Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

LUẬN văn phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh bo kẹo cộng hoà dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 104 trang )

LUẬN VĂN:

Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Bo
Kẹo Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, các hoạt động kinh tế diễn ra với quy
mô ngày càng lớn, phạm vi các quan hệ kinh tế rộng, tính chất phức tạp và trình độ phát
triển ngày càng cao. Ngày nay, trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội
(KT-XH) phổ biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hoà bình và hợp tác
giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế
hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội.
Trong thời gian qua, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào) đã và
đang thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN), bước đầu đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, ngành du lịch CHDCND Lào
mới bắt đầu hội nhập và hợp tác, đang trong quá trình tìm hiểu cơ chế và luật lệ quốc tế,
nên khả năng chủ động đưa ra các dự án hợp tác còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, những
yếu tố như dịch vụ chưa đa dạng, cơ sở hạ tầng chưa theo kịp tốc độ phát triển, chất lượng
dịch vụ thấp, giá cả cao, sản phẩm chưa phong phú… là những thách thức lớn đối với
ngành du lịch nói chung và đối với các doanh nghiệp du lịch nói riêng. Thực tế này dẫn tới
năng lực cạnh tranh của ngành và các sản phẩm du lịch thấp. Trong những năm tới, xu
hướng cạnh tranh ngành sản phẩm du lịch sẽ ngày càng gay gắt, đã và đang đặt ra những
thách thức ngày càng lớn đối với du lịch của CHDCND Lào nói chung, du lịch Bo Kẹo nói
riêng.
Hiện tại nguồn khách quốc tế do các công ty lữ hành quốc tế lớn chi phối bởi họ có
năng lực cạnh tranh mạnh, có khả năng khai thác thị trường trên toàn cầu. Những công ty
này sẽ tạo ra sức ép rất lớn đối với các công ty lữ hành trong nước, do đó nếu không có


những biện pháp kịp thời, ngành du lịch của CHDCND Lào nói chung và du lịch tỉnh Bo
Kẹo nói riêng sẽ mất đi những cơ hội phát triển.
Tỉnh Bo Kẹo có vị trí nằm trong khu vực "Tam giác vàng", là một tỉnh có địa hình cả
đồng bằng và miền núi, có vị trí thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, thương mại và du lịch,


trên cơ sở liên kết giữa các tỉnh miền núi phía Tây Bắc Lào với Trung Quốc, Thái Lan và
Myanma. Tỉnh Bo Kẹo không chỉ là một trung tâm buôn bán, mà còn là tỉnh có nhiều tiềm
năng để khai thác và phát triển du lịch biên giới như: Có nhiều điều kiện thiên nhiên rất phong
phú, nhiều danh lam thắng cảnh, có truyền thống văn hoá các dân tộc, do vậy, nếu khai thác
tốt các lợi thế đó, đáp ứng được nhu cầu du khách trong nước và phát triển du lịch quốc tế thì
du lịch sẽ trở thành một ngành kinh tế chủ yếu.
Như vậy, phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo không chỉ xuất phát từ thực tiễn, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội trên địa bàn mà còn là yêu cầu mang tính chiến lược
lâu dài nhằm phát triển ngành du lịch ở CHDCND Lào trong giai đoạn tiếp theo. Với lý do
đó, tôi chọn đề tài “Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào” làm luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước CHDCND Lào đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch kể cả đề tài
quốc gia như: Chương trình du lịch Cánh Đồng Chum, tỉnh Xiêng Khoảng, du lịch Vắt
Phu, tỉnh Chăm Pa Sắc (Chùa trên đồi), du lịch Năm Tốc Tạt, Khon Pha Phêng (Thac
Khon). Công trình nghiên cứu tiêu biểu của tác giả Lào là Hụm Phăn Khưa Pa Sít (2008),
Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Luang Pha Bang trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
thạc sĩ kinh tế, HVCTHCQG HCM. Luận văn đã nêu tình hình phát triển du lịch trong thời
gian qua và chiến lược phát triển trong tương lai.
Các công trình nghiên cứu của tác giả Việt Nam khá đồ sộ, trong đó phải kể đến
một số công trình tiêu biểu sau: Luận án của Nguyễn Đức Lợi: Những điều kiện và giải
pháp chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn, luận án tiến sỹ,
Hà Nội 1996. Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn đưa du lịch thành ngành kinh
tế mũi nhọn, tiềm năng và thực trạng ngành du lịch Việt Nam, tác giả luận án đã nêu định

hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam thành ngành
kinh tế mũi nhọn.
Bùi Thuý Hạnh với luận án Đánh giá và khai thác điều kiện tự nhiên và tài nguyên
Ba Vì phục vụ mục đích du lịch, luận án tiến sỹ, Hà Nội 1996. Nội dung luận án này tập
trung khai thác các điều kiện tự nhiên sẵn có ở khu vực Ba Vì (Hà Tây cũ) để phát triển du


lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái và du lịch khám phá.
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hạnh: Những đặc điểm tài nguyên du lịch Thủ
đô Hà Nội phục vụ khai thác hoạt động kinh doanh du lịch, Hà Nội 1997. Luận án đã làm
rõ những vấn đề lý luận chung về tài nguyên du lịch, đánh giá thực trạng những đặc điểm
tài nguyên du lịch của Thủ đô Hà Nội và khai thác tài nguyên du lịch phục vụ kinh doanh
du lịch, đế xuất các giải pháp để khai thác tài nguyên du lịch phục vụ kinh doanh du lịch
một cách có hiệu quả.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lài (2008) Khai thác tiềm năng du lịch để
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Bình, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội lại tập trung nghiên cứu, đề xuất giải pháp nhằm khai thác tiềm
năng, điều kiện tự nhiên, văn hoá, lịch sử... ở tỉnh Quảng Bình mà theo tác giả, đến nay
chưa khai thác hết. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh Cường (2008) với tiêu đề
Du lịch Nghệ An trong hội nhập kinh tế quốc tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội lại nhìn nhận sự phát triển du lịch địa phương trong bối cảnh tăng
cường giao lưu và hợp tác kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo đó, nhu
cầu du lịch ngày càng tăng và chính quyền địa phương cần thực hiện nhiều giải pháp nhằm
khai thác có hiệu quả xu thế này. Luận văn thạc sĩ của Thái Viết Tường (2006): Du lịch
văn hoá ở tỉnh Quảng Nam, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội lại tập trung khai thác mảng văn hoá – thế mạnh của tỉnh Quảng Bình với các di tích
Mỹ Sơn, Hội An, Phong Nha – Kẻ Bàng và bề dày truyền thống văn hoá của mỗi địa
phương trên địa bàn tỉnh. Luận văn thạc sĩ của Trần Mạnh Chí (2007) với chủ đề Giải
pháp phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Hà Nội, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội tập trung nghiên cứu, định hướng và tìm kiếm
giải pháp nhằm phát triển ngành này theo hướng mở rộng các sản phẩm du lịch, tăng đầu

tư kết cấu hạ tầng du lịch... từng bước mở rộng quy mô, lĩnh vực và đóng góp của du lịch
vào sự phát triển chung của Thủ đô. Luận văn tốt nghiệp hệ Cao cấp lý luận của tác giả Lê
Mai Khanh (2005) với đề tài Phát triển du lịch Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội lại có góc nhìn khá tổng quan về toàn ngành du lịch Việt Nam, nghiên cứu


