Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN văn định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ thời kì 2000 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.95 MB, 90 trang )

LUẬN VĂN:

Định hướng và các giải pháp phát triển
công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ thời kì 2000 - 2010


Chương I
Những vấn đề lí luận chung về công nghiệp và vai trò của công nghiệp trong nền
kinh tế quốc dân
I-/ Công nghiệp và sự phân loại sản xuất công nghiệp.
1.Công nghiệp và những đặc trưng chủ yếu của sản xuất công nghiệp.
1.1. Khái niệm công nghiệp.
Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản, là khu vực chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân. Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên
thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ, sản xuất và chế biến sản phẩm của công
nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thoả mãn các nhu
cầu khác nhau của xã hội, khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong
quá trình sản xuất và trong sinh hoạt. Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó dưới sự tác
động của phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong
nền kinh tế quốc dân hình thành hệ thống các ngành công nghiệp: khai thác tài nguyên
khoáng sản, động, thực vật; các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm và các ngành công
nghiệp dịch vụ sửa chữa:
- Hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công
nghiệp. Nó cắt đứt các đối tượng ra khỏi môi trường tự nhiên.
- Chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liêu nguyên
thuỷ, để tạo ra sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến để tạo ra sản phẩm cuối cùng.
- Sửa chữa là một hoạt động không thể thiếu được nhằm khôi phục, kéo dài tuổi thọ
của các tư liệu lao động trong các ngành sản xuất.
Từ những nội dung đã trình bày trên có thể hiểu công nghiệp là một ngành kinh tế
to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất


chuyên môn hoá hẹp, mỗi ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp đó lại bao gồm nhiều
đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình thức khác nhau. Trên góc độ trình


độ kĩ thuật và hình thức tổ chức sản xuất,công nghiệp còn được cụ thể hoá bằng các khái
niệm khác nhau như: công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp lớn và công
nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp nằm trong nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, công
nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh...
1.2. Đặc trưng của sản xuất công nghiệp.
a) Các đặc trưng về mặt kĩ thuật-sản xuất của công nghiệp
- Đặc trưng về công nghệ sản xuất: Trong công nghiệp chủ yếu là quá trình tác
động trực tiếp bằng phương pháp cơ lí hoá của con người làm thay đổi các đối tượng lao
động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người. Khác với nông nghiệp
quá trình tác động chủ yếu là bằng phương pháp sinh học, các tác động cơ, lí, hoá trong
nông nghiệp chỉ là những tác động tạo điều kiện môi trường sinh thái để cây trồng, vật
nuôi có thể phát triển. Nghiên cứu đặc trưng về công nghệ sản xuất có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc tổ chức sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ thích ứng với mỗi
ngành. Trong công nghiệp ngày nay phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng
dụng ngày càng rộng rãi đặc biệt là công nghiệp thực phẩm.
- Đặc trưng về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kì sản xuất:
Các đối tượng lao động của trình sản xuất công nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất được
thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này chuyển sang các sản phẩm có công
dụng cụ thể hoàn toàn khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo
ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau. Trong khi đó đối tượng lao động của sản
xuất nông nghiệp sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu. Nghiên
cứu đặc trưng này của sản xuất công nghiệp có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn trong việc tổ
chức quá trình sản xuất và chế biến, trong việc khai thác và tổng hợp nguyên liệu.
- Đặc trưng về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp có khả năng
đáp ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội.
Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất duy nhất tạo ra các sản phẩm làm chức

năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế. Đặc trưng này cho thấy vị trí chủ đạo của
công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất


của quá trình sản xuất đó.
b) Đặc trưng về kinh tế xã hội của sản xuất.
- Do các đặc điểm về mặt kĩ thuật của sản xuất trong quá trình phát triển, công
nghiệp luôn là ngành có điều kiện phát triển về mặt kĩ thuật, tổ chức sản xuất, lực lượng
sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn.
- Cũng do đặc điểm kĩ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất công nghiệp đào
tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỉ luật cao, có tác phong lao động
"công nghiệp".
- Cũng do đặc trưng kĩ thuật sản xuất về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao
động, trong công nghiêp có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu
tạo điều kiện, tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hoá ở trình độ cao.
Nghiên cứu các đặc trưng về kinh tế-xã hội có ý nghĩa thiết thực trong tổ chức sản
xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với các ngành kinh tế quốc
dân của mỗi quốc gia
2. Các phương pháp phân loại sản xuất công nghiệp.
Một trong những nội dung quan trọng của tổ chức quản lí ngành công nghiệp là tổ
chức sắp xếp hoạt động sản xuất công nghiệp thành các lĩnh vực các loại hình sở hữu và
thành các ngành có đặc trưng chuyên môn hoá để hình thành các đối tượng quản lí có đặc
trưng khác nhau, từ đó tổ chức hợp lí và có hiệu quả quá trình chuyên môn hoá trong hoạt
động quản lí. Để thực hiện được điều này cần phải có phương pháp phân loại sản xuất dựa
trên những căn cứ khoa học nhất định.
2.1.Phân loại công nghiệp thành hai ngành sản xuất: tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng.
- Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa vào công dụng kinh tế của sản
phẩm, phương hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm là tư liệu sản xuất
hay tư liệu tiêu dùng. người ta chia công nghiệp thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất



và các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Các sản phẩm có chức năng là tư liệu sản xuất
thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B. Vận dụng phương pháp
phân loại này để sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào hai nhóm ngành tương ứng
là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp của các đơn
vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu sản xuất, đặc biệt là tư liệu lao
động. Còn ngành công nghiệp nhẹ là tổng hợp các đợn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra
các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng trong sinh hoạt là chủ yếu.
- Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong việc vận dụng quy luật tái sản
xuất mở rộng để xây dựng mô hình cơ cấu công nghiệp phù hợp cho đất nước trong mỗi
thời kì phát triển của nền kinh tế.
2.2. Phân loại công nghiệp thành ba nhóm ngành: khai thác, chế biến, điện ga và
nước.
- Đặc điểm của công nghiệp khai thác, chế biến, điện ga và nước.
Công nghiệp khai thác có nhiệm vụ cắt đứt đối tượng lao động khỏi môi trường tự
nhiên, tạo thành các loại nguyên liệu nguyên thuỷ. Công nghiệp chế biến làm thay đổi về
chất của các đối tượng lao động là nguyên liệu nguyên thuỷ thành các sản phẩm trung gian
và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng. Cùng với quá trình phát triển của công
nghiệp thì điện, ga và nước cũng được tách ra thành một phân ngành độc lập với công
nghiệp khai thác và chế biến. Việc tách công nghiệp điện, ga và nước ra thành một ngành
chuyên môn hoá độc lập vừa phù hợp với quá trình phát triển công nghiệp, khẳng định vai
trò của công nghiệp điện, ga và nước; đồng thời làm cho sự phân loại trở nên chính xác
hơn.
- Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa vào tính chất khác nhau của sự biến
đổi đối tượng lao động, sự tác động của lao động và công dụng sản phẩm của các hoạt
động trên.
- Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện cân đối trong
quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, cân đối giữa nguồn nguyên liệu và chế biến
nguyên liệu, xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế cân đối giữa khai thác tài nguyên và chế



biến tài nguyên trong nền kinh tế quốc dân.
2.3. Phân loại công nghiệp thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp.
- Ngành chuyên môn hoá hẹp là tổng hợp các xí nghiệp mà hoạt động sản xuất chủ
yếu của chúng có những đặc trưng kĩ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau:
+ Cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự (cơ,
lí, hoá hoặc sinh học).
+ Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng
loại.
+ Sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau.
Trong ba đặc trưng này thì đặc trưng về công dụng cụ thể là quan trọng nhất.
-Căn cứ của phương pháp phân loại này được dựa vào các đặc trưng kĩ thuật sản
xuất giống nhau hoặc tương tự nhau để sắp xếp các đơn vị sản xuất kinh doanh thành các
ngành chuyên môn hoá.
Phân loại theo phương pháp này có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng các mô hình
cơ cấu cân đối liên ngành, đặc biệt đối với các sản phẩm chủ yếu, quan trọng của công
nghiệp trong việc lựa chọn các hình thức tổ chức mối liên hệ sản xuất giữa các ngành.
2.4. Phân loại công nghiệp dựa và sự khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ
chức sản xuất xã hội và trình độ kĩ thuật của sản xuất công nghiệp.
-Theo phương pháp này, hình thành các loại hình công nghiệp như: công nghiệp
quