Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

LUẬN văn tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp sông đà 11 3 – côn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.2 KB, 74 trang )

LUẬN VĂN:

Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp
sông đà 11-3 – công ty cổ phần sông đà 11


Lời Mở Đầu

Trong điều kiện nước ta hiên nay, sự đổi mới cơ chế quản lý về kinh tế của Đảng và
nhà Nước ta, từ cơ chế quản lý tâp trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà Nước đã đặt các doanh nghiệp Nước ta trước những cơ hội mới và
thách thức mới. Nhà Nước tạo ra một môi trường kinh tế năng động với sự đa dạng về
các nghành nghề, các loại hình kinh doanh cũng như các đối tượng để hợp tác và sự cởi
mở của cơ chế hành chính, luật pháp đã giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vực
kinh doanh, hình thưc công tác tổ chức sản xuất…một cách tối ưu nhất, hiệu quả nhất.
Mặt khác các doanh nghiệp cũng phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị
trường, do vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được, thì doanh nghiệp phải đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng như: sản phẩm sản xuất ra phải
nhiều về số lượng, nâng cao về chất lượng và đa dạng về loại hình sản phẩm, tất nhiên đi
cùng với nó là giá thành phải thấp hơn với các mặt hàng mà doanh nghiệp khác cũng sản
xuất ra.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được,
thì phải quan tâm chú trọng đến chất lượng sản phẩm, đây là một chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất
kinh doanh. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp về
chất lượng cũng như giá thành càng trở nên mạnh mẽ hơn. Vì vậy để cạnh tranh được các
doanh nghiệp phải giảm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành sản phẩm thì mới có thể tồn
tại và phát triển đứng vững trên thị trường được. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là
làm thế nào để xác định được mức chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để xác định kết quả
sản xuất kinh doanh, điêù đó chỉ có thể làm đươc ở công tác tổ chức tập hợp chi phi phí


sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đó là vấn đề rất quan trọng hiên nay. Việc tập hợp
chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp có ý nghĩa rất
quan trọng trong công tác quản lý chi phí giá thành, và đây cũng là điều kiện quan trọng
để thị trường chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp.
Những năm gần đây nền kinh tế chuyển đổi nhiều, nên nhiều doanh nghiệp đã
không đứng vững, đặc biệt là các doanh nghệp Nhà Nước đã quen cơ chế bao cấp làm ăn
theo kiểu lỗ thật lãi giả.Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những doanh nghiệp nhà nước đã


tìm ra cho mình một con đường đi đúng đắn sản xuất ngày càng đi lên quy mô càng được
mở rộng, trong những Công Ty đó có Công Ty cổ phần Sông Đà11 thuộc Tổng Công Ty
Sông Đà, đây là một doanh nghiệp Nhà Nước với quy mô lớn đã đứng vững và không
ngừng phát triển, sản xuất ngày càng đi lên và hoà nhịp với sự phát triển chung của nền
kinh tế thị trường Nước ta hiện nay. Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý của Công Ty cũng như quản lý của
Nhà Nước.Vì vậy trong thời gian thực tập ở Xí nghiệp Sông Đà 11-3 thuộc Công Ty cổ
phần Sông Đà 11 em đã tìm hiểu về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm với đề tài : Tổ chức công tác Kế Toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 11-3 -Công Ty cổ phần Sông Đà 11.
Thông qua đó em đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân và hi vọng có thể đưa
ra một số ý kiến đóng góp giúp cho việc hoàn thiện công tác này của Công Ty một cách
tốt hơn.
Chuyên đề thực tập gồm những nội dung sau:
Phần 1:Những vần đề lý luận chung về Kế Toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm.
Phần 2: Tình hình thực tế về Kề Toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại Xí nghiệp Sông Đà 11-3 – Công Ty cổ phần Sông Đà 11
Phần 3: Một số ý kiến đóng góp nhầm hoàn thiện công tác Kế Toán về tổ chức
công tác Kế Toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 113- Công Ty Sông Đà 11
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề của em không tránh khỏi những

thiếu sót, rất mong các thầy cô giáo giúp đỡ chỉ bảo để chuyên đề của em được hoàn
thiện hơn.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn kế toán - Học Viện
Tài Chính đặc biệt là thầy Thái Bá Công, cùng các anh chị trong ban Tài Chính Kế Toán
Xí nghiệp Sông Đà 11-3 đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.

Sinh viên thực hiện
Hoàng Văn Luy


Chương 1:
lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp xây lắp

1.1 - đặc điểm của sản xuất xây lắp – yêu cầu của công tác kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây lắp.

1.1.1 - Đặc điểm của nghành xây lắp.
Xây dựng cơ bản là nghành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp
nhằm tạo ra cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân. Do là nghành sản xuất công nghiệp
đặc biệt so với nghành sản xuất vật chất khác nên XDCB có những đặc điểm về kinh tế
kỹ thuật riêng biệt như:
Thứ nhất. Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn kết cấu
phức tạp và mang tính chất đơn chiếc, nhưng được xây dựng theo thiết kế kỹ thuật và dự
toán riêng biệt, hơn thế nữa sản phảm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài và mang tính
chất tổng hợp về nhiều mặt như kinh tế, chính trị, kỹ thuật và cả tính nghệ thuật.
Thứ hai. Quá trình sản xuất sản phẩm là quá trình thi công xây dựng các công trình
kéo dài từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành và đưa vào sử dụng, quá trình này được
chia làm nhiều giai đoạn khác nhau.
Thứ ba. Sản phẩm xây lắp gắn liền với một địa điểm nhất định, nơi sản xuất cũng là

nơi tiêu thụ sản phẩm. Vật tư, lao động, máy thi công phải di chuyển theo địa điểm công
trình, hơn thế nữa hoạt động xây lắp thường tiến hành ngoài trời nên thường xuyên chịu
tác động về điều kiện tự nhiên, do vậy mà ảnh hưởng đến việc quản lý vật tư, máy móc
thiết bị dễ hư hỏng và ảnh hưởng đến viêc thi công và hoàn thành công việc.
Thứ tư. Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thoả thuận
với chủ đầu tư từ trước, do vậy mà tính chất của hàng hoá sản phẩm thể hiện không được
rõ ràng.
Thứ năm. Đối tượng hạch toán chi phí là các hạng mục công trình, các giai đoạn của
hạng mục công trình Vì thế cần phải lập dự toán chi phí và tính giá thành theo từng hạng
mục công trình.


Những đặc điểm trên có ảnh hưởng lớn đến công tác Kế Toán tổng hợp của các
doanh nghiệp xây lắp và tổ chức công tác Kế Toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.
1.1.2 - Yêu cầu của công tác Kế Toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản
phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
Để đảm bảo thi công đúng tiến độ, đúng thiết kế kỹ thuật, đảm bảo chất lượng công
trình…..với các chi phí hợp lý thì các doanh nghiệp xây lắp phải có phương pháp quản lý,
tổ chức thi công, quản lý chi phí sản xuât và tính giá thành sản phẩm xây lắp chăt chễ,
hợp lý và có hiệu quả nhất.
Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương pháp đấu thầu,
giao thầu xây lắp. Vì vậy muốn trúng thầu, được nhận thầu thi công một công trình thì
doanh nghiệp phải xây dựng được một mức giá thầu hợp lý dựa trên cơ sở các định mức,
đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà Nước ban hành, giá thị trường và bản thân doanh nghiệp
phải có năng lực trong xây dựng.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là
đảm bảo khả năng kinh doanh có lãi. Thực hiện được các yêu cầu trên doanh nghiệp phải
tăng cường công tác quản lý kinh tế mà trọng tâm là chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm xây lắp, đó là chỉ tiêu rất quan trọng mà các nhà quản lý kinh tế luôn quan tâm, vì

nó phản ánh chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ thông tin về chi phí
sản xuất và giá thành sản xuất xây lắp do Kế Toán cung cấp những nhà quản lý doanh
nghiệp nắm được chi phí sản xuất và giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục
công trình cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phân
tích, đánh giá thực hiện các định mức chi phí, dự toán chi phí, tình hình sử dụng tài sản
vật tư, lao động, vốn, tình hình thực hiện giá thành để nhà quả lý đưa ra những quyết định
đúng đắn cho doanh nghiệp của mình .
Yêu cầu chủ yếu đặt ra cho công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp là:
- Xác định đối tượng chi phí sản xuất, đối tượng và phương pháp tính giá thành có
tính khoa học nhất.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất đã xác định và bằng phương pháp đã chọn, cung cấp kịp thời thông tin,


số liệu tổng hợp về các khoản mục chi phí, những yếu tố chi phí quy định và xác định
đúng đắn chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
- Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính giá thành sản phẩm xây lắp
theo đúng các khoản mục quy định và kỳ tính giá đã xác định
- Định kỳ cung cấp các báo cáo về chi phí sản xuất và tính giá thành cho lãnh đạo
doanh nghiệp, tiến hành phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí, dự toán chi
phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và các kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, phát
hiện kịp thời khả năng tiềm tàng, đề xuất các biện pháp để không ngừng tiết kiệm và hạ
giá thành sản phảm của doanh nghiệp.
1.2 - những vấn đề chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
1.2.1 Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
1.2.1.1 Chi phí sản xuất
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp là quá trình biến
đổi một cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào, sản xuất tạo thành các công
trình lao vụ nhất định.

Cũng như các doanh nghiệp khác, để tiến hành các hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm
thì doanh nghiệp xây lắp cần phải có được 3 yếu tố cơ bản đó là:
- Tư liệu lao động: nhà xưởng, máy móc thiết bị và những tài sản cố định khác
- Đối tượng lao động như: nguyên vật liệu…..
- Lao động của con người
Xong sự tham gia của các yếu tố này vào quá trình sản xuất có khác nhau dẫn đến
sự hình thành những chi phí tương ứng.
- Chi phí về tư liệu lao động như chi phí về khấu hao các loại tài sản cố định
- Chi phí về các loại đối tượng lao động như chi phí về nguyên vật liệu, nhiên
liệu….
- Chi phí về lao động như: tiền công tiền lương, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí
trên đều được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí về tiền công là biểu hiện bằng tiền của
hao phí về lao động sống, còn chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về vật liệu
ngyên liệu, nhiên liệu….là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá.


Như vậy, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến
hành sản xuất thi công trong một thời kỳ nhất định.
Một Doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt động có liên quan đến sản xuất ra sản
phẩm hay lao vụ, còn có những hoạt động kinh doanh, hoạt động khác không có tính chất
sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý…..chỉ những chi phí để tiến hành
các hoạt động sản xuất, mới được coi là chi phí sản xuất.
Chi phí của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và hoạt
động của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho viêc quản lý và hạch toán kinh doanh, chi
phí sản xuất phải được tính toán, ập hợp theo từng thời kỳ, hàng tháng, hàng quý, hàng
năm sao cho phù hợp với kỳ báo cáo.
Về mặt lượng thì chi phí sản xuất phụ thuộc vào hai nhân tố:

- Khối lượng lao động, nhiên liệu sản xuất đã bỏ ra trong quá trình sản xuất trong
một thời kỳ nhất định.
- Tiền lương của một đơn vị lao động đã hao phí và giá cả tư liệu sản xuất đã tiêu
hao trong quá trình sản xuất .
1.2.1.2 Phân loai chi phí sản xuất.
Trong doanh nghiệp xây lắp chi phí bao gồm có nhiều loại, nội dung kinh tế khác
nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất thi công cũng khác
nhau, việc quản lý sản xuất, Tài chính, quản lý về chi phí sản xuất không thể chỉ dựa vào
số liệu phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất mà còn phải căn cứ vào số liệu cụ thể của từng
loại chi phí riêng biệt để phục vụ cho yêu cầu kiểm tra và phân tích toàn bộ các chi phí
sản xuất hoặc từng yếu tố chi phí ban đầu của chúng, theo từng công trình, hạng mục
công trình từng nơi phát sinh chi phí và chịu chi phí. Vì vậy phân loại chi phí sản xuất là
một yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Phân loại chi phí sản xuất có tính khoa học, thống nhất có tính chất quan trọng
trong việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp, hơn nưã giúp kiển
tra, phân ttích chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
* Phân loại chi phí sản xuất được phân loại theo các cách sau:
- Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung tính chất kinh tế của chi phí.


Căn cứ vào nội dung và tính chất kinh tế của các chi phí để sắp xếp các chi phí có
cùng tính chất, nội dung kinh tế vào một yếu tố ở đầu, dùng vào mục đích gì, tác dụng
của chúng ra làm sao. Vì thế cách phân loại này còn gọi là phân loại chi phí sản xuất theo
yếu tố, và toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ được được chia thành các yếu tố chi phí sau:
+ Chi phí nguyên liệu, vật liệu; bao gồm toàn bộ các chi phí về các loại nguyên vật
liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiêt bị xây dựng cơ bản
mà doanh nghiệp đã sử dụng cho các hoạt động sản xuất trong kỳ.
+ Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ tiền công phải trả, tiền trích bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn của công nhân và nhân viên hoạt động trong doanh
nghiệp.

+ Chi phí khấu hao TSCĐ: đây là hao phí về thiết bị lao động, là toàn bộ số tiền
trích khấu hao TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong
kỳ.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là số tiền trả về các loại dịch vụ mua ngoài, thuê
ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp như: Chi phí thuê máy, tiền điện,
tiền nước.
+ Chi phí khác bàng tiền: Là toàn bộ chi phí phát sinh trong hoạt động SXKD
ngoài bốn yếu tố chi phí kể trên.
- Phân loại chi phí theo nội dung tính chất kinh tế của chi phí có tác dụng lớn đối
với công tác quản lý và công tác kế toán thể hiển những vấn đề sau:
+ Phân loại chi phí sản xuất thêo yếu tố cho biết kết cấu tỷ trọng của từng loại chi
phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, là căn cứ để lập bảng
thuyết minh báo cáo tài chinh ( phần chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố ) phục vụ
cho yêu cầu quản trị của doanh nghiệp.
+ Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện
dự toán chi phí và lập dự toán chi phí sản xuất cho kỳ sau.
+ Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố là cơ sở để tập hợp chi phí theo yếu tố,
lập báo cáo các chi phí sản xuất theo yếu tố, cung cấp tài liệu để tham khảo, lập dự toán
chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vât tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn
lưu động cho kỳ sau.
– Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí.


Mỗi yếu tố sản xuất phát sinh trong kỳ đều có công dụng và mục đích nhất định với
hoạt động sản xuất, theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi
phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục các chi phi khác nhau, mỗi khoản mục chi
phí bao gồm những chi phí có cùng mục đích, công dụng, không phân biệt chi phí đó có
nội dung kinh tế nó như thế nào, những chi phí phát sinh trong kỳ được chia thành các
khoản mục sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính, vật

liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm, không tính vào
khoản mục này những chi phí nguyên vật liệu sử dụng vào mục đích sản xuất chung, và
những hoạt động ngoài sản xuất.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội và kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất, không trích vào
khoản mục này số tiền công và trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn
của nhân viên sản xuất chung, nhân viên quẩn lý và nhân viên bán hàng.
+ Chi phí sử dụng máy thi công: Là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng
xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động thi công xây lắp ở những doanh nghiệp
có công trình áp dụng phương pháp thi công hỗn hợp bao gồm: chi phí nhân công như
lương, tiền công, phụ cấp trả cho công nhân trực tiếp điều khiển và phục vụ xe, máy thi
công; chi phí vật liệu như vật liệu, nhiên liệu; chi phí dụng cụ; chi phí khấu hao máy thi
công và các chi phí khác.
+ Chi phí sản xuất chung: Là chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất
chung tại bộ phận sản xuất bao gồm: Các khoản trích BHXH, KPCĐ theo lương của công
nhân trực tiếp thi công và phục vụ thi công lắp máy, công nhân trực tiếp điều khiển xe,
máy thi công, các chi phí dùng vào việc quản lý phục vụ chung cho bộ phận quản lý và
bộ phận sản xuất thi công như tiền lương, phụ cấp và các khoản trích theo lương của nhân
viên quản lý đội, chi phí vật liệu ,dụng cụ chi phí khấu hao TSCĐ sử dụng phục vụ quản
lý chung ở đội, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác.
Ngoài các khoản mục chi phí sản xuất nêu trên còn có các chi phí như :
+ Chi phí nhân viên ( phân xưởng, đội, trại sản xuất ): Phản ánh các chi phí liên quan
và phải trả cho nhân viên như: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, trích bảo


hiểm….cho nhân viên quản lý, nhân viên kế toán, thống kê, thủ kho, công nhân vận
chuyển, sửa chữa phân xưởng (đội trại sản xuất).
+ Chi phí vật liệu: Phản ánh chi phí vật liệu sử dụng chung như vật liệu dùng để sửa
chữa, bảo dưỡng lại tài sản cố định, vật liệu văn phòng và những vật liệu dùng cho nhu
cầu quản lý chung ở phân xưởng tổ đội sản xuất.