kinh nghiệm quốc tế, khái quát những thành tựu, hạn chế của du lịch Việt Nam thời gian
qua, đánh giá khái quát tiềm năng và triển vọng trong thời gian tới, từ đó đề xuất hệ thống
các giải pháp phù hợp. Luận văn của Nguyễn Quốc Tuấn (2008), Quản lý nhà nước đối với
hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã khái quát tình hình
hoạt động du lịch tỉnh Kiên Giang giai đoạn hiện nay, phương hướng và giải pháp hoàn
thiện quản lý nhà nước trong hoạt động du lịch trong thời gian tới. Tác giả Trần Ngọc Tư
(2000), Phát triển du lịch ở tỉnh Vĩnh Phúc Tiềm năng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ khoa
học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn này đã đề cập đến phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005), Kinh tế du lịch ở
tỉnh Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp phát triển, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh....
Riêng về du lịch tỉnh Bo Kẹo, hiện đã có một số bài viết đề cập đến phát triển du
lịch, nhưng chưa phân tích toàn diện và làm rõ tiềm năng cũng như mặt tồn tại của chúng
trong giai đoạn hiện nay. Hiện tại, phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo chưa có công
trình nghiên cứu nào dưới dạng luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đề cập đến dưới góc độ
quản lý kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch;
thông qua việc nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển du lịch trong thời gian qua tại
tỉnh Bo Kẹo, rút ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân, qua đó, đề xuất
phương hướng và hệ thống giải pháp phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung

giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích về mặt lý luận khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của du lịch và phát
triển du lịch trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội ở Lào nói
chung và ở cấp tỉnh nói riêng.
- Rút ra những bài học đối với tỉnh Bo Kẹo qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển du
lịch của một số tỉnh của Việt Nam và một số tỉnh của Lào.


- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển du lịch ở tỉnh Bo Kẹo trong thời gian qua.
Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo đến
năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn xác định phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh
Bo Kẹo. Phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo, đặt mối quan hệ với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh và phát triển trên phạm vi vùng, quốc gia.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài giới hạn không gian nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo.
Về thời gian: Nghiên cứu phát triển du lịch chủ yếu từ năm 2002 - 2008 và phương
hướng, giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Cụ thể, đề tài cũng sử dụng các phương pháp như: Phân tích- tổng hợp, thống kê,
so sánh....
Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học đã được công bố.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Khẳng định phát triển du lịch là tất yếu khách quan, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Bo Kẹo.
- Chỉ rõ những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của phát triển du lịch tỉnh

Bo Kẹo thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch tỉnh Bo Kẹo trong thời gian tới.
- Làm tài liệu tham khảo, là cơ sở góp phần xây dựng các quy hoạch phát triển du lịch,
các chủ trương biện pháp phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3


chương, 9 tiết.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Một số khái niệm
- Khái niệm về du lịch
Thuật ngữ "Du lịch" trong tiếp Pháp là "Le Tour" – được hiểu là đi một vòng và
quay về điểm xuất phát ban đầu. Theo nghĩa đen, thuật ngữ này chưa bao hàm được tính
đa dạng, phong phú của các hình thức du lịch cũng như chưa phản ánh đầy đủ các biểu
hiện khác nhau của hoạt động du lịch. Theo tiếng Hy lạp, thuật ngữ này là "tornos" – cũng
có nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ "du lịch" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán
với sự ghép nối giữa "du – đi chơi, tham quan" và "lịch – ngắm nhìn, xem xét". Hai tác giả
người Thuỵ Sỹ là Hunziker và Krapf đã xây dựng nền móng cho lý thuyết về du lịch với
định nghĩa: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các
cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương - những người không có
mục đích định cư và không liên quan đến bất cứ hoạt động kiếm tiền nào. Định nghĩa này
đã khái quát một cách chung nhất hoạt động du lịch, cụ thể là hoạt động đi du lịch của các
chủ thể tham gia. Mặc dù chưa bao quát hết những đặc trưng và các loại hình du lịch

nhưng định nghĩa này đặt cơ sở quan trọng cho các nghiên cứu cơ bản tiếp theo.
Theo Liên Hiệp quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of official
Travel oragnization: IUOTO). Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa
điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, một nghề hay một
việc kiếm tiền sinh sống [6, tr.1].
Tại Hội nghị Liên Hiệp quốc về du lịch họp tại Roma - Italia (21/8 - 5/9/1963) các
chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện
tượng và các hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ các hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập
thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi
họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ [6, tr.1].


Quốc hội CHDCND Lào số 10/¦², ngày 9/11/2005, điều 2 nêu: Du lịch là du hành từ
nơi sinh sống của mình đi đến nơi khác hay nước khác để thăm viếng, tham quan, nghỉ ngơi,
vui chơi, sự trao đổi văn hoá, thể thao, y tế, nghiên cứu giáo dục [31, tr.1].
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Hội đồng
Lữ hành và du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council - WTTC) đã công bố: Du
lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử
và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất
trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia khác, du lịch là một trong ba ngành kinh tế hàng
đầu. Du lịch đã nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên
thế giới. Du lịch này là một đề tài hấp dẫn và đã trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu.
Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của
cuộc sống [6, tr.5].
Du lịch có hai nghĩa: Thứ nhất: du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con
người ở một nơi khác, tức là cách xa nơi ở thường xuyên để nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thoả mãn
các nhu cầu về văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, trao đổi công việc. Thứ hai: du lịch được hiểu là tập
hợp các hoạt động kinh doanh nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, thực hiện tốt mọi nhu cầu của khách du lịch.
Nói cách khác, du lịch là tập hợp các hoạt động giữa cung du lịch và cầu du lịch tạo nên ngành du
lịch.

Như vậy, du lịch được nhìn nhận từ rất nhiều góc nhìn khác nhau và do đó, có nhiều
định nghĩa, khái niệm, quan niệm khác nhau và rất khó có thể đưa ra một định nghĩa bao
quát. Trong phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế, tác giả
cho rằng Du lịch là một hoạt động tương tác giữa con người với tự nhiên ngoài môi trường
sinh sống định cư, nhằm mục đích tham quan, tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm. Có thể
định nghĩa một cách ngắn gọn: Du lịch là hình thức nghỉ ngơi năng động ngoài môi trường
định cư.
- Khái niệm hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức cá nhân kinh doanh du
lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. Trong đó, chủ
thể quan trọng của hoạt động du lịch là khách du lịch. Đó là người đi du lịch hoặc kết hợp


đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
Hoạt động du lịch là một tồn tại khách quan của con người nằm trong nội tại của sự phát
triển xã hội loài người. Hoạt động thông qua du lịch, nhu cầu giao lưu và hưởng thụ vật
chất, tinh thần của con người phát triển cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, vùng, địa phương. Do vậy, hoạt động du lịch luôn được đặt ra và phát triển theo nhu
cầu của con người [4, tr.5].
Có thể nói, bản chất du lịch và hoạt động du lịch là du ngoạn của con người để được
hưởng thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang tính văn hoá cao, đặc sắc, độc đáo,
khác lạ với quê hương đất nước họ, bao gồm hệ thống di tích lịch sử - văn hoá - phong tục
tập quán, cảnh quan thiên nhiên, văn hoá - nghệ thuật, món ăn - thức uống dân tộc, cơ sở
nghỉ dưỡng - chữa bệnh, cơ sở thể thao giải trí...Trong đó quan trọng nhất là di tích lịch sử
- văn hoá, danh lam thắng cảnh thiên nhiên và bản sắc văn hoá dân tộc.
- Khái niệm kinh doanh du lịch
Kinh doanh du lịch là quá trình tổ chức sản xuất, lưu thông - mua, bán hàng hoá du lịch
trên thị trường nhằm đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội.
“Kinh doanh du lịch và các đơn vị kinh tế có chức năng sản xuất hàng hoá, dịch vụ một
cách hợp pháp theo nhu cầu thị trường nhằm đạt được lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội

tối đa” [7, tr.277].
Nói chung kinh doanh du lịch có khả năng thu lợi nhuận cao và thu hồi vốn đầu
tư nhanh hơn so với các lĩnh vực kinh tế khác. Đó là một ưu thế của ngành kinh doanh
du lịch mà nếu được chính quyền của quốc gia đó quan tâm đầu tư khai thác tốt sẽ góp
phần tăng nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Hiện nay ở nhiều quốc gia có sự
phát triển về công nghiệp, thu nhập từ kinh doanh du lịch thường chiếm 20% hoặc cao
hơn trong tổng sản phẩm quốc nội GDP. Hoạt động kinh doanh du lịch còn tác động
mạnh đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội như: Giao thông vận tải, hàng không, bưu
chính viễn thông, các nghề thủ công, mở rộng thị trường, giải quyết việc làm cho nhân
dân tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển tốt lên.
Kinh doanh du lịch theo điều 63 Luật Du lịch CHDCND Lào gồm các hoạt động
sau:


- Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch.
- Kinh doanh lữ hành nội địa và quốc tế.
- Kinh doanh dịch vụ ăn uống.
- Kinh doanh các dịch vụ bổ sung.
- Kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
Hoạt động kinh doanh du lịch tác động mạnh mẽ đến cán cân thu chi của vùng du
lịch, của một đất nước. Đối với du lịch quốc tế, việc mang ngoại tệ đến đổi và chi tiêu ở
khu vực du lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng và của đất nước.
- Kinh tế du lịch
Kinh tế du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung sâu sắc,
có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách quốc tế. Góp phần nâng cao dân trí,
tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội [2, tr.10].
Dựa vào khái niệm trên có thể hiểu du lịch là ngành kinh tế có tính tổng hợp, lấy
khách du lịch làm đối tượng, cung cấp sản phẩm, du lịch cần thiết cho khách du lịch, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch của họ.

Kinh tế du lịch ở một số nước phát triển mạnh, đây không phải là một sự ngẫu nhiên,
mà do Chính phủ một số nước đã quan tâm phát triển du lịch theo hướng phát ngành kinh tế
mũi nhọn. Do đó, ngành du lịch phát triển rất năng động trong việc kế hoạch hoá đầu tư thành
ngành du lịch quốc gia liên kết chặt chẽ với ngành thương mại du lịch của các nước trên thế
giới.
1.1.2. Đặc điểm của du lịch
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự tiến bộ về văn minh, vật chất, văn minh tinh
thần của loài người, du lịch nghỉ phép, nghỉ ngơi mang tính vui chơi, giải trí dần dần trở
thành thói quen của du lịch hiện nay. Đồng thời các hình thức du lịch với mục đích khác đó
là hoạt động du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu đặc biệt của mọi người như du lịch văn hoá, du
lịch thăm viếng di tích, du lịch điều dưỡng, du lịch thám hiểm, du lịch khảo sát… ngày càng
đa dạng, nội dung của hoạt động phát triển du lịch ngày càng phong phú. [21, tr.46].
- Du lịch vừa là kinh tế, văn hoá tinh thần


Có thể nói, cho đến nay du lịch là ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao cho mỗi quốc
gia (ngành công nghiệp không khói), quốc gia nào biết cách phát triển và khai thác tốt thì nó
đem lại giá trị rất lớn cho nền kinh tế quốc dân của quốc gia đó. Sản phẩm du lịch gắn liền với
thiên nhiên, khí hậu, phong tục tập quán vùng miền riêng biệt, bởi vậy ta phải biết khai thác
những điểm mạnh của từng vùng, miền, có như vậy mới thu hút được khách tham quan, đem
lại hiệu quả kinh tế cho vùng, địa phương đó. Điều kiện tự nhiên ở tỉnh Bo Kẹo có rất nhiều
điểm du lịch khác với Việt Nam và cũng có thế mạnh riêng: là một tỉnh có nhiều bộ tộc anh
em chung sống, mang đậm bản sắc dân tộc, mỗi bộ tộc có một phong tục tập quán, có nét văn
hoá riêng. Khách du lịch phương Tây rất thích tìm hiểu nền văn hoá các dân tộc sinh sống ở
đây.
Khác với các ngành kinh doanh có hàng hoá là những vật phẩm cụ thể, người tiêu
dùng muốn mua chỉ cần trực tiếp đến lựa chọn tại các cửa hàng bán buôn hoặc bán lẻ, sau
khi ưng ý có thể giao nhận bên mua và bên bán còn việc giao nhận của ngành du lịch là hết
sức đặc biệt. Hàng hoá của ngành du lịch (lữ hành) là các chương trình du lịch, người mua
là khách phải di chuyển theo chương trình đã mua và thông qua chuyến hành trình du lịch

trên thực tế thì mới hoàn thành việc “giao nhận”. Hoàn thành trách nhiệm của người bán
và người mua. Đặc biệt tính đặc thù của hàng hoá đó là chất lượng công việc của người
hướng dẫn, nó phụ thuộc vào trình độ, năng lực, hành nghề của hướng dẫn viên.
Du lịch đem lại văn hoá, tinh thần cho khách hàng (du khách). Thông qua việc giới
thiệu nét văn hoá đặc trưng khác biệt của đất nước, địa phương cho khách tham quan làm
cho họ hiểu phần nào về giá trị văn hoá tinh thần, bản sắc riêng của dân tộc. Từ đó, đem lại
món ăn tinh thần cho du khách, mà sản phẩm du lịch là món ăn cho du khách thưởng thức.
Trước đây, một số người cho rằng văn hoá là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế. Bởi vì,
họ quan niệm rằng, văn hoá là lĩnh vực không sinh lợi. Sự phát triển, tăng trưởng của hàng
loạt các nước trên thế giới đã khiến mọi người phải nhận thức lại vai trò của văn hoá. Năm
1988, Tổ chức Giáo dục văn hoá Liên hiệp quốc (UNESCO) đã tuyên bố để mở đầu thập
kỷ thế giới phát triển văn hoá nhấn mạnh: “Kinh nghiệm của hai thập kỷ vừa qua cho thấy
trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ phát triển kinh tế nào, xu hướng chính trị và
kinh tế nào, văn hoá và phát triển là hai mặt gắn liền nhau”.


“Nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế, mà tách rời môi trường văn
hoá thì sẽ xẩy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá và khả năng sáng tạo
của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều”[15].
Xuất phát từ bài học kinh nghiệm của dân tộc, tiếp nhận thành tựu trí tuệ của thời
đại, Đảng và Nhà nước Lào đã có nhận thức mới về vai trò của văn hoá trong phát triển.
“Kinh tế và văn hoá gắn liền với nhau hết sức chặt chẽ, kinh tế không tự mình phát triển
nếu thiếu nền tảng của văn hoá, văn hoá không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát
triển trên cơ sở hài hoà kinh tế và văn hoá là sự phát triển năng động có hiệu quả và vững
chắc nhất”[15].
Ngày 09 tháng 12 năm 1986, Liên hệp quốc (LHQ) thông qua nghị quyết tuyên bố
thập kỷ 1988 – 1997 là: "Thập kỷ thế giới vì sự phát triển văn hoá”. Kêu gọi các quốc gia,
các cộng đồng dân tộc trên toàn thế giới thừa nhận vị trí quan trọng của văn hoá trong phát
triển. Điều đó càng chứng minh rằng, văn hoá là món ăn tinh thần, là tất yếu không thể
thiếu để phát triển du lịch. Có như vậy, văn hoá thực sự là món ăn tinh thần trong mỗi du

khách.
- Du lịch gắn với điều kiện thiên nhiên, khí hậu, phong tục tập quán.
Điều kiện tự nhiên, khí hậu do thiên nhiên ban tặng cho mỗi vùng, lãnh thổ du lịch,
một thiên nhiên thân thiện ít bị tàn phá của con người, sẽ có nhiều cơ hội để phát triển du
lịch. Một vùng du lịch được thiên nhiên ban tặng có một khí hậu mát mẻ, bốn mùa trong
xanh, một bầu không khí trong lành, hoang sơ, sông nước hiền hoà, không bị ô nhiễm sẽ
mang lại sự yêu mến của khách du lịch, khách đến một lần và lại muốn có một ngày được
quay lại với môi trường thân thiện. Du khách muốn tìm hiểu phong tục tập quán riêng của
vùng miền mà họ đến: phong tục tập quán của các bộ tộc như văn hoá cồng chiêng, múa
sạp, ném còn… Ngày nay, phần lớn khách phương Tây cũng như các nước châu Âu rất
thích du lịch thiên nhiên, họ muốn khám phá và tìm hiểu cái hoang sơ, sơ khai do thiên
nhiên ban tặng.
Du lịch gắn liền với phong tục tập quán, là những thói quen được đưa vào nếp sống
hàng ngày. Mọi dân tộc đều có những thói quen cá biệt lúc ban đầu, về sau do sự tiếp xúc
với nhau nên có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Phong tục tập quán có hai loại: Mỹ tục là những


tập tục tốt, như thờ phụng tổ tiên và hủ tục là những tập tục xấu như mê tín dị đoan, tin vào
bùa phép. Thế giới văn minh mỗi ngày thay đổi, và nếp sống cũng vậy, nhân loại ngày nay
đều cố gắng phát huy mỹ tục và đẩy lùi hủ tục vào bóng tối lãng quên [23].
Từ những khái niệm trên có thể thấy rằng, lịch sử, truyền thống, phong tục tập quán
và văn hoá dân tộc, di tích lịch sử văn hoá, các món ăn, các loại hình nghệ thuật, lối sống,
nếp sống của các dân tộc mang bản sắc độc đáo còn lưu giữ đến ngày nay. Những nguồn
lực ấy được phân loại theo chiều thời gian lịch sử, những văn hoá cổ được khôi phục lại
lưu truyền và phát huy những văn hoá cổ đại, trung đại, cận đại. Chẳng hạn, nền văn minh
Ai Cập cổ đại với kim tự tháp nổi tiếng, nền văn hoá Hy Lạp cổ đại hoặc phong tục tập
quán ở Việt Nam, Lào như: Các lễ cưới của các dân tộc, các lễ hội, phong tục rước dâu,
hay phong tục trước khi đi lấy vợ chú rể phải về nhà cô dâu ngủ trước vài tháng như dân
tộc Thái của Việt Nam.
Trong phát triển du lịch, trình độ văn hoá của người dân là nhân tố quan trọng góp

phần vào phát triển du lịch, con người thân thiện, hiền hoà, truyền bá những điều tốt đẹp
của đất nước, con người là điểm đến cho những người thân quen có thể tạo được làn sóng
du lịch mới. Phần lớn những khách thăm quan và đều là người có trình độ văn hoá, nhất là
người đi du lịch nước ngoài. Người có trình độ văn hoá cao, đòi hỏi đi du lịch càng lớn,
chất lượng du lịch là một phần quan trọng, họ muốn khám phá những nét truyền thống văn
hoá, phong tục tập quán của điểm đến.
Du lịch gắn liền với thiên nhiên, là tài nguyên thiên nhiên ban tặng để cho con
người tiến hành các hoạt động du lịch như nghỉ ngơi, điều dưỡng, du ngoạn, tham quan
bao gồm: sông, núi, hang động, thác, rừng, chim thú quý hiếm, hoa thơm, cỏ lạ... Tóm lại,
có thể chia ra ba nhóm chủ lực là: tài nguyên du lịch sông núi, tài nguyên du lịch khí hậu
và tài nguyên du lịch sinh vật...cụ thể do thuận lợi về vị trí địa lý, giao thông như đường
sông, đường bộ, đường hàng không... là trung tâm của vùng kinh tế phát triển năng động,
trên thế giới. Đây là một nhân tố cơ bản để phát triển du lịch. Quốc gia nào có nhiều tài
nguyên thiên nhiên thì quốc gia đó có nhiều tiềm năng lớn để thu hút được nhiều khách du
lịch đến thăm quan.
Các điều kiện về tài nguyên du lịch là một yếu tố quan trọng để phát triển du lịch. Một


quốc gia, một vùng có nền kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội phát triển cao, song nếu không có
tài nguyên du lịch thì cũng không thể phát triển du lịch được. Tiềm năng về du lịch là có hạn,
nhất là đối với tài nguyên thiên nhiên những cái mà thiên nhiên ban tặng cho một số vùng và
một số nước nhất định hay do con người tạo ra. Vì vậy, chúng ta chia tài nguyên du lịch làm
hai nhóm: tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn [6, tr.86].
Về địa hình: ở một số nơi thường có cảnh đẹp và sự đa dạng của phong cảnh ở nơi
đó. Đối với du lịch, điều kiện quan trọng nhất là địa phương phải có địa hình đa dạng và có
những đặc điểm tự nhiên như: biển, rừng, sông, hồ, núi... khách du lịch thường ưa thích
những nơi nhiều rừng, đồi, núi, biển, đảo... Thường không thích những nơi địa hình và
phong cảnh đơn điệu mà họ cho là tẻ nhạt và không thích hợp với du lịch.
Về khí hậu: những nơi có khí hậu điều hoà thường được khách du lịch ưa thích. Nhiều
cuộc thăm dò cho thấy khách du lịch thường tránh những nơi quá lạnh, quá ẩm hoặc quá nóng,

