Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty TNHH TM SX thanh nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.69 KB, 90 trang )

Luận văn
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện
hoạt động nhập khẩu ở công ty
TNHH TM & SX Thanh Nam

1


Lời nói đầu
Đã từ lâu việc phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới đều
chịu tác động to lớn của hoạt động kinh tế quốc tế nói chung và hoạt động
thương mại quốc tế nói riêng. Hoạt động thương mại quốc tế tạo nên mối
quan hệ gắn kết trong việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia.
Trong hoạt động thương mại quốc tế một bộ phận giữ vai trò quan trọng cấu
thành nên nó mà ta không thể không kể đến đó là hoạt động nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu có một ý nghĩa rất to lớn đối với nền kinh tế quốc
dân. Nó đóng vai trò là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế
của các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà
người ta có thể đánh giá được vị thế, tiềm lực kinh tế của một quốc gia trên
trường quốc tế.
Ngày nay Việt Nam đang trong quá trình CNH – HĐH đất nước, nhu cầu
nhập khẩu các linh kiện máy móc thiết bị, phục vụ văn phòng và những ngành
sản xuất kinh doanh thương mại là rất cần thiết. Hơn nữa trong những năm
đầu thế kỷ 21 trở lại đây Việt Nam lại đứng trước thềm hội nhập kinh tế quốc
tế và đã gia nhập nhiều tổ chức quốc tế và cũng được sự giúp đỡ của nhiều tổ
chức hỗ trợ của liên hợp quốc. Do vậy, đây chính là cơ hội rất thuận lợi để các
doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty TNHH TM & SX Thanh Nam
nói riêng học hỏi và tiếp nhận những sản phẩm khoa học kỹ thuật tinh túy, từ
những nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến và phát triển vào bậc nhất thế
giới như Mỹ, Nhật, Tây Âu… Đồng thời còn giúp các doanh nghiệp Việt
Nam củng cố và phát triển hoạt động nhập khẩu của mình ngày càng trở nên


sâu, rộng và hoàn thiện hơn.
Tuy nhiên để hoạt động nhập khẩu có thể đứng vững và phát triển ổn
định được thì đó quả là một bài toán hóc búa đối với các doanh nghiệp Việt
Nam. Vì trên thực tế các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết còn là những doanh
nghiệp rất “non trẻ” ít kinh nghiệm khi phải đương đầu với những đối tác
nước ngoài “cáo già” và dày dạn kinh nghiệm trên thương trường quốc tế.
2


Mặt khác, từ khi đất nước ta chuyển hướng nền kinh tế từ tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN thì đã buộc cho mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
nước ngày càng trở nên gay gắt hơn. Vì vậy càng làm cho hoạt động nhập
khẩu của các doanh nghiệp trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Trước tình hình
trên thì chỉ có một con đường có thể giúp các doanh nghiệp đứng vững và
phát triển ổn định trong hoạt động nhập khẩu là tự hoàn thiện mình tốt hơn và
tạo được chữ tín với thị trường người tiêu dùng. Cũng sau một thời gian thực
tập và được nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH TM & SX
Thanh Nam thì em đã quyết định chọn đề tài : “Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty TNHH TM & SX Thanh Nam” làm
đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập của mình.

3


Nội dung
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động nhập khẩu và vai
trò của quá trình nhập khẩu linh kiện, máy móc, thiết bị văn phòng
phục vụ cho thị trường tiêu dùng trong nước.
I. Khái niệm, các hình thức và vai trò của nhập khẩu trong nền kinh tế

quốc dân

1. Khái niệm
Khi nói đến hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia thì ta
không thể không kể tới một bộ phận cốt lõi đóng vai trò quan trọng trong việc
cấu thành nên nó là hoạt động nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nếu như trong
hoạt động thương mại quốc tế, hành vi mua bán trao đổi hàng hoá - tiền tệ
diễn ra theo hai chiều thì trong hoạt động nhập khẩu sự vận động của hàng
hoá - tiền tệ chỉ diễn ra theo một chiều: hàng vào – tiền ra. Tuy nhiên, hoạt
động nhập khẩu vẫn thể hiện là hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế,
hành vi mua bán không phải chỉ là diễn ra đơn lẻ mà là cả một hệ thống các
mối quan hệ mắt xích phức tạp và có tổ chức. Mối quan hệ ràng buộc giữa
những hành vi của người mua và kẻ bán này đều được điều chỉnh bởi những
quy tắc và điều lệ của pháp luật quốc tế và tập quán Quốc tế…
Như vậy ta có thể hiểu: Hoạt động nhập khẩu là sự mua hàng hoá, dịch
vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc tái xuất
sang nước thứ ba nhằm thu lợi nhuận. Hay có thể hiểu theo cách khác hoạt
động nhập khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ theo một chiều là
hàng vào - tiền ra qua lãnh thổ biên giới của một quốc gia.
Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế nội địa của
một quốc gia với nền kinh tế của các nước khác trong khu vực và trên thế
giới. Hoạt động nhập khẩu còn thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển
đổi cơ cấu kinh tế bằng cách thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của
người tiêu dùng trong nước, nhất là với những hàng hoá mà sản xuất trong
nước chưa đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng. Đặc biệt là trong tình hình

4


thế giới hiện nay xu hướng liên kết kinh tế toàn cầu và hội nhập kinh tế Quốc

tế ngày một diễn ra mạnh hơn thì lại càng làm cho hoạt động nhập khẩu phát
triển sâu, rộng, đa phương, đa chiều hơn.
Hoạt động nhập khẩu có liên quan trực tiếp đến các quan hệ về chính trị
và luật pháp giữa những nước nhập khẩu và những nước xuất khẩu. Vì vậy
nhập khẩu là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp có quốc tịch khác nhau làm
ăn với nhau và qua đó phát triển mối quan hệ kinh tế hữu nghị với các quốc
gia. Do đối tượng của hoạt động nhập khẩu rất phong phú và đa dạng, lại
thường xuyên chịu sự chi phối của chính sách, luật pháp của mỗi quốc gia.
Những quy định này thường xuyên được điều chỉnh, sửa đổi sao cho phù hợp
với mục tiêu kinh tế xã hội của từng quốc gia điều này có tác động trực tiếp
tới hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp.
2. Vai trò của thương mại quốc tế và hoạt động nhập khẩu đối với nền
kinh tế quốc dân
2.1 Vai trò tất yếu của thương mại quốc tế trong nền kinh tế quốc dân.
Thương mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt
động kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán hoặc trao đổi hàng hoá và
dịch vụ vượt qua biên giới các quốc gia. Thương mại quốc tế khác với nội
thương là hoạt động trao đổi diễn ra giữa các vùng, các địa phương hoặc các
thành phố trong phạm vi một quốc gia.
Như chúng ta đã biết mỗi quốc gia đều có thế mạnh của mình tài
nguyên thiên nhiên, chất xám, nguồn vốn, nhân lực… sự khác nhau này đã
làm tăng khả năng thương mại của mỗi quốc gia. Có những nước điều kiện tự
nhiện rất khó khăn nhưng vẫn có hàng hoá xuất khẩu, một số nước nền kinh tế
lạc hậu, thấp kém nhưng vẫn có quan hệ kinh tế với các nước phát triển.
Ngày nay hầu hết các quốc gia đều gia nhập vào các khu vực tự do
thương mại, hội nhập đã trở thành trào lưu mà các quốc gia không thể cưỡng
lại nổi. Thực tiễn việc buôn bán giữa các quốc gia cho thấy xu hướng vận
động của thương mại quốc tế và đóng góp của nó vào tốc độ phát triển kinh
5



tế. Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các
nước tham gia vào các phân công lao động Quốc tế, phát triển kinh tế và làm
giàu cho đất nước.
Thương mại quốc tế giúp các quốc gia phát huy hết các lợi thế tuyệt
đối, lợi thế so sánh của mình trong sự phát triển kinh tế. Thương mại quốc tế
còn trở thành nguồn lực kinh tế của mỗi quốc gia, kích thích sự phát triển của
lực lượng sản xuất và nâng cao tiềm năng khoa học công nghệ. Thương mại
quốc tế vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các quốc gia khác trên thế
giới mà còn là người hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội trở nên
văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Có thể thấy cơ sở của thương mại quốc tế là
trao đổi chuyên môn hoá, đúng hơn là chuyên môn hoá trong sản xuất dựa
trên cơ sở về lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Những lợi thế này trước hết có
thể kể tới như điều kiện sản xuất, đất đai, nguồn lực về lao động, tài nguyên,
vốn, khoa học công nghệ…mỗi quốc gia có sự khác nhau về những yếu tố
trên nên sẽ dẫn tới hiệu quả sản xuất sẽ khác nhau. Chính vì thế mỗi quốc gia
sẽ chuyên môn hoá sản xuất vào những ngành, nhóm sản phẩm có năng suất
cao nhất để trao đổi sản phẩm với các quốc gia khác.
Lợi ích từ thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế mở ra những cơ hội mới cho tất cả những doanh
nghiệp và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Nhờ có thương mại quốc tế mà
các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, từ đó đáp ứng nhu cầu không chỉ
của thị trường nội địa, mà cả thị trường nước ngoài. Thương mại còn mang lại
cho người dân của một quốc gia cơ hội lựa chọn lớn hơn đối với các hàng hoá
và dịch vụ.
2.2 Sự cần thiết của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi Quốc tế nó
không phải là hành vi mua bán riêng lẻ, mà là cả một hệ thống các mối quan
hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài
quốc gia. Hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng vì một lý do cơ bản

6


là “mở rộng khả năng sản xuất và thị trường tiêu dùng tất cả các mặt hàng với
số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới của kinh nghiệm sản
xuất, tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung, tự cấp không buôn
bán”
3. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu hiện nay
3.1 Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp
trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu muốn nhập khẩu một số loại
hàng hoá nhưng lại không có quyền tham gia các hoạt động nhập khẩu trực
tiếp nên đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch trực
tiếp và tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình.
Bên được uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoai và
làm thủ tục nhập hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác. Bên nhận uỷ thác sẽ
được hưởng một phần thù lao được gọi là phí uỷ thác.
3.2 Nhập khẩu trực tiếp
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kĩ thị trường trong
nước và Quốc tế, tính toán chính xác các chi phí, đảm bảo hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu, tuân thủ đúng chính sách, luật pháp quốc gia và luật pháp
Quốc tế.
Trong hình thức này doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp
làm các hoạt động tìm kiếm đối tác, đàm phán, kí kết hợp đồng… và phải bỏ
vốn để tổ chức kinh doanh hàng nhập khẩu.
3.3 Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá trên
cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó ít
nhất một bên là doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp nhằm phối hợp

kĩ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến

7


hoạt động kinh doanh nhập khẩu, hướng hoạt động này sao cho có lợi nhất
cho tất cả các bên, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ.

8


3.4 Nhập khẩu hàng đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại chủ yếu của buôn
bán đối lưu đó là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Thanh toán cho
hoạt động này không dùng tiền mà là hàng hoá. Mục đích của nhập khẩu hàng
đổi hàng là vừa thu lãi từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu và vừa xuất khẩu
được hàng hoá trong nước ra nước ngoài.
3.5 Nhập khẩu tái xuất
Hoạt động nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào
trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một
nước thứ ba để thu lợi nhuận, những mặt hàng này không được qua chế biến ở
nơi tái xuất.
Như vậy trong hình thức nhập khẩu tái xuất này có sự tham gia của ít
nhất ba quốc gia là nước xuất khẩu hàng hoá, nước nhập khẩu hàng hoá để tái
xuất và nước thứ ba nhập khẩu hàng hoá đã được tái.
II. Những nội dung chủ yếu của công tác nhập khẩu hàng hoá