+ Chi phí dụng cụ sản xuất : Phản ánh chi phí về dụng cụ công cụ dùng cho nhu cầu
sản xuất chung ở phân xưởng, tổ đội sản xuất như khuôn mẫu dụng cụ giá lắp, dụng cụ
cầm tay, ván khuôn, dụng cụ bảo hộ lao động…..
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố
định hữư hình, tài sản cố định thuê tài chính sử dụng ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất
như khấu hao máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải, nhà xưởng, cây lâu năm,
súc vật làm việc…..
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh những chi phí về lao vụ, dịch vụ mua từ bên
ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất chung ở phân xưởng, đội sản xuất như chi phí
về điện nước, khí nén, điện thoại, chi phí sửa chữa thuê ngoài….
+ Chi phí bằng tiền khác: Phản ánh những chi phí bằng tiền ngoài những chi phí
trên phục vụ cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng, tổ đội sản xuất.
Cách phân loại này có tác dụng cho việc quản lý chi phí theo định mức, là cơ sở để
kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục, là căn cứ để
phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức cho kỳ sau.
Ngoài hai cách phân loại trên còn có các cách phân loại chi phí khác như:
- Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và quy mô sản xuất, theo
cách phân loại này chi phí sản xuất được chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi.
- Phân loại chi phí thành chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
- Phân loại chi phí thời kỳ và chi phí sản phẩm……
Như vậy mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng, phục vụ cho từng đối
tượng quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể, chúng luôn bổ sung cho nhau
nhằm quản lý hiệu quả nhất về toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong doanh nghiệp
trong một thời kỳ nhất định.
1.2.2 Khái niệm và các loại giá thành trong doanh nghiệp xây dựng:
1.2.2.1 Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp :


Để lắp đặt được một công trình hay hoàn thành một lao vụ … thì Công Ty phải đầu
tư vào quá trình sản xuất, thi công một lượng chi phí nhất định. Những chi phí mà doanh

nghiệp bỏ ra trong quá trình thi công, đã tham gia cấu thành nên giá thành công tác xây
lắp và hoàn thành quá trình xây lắp đó.
Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí bao gồm chi phí vật liệu, chi
phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí trực tiếp khác ….tính cho công
trình, hạng mục công trình hay khối lượng hoàn thành cho đến giai đoạn quy ước đã hoàn
thành, nghiệm thu, bàn giao và đươc chấp nhận thanh toán. Do vậy mỗi công trình, hạng
mục công trình hay khối lượng xây lắp sau khi hoàn thành đều có một giá thành riêng.
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản
xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản vật tư lao động, tiền vốn trong quá trình
sản xuất cũng như những giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm
đạt được mục đích sản xuất, được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí tiết kiệm
và hạ giá thành. Giá thành sản phẩm còn là cơ sở để tính toán xác định hiệu quả kinh tế
các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Bản chất của giá thành sản phẩm là biểu hiện sự di chuyển của các yếu tố chi phí cho
từng sản phẩm công tác lao vụ đã hoàn thành trong kỳ, giá thành có hai chức năng chủ
yếu là: lập giá và bù đắp chi phí, toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra để sản xuất
sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ đã hoàn thành được bù đắp chi phí bằng chính giá bán
do tiêu thụ các sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ hoàn thành đó, mới đầu chỉ để tái sản
xuất giản đơn và sau đó là tái sản xuất mở rộng để thu lợi nhuận.

Giá bán sản phẩm = Giá thành tiêu thụ + Thuế + Lãi

Để xác định giá bán sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ hoàn thành phải căn cứ vào
chính giá thành của chính sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ đó, thông qua giá bán mà
xác định được mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả mà chi phí đó đã bỏ ra.
Khác với các doanh nghiệp công nghiệp, người ta có thể tính toán giá thành cho một
loại sản phẩm sản xuất ra trong kỳ và giá thành đơn vị của sản phẩm sẽ là một trong
những cơ sở quan trọng để xác định giá bán. ở doanh nghiệp xây lắp giá thành sản phẩm
xây lắp mang tính chất cá biệt cho mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng



xây lắp sau khi đã hoàn thành đều có một giá thành riêng. Mặt khác khi nhận thầu một
công trình xây lắp thì giá bán ( giá nhận thầu) đã có ngay trước khi thi công công trình,
nghĩa là giá bán có trước khi xác định được giá thành thực tế của sản phảm xây lắp đó.
Do đó giá thành thực tế của một công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành chỉ quyết
định đến lãi hay lỗ của doanh nghiệp do thi công công trình đó mà thôi.
Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, để đa dạng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh
dưới sự cho phép của Nhà Nước một số doanh nghiệp xây lắp đã linh hoạt chủ động xây
lắp một số công trình ( chủ yếu là các công trình dân dụng như nhà ở, văn phòng, cửa
hàng….) sau đó bán lại cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng với giá hợp lý, thì giá
thành sản phẩm xây lắp cũng là nhân tố quan trọng để xác định giá bán.
Giá thành là một giá trị biểu hiện bằng tiền, do đó nó là một phạm trù kinh tế khách
quan vì sự di chuyển và kết tinh của giá trị tư liệu sản xuất và lao động sống đã hao phí
vào sản xuất là cần thiết tất yếu.
Mặt khác trước đây người ta quan niệm rằng. Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí
sản xuất và ngoài sản xuất tính theo số lượng và loại sản phẩm đã hoàn thành. Như vậy
giá thành sản phẩm sẽ không phản ánh đúng đắn bản chất của nó và ít nhiều cũng mang
tính chủ quan. Bởi vì tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất thu nhập
thuần tuý của xã hội như bảo hiểm xã hội, các khoản trích nộp cho cơ quan cấp trên……
1.2.2.2. Phân biệt khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
Trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm, có thể nhận thấy chi phí sản xuất là cơ sở hình
thành lên giá thành sản phẩm, giá thành sản phẩm kỳ này là cơ sở để xác định chi phí sản
xuất cho kỳ sau, chúng có mối quan hệ với nhau hết sức chặt chẽ tuy nhiên cũng cần
phân biệt rõ ràng hai khái niệm này.
Trước hết, về mặt chất thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có sự giống nhau
như chúng đều là những chi phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp
đã chi ra trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Tuy nhiên. Hai khái niệm về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp xây lắp lại có sự khác biệt như:
- Chi phí sản xuất luôn luôn gắn liền với từng thời kỳ phát sinh chi phí, còn giá thành

sản phẩm xây lắp lại gắn với từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây
lắp hoàn thành bàn giao.


- Trong giá thành sản phẩm xây lắp bao gồm một phần chi phí thực tế đã phát sinh (
chi phí trả trước) hoặc một phần chi phí sẽ phát sinh ở các kỳ sau ( chi phí trả sau) nhưng
đã ghi nhận là chi phí của kỳ này.
- Giá thành sản phẩm xây lắp chứa đựng cả một phần chi phí của kỳ trước chuyển
sang (chi phí về sản phẩm làm dở đầu kỳ).
Hiểu một cách nhanh chóng nhất thì giá thành là chi phí đã chi ra để sản xuất và tiêu
thụ một khối lượng công việc nhất định, trong mỗi doanhh nghiệp không ngừng phấn đấu
hạ thấp giá thành sản phẩm, vì đây là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của công tác
quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp và đây cũng là yêu cầu bức thiết của mỗi doanh
nghiệp.

1.2.2.3 Các loại giá thành sản phẩm xây lắp:
- Giá thành dự toán.
Sản phẩm xây lắp của nghành xây dựng cơ bản thường có giá trị lớn, thì gian thi
công dài, mang tính đơn chiếc, kết cấu phức tạp, quy mô lớn, đồng thời việc đầu tư xây
dựng mỗi công trình đều liên quan đến nguồn vốn đầu tư. Do đó mỗi giai đoạn thiêt kế có
một dự toán tương ứng với mức độ chính xác và cụ thể khác nhau phù hợp với nội dung
của mỗi giai đoạn thiết kế. Căn cứ vào giá trị dự toán của mỗi công trình, hạng mục công
trình ta có thể xác định được giá thành dự toán của mỗi công trình hay hạng mục công
trình như sau:
Giá trị dự toán

Giá thành dự toán

của từng công


= của từng công trình

trình hạng mục

hạng mục công trình

+

Lãi định
mức

công trình

Do đó: Giá thành dự toán của từng công trình hạng mục công trình sẽ là:
Giá thành dự toán
của

từng

công

Giá trị dự toán của
=

từng

công

trình


trình hạng mục

hạng

mục

công

công trình

trình

_

Lãi định
mức


Nếu giá thành dự toán của công trình hạng mục công trình được xác định dựa trên cơ
sở các định mức, đơn giá của các cơ quan có thẩm quyền ban hành và dựa trên mặt bằng
giá của thị trường. Nó chính là giá nhận thầu của đơn vị xây lắp đối với các đơn vị chủ
đầu tư.
- Giá thành kế hoạch:
Giá thành kế hoạch sản phẩm xây lắp được dựa vào những định mức chi phí nội bộ
của doanh nghiệp xây lắp, về nguyên tắc định mức nội bộ này phải tiên tiến hơn định
mức dự toán. Nó là cơ sở để phấn đấu hạ giá thành sản phẩm xây lắp trong giai đoạn kế
hoạch, phản ánh trình độ quản lý giá thành của doanh nghiệp.
Giá thành kế hoạch được xác định theo công thức sau:
Giá thành kế hoạh


Giá thành dự toán của

của công trình hạng

=

mục công trình

Mức hạ

từng công trình hạng

+ giá thành

mục công trình

kế hoạch

- Giá thành thực tế:
Giá thành thực tế công tác xây lắp là biểu hiện bằng tiền của tất cả chi phí trực tiếp
thực tế mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra để hoàn thành một khối lượng xây lắp nhất định
và được xác định theo dõi do kế toán cung cấp.
Giá thành thực tế công tác xây lắp không chỉ bao gồm những chi phí trong định mức
mà còn có thể bao gồm những chi phí thực tế phát sinh như: thiệt hại do phá đi làm lại,
thiệt hại do ngừng sản xuất, mất mát thiếu hụt vật tư do nguyên nhân chủ quan của doanh
nghiệp.
Từ ba loại giá thành trên ta có thể dưa ra mối quan hệ giữa chúng như sau:

Giá thành dự toán




Giá thành kế hoạch



Giá thành thực tế

- Giá thành sản xuất.
Còn gọi là giá thành công xưởng của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất như:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, tính
vào những sản phẩm công việc hoặc lao vụ hoàn thành.


Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây lắp để đáp ứng yêu cầu của của công tác
quản lý về chi phí quản lý, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, trong Công Ty xây lắp
còn được theo dõi trên hai chỉ tiêu là giá thành của khối lượng hoàn chỉnh và giá thành
khối lượng hoàn thành quy ước.
+ Giá thành của khối lượng xây lắp hoàn chỉnh: là giá thành của những công trình,
hạng mục công trình đã hoàn thành đảm bảo kỹ thuật và chất lượng phải đúng thiết kế,
hợp đồng bàn giao và được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán hợp
đồng.
Chỉ tiêu này còn cho phép đánh giá một cách chính xác và toàn diện hiệu quả sản
xuất, thi công toàn vẹn cho một công trình, hạng mục công trình. Tuy nhiên cũng không
đáp ứng được kịp thời các số liệu cần thiết cho việc quản lý sản xuất và giá thành trong
suốt quá trình thi công, do đó để đáp ứng yêu cầu quản lý và đảm bảo chỉ đạo sản xuất
kịp thời, đòi hỏi phải xác định được khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước.
+ Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước: là khối lượng xây lắp hoàn
thành đến một giai đoạn nhất định và phải thoả mãn được các điều kiện sau:
 Phải nằm trong thiết kế và bảo đảm chất lượng kỹ thuật.

 Khối lượng này phải xác định được một cách cụ thể và được bên chủ đầu tư
nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
 Phải đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước phản ánh kịp thời chi phí sản xuất
cho đối tượng xây lắp trong quá trình thi công, từ đó giúp cho công ty phân tích kịp thời
các chi phí đã chi ra cho từng đối tựợng để có biện pháp quản lý thích hợp cụ thể. Tuy
nhiên chỉ tiêu này có nhược điểm là không phản ánh được toàn diện chính xác giá thành
toàn bộ công trình.
Do đó: Trong công việc quản lý giá thành đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng cả hai
loại chỉ tiêu trên để đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về quản lý giá thành đó là :kịp thời,
chính xác, toàn diện và phải có hiệu quả.
1.3 . phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
1.3.1 Phương pháp kế toán chi phí sản xuất
1.3.1.1 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất


Đối tượng kế toán chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn mà chi phí sản xuất cần phải
tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra giám sát và yêu cầu tính giá thành.
Việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết của công
tác kế toán chi phí sản xuất. Có xác định đúng đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất phù
hợp với đặc điểm quy trình sản xuất sản phẩm và đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí sản
xuất của doanh nghiệp, mới giúp cho tổ chức tốt công tác kế toán chi phí sản xuất. Từ
khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản và sổ chi tiết đều phải theo
đúng đối tượng kế toán chi phí sản xuất đã xác định.
Lựa chọn đối tượng kế toán tập hợp chi phí giữa các doanh nghiệp có thể giống nhau
và cũng có thể khác nhau, điều đó tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất cũng như đối tượng
kế toán chi phí sản xuất phải căn cứ vào một số yếu tố cơ bản sau:
- Cơ cấu tổ chức sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp : Trong doanh nghiệp có bao
nhiêu phân xưởng, tổ đội sản xuất….trên cơ sở đó có thể chọn đối tượng kế toán chi phí
sản xuất là toàn doanh nghiệp hay từng phân xưởng tổ đội.

- Địa điểm phát sinh chi phí, mục đích công dụng của chi phí: Xem chi phí đó có
dùng chung cho toàn doanh nghiệp không hay chỉ dùng cho một bộ phận tổ đội, phân
xưởng sản xuất nào, dùng cho mục đích sản xuất sản phẩm hay dùng cho quản lý doanh
nghiệp…từ đó mà lưa chọn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là toàn doanh
nghiệp hay từng phân xưởng, tổ đội sản xuất.
- Yêu cầu tính giá thành, yêu cầu quản lý, khả năng và trình độ quản lý hạch toán của
doanh nghiệp. Nếu khả năng và trình độ quản lý, hạch toán của doanh nghiệp chưa cao
thì có thể lựa chọ đối tượng kế toán tập hợp chi phí là toàn doanh nghiệp, ngược lại thì
chọn đố tượng là các phân xưởng, tổ đội, quy trình công nghệ, giai đoạn công nghệ,
nhóm sản phẩm hay từng mã sản phẩm.
Trong sản xuất xây lắp với tính chất quy trình công nghệ phức tạp, loại hình sản xuất
đơn chiếc, các đơn vị sản xuất phân chia ra làm nhiều khu vực, bộ phận thi công, đơn vị
tính giá thành có thể làm công trình hoặc hạng mục công trình hoàn thành. Do trình độ
quản lý không đồng đều giữa các Xí nghiệp nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có
thể là hạng mục công trình hay đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, khu vực thi công, bộ
phận thi công tuỳ thuộc vào trình độ của từng đơn vị xây lắp.
1.3.1.2 Kế toán tập hợp và phân bổ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.


Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính như
(gạch, đá, sắt, cát …), vật liệu kết cấu như ( trụ bê tông đan đúc sẵn…), vât liệu phụ như
(sơn,sút,silicát….), nhiên liệu như ( xăng, dầu ,mỡ..) phụ tùng và bảo hộ lao động
khác.Thông thường, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp liên quan trực tiếp đến từng đối
tựng tập hợp chi phí. Do vậy khi có chứng từ liên quan đến chi phí nguyên vật liệu đều
phải ghi đúng đối tượng chịu chi phí. Trong trường hợp nguyên vật liệu liên quan đến
nhiều đối tượng chịu chi phí, không ghi trực tiếp cho từng đối tượng được, ta phải tiến
hành lựa chọn phương thức phân bổ cho các đối tượng liên quan theo công thức sau:

C
Ci


=

* Ti

 Ti
Trong đó:
Ci Là chi phí nguyên vật liệu phân bổ cho đối tượng i

C

Là tổng chi phí nguyên vật liệu đã tập hợp còn phân bổ

 Ti Là tổng đại lượng tiêu chuẩn dùng
Ti

Là đại lượng của tiêu chuẩn phân bổ của đối tượng i
Đối với chi phí nguyên liệu vật liệu chính, nửa thành phẩm mua ngoài có thể chọn

tiêu chuẩn phân bổ là : chi phí định mức, chi phí kế hoạch, khối lượng sản phẩm sản xuất.
Để tính toán tập hợp chính xác chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán cần chú ý
kiểm tra xác định nguyên liệu, vật liệu đã lĩnh nhưng cuối kỳ chưa sử dụng hết và giá trị
của phế liệu thu hồi (nếu có) để loại ra khỏi chi phí về nguyên liệu,vật liệu trực tiếp trong
kỳ.
Chi phí thực

Trị giá NVL

tế NVL trực


= xuất đưa vào

tiếp trong kỳ

sử dụng

Trị giá
-

Trị giá

NVL còn

- phế liệu

lại cuối kỳ

thu hồi


Kế toán sử dụng TK621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” để tập hợp và phân bổ
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, TK621 không có số dư cuối kỳ.
Các nghiệp vụ kế toán chủ yếu phát sinh sau:
1. Khi xuất kho nguyên liệu, vật liệu,công cụ dụng cụ để sử dụng sản xuất trực tiếp sản
phẩm trong kỳ cho từng đối tượng, kế toán ghi :
Nợ TK 621

( Chi tiết liên quan )

Có TK 152, 153 ( Chi tiết liên quan )

2. Nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ mua về không nhập kho mà mà sử dụng ngay cho
sản xuất trực tiếp sản phẩm thì căn cứ vào hoá đơn mua hàng và chứng từ trả tiền liên
quan thì kế toán ghi :
Nợ TK 621

( chi tiết liên quan )

Có TK 111, 112
Có TK 331

( chi tiêt liên quan )

3. Cuối tháng số nguyên vật liệu chưa dùng hết vào sản xuất kinh doanh và giá trị phế
liệu thu hồi được (nếu có ) nhập kho, kế toán ghi :
Nợ TK 152,153

( chi tiết liên quan )

Có TK 621

( chi tiết liên quan )

4. Cuối tháng tính toán kết chuyển nguyên vật liệu trực tiếp thực tế vào TK154 kế toán
ghi :
Nợ TK 154
Có TK 621

1.3.1.3

( chi tiết liên quan )

( chi tiết liên quan )

Kế toán tập hợp và phân bổ nhân công trực tiếp.

Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả, phải thanh toán cho công
nhân viên trực tiếp sản xuất thi công công trình, bao gồm tiền lương chính, lương phụ,
các khoản tiền phụ cấp, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
Chi phí nhân công trực tiếp thường được tính trực tiếp vào từng đối tượng chịu chi
phí có liên quan. Nếu chi phí nhân công trực tiếp sản xuất thi công nhưng có liên quan
đến nhiều đối tượng mà không hạch toán trực tiếp được tiền lương phụ, các khoản phụ
cấp hoặc tiền lương chính trả theo thời gian mà người lao động thực hiện nhiều công tác
khác nhau trong ngày… kế toán có thể chọn tiêu chuẩn thích hợp tính toán phân bổ cho
các đối tượng chịu chi phí có liên quan.


Để phân bổ chi phí nhân công trực tiếp có thể dựa vào chi phí tiền công định mức,
chi phí tiền công kế hoạch, giờ công định mức hay thực tế, khối lượng xây lắp hoàn
thành…tuỳ theo từng điều kiện cụ thể như các khoản trích BHXH, bảo hiểm y tế, kinh
phí công đoàn, mà kế toán căn cứ tỷ lệ quy định để tính số tiền công đã tập hợp hoặc
phân bổ cho từng đối tượng.
Kế toán sử dụng TK622 để tập hợp và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp, tài khoản
này không có số dư cuối kỳ.
Các nghiệp vụ kế toán chủ yếu phát sinh :
1. Toàn bộ tiền công và các khoản khác phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản
phẩm, khi có chi phí phát sinh thì kế toán ghi :
Nợ TK 622

( chi tiết liên quan )

Có TK 335

2. Cuối kỳ tính toán trực tiếp hoặc phân bổ chi phí nhân công trực tiếp để kết chuyển cho
các đối tượng chịu chi phí, kế toán ghi :
Nợ TK 154
Có Tk 622

( chi tiết liên quan )
( chi tiết liên quan )


1.3.1.4 Kế toán tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung
Kế toán sử dụng TK 627 “Chi phí sản xuất chung” là những chi phí phục vụ sản
xuất kinh doanh phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp hoặc thực hiện các
loại lao vụ, dịch vụ ở các tổ đội sản xuất, các bộ phận khác….gồm các khoản chi phí về
vật liệu, công cụ dụng cụ, tiền lương nhân công…dùng cho việc quản lý phục vụ sản xuất
sản phẩm xây lăp ở các tổ đội sản xuất.
Các nghiệp vụ kế toán chủ yếu khi phát sinh những chi phí, kế toán ghi :
Nợ TK 627
Có TK liên quan (152, 153 ,142, 214 ,334 ,338…)
 Lưu ý : Khi xuất công cụ dụng cụ dùng cho công tác quản lý sản xuất xây lắp mà
có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài thì kế toán ghi vào TK142, 242 và phân bổ dần.
Nợ TK142, 242
Có TK 153
Sau khi phân bổ công cụ dụng cụ có giá trị lớn thì kế toán ghi :
Nợ TK 627
Có TK 142 , 242
Cuối tháng toàn bộ chi phí sản xuất chung đã tập hợp được kết chuyển vào TK154 , kế
toán ghi :
Nợ TK 154

( chi tiết liên quan )


Có TK 627

( chi tiết liên quan )

Sơ đồ kế toán tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung

TK 334

TK 627

TK 154


(1)

TK 338
(2)

TK 152
(3)

TK 153

(8)
(4)

TK 142 ,242
(4)


TK 214
(5)

TK 331
(6)

TK111,112,141
(7 )

1. Căn cứ vào số liệu bảng thanh toán tiền lương phải trả cho nhân viên phân
xưởng hoặc tổ đội.
2. Căn cứ vào tỷ lệ trích kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế quy
định tiền công phải trả cho nhân viên phân xưởng hoặc tổ đội sản xuất trong kỳ.