quá khô. Những nơi có nhiều gió cũng không thích hợp cho sự phát triển của du lịch [6, tr.87].
Do ảnh hưởng của nhân tố địa lý tự nhiên và thời tiết, khí hậu nên du lịch ở hầu hết
các nước đều mang tính thời vụ đặc trưng. Đối với một nước nhiệt đới, gió mùa đông bắc,
khí hậu bốn mùa thay đổi (xuân, hạ, thu, đông). Khách du lịch nội địa, quốc tế đi du lịch
tham quan thắng cảnh ai cũng hưởng thụ khí hậu ấm áp, thời tiết trong sạch, thoáng mát, loại
trừ ô nhiễm môi trường, bên cạnh những tiềm năng du lịch rất lớn và đa dạng, thì tính thời vụ
trong du lịch càng rõ nét.
- Sản phẩm và dịch vụ du lịch được hình thành từ nhiều yếu tố
Sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch được cấu thành bởi rất nhiều yếu tố, trong đó
có các yếu tố nền tảng như cơ sở hạ tầng, anh ninh, chính trị ổn định…; yếu tố chủ yếu,
trực tiếp bao gồm: phong cách phục vụ của các tour lữ hành, văn hoá các điểm đến, các
danh lam thắng cảnh, sự thân thiện của địa phương nơi khách đến, những sản phẩm lưu
niệm, những sản phẩm của các làng nghề, văn hoá cổ, những ngôi làng cổ, cái quan trọng
hơn cả là sự thân thiện, mến khách, sự lôi cuốn thu hút du khách quay trở lại…Cơ sở hạ
tầng, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí và các dịch vụ khác, tất cả những thứ đó
làm cho sản phẩm du lịch trở nên phong phú, đa dạng.
1.1.3. Vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội ở Lào


- Về mặt kinh tế
Các nước trên thế giới coi du lịch là ngành công nghiệp không khói, là “con gà đẻ
trứng vàng”, tức là ngành thu hồi vốn nhanh, tạo nhiều công ăn việc làm, bán hàng, tiếp thị
xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, ngoại giao và các quan hệ kinh tế khác. Ngành công
nghiệp du lịch được các nước trên thế giới thừa nhận là một ngành kinh doanh có lợi
nhuận và phát triển với nhịp độ tăng trưởng cao, là ngành đóng góp chủ yếu cho kinh tế xã hội. Theo tính toán của WTTC, thu nhập của du lịch bao gồm cả du lịch quốc tế và du
lịch nội địa năm 2005 là 6,2 nghìn tỷ USD, tăng 5,4% so với năm trước, chiếm 3,8% GDP
của thế giới. Nếu tính cả những đóng góp trực tiếp và gián tiếp thì ngành du lịch chiếm
10,6% GDP toàn thế giới. Hàng năm ngành này tạo ra 74,2 triệu việc làm, chiếm 2,8% lao
động trên toàn cầu [26].
Thực tế cho thấy hoạt động du lịch nó tác động rất mạnh đến cơ cấu cán cân thu, chi

của vùng du lịch, của một đất nước. Đối với du lịch quốc tế, việc mang ngoại tệ đến đổi và
chi tiêu ở khu vực du lịch làm tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi của vùng du lịch và
của một đất nước. Nguồn thu nhập ngoại tệ từ khách du lịchh quốc tế của nhiều nước
ngày càng tăng. Chẳng hạn ở Mỹ luôn là nước đứng đầu thế giới về du lịch quốc tế: Năm
1990, ngành du lịch nước này mang lại nguồn thu là 43 tỷ USD thì đến năm 1996 đã lên
tới 64,4 tỷ USD, đến năm 2002 là 80,7 Tỷ USD. Tiếp đến là Tây Ban Nha, năm 1996 thu
được 28,4 tỷ USD, năm 2002 con số này lên đến 38,7 tỷ USD. Ở Pháp năm 1996 thu
được 28,2 tỷ USD, đến năm 2002 thu được 33,5 tỷ USD [2, tr.11].
Hiện nay du lịch được coi là một thị trường vừa rộng, vừa lớn với nhu cầu du lịch rất đa
dạng và khả năng thanh toán của khách hàng khá cao, vừa mang tính đặc thù. Thị trường
du lịch hoạt động trong không gian lãnh thổ, thị trường lại hoàn toàn có khả năng “xuất
khẩu tại chỗ”, nhiều hàng hoá đặc biệt là hàng hoá mang tính chất đặc trưng của dân tộc
phân bố rải rác khắp mọi miền của đất nước như các món ăn dân tộc, đồ lưu niệm (hàng
thủ công mỹ nghệ...). Hàng hoá này thường có giá trị sử dụng không đáng kể đối với thị
trường nội địa nhưng lại có giá trị cao, thuận lợi lớn do thoả mãn được sở thích hay thị hiếu
nào đó của du khách nước ngoài. Mặt khác, có rất nhiều loại hàng hoá phục vụ du khách
không thể vận chuyển đi bán ở thị trường thế giới được thì có thể bán với giá cả cao, thu lợi


nhuận lớn tại nước mình như cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, di tích lịch sử, công trình văn
hoá nổi tiếng, phong tục tập quán đặc sắc...
Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế và khả năng kinh doanh như trên, du lịch là
lĩnh vực kinh doanh có khả năng thu lợi nhuận cao, thu hồi vốn đầu tư nhanh so với các
lĩnh vực khác. Đây là một lợi thế rất quan trọng của ngành du lịch, nếu được đầu tư khai
thác tốt sẽ góp phần tăng nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Ngày nay, ở nhiều nước
công nghiệp, thu nhập từ du lịch thường chiếm 20% hoặc cao hơn trong tổng sản phẩm
quốc gia (GDP). Hoạt động du lịch tác động đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội như giao
thông vận tải, bưu chính viễn thông, xây dựng các nghề thủ công truyền thống, mở rộng thị
trường tiêu thụ hàng hoá, quảng bá sản phẩm của quê hương đất nước mình làm ra đến với
bạn bè thế giới, là kênh quảng cáo hữu hiệu ra nước ngoài, giải quyết việc làm cho người

lao động làm tăng thêm cơ hội đầu tư…tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển.
- Về mặt xã hội
Du lịch phát triển sẽ góp phần tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động,
làm giảm thất nghiệp đáng kể, thu hút một số lượng lao động rất lớn, nâng cao mức sống
của người dân. Đối với nhiều người, du lịch nhìn nhận như một ngành kinh doanh sinh lợi
cao. Vì vậy, xu hướng chuyển đổi hay chuyển hướng sang kinh doanh du lịch là một động cơ
tốt để mọi người trao đổi, bổ sung các kiến thức cần thiết như ngôn ngữ giao tiếp văn hoá,
lịch sử...
Du lịch làm cho con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc mới,
mở mang kiến thức. Hoạt động du lịch là một yếu tố đòi hỏi nhiều lao động dịch vụ với
nhiều ngành nhiều trình độ khác nhau, do đó du lịch càng phát triển thì càng có nhiều cơ
hội tạo việc làm cho xã hội, góp phần giải quyết vấn đề bức xúc nhất hiện nay.
Du lịch phát triển, tạo điều kiện để mở rộng giao lưu văn hoá, tăng cường sự hiểu
biết và mở rộng tầm nhìn, học hỏi thêm kinh nghiệm làm ăn buôn bán của nhiều nước,
nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, thông qua đó góp phần quan trọng nâng cao dân trí.
Tuy những mặt này được tiến hành một cách không chính thức, nhưng thường có hiệu quả
cao.
Thông qua sự tiếp xúc trực tiếp và rộng rãi với du khách trong nước và ngoài nước,