1. Nghiên cứu nhu cầu người tiêu dùng
Trong nhu cầu người tiêu dùng, việc mua sắm hàng hoá không phải do
một cá nhân quyết định mà phải thông qua một hội đồng, hội đồng này bao

gồm những người sử dụng các hàng hoá cần mua, người mua hàng hoá, người
tham mưu (cung cấp các thông tin về hàng hoá), người thẩm định (quyết định
có mua hàng hay không) và người kiểm soát (kiểm tra độ chính xác của các
thông tin đưa vào).
Đối với nhu cầu người riêu dùng thì kiểu tiếp cận có hiệu quả nhất đối
với công ty là phương pháp marketing trực tiếp, tức là dùng các nhân viên đến
chào hàng trực tiếp tới các khách hàng thông qua các catalogue quảng cáo, về
các điều kiện khác làm như vậy sẽ ít tốn thời gian, công sức mà hiệu quả lại
cao. Với cách chào hàng kiểu này nhà sản xuất sẽ nắm bắt được nhu cầu của
khác hàng. Có thể trong thời điểm hiện tại họ chưa có nhu cầu về loại hàng
hoá đó nhưng trong tương lai có thể họ sẽ có nhu cầu sử dụng loại hàng hoá
9


này và họ sẽ nghĩ tới công ty chào hàng với họ có ý đợi mua sớm hàng hoá
đó.
Mặt khác khi nghiên cứu nhu cầu người tiêu dùng thì uy tín của doanh
nghiệp trên thương trường cũng là yếu tố hết sức quan trọng. Những người
tiêu dùng sẽ luôn biết rằng đây là hoạt động phức tạp vì vậy họ phải lựa chọn
những công ty có uy tín trên thị trường. Những khách hàng đó sẽ tự tìm đến
với công ty khi họ có nhu cầu về hàng hoá họ cần từ công ty mà họ tín nhiệm,
mà không cần phải nhờ vào việc chào hàng của công ty. Đa số làm việc với
công ty và họ tin tưởng hoàn toàn vào khả năng, uy tín của công ty trên thị
trường.
2. Nghiên cứu thị trường hàng nhập khẩu
2.1 Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu
Khi nghiên cứu về mặt hàng cần thiết để doanh nghiệp nhập khẩu thì
trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về quy cách, chủng
loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của
từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Phải hiểu rõ giá trị, công dụng các đặc tính

của hàng hoá, từ đó xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thế
giới về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Đối với các doanh nghiệp sản xuất vật
tư phục vụ sản xuất, điểm đầu tiên để xác định mặt hàng là dựa trên các tiêu
chuẩn kĩ thuật, dựa trên chất lượng sản phẩm hàng hoá. Nắm bắt đầy đủ các
mức giá cho từng điều kiện mua bán, khả năng sản xuất và nguồn cung ứng
dịch vụ đi kèm bảo đảm cho hàng hoá như: Bảo hành, bảo trì, bảo dưỡng, sửa
chữa, cung ứng các thiết bị linh kiện thay thế…
Mặt khác, để lựa chọn được mặt hàng nhập khẩu thì một trong số
những nhân tố quan trọng là phải tính được tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu của
mặt hàng đó. Nếu tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu cao hơn tỷ giá hối đoái trên thị
trường thế giới thì việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu là đã có hiệu quả. Ngoài
ra nhà nhập khẩu còn phải dựa vào những kinh nghiệm trên thị trường để có
được những dự đoán các biến động từ thị trường nước ngoài cũng như thị
10


trường trong nước và khả năng thương lượng để đạt được các điều kiện mua
bán có ưu thế hơn.

2.2 Nghiên cứu dung lượng thị trường
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên
phạm vi một thị trường nhất định trong một phạm vi nhất định. Nghiên cứu
dung lượng thị trường là cần phải xác định nhu cầu thật của khách hàng cả
lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, từng
vùng, các khu vực có nhu cầu lớn và đặc điểm nhu cầu trong từng thời điểm,
từng lĩnh vực sản xuất , tiêu dùng. Cùng với việc nắm bắt khả năng cung cấp
cho thị trường phải xét tới các yếu tố dung lượng, khả năng sản xuất hàng hoá
thay thế, khả năng lựa chọn trong việc mua sắm để thoả mãn nhu cầu. Một
vấn đề cũng được khá quan tâm trong khâu này là tính thời vụ của sản xuất
(cung) và tiêu dùng (cầu) hàng hoá đó trên thị trường thế giới để có biện pháp

thích hợp cho từng giai đoạn, đảm bảo nhập khẩu có hiệu quả. Dung lượng thị
trường không cố định, nó thay đổi do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố
trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường
thay đổi có thể được căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của chúng đối với thị
trường.
3. Lựa chọn đối tác
Đây là đối tượng giao dịch rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhập
khẩu, việc lựa chọn đối tác phải được tiến hành một cách cẩn thận, kĩ lưỡng
nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, thông tin nhanh
nhậy từ nhiều nguồn… thường khi lựa chọn đối tác để giao dịch thì các nhà
doanh nghiệp thường dựa trên những cơ sở sau:
 Tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, lĩnh vực và phạm vi kinh
doanh, khả năng cung cấp hàng hoá lâu dài, thường xuyên và kịp thời.
 Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kĩ thuật của doanh nghiệp.

