tư, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật (như Nghị
định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị) và Luật quốc tế áp dụng đối với quan
hệ đầu tư như các Hiệp định đa phương (Công ước MIGA, Hiệp định
khung về đầu tư ASEAN) và Hiệp định song phương về khuyến khích và
bảo hộ đầu tư. Nội dung các quy định của hệ thống pháp luật kể trên phải
đảm bảo hai vấn đề quan trọng, đó là các quy định về ưu đãi khuyến khích
đầu tư (như ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế, quyền hoạt động kinh doanh )
và các quy định về đảm bảo đầu tư (bảo đảm tài sản, lợi ích hợp pháp của
các nhà đầu tư, bảo đảm những thiệt hại do có sự thay đổi về luật ). Ngoài
ra, hệ thống pháp luật (quốc gia và quốc tế) về đầu tư nước ngoài phải đảm
bảo tính đồng bộ, tính minh bạch, tức là không được mâu thuẫn, chồng
chéo và đặc biệt là phải mang tính ổn định, nhất quán. thực tế cho thấy để
đáp ứng yêu cầu này không hoàn toàn đơn giản đối với các nước đang phát
triển. Ở nước ta, mặc dù hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài khá đầy
đủ với nhiều quy định ưu đãi, bảo đảm đầu tư nhưng các văn bản hướng
dẫn thi hành luật lại vô cùng rắc rối, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau.
Đáng ngại hơn là việc áp dụng luật của các cơ quan thi hành pháp luật với
những thủ tục hành chính rườm rà, kém hiệu quả và thái độ nhũng nhiễu
của cán bộ thi hành. Điều này đôi khi dẫn đến tác hại không nhỏ đối với
môi trường đầu tư, làm nản lòng các nhà đầu tư. Do vậy để cải thiện môi
trường pháp lý về đầu tư, ngoài việc sửa đổi và bổ sung thường xuyên các

24

quy định của pháp luật còn phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thi hành pháp
luật để hạn chế những yếu kém về nghiệp vụ và nâng cao nhận thức của họ.
Ngoài các yếu tố kể trên của môi tường đầu tư còn phải kể đến một số
yếu tố khác như văn hoá, du lịch Có tính chất bổ trợ cho môi trường đầu
tư hấp với các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy ở các quốc gia giầu truyền
thống văn hoá, thái độ hiểu biết, cởi mở của người dân và là đất nước có

nhiều danh lam thắng cảnh thì số dự án đầu tư tăng lên nhiều hơn so với
các quốc gia chỉ có ba yếu tố cơ bản kể trên. Ở Việt Nam mặc dù chúng ta
có lợi thế về văn hoá, du lịch nhưng thực tế chưa khai thác hết thế mạnh
này, ngoài ra chưa kể đến có những lúc thái độ đối với các nhà đầu tư nước
ngoài còn thiếu thiện chí, chưa đánh giá đúng về vai trò của đầu tư nước
ngoài đối với đất nước mình
Để có được môi trường hấp dẫn, thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài
cần phải tiếp tục cải thiện các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư như đã
phân tích ở trên, đồng thời phải đặc biệt chú ý cải thiện môi trường pháp lý,
môi trường kinh doanh, tiến tới áp dụng một mặt bằng pháp lý và điều kiện
kinh doanh cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trong nước.
Thêm vào đó cần chú trọng cải cách thủ tục hành chính, đào tạo đội ngũ
cán bộ và quan tâm đúng mức đến hoạt động xúc tiến đầu tư để cho mọi
người quan tâm đến đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có được ấn tướng tốt
đẹp về môi trường đầu tư ở Việt Nam.






25


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CỦA SINGAPO TẠI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN 1988-2000.
I.TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT
NAM, GIAI ĐOẠN 1988-2000:
1. Quy mô vốn và tình hình thực hiện dự án đầu tư .


Từ khi luật ĐTNN tại Việt Nam có hiệu lực cho đến năm 2000, Nhà
nước ta đã cấp giấy phép cho 3098 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký là
38979,56 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp giấy phép cho
238 dự án với mức 2998,43 triệu USD vốn đăng ký (chưa kể các dự án
của Vietsopetro) ( nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Biểu 1: Số dự án và số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy
phép qua các năm
(Chưa kể các dự án của Vietsopetro)
Đơn vị: Triệu USD
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
9000
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997

1998
1999
2000
37
68
108
151
197
269
343
370
325 Dù ¸n
345
275
278
332
Ngu
ồn:
Niên giám th
ống k
ê 1998, NXB Th
ống K
ê, Hà N
ội 2000

×