mà nhân dân ở vùng sở tại, nước sở tại có điều kiện tiếp thu những tinh hoa văn hoá, những
lối sống tốt đẹp, phong cách giao tiếp lịch sự văn minh của văn hoá nói chung, ngày càng
mở rộng ra những lĩnh vực mang tính nhân văn cao mà trước đây chúng ta thường xem nhẹ
như sự hiểu biết và thái độ ứng xử đối với việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá truyền
thống, đối với các công trình văn hoá nghệ thuật của dân tộc, đối với môi trường sinh thái...
Thông qua đó, để giáo dục truyền thống dân tộc, lòng tự hào về lịch sử văn hoá đất nước
mình, biết bảo vệ các di sản văn hoá, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ danh lam thắng
cảnh, bảo vệ môi trường sống của đất nước… Từ đó, tuyên truyền giáo dục cho các thế hệ
trong xã hội. Phát triển du lịch góp phần nâng cao dân trí, làm phong phú thêm nhận thức,
đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đồng thời góp phần mở rộng và củng cố mối

quan hệ hợp tác, ngoại giao, giao lưu kinh tế, văn hoá khoa học, kỹ thuật, tạo mối quan hệ
thân thiện, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia. Phát triển du lịch góp phần
xoá đói giảm nghèo, làm thay đổi diện mạo của một vùng, một quốc gia ngày càng văn minh
và tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, hạn chế đầu tiên về mặt xã hội khi phát triển du lịch có thể làm phát sinh
và gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, ma tuý. Thậm chí, ở một số nước còn tổ
chức nhà chứa phục vụ khách. Nguy hiểm hơn, giờ đây còn xuất hiện ngày càng gia tăng
nhiều tội phạm về giết người, con cái hư hỏng, đua đòi học theo những thói hư thật xấu, ăn
chơi xa đoạ, tha hoá nhân phẩm, nhất là phụ nữ, không đúng với phong tục tập quán của
con người Á Châu, dịch vụ karaoke xuất hiện không tuân thủ theo các quy định của Nhà
nước… Đây là một số vấn đề biểu hiện xấu của xã hội ngày nay.
Ngoài ra, một số kẻ xấu lợi dụng đi du lịch để tuyên truyền phản động chống đối Nhà
nước, tuyên truyền văn hoá phẩm đồi trụy, buôn bán hàng quốc cấm... là những mặt trái tác
động tiêu cực đối với nền văn hoá xã hội đất nước.
1.2. NỘI DUNG, ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
1.2.1. Lựa chọn tầm nhìn phát triển du lịch
Bất cứ một ngành nào, để phát triển, thì điều quan trọng đầu tiên là tầm nhìn chiến
lược và sự quan tâm của Chính phủ đối với ngành nghề đó. Ngành du lịch cũng không
ngoại trừ. Chính phủ phải có định hướng, coi du lịch là một ngành nghề kinh tế mũi


nhọn. Nhà nước phải có những chính sách đầu tư thoả đáng, có tầm nhìn xa trông rộng,
có định hướng phát triển lâu dài, bền vững, tập trung khai thác vào những loại hình du
lịch có thế mạnh sẵn có. Nhà nước phải có chính sách mở cửa, thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài, các doanh nghiệp liên doanh, các tập thể cá nhân có tiềm năng đầu tư phát
triển du lịch.
Vai trò của Chính quyền cấp tỉnh đối với phát triển du lịch là chức năng quản lý nhà
nước về du lịch, không làm chức năng chủ quản, không làm chức năng kinh doanh thay
các doanh nghiệp du lịch. Việc quản lý đó thông qua các công cụ quản lý, nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động

trên lĩnh vực kinh tế du lịch. Quản lý nhà nước về du lịch phát triển theo định hướng chung
là thực hiện chức năng của quản lý nhà nước về du lịch: sự khác biệt của quản lý nhà nước
với quản lý kinh doanh ở chỗ quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, các đơn vị
sản xuất kinh doanh vào các mối quan hệ và điều chỉnh các mối quan hệ đó bằng các công
cụ khác nhau (công cụ pháp luật là chính). Nằm trong cơ cấu của bộ máy nhà nước, cơ
quan quản lý nhà nước về du lịch hoạt động theo nguyên tắc của bộ máy nhà nước. Các
nguyên tắc đó xuất phát từ việc nhà nước nắm quyền lực chính trị, thông qua quyền lực
chính trị nhà nước nắm vào bảo toàn quyền lực kinh tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN). Nhà nước quản lý nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng theo nguyên
tắc kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ, phân địch chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế với chức năng quản lý trực tiếp sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhằm
kết hợp tốt hơn trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội. Nằm trong hệ thống quyền
lực nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch được trao những thẩm quyển nhất định,
chủ yếu là những thẩm quyền chuyên môn, hoạt động theo các nguyên tắc nêu trên. Nằm
trung gian giữa cơ quan quản lý nhà nước giao cho với những nhiệm vụ mà hệ thống kinh
doanh du lịch đặt ra. Chức năng của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch chính là chức
năng quản lý nhà nước về du lịch. Song, chức năng của từng bộ phận, chẳng hạn chức
năng của Tổng cục Du lịch, chức năng của Uỷ ban Hợp tác và đầu tư... là một bộ phận của
chức năng quản lý nhà nước về du lịch.
Trên cơ sở tầm nhìn cho phát triển du lịch theo từng giai đoạn khác nhau, các cơ


quan quản lý nhà nước hiện thực hóa tầm nhìn bằng các biện pháp quản lý cụ thể. Với tầm
nhìn về phát triển du lịch, Nhà nước sẽ xác định chức năng quản lý của mình đối với phát
triển du lịch theo thời gian, dựa trên những chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước như:
- Ban hành các văn bản pháp luật về du lịch, xây dựng và thực hiện hàng loạt các
chính sách kinh tế lớn để phát triển du lịch và xây dựng một cơ chế có hiệu lực để đưa
chính sách và thể chế quản lý vào hoạt động kinh doanh du lịch.
- Tổ chức hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các văn bản luật, các quy
chế, các chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, quy trình quy phạm trong hoạt