11


 Cử chỉ thái độ và quan điểm kinh doanh của doanh nghiệp (chiếm lĩnh
thị trường hay độc quyền, những quan điểm về mua bán với bạn hàng).
 Uy tín của doanh nghiệp đó trên thương trường
Trong lựa chọn đối tác giao dịch thì tôt hơn hết là nên lựa chọn đối tác trực
tiếp, tránh những đối tác trung gian trừ khi doanh nghiệp muốn thâm nhập vào
thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm. Việc lựa chọn đối tác giao dịch
có căn cứ khoa học sẽ là một điều kiện quan trọng để thực hiện và tổ chức
hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty dẫn tới thắng lợi và thành công.
4. Lập phương án nhập khẩu hàng hoá
Từ kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường, tiếp cận đối
tượng giao dịch, mặt hàng, giá cả trong nước và quốc tế, đơn vị kinh doanh sẽ
tiến hành lập phương án kinh doanh. Lập phương án kinh doanh sẽ giúp cho

doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đã đề ra trong hoạt động nhập khẩu
của mình. Công việc lập phương án kinh doanh nhập khẩu hàng hoá sẽ được
tiên hành qua các bước sau:
 Đánh giá thị trường và khách hàng.
người lập phương án kinh doanh phải rút ra những kết luận cụ thể về khách
hàng, về thị trường trong nước và nước ngoài, để từ đó xây dựng nên chiến
lược và phương hướng kinh doanh phù hợp.
 Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích về mặt hàng,
nguồn hàng, thời cơ, thời điểm khi mua hàng và bán hàng, đồng thời lựa chọn
phương thức kinh doanh hợp lý nhất (như uỷ thác, trực tiếp, liên doanh…) và
đặc biệt là phải chú ý đến tỷ suất hàng nhập khẩu.
 Mục đích phương án và sơ bộ đánh giá kết quả kinh doanh.
Những mục tiêu đề ra cho một phương án là những mục tiêu cụ thể như sẽ
bán được bao nhiêu hàng? giá bán bao nhiêu? bán cho ai? Trong thời gian bao
lâu?…sau khi đã xác định được các mục tiêu cụ thể trên, ta có thể đánh giá sơ

12


bộ hiệu quả kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu như thời gian hoà
vốn, tỷ suất ngoại tệ, điểm hoà vốn và tỷ suất lợi nhuận.
 Biện pháp thực hiện
Sau khi đánh giá được các chỉ tiêu trên mà thấy phương án kinh doanh có
tính khả thi thì nhà kinh doanh đưa ra các biện pháp thực hiện phương án kinh
doanh gồm những khâu như sau:đầu tư vốn cho kinh doanh, ký kết hợp đồng,
tiến hành quảng cáo, mở rộng hệ thống bán hàng…

13



5. Giao dịch đàm phán
5.1 Đàm phán qua thư tín
Ngày nay đàm phán qua thư tín vẫn còn là một hình thức chủ yếu để
giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, thường cuộc tiếp xúc ban
đầu thường qua thư từ, ngay cả sau khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực
tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín thương mại.
So với gặp gỡ trực tiếp thì giao dịch qua thư tín tiết kiếm được nhiều
chi phí. Trong cùng một lúc, có thể giao dịch với nhiều khách hàng ở nhiều
nước khác nhau. Người viết thư tín có điều kiện cân nhắc, suy nghĩ tranh thủ
ý kiến nhiều người và có thể khéo léo dấu kín ý định thực hiện của mình.
Những việc giao dịch qua thư tín thường mất nhiều thời gian chờ đợi,
có thể bỏ lỡ thời cơ mua bán, có thể dùng điện tín để khắc phục điều này.
Khi sử dụng thư tín để giao dịch, đàm phán phải luôn nhớ rằng thư từ là
sứ giả của mình đến khách hàng. Bởi vậy phải lưu ý hết sức trong việc viết
thư, đảm bảo các yêu cầu lịch sự, chính xác, khẩn trương.
Nội dung của thương mại bao giờ cũng hết sức chính xác, tránh những
sự hiểu lầm do trình bày không rõ ràng, không khúc triết hoặc do sử dụng từ
ngữ không chính xác. Mọi lý lẽ được diễn đạt đầy đủ, nhưng không rườm rà.
Cần nhớ rằng mỗi nước có một cách hiểu khác nhau về từng vấn đề liên quan
tới buôn bán như đơn vị đo lường, cách bao bì, đóng gói, cách trả tiền, sự
phân chia các chi phí trong giao nhận bốc dỡ…bởi thế khi đề cập đến mỗi vấn
đề, cần phải thật chi tiết, cụ thể, rõ ràng về quan niệm của mình hoặc những
yêu cầu của mình nêu ra, không bao giờ nên nghĩ rằng chắc đối phương cũng
hiểu vấn đề này như cách mình hiểu.Sự khẩn trương trong trao đổi thư tín cần
được chú ý thích đáng. Tất cả mọi thư tín gửi đến đều phải được trả lời một
cách nhanh chóng dù rằng mình chưa có cơ hội bán hàng. Việc trì hoãn trả
lời, hoặc thậm chí quên không trả lời thư của khách hàng, sẽ gây ra những ấn
tượng xấu. Một nhà kinh doanh tốt bao giờ cũng cố gắng mở rộng quan hệ với
nhiều khách hàng.

14


5.2 Đàm phán qua điện thoại.
Việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng, giúp người giao dịch tiến
hành đàm phán một cách khẩn trương, đúng vào thời cơ cần thiết. Nhưng phí
tổn điện thoại giữa các nước rất cao, các cuộc trao đổi bằng điện thoại thường
phải hạn chế về mặt thời gian, các bên không thể trình bày chi tiết, mặt khác
trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng
cho những thoả thuận , quyết định trong trao đổi bởi vậy điện thoại chỉ được
dùng trong những trường hợp cần thiết, thật khẩn trương, sợ lỡ thời cơ, hoặc
trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thảo luận xong, chỉ còn chờ xác
nhận một vài chi tiết…khi phải sử dụng điện thoại, cần phải chuẩn bị thật chu
đáo để có thể trả lời ngay mọi vấn đề được nêu lên một cách chính xác.Sau
khi trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán thoả
thuận.
5.3 Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp
Việc gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao đổi về mọi điều kiện giao
dịch, về mọi vấn đề liên quan đến việc kí kết và thực hiện hợp đồng mua bán
là hình thức đàm phán đặc biệt quan trọng. Hình thức đàm phán này đẩy
nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho
những đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại đã kéo dài quá lâu mà không có
kết quả. Nhiều khi đàm phán qua thư từ kéo dài nhiều tháng mới đi đến kí kết
hợp đồng. Trong khi đó đàm phán trực tiếp chỉ 2,3 ngày đã có kết quả. Hình
thức đàm phán này thường được dùng khi hai bên có nhiều điều kiện phải giải
thích cặn kẽ để thuyết phục nhau, khi đàm phán về những hợp đồng lớn,
những hợp đồng có tính chất phức tạp…
Việc hai bên mua bán trực tiếp gặp gỡ nhau tạo điều kiện cho việc hiểu
biết nhau tốt hơn và duy trì được quan hệ tốt lâu dài với nhau.
Cũng phải thấy rằng đây là hình thức đàm phán khó khăn nhất trong