3. Căn cứ phiếu xuất vật liệu sử dụng cho sản xuất chung để tính số tiền chi phí về
vật liệu theo phương pháp tính đã quy định .
4. Căn cứ phiếu xuất công cụ dụng cụ cho sản xuất chung để tính số tiền chi phí về
công cụ dụng cụ theo phương pháp tính đã quy định. Đối với công cụ dụng cụ phân bổ
nhiều lần, căn cứ vào số tiền tính toán phân bổ công cụ dụng cụ theo kế hoạch trong kỳ
cho chi phí sản xuất chung.
5. Căn cứ vào số liệu tính toán khấu hao tài sản cố định sử dụng ở phân xưởng
hoặc tổ đội sản xuất trong bảng tính khấu hao TSCĐ.
6. Căn cứ vào các loại hoá đơn của người bán về các khoản dịch vụ sử dụng cho
sản xuất chung như tiền điện, tiền nước, khí nén…..
7. Căn cứ chứng từ khác về chi phí sản xuất chung như phiếu chi tiền mặt, giấy báo
nợ ngân hàng…..
8. Cuối tháng kết chuyển
1.3.1.5 Kế toán tập hợp chi phí toàn doanh nghiệp
Chi phí sản xuất sau khi tập hợp riêng từng khoản mục như : Chi phí nguyên liệu, vật

liệu trực tiếp ,chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung, cần được kết chuyển
để tập hợp chi phí sản xuất của từng doanh nghiệp và chi tiết cho từng đối tượng kế toán
tập hợp chi phí sản xuất.
Để tập hợp chi phí sản xuất của toàn doanh nghiệp kế toán có thể lựa chọn những
phương pháp khác nhau, thường kế toán lựa chọn phương pháp kê khai thường xuyên để
tập hợp chi phí sản xuất.
Do vậy, những doanh nghiệp sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên là những
doanh nghiệp tiến hành những hoạt động sản xuất kinh doanh có quy mô lớn, vừa và nhỏ.
Đối với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp hàng tồn kho theo kê khai thường
xuyên thì sử dụng TK154 ( Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang ) để tập hợp chi phí sản
xuất cho toàn doanh nghiệp.
TK 154 Có nội dung và kết cấu như sau:
Bên nợ: Kết chuyển các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi
phí sản xuất chung.
Bên có: - Các khoản giảm giá thành


- Giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp
hoàn thành trong kỳ.
Số dư bên nợ: Phản ánh chi phí của khối kượng xây lắp dở dang cuối kỳ
Tại Xí nghiệp Sông Đà11-3 thì TK154 có thể mở cho từng đội sản xuất, công trình
,hạng mục công trình hay từng đơn đặt hàng.
Các nghiệp vụ kế toán chủ yếu sau:
1. Cuối tháng căn cứ số liệu chi phí nguyên vật liệu trực tiếp đã tập hợp được bên nợ
TK621 trừ đi số tiền trị giá nguyên liệu, vật liệu còn lại chưa sử dụng hết nộp trả lại kho
và giá trị của phế liệu thu hồi ( nếu có ). Còn lại là chi phí nguyên vật liệu thực tế trong
kỳ phải kết chuyển để tính cho đối tượng chịu chi phí, kế toán ghi :
Nợ TK 154

( chi tiết liên quan )


Có TK 621
2. Cuối tháng căn cứ số chi phí nhân công trực tiếp đã tập hợp bên nợ TK622 kết chuyển
và phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí, kế toán ghi :
Nợ TK 154
Có TK 622
3. Cuối tháng căn cứ vào số chi phí sản xuất chung để tập hợp bên nợ TK 627 kết chuyển
phân và bổ cho các đối tượng chịu chi phí, kế toán ghi:
Nợ TK154
Có TK 627
4. Căn cứ vào giá thành sản xuất thực tế của sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ
nhập kho hoặc gửi bán trực tiếp không qua kho do bộ phận kế toán giá thành đã tính để
ghi ;
Nợ TK 155 - Số đã nhập kho hoàn chỉnh
Nợ TK 632 - Giá bán trực tiếp không qua kho thành phẩm
Nợ TK 157 - Số đã gửi chưa được tiêu thụ
Có TK 154
5 . Trường hợp có phát sinh các khoản bồi thường và thu hồi phế liệu do sản phẩm hỏng
không sửa chữa được, căn cứ chứng từ liên quan kế toán ghi :
Nợ TK152- trị giá phế liệu thu hồi
Nợ TK138-phải thu khác số tiền bồi thường


Có TK154


sơ đồ kế toán sản xuất toàn doanh nghiệp

TK 621


TK 154

TK 152
(5)

(1)
TK 138
(5)

TK 622
TK 155
(2 )

(4)

TK 632
(4)

TK 627
TK 157
(3)

(4)

1.3.2 Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ trong doanh nghiệp xây lắp.
Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc còn đang trong quá trình sản
xuất, chế biến đang còn nằm trong dây chuyền công nghệ, hoặc đã hoàn thành một vài
quy trình chế biến nhưng vẫn còn phải gia công chế biến tiếp mới trở thành sản phẩm
được.
Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán, xác định phần chi phí sản xuất mà sản phẩm

dở dang cuối kỳ phải chịu. Việc đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ hợp lý là một nhân tố
quyết định đến tính trung thực, hợp lý của giá thành sản phảm xây lắp trong kỳ. Để đánh
gía sản phẩm dở dang hợp lý, trước hết phải tổ chức kiểm kê chính xác đối tượng xây lắp


×