động du lịch.
- Tăng cường tổ chức tuyên truyền quảng cáo du lịch, tăng cường ứng dụng khoa
học, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, hợp tác quốc tế, bảo vệ môi trường du lịch đang là những
yêu cầu cấp thiết đối với việc phát triển du lịch ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay.
- Giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động du
lịch, thúc đẩy du lịch CHDCND Lào theo định hướng chung của đất nước, hạn chế và xoá
bỏ các hiện tượng không lành mạnh, mặt trái của du lịch mà nhiều nước đã mắc phải qua
hoạt động du lịch (mại dâm, văn hoá, đồi trụy, nghiện hút...).
1.2.2. Đầu tư kết cấu hạ tầng
Du lịch phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở hạ tầng như đường xá, các khu vui chơi giải
trí, nhà hàng, khách sạn, sân bay, phương tiện vận tải…
Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng, đây là một nguồn lực, là điều kiện không
thể thiếu được để phát triển du lịch. Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng tốt, đồng bộ là điều
kiện thuận lợi cho phát triển du lịch, ngược lại sẽ gây khó khăn cho phát triển du lịch. Đầu
tư cơ sở hạ tầng bao gồm:
- Đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nhằm đảm bảo nơi ăn, chốn
ở, hệ thống giao thông, phương tiện đi lại cho khách du lịch. Đây là những dịch vụ đặc
trưng nhất của hoạt động kinh doanh du lịch, đáp ứng nhu cầu của con người (ăn, ngủ
nghỉ, đi lại), khi họ sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ.
Dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành của các sản phẩm du
lịch. Đầu tư vào cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng và dịch vụ ăn uống bao gồm các phương


tiện vật chất, tham gia vào việc sản xuất và cung ứng các dịch vụ hàng hoá nhằm đáp ứng
nhu cầu ăn uống và giải trí của du khách như: các phòng ăn uống, nhà kho, nhà bếp các
trang thiết bị tiện nghi phục vụ du khách.
- Đầu tư vào mạng lưới bán hàng: đây là một trong các cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch quan trọng nhất để tạo được thu nhập cho địa phương và đáp ứng nhu cầu của khách
du lịch về mua sắm, bằng việc bán các hàng hoá đặc trưng của địa phương mình, của đất
nước mình, hàng thực phẩm và các hàng hoá khác. Cơ sở vật chất kỹ thuật này gồm hai

phần: Một phần thuộc các trung tâm dịch vụ du lịch, phục vụ khách du lịch là chủ yếu;
phần khác thuộc về thương nghiệp địa phương, với nhiệm vụ phục vụ nhân dân địa
phương, đồng thời càng đóng vai trò quan trọng đối với phục vụ khách du lịch.
- Đầu tư vào cơ sở thể thao: là bộ phận của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, có tác
dụng tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ nghỉ của du khách. Các cơ sở thể thao bao gồm các công
trình thể thao, phòng thể thao với nhiều loại khác nhau, các thiết bị chuyên dùng cho mỗi
loại thể thao như: bể bơi, xe đạp nước, sân quần vợt, sân bóng đá, sân golf, trường đua
ngựa... Ngày nay, công trình thể thao là một bộ phận không thể tách rời cơ sở vật chất của
du lịch. Chúng làm phong phú và đa dạng các loại hình hoạt động du lịch, làm tăng sự hấp
dẫn, kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch, làm tăng hiệu quả sử dụng khách sạn, nhà
nghỉ, nhà trọ...
- Đầu tư về y tế: nhằm mục đích phục vụ du khách chữa bệnh và cung cấp dịch vụ bổ
sung tại điểm du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở đây bao gồm: Các trung tâm chữa bệnh (nước
khoáng, ánh nắng mặt trời, xông hơi nóng, mát xa tăm bùn, tắm suối nước nóng, các món ăn
kiêng), các phòng y tế khác…
- Đầu tư vào công trình phục vụ văn hoá thông tin: bao gồm các trung tâm văn hoá
thông tin, phòng chiếu phim, câu lạc bộ, phòng triển lãm, internet, phòng đọc sách... hoạt
động văn hoá thông tin có thể được tổ chức thông qua các buổi dạ hội hữu nghị, dạ hội hoá
trang, đêm ca nhạc, tổ chức các buổi gặp gỡ trao đổi giữa những người khách du lịch cùng
nghề, chiếu phim, xem kịch, tham quan bảo tàng...
- Đầu tư giao thông vận tải bao gồm đường bộ, đường hàng không, đường sông.
Mạng lưới giao thông phát triển tạo điều kiện khai thác tối đa tiềm năng du lịch của một


vùng, một địa phương, một đất nước.
- Đầu tư vào cơ sở phục vụ các dịch vụ bổ sung khác chủ yếu gồm: các công
trình, thiết bị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách trong việc tiêu dùng các dịch vụ
và sử dụng triệt để các yếu tố tài nguyên. Hệ thống này bao gồm các khu vực: giặt là,
hiệu cắt tóc, vật lý trị liệu, bể bơi, sân tenis, trạm xăng dầu, cơ sở y tế, xưởng sửa chữa
dụng cụ thể thao, phòng rửa phim ảnh, gội đầu, cửa hiệu sửa chữa thiết bị liên lạc, bưu

điện, phòng sao chép... Cơ sở vật chất - kỹ thuật của bộ phận này thường gắn liền với
các cơ sở lưu trú. Quy mô của hệ thống này phụ thuộc vào quy mô của bộ phận lưu trú.
Ngoài ra, việc vận chuyển các tin tức một cách nhanh chóng và kịp thời, góp phần đắc
lực vào thực hiện giao lưu các vùng và các khu vực các nước.
Bên cạnh đó, điều cần thiết nhất là sự an toàn cho du khách: một đất nước có một
hệ thống chính trị bất ổn, có xung đột sắc tộc, hay có khủng bố mất an ninh chính trị cũng
là yếu tố bất an cho mỗi du khách.
1.2.3. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch
- Xây dựng chiến lược phát triển du lịch
Thực hiện đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển
du lịch: văn hoá, thiên nhiên, lịch sử, Tổng cục Du lịch kết hợp với cơ quan, bộ ngành liên
quan xây dựng chiến lược phát triển du lịch. Đây là một trong những nội dung quản lý nhà
nước có tính quyết định đối với sự phát triển du lịch trên dịa bàn của chính quyền cấp tỉnh,
giúp cho các thành phần kinh tế an tâm khi quyết định đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực du
lịch.
Trong hoạt động kinh doanh du lịch, mục tiêu cuối cùng của các đơn vị kinh doanh
là lợi nhuận. Do đó, nếu không được định hướng phát triển đúng sẽ gây ra lãng phí, kém hiệu
quả do không phù hợp với nhu cầu thị trường và thực tế phát triển của địa phương vừa qua cho
thấy điều đó. Nhất là, các hoạt động đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng, các khu, điểm
du lịch hoặc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như các nhà hàng, khách sạn, nhà
nghỉ…Vì thế, chính quyền cấp tỉnh phải hết sức quan tâm đến việc xây dựng kịp thời các
chiến lược phát triển du lịch của địa phương, các mục tiêu, chỉ tiêu trong chiến lược phát triển
du lịch phải phù hợp với chiến lược phát triển chung của cả nước. Đáp ứng yêu cầu của quá


trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, gắn với tiến trình đẩy mạnh thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Chiến lược phát triển du lịch. Chiến lược du lịch quy định xu hướng, quy
hoạch, chính sách và mục đích chung của việc phát triển, khuyến khích du lịch thích hợp
với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, làm cho ngành du lịch tăng

trưởng, phát triển bền vững, trở thành một ngành công nghiệp không khói thu lợi nhuận
vào ngân sách quốc gia, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích việc bảo tồn và
phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
Chiến lược du lịch còn là cơ sở để lập kế hoạch hoạt động về mọi mặt trong thời
gian ngắn để quản lý và phát triển du lịch riêng của từng khu vực, việc đề ra kế hoạch phát
triển du lịch, quản lý kinh doanh du lịch, tuyên truyền du lịch và thị trường du lịch, phát
triển nguồn nhân lực phục vụ du lịch, hợp tác quốc tế, hợp tác với các ngành các cơ quan
có liên quan du lịch...
* Quy hoạch phát triển du lịch, quy hoạch ngành, vùng miền, khu vực, điểm
đến... Trong chiến lược phát triển du lịch các cơ quan có thẩm quyền cấp trung ương, địa
phương, các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng
quy hoạch phát triển du lịch. Công tác này được thực hiện tốt sẽ làm gia tăng những lợi
ích từ du lịch và giảm thiểu những tác động tiêu cực mà du lịch có thể đem lại cho cộng
đồng và xã hội. Công tác này được thực hiện không tốt sẽ dẫn đến sự phát triển du lịch
thiếu tính kiểm soát. Những lợi ích trước mắt có thể gây ra những hậu quả nghiêm
trọng trong tương lai. Khi đó chi phí xã hội phải bỏ ra để khắc phục những hậu quả đó
có thể sẽ lớn hơn nhiều những gì mà du lịch đã đem lại.
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, phát triển du lịch trên một địa bàn cụ thể
cần phải có quy hoạch tổng thể phải có chiến lược phát triển bền vững và lâu dài. Theo
quan điểm của lý thuyết marketting về chu kỳ sống của sản phẩm thì bất cứ một điểm đến
du lịch nào cũng đều trải qua 4 giai đoạn cơ bản trong quá trình phát triển của mình (hình
thành, phát triển, bão hoà và suy thoái). Điều đó cho rằng mọi điểm đến du lịch sẽ có xu
hướng phát triển tăng lên hoặc giảm xuống. Sự thay đổi đó phần lớn phụ thuộc từ phía
người tiêu dùng - khách du lịch. Như vậy, mỗi điểm đến từ khi được hình thành đã có


những mầm mống tiềm ẩn để tự tiêu huỷ chính mình. Nên để đạt được những lợi ích lâu
dài các điểm đến phải tìm mọi cách để kéo dài chu kỳ sống của nó. Điều đó có nghĩa là
phải được dự báo trước những thay đổi để có thể hành động đối phó lại những thay đổi đó.
Như trên đã phân tích thì đó chính là nội dung của quy hoạch.

Như chúng ta đã biết, du lịch là một lĩnh vực có tính liên ngành. Trong sự phát triển
của mỗi điểm đến du lịch đều có sự tác động qua lại giữa du lịch và một số lĩnh vực khác
của nền kinh tế và xã hội. Để điểm đến du lịch có thể phát triển hiệu quả, bền vững cần
phải có phương án ngăn ngừa những vấn đề tiêu cực có thể phát sinh.
Ngành du lịch nếu so với các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân, du lịch vẫn
còn là một lĩnh vực mới mẻ ở nhiều quốc gia, trong đó ở CHDCND Lào. Mặc dù có định
hướng phát triển du lịch, nhưng vẫn thiếu kinh nghiệm về quản lý, tổ chức và phát triển du
lịch như nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển.
Quy hoạch phát triển du lịch ở cấp quốc gia và vùng mang lại những lợi ích đặc
trưng quan trọng sau:
-Thiết lập được các mục tiêu và những chính sách nhằm tìm ra những giải pháp để
đạt được mục tiêu.
- Phát triển du lịch đồng thời với việc khai thác sử dụng và bảo vệ hợp lý các tài
nguyên thiên nhiên và nhân văn cho hiện tại cũng như trong tương lai.
- Tạo sự thống nhất trong phát triển du lịch một vùng và thiết lập các mối liên kết
giữa du lịch và các ngành kinh tế khác .
-Tạo cơ sở cho việc ra các quyết định về phát triển du lịch.
- Tạo ra sự phối kết hợp đồng bộ giữa các hoạt động du lịch trên địa bàn: sự tác động hỗ trợ
giữa các điểm du lịch, các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch...
- Tối ưu và cân bằng các lợi ích kinh tế, môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội mà
ngành du lịch đóng góp cho xã hội, đồng thời giảm thiểu các tác hại mà hoạt động du lịch
có thể gây ra.
- Đưa ra những hướng dẫn cơ bản về việc bố trí, thiểu loại, quy mô phát triển các
điểm du lịch, tiện nghi, dịch vụ và cơ sở hạ tầng du lịch.
- Đề ra các tiêu chuẩn và hướng dẫn soạn thảo các quy hoạch chi tiết cho các khu


các điểm du lịch đã được xác định.
- Tạo khuôn khổ cho việc thực hiện có hiệu quả các kế hoạch và chính sách phát triển du
lịch cũng như đặt nền tảng cho việc quản lý thường xuyên hoạt động du lịch thông qua việc

cung cấp các khung pháp lý và hệ thống tổ chức cần thiết.
- Tạo khuôn khổ cho việc phối kết hợp có hiệu quả các nỗ lực nhà nước và tư nhân
trong việc đầu tư phát triển du lịch.
- Tạo cơ sở để kiểm soát thường xuyên và duy trì định hướng phát triển du lịch.
Công tác quy hoạch phát triển du lịch có tầm quan trọng bao nhiêu thì việc phát
triển du lịch thiếu quy hoạch sẽ có hậu quả nhiều bấy nhiêu, nếu không có một qui hoạch
tổng thể sẽ xẩy ra hiện tượng mạng lưới du lịch không thống nhất dẫn đến những điểm đến
có thể là bị cục bộ, hay có thể thưa thớt gây sự nhàm chán cho du khách. Ngoài những tác
động tiêu cực dễ nhận thấy đối với môi trường tự nhiên, những hậu quả còn có biểu hiện ở
nhiều mặt khác cho địa bàn phát triển du lịch
* Các chính sách phát triển du lịch
Có đường lối chính sách đúng đắn và định hướng phát triển du lịch kịp thời nhanh
chóng là yếu tố rất quan trọng để phát triển du lịch thành ngành kinh tế chủ lực.
Nhà nước cần có chính sách và biện pháp đẩy mạnh hợp tác quốc tế về du lịch với
các nước, các tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; phù hợp với pháp luật mỗi
bên, pháp luật và thông lệ quốc tế nhằm phát triển du lịch, góp phần tăng cường quan hệ
hợp tác, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Nhà nước quản lý vĩ mô bằng
chính sách phát triển du lịch như sau:
- Nhà nước có chính sách phát triển, tôn tạo, bảo vệ, trùng tu, duy tu các điểm du
lịch văn hóa, du lịch lịch sử, bảo vệ tài nguyên du lịch khác…
- Quản lý du lịch thông qua việc, tôn tạo bảo vệ và phát triển du lịch văn hoá, lịch
sử, thiên nhiên, sinh thái cộng đồng, coi du lịch là một bộ phận không thể nằm ngoài
ngành kinh tế quốc dân để phát triển thúc đẩy sản xuất, tăng cường xuất khẩu tại chỗ, tạo
việc làm, tạo doanh thu và cải thiện đời sống của nhân dân các dân tộc. Nhà nước và xã hội
thúc đẩy tuyên truyền các ngày lễ, lễ hội các dân tộc về phong tục tập quán, văn hoá văn
nghệ, truyền thống anh hùng tốt đẹp của nhân dân để thúc đẩy du lịch trong nước và thu hút


×