các hình thức đàm phán. Đàm phán trực tiếp đòi hỏi người tiến hành đàm
15


phán phải chắc chắn về nghiệp vụ, tự chủ, phản ứng nhanh, nhạy…để có thể
tỉnh táo, bình tĩnh nhận xét , nắm được ý đồ, sách lược đối phương, nhanh
chóng có biện pháp đối phó trong những trường hợp cần thiết hoặc quyết định
ngay tại chỗ khi thấy thời cơ kí kết đã chín muồi. Mất bình tĩnh, không tự chủ
sẽ lộ ý định của mình để đối phương nắm được. Trong trao đổi trực tiếp, nên
tránh bàn bạc tham khảo ý kiến của nhau trứoc mặt đối phương để trả lời cho
đối phương. Mỗi lần gặp gỡ nhau thường tốn kém về các chi phí đi lại, đón
tiếp, quà cáp, cho nên gặp gỡ nhau mà không đi đến kết quả gì là điều mà cả
hai bên đều không mong muốn. Chuẩn bị kĩ lưỡng trước khi tiến hành đàm
phán trực tiếp là việc hết sức cần thiết.
Cần xác định rõ mục đích, yêu cầu của đợt đàm phán ,dự kiến những
biện pháp để đạt được những biện pháp để đạt được những kết quả mong
muốn. Mỗi bên đều phải nghiên cứu kĩ về hàng hoá mình định mua bán, các
điều kiện giao dịch định đưa ra trao đổi…quan trọng là việc tìm hiểu kĩ khách
hành mình sẽ gặp. Tính tình, tác phong, trình độ…đều cần được chú ý. Cần
phải để nhiều công sức vào việc dự đoán cho được ý định của khách hàng, dự
kiến những yêu cầu hoặc những nhận xét mà khách hàng sẽ nêu ra đối với quy
cách phẩm chất mặt hàng, về các điều kiện giao dịch về giá cả, về những hợp
đồng đã kí kết trước đó, về tình hình thực hiện những hợp đồng… cần tránh
hai khuynh hướng: một khuynh hướng cho rằng chẳng cần chuẩn bị gì nhiều
cũng có thể đàm phán thành công, ỷ vào những hiểu biết và kinh nghiệm vốn
có … mộ khuynh hướng khác thì chuẩn bị quá lâu, quá cầu toàn. Việc chuẩn
bị đàm phán cần làm chi tiết, chu đáo nhưng phải nhanh.
Trước giai đoạn này, người ta thường lập phương án đàm phán. Trong
phương án đàm phán nêu rõ mục đích của khách hàng, dự kiến những vấn đề
khách hàng sẽ nêu ra và cách giải quyết những vấn đề đó. Sách lược đàm

phán phải được nghiên cứu chuẩn bị thật kĩ. Có thể chuẩn bị nhiều sách lược
ứng với từng tình huống. Những yêu cầu đạt được trong đàm phán cũng được
đề ra với nhiều mức. Bên cạnh là những biện pháp dự kiến bao gồm từ thành
16


phần đàm phán đến các bước thăm dò, cách trình bày ý kiến, các điều kiện
giao dịch với những khuyến khích … và nhất là về giá cả mua bán.
Bên cạnh phương án đàm phán, các cán bộ kinh doanh còn có phương
án tiếp đãi. Trong phương án này có nêu rõ những người tiếp đón, đàm phán,
dự kiến bố trí chương trình làm việc, giải trí, tặng phẩm, chiêu đãi. Khi tiếp
đón khách hàng, cần phải gây thiện cảm ngay từ bước đầu. Nhã nhặn, quan
tâm, nhiệt tình, nhưng đúng mức, không quá vồ vập.
Trong đàm phán cần theo dõi lời nói, cách phát biểu và những thái độ
biểu lộ của khách hàng để phán đoán được ý định và điều quan tâm thực sự
của khách hàng. Tất nhiên khách hàng sẽ tìm cách che dấu, nhưng những cán
bộ giàu kinh nghiệm, chuẩn bị kĩ càng đã tìm hiểu sâu công việc và khách
hàng vẫn có khả năng thăm dò, phát hiện được. Trong quá trình đàm phán,
nên tránh những căng thẳng không cần thiết. ý kiến hai bên có thể đối lập
nhau nhưng thái độ vẫn phải mềm mỏng lịch sự. Trong một số trường hợp
người ta tránh việc phân biệt thắng bại rõ ràng mà tìm cách ngăn ngừa trước
không để đối phương đưa ra những ý kiến đối lập, tìm cách làm đối phương
thống nhất, công nhận dần từng lập luận mình đưa ra, để cùng đưa đến một
kết luận thống nhất. Điều này có thể chỉ có thể làm được nếu người đàm phán
nắm được ý đồ của đối phương và dành được chủ động trong đàm phán. Việc
kí kết hợp đồng trong đàm phán phải được tiến hành kịp thời khi điều kiện kí
kết đã chín muồi. Không nên nôn nóng trong việc kí kết dù thấy thời gian đàm
phán đã sắp hết. Nếu một bên nắm được bên kia có ý nhất định phải ký hợp
đồng trong đợt đàm phán thì sẽ lợi dụng để ép buộc bên kia phải có nhiều
nhượng bộ. Nhiều hợp đồng được ký kết khi tiễn khách ra sân bay. Nhưng

cũng không nên vì thế mà không ký ngay khi có điều kiện. Người tiến hành
đàm phán nên biết ngôn ngữ dùng để đàm phán, vì như vậy sẽ dễ chủ động,
linh hoạt và nâng cao được tốc độ đàm phán. Khi cần dùng phiên dịch, người
phiên dịch cũng nên được chuẩn bị trước để nắm được nội dung đàm phán.
Việc này giúp người phiên dịch rất nhiều trong việc hiểu và do đó dịch được ý
17


tứ trung thành của hai bên. Khi đàm phán có đông người tham dự, nên để một
người thống nhất phát ngôn để tránh sơ hở trong đối đáp. Cũng nên tránh việc
bàn bạc trao đổi ý kiến với nhau ngay trước mặt khách hàng. Việc này vừa
không lịch sự, vừa không có lợi. Phải luôn giả thiết rằng khách hàng cũng
hiểu ngôn ngữ của mình.
6. Kí kết hợp đồng nhập khẩu
6.1 ý nghĩa của hợp đồng ngoại thương
Đối với quan hệ mua bán hàng hoá sau khi các bên mua bán tiến hành
giao dịch đàm phán có kết quả thì phải tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế. Nội
dung của hợp đồng kinh tế phải thể hiện đầy đủ quyền hạn nghĩa vụ cụ thể
của các bên tham gia ký kết.
Trình tự ký kết hợp đồng kinh tế chia làm hai buổi: Đề nghị lập hợp đồng
và tiếp nhận đề nghị. Có thể ký kết hợp đồng bằng hai cách. Các bên ký kết
chủ động gặp nhau để bàn bạc cùng ký kết hoặc một bên kia nghiên cứu và ký
sau. Bên nhận được dự thảo hợp đồng phải trả lời trong vòng 15 ngày kể từ
ngày nhận được dự thảo. Nhưng điều này còn tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa
hai bên đối tác, tuỳ theo sự thoả thuận giữa hai bên. Trong khi bàn bạc ký kết
hợp đồng nếu có những tranh chấp ngoài quyền hạn của các bên ký kết thì hai
bên đối tác có thể thoả thuận lại những điều khoản ngoài quyền hạn của hai
bên cùng nhau khắc phục để đi đến ký kêt hợp đồng. Việc ký kết hợp đồng
kinh tế phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
 Phải đảm bảo đầy đủ pháp luật, đảm bảo tích cực kế hoạch pháp lệnh

và tính pháp chế của hợp đồng kinh tế.
 Phát huy tính chủ động độc lập kinh doanh của bên ký kêt hợp đồng
 Bảo đảm sự hợp tác trên tinh thần hai bên cùng có lợi
6.2 Nội dung của hợp đồng kinh tế
 Tên hàng
 Số lượng và cách xác định
 Quy cách, phẩm chất và cách xác định
18


 Thời hạn, địa điểm giao hàng
 Giá trị, giá cả và điều kiện thanh toán
 Phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán
 Bao bì, ký mã hiệu
 Kiểm tra, giám định hàng hoá xuất nhập khẩu
 Phạt và bồi thường thiệt hại
 Giải quyết tranh chấp
 Những quy định khác tuỳ theo đặc tính của hàng hoá hoặc của việc giao
hàng
Ngoài các điều khoản trên, tuỳ trường hợp cụ thể mà cần có các điều
khoản khác cho phù hợp nhằm đảm bảo tính chất và tính rõ ràng của hợp
đồng.
7. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
7.1 Xin giấy phép nhập khẩu
Giấy phép nhập khẩu là vấn đề quan trọng hàng đầu về mặt pháp lí để tiến
hành các khâu trong quá trình nhập khẩu hàng hoá với xu hướng mở rộng
quan hệ quốc tế,nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh
doanh nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề mà đơn vị đó tiến hành sản xuất
kinh doanh.Xin giấy phép nhập khẩu cho từng lần nhập khẩu một hoặc một số
mặt hàng nhất định , chuyên chở bằng một phương thức vận tải và giao nhận

tại một cưa khẩu nhất định. Nhà nước quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch và
bằng luật pháp. Hàng hoá là đối tượng quản lý gồm có 5 mức.
 Những danh mục hàng hoá nhà nước cấm xuất nhập khẩu hoặc tạm
dừng
 Những danh mục hàng hoá được phép xuất nhập khẩu ngoài hạn ngạch
 Những danh mục hàng hoá quản lý xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch
 Những danh mục hàng hoá quản lý bằng kế hoạch định hướng
 Những danh mục hàng hoá còn lại

19


Hiện nay việc cấp phép nhập khẩu từng chuyến hàng mậu dịch.
 Bộ thương mại cấp giấy phép nhập khẩu từng chuyến hàng mậu dịch
 Tổng cục hải quan cấp giấy phép hàng phi mậu dịch (hàng mẫu, quà
biếu, hàng triển lãm)
 Tuỳ theo tình hình kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn mà
nhà nước ban hành quy định nhập khẩu mặt hàng khác nhau.
Hiện nay nhà nước quy định như sau:
 Hàng nhập khẩu theo nghị định thư hoặc các hiệp định đã ký với nước
ngoài. Đối với mặt hàng này, hàng năm sáu tháng một lần bộ chủ quản,
UBND tỉnh, thành phố cần đăng ký với bộ thương mại kế hoạch nhập
khẩu của mình. Đến kỳ hạn thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh cần
xin giấy phép nhập khẩu từng chuyến
 Hàng nhập ngoài nghị định thư, ngoài nghị định nhưng là hàng quan
trọng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Hàng năm sáu tháng
một lần, trên cơ sở yêu cầu của bộ chủ quản hoặc UBND tỉnh, thành
phố bộ thương mại cấp hạn ngạch thương mại. Trong khuôn khổ hạn
ngạch đơn vị kinh doanh nhập khẩu ký kết hợp đồng và trước mỗi
chuyến giao nhận hàng phải xin giấy phép nhập khẩu từng chuyến.

 Hàng ngoài nghị định thư nhưng không thuộc loại quan trong như
nhóm trên, bộ chủ quản hoặc UBND tỉnh, thành phố không cần xin
phép hạn ngạch nhưng phải đăng ký kế hoạch nhập khẩu với bộ thương
mại, trước mỗi chuyến nhân hàng đơn vị phải xin giấy phép nhập khẩu
từng chuyến
7.2 Mở L/C
*Điều kiện mở L/C
 Phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu
 Có tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng. Để mở tài khoản ngoại tệ tại ngân
hàng ngoại thương Việt Nam phải đóng ít nhất 500 USD vào tài khoản

20


chuẩn bị mở cùng các giấy tờ sau: quyết định thành lập đơn vị, quyết
định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng.
* Cách mở L/C
 Các giấy tờ cần nộp khi đến ngân hàng mở L/C
 Đối với L/C trả ngay cần nộp cho hàng nhập khẩu các giấy tờ: giấy
phép nhập khẩu hàng hoá, hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, đơn xin mở
L/C trả ngay.
 Đối với L/C trả chậm cần nộp các giấy tờ: giấy phép nhập khẩu hàng
hoá hoặc Quota, hợp đồng nhập khẩu hàng hoá, phương án bán hàng và
thanh toán, đơn xin mở L/C, đơn xin bảo lãnh và cam kết trả nợ.
 Nội dung mở L/C cần ghi rõ: loại L/C, người mở L/C (tên, họ, địa chỉ)
cam kết trả tiền của ngân hàng khi bên bán xuất trình bộ chứng từ yêu
cầu đối với chứng từ thanh toán, thời hạn giao hàng, điều kiện giao
hàng, bao bì, đóng gói, ký mã hiệu, thời hạn nộp chứng từ, chỉ thị ngân
hàng thương lượng, tỷ lệ ký quỹ
 Những điều kiện cần chú ý

+ Đơn xin mở L/C là văn bản pháp lý để giải quyết tranh chấp nếu có
giữa người mở L/C và nhận hàng mở L/C, đồng thời là cơ sở để ngân
hàng viết L/C cho bên xuất khẩu. Văn phong của đơn lại rất khó hiểu vì
vậy nhập khẩu cần hết sức chú ý để lập đơn cho chính xác, viết đúng
mẫu và phù hợp với nội dung mình mong muốn.
+ Cần cân nhắc kỹ các điều kiện ràng buộc kèm theo bên xuất khẩu sao
cho vừa chặt chẽ vừa đảm bảo quyền lợi của mình vừa khiến cho bên
xuất khẩu có thể nhận được.
+ Cần tôn trọng những điều khoản của hợp đồng, tránh mâu thuẫn với
hợp đồng.
+ Đơn xin mở L/C không ghi ngày mở L/C thì ngân hàng sẽ mở L/C
ngay khi hoàn tất thủ tục ký quỹ.

21


 Ký quỹ mở L/C: ký quỹ là một hình thức tính tiền trong tài khoản lưu
thông chuyển qua một tài khoản đặc biệt gọi là tài khoản ký quỹ. Tài
khoản này không được quyền tự ý rút tiền ra và gửi tiền vào. Số tiền đó
dùng để thanh toán nộp L/C đã mở.
+ Đối với L/C trả ngay: tuỳ theo từng khách hàng mức quỹ có khác
nhau. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam chia khách hàng ra làm ba
loại
Khách hàng loại I: một số ít đã có quan hệ lâu năm với ngân hàng, tài
khoản gửi tiền luôn có số dư đủ lớn, có uy tín về thanh toán nhập khẩu.
Loại khách hàng này không cần ký quỹ.
Khách hàng loại II: là khách hàng có giao dịch thường xuyên, có uy tín
đối với ngân hàng sẽ được ký quỹ dưới mức 100% giá trị L/C. khi làm
đơn khi mở L/C cần ghi rõ mức phần trăm ký quỹ.
Khách hàng loại III: tỷ lệ ký quỹ là 100%

+ Đối vơi L/C trả chậm
tỷ lệ ký quỹ thường là 10 – 20% giá trị L/C
 Thực thi ký quỹ mở L/C: nếu có số dư tài khoản lớn hơn số tiền ký quỹ
thì ngân hàng sẽ trích số tiền ký quỹ từ tài khoản tiền gửi chuyển sang
tài khoản ký quỹ. Hai tài khoản này có lãi suất bằng nhau (1%), nếu số
dư tài khoản tiền gửi nhỏ hơn sô tiền ký quỹ thì sẽ giải quyết bằng một
trong hai cách: mua ngoại tệ để ký quỹ hoặc vay ngoại tệ để ký quỹ.
Đối với tất cả các trường hợp ký quỹ, đồng thời việc lập phiếu chuyển
khoản với nội dung ký quỹ mở L/C nhân viên ngân hàng lập phiếu
chuyển khoản với nội dung phí mở L/C. cùng với việc lập hai phiếu
trên nhân viên ngân hàng sẽ soạn thảo L/C và trình thủ trưởng duyệt
rồi chuyển L/C cho người nhập khẩu qua ngân hàng thông báo.
7.3 Thuê phương tiện vận tải
Trong thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật khá phát triển, phương tiện
giao thông nói chung và phương tiện vận chuyển hàng hoá nói riêng cũng
22


phát triển rất phong phú và đa dạng về chủng loại. Trong mỗi loại phương
tiện vận chuyển chất lượng của phương tiện và chất lượng phục vụ ngày càng
được nâng cao.
Trong kinh doanh vận chuyển hàng hoá thương mại quốc tế, hiện nay
người ta sử dụng một số loại phương tiện vận chuyển sau đây:
+ Đường sắt có tàu hoả, ô tô ray
+ Đường bộ thì chủ yếu là ôtô
+ Đường hàng không thì chủ yếu là máy bay
+ Đường biển có tàu thuỷ và sà lan
+ Hỗn hợp kết hợp hai hoặc tất cả các phương tiện vận chuyển được
nêu trên.
Trong thương mại quốc tế thì vận chuyển hàng hoá bằng đường biển

giữ một vai trò chủ đạo và chiếm tỷ trọng từ 75 – 80% tổng khối lượng hàng
hoá lưu chuyển trong thương mại quốc tế. Sở dĩ như vậy là do thuận tiện, vận
chuyển được hàng hoá có khối lượng lớn, cồng kềnh, cước phí thấp. Nhưng
có nhược điểm là thời gian vận chuyển dài, gặp nhiều rủi ro trên đường vận
chuyển như thiên tai, cướp biển và các trường hợp bất khả kháng khác…
Điều kiện giao hàng trong hợp đồng thương mại quốc tế là cơ sở xác
định quyền thuê tàu của bên mua và bên bán. Ví dụ như phí xuất khẩu theo
điều kiện CIF ( hoặc bán CIF) cảng nướ ngoài thì bên bán được quyền thuê
tàu. Khi nhập khẩu theo điều kiện FOB (hoặc bán FOB) cảng nước ngoài thì
bên mua được quyền thuê tàu.
Trong thực tế của Việt Nam hiện nay số lượng tàu và trọng tải của tàu
không đáp ứng được nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá do vậy các doanh
nghiệp Việt Nam phải thuê tàu hoả của nước ngoài hoặc nhường quyền thuê
tàu cho nước ngoài. Doanh nghiệp nhập khẩu tuỳ theo đặc điểm, khối lượng
của hàng hoá và điều kiện vận tải mà tiến hành chọn phương tiện vận tải và
hình thức vận tải. Ngoài những hàng hoá có tính năng đặc biệt phải có

23


phương tiên vận chuyển chuyên dụng còn lại thông thường có hai hình thức
thuê vận tải là thuê tài chợ và thuê tàu chuyến.
 Tàu chợ là tàu chỉ chở hàng hoá chạy thường xuyên trên một tuyến nhất
định, ghé vào các cảng quy định và theo một lịch trình định trước. Tàu
chợ chủ yếu chuyên chở các hàng hoá đóng bao gói. Đóng kiện nên còn
gọi là tàu chở hàng bách hoá.

Thuê tàu chợ có ưu điểm sau:
+ Chủ động trong việc thuê tầu và đưa hàng ra cảng gửi hàng.
+ Có thể chuyển chở bất kỳ loại hàng gì, số lượng nhiều hay ít, giá

cước tương đối rẻ.
+ Có thể tính được các cước phí vận chuyển trước khi ký kết các điều
khoản hợp đồng mua bán nhất là các điều khoản về giá cả.
+ Thủ tục thuê tàu đơn giản, nhanh chóng
Thuê tàu chợ có nhược điểm sau:
+ Giá cước tính theo một đơn vị hàng hoá chuyên chở thường rất cao.
+ Người thuê tàu không được tự do thoả thuận các điều kiện chuyên
chở mà phải chấp nhận sẵn có trong vận đơn và biểu cước của chủ tàu.
+ Không linh hoạt, nếu như cảng xếp dỡ nằm ngoài hành tình quy định
của tàu.
 Tàu chuyến là tàu kinh doanh chuyên chở hàng hoá trên biển không
theo một lịch trình định trước, nó thường hoạt động chuyên chở hàng
hoá trong một khu vực địa lý nhất định và theo yêu cầu của người thuê
tàu. Tuỳ theo khối lượng của hàng hoá và đặc điểm chuyên chở, người
thuê tàu có áp dụng một trong các hình thức sau:
+ Thuê chuyến một
+ Thuê chuyến khứ hồi
+ Thuê chuyến một liên tục
+ Thuê bao cả tàu
24


* Ưu điểm của phương thức thuê tàu chuyến gồm có:
+ Tính linh hoạt, có thể xếp dỡ hàng ở bất kỳ cảng nào
+ Giá cước phí tương đối rẻ
+ Người thuê tàu được tự do thoả thuận những điều khoản ghi trong
hợp đồng thuê tàu
+ Tốc độ chuyên chở hàng hoá nhanh do ít ghé vào các cảng dọc đường
*Nhược điểm của phương thức thuê tàu chuyến gồm có:
+ Giá cước phí vận chuyển thường biến động trên thị trường do vậy

chủ hàng khó xác định được chi phí khó bàn bạc ký kết hợp đồng mua
bán hàng hoá và tăng thêm sai số khi xác định lãi ròng trong kinh
doanh.
+ Kỹ thuật nghiệp vụ thuê tàu chuyến khá phức tạp
+ Hàng hoá vận chuyển phải có khối lượng đủ lớn để đảm bảo tải trọng
của tàu.
7.4 Mua bảo hiểm
Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường hay gặp nhiều rủi ro tổn
thất. Bởi vậy trong kinh doanh buôn bán quốc tế, bảo hiểm hàng hoá là loại
bảo hiểm phổ biến nhất. Các doanh nghiệp nhập khẩu cần mua bảo hiểm nhập
khẩu theo các điều kiện EXW, FAC, FAS, FOB, CTT. Hàng nhập khẩu
thường được mua theo một dạng đặc biệt của hợp đồng bảo hiểm. Để bảo
hiểm an toàn cho hàng hoá khi chưa biết tên tàu ngày giờ khởi hành người
được bảo hiểm đến Bảo Việt ký kết hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm
được chia thành hai loại:
+ Hợp đồng bảo hiểm bao: là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng
trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm). Trong hợp đồng bảo hiểm
này,người bảo hiểm sẽ cam kết tất cả các chuyến hàng xuất nhập khẩu của
người được bảo hiểm trong một năm. Khi có chuyến hàng xuất nhập khẩu
người được bảo hiểm khai báo cho người bảo hiểm biết và yêu cầu cấp đơn
hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Ưu điểm của hợp đồng bảo hiểm bao là
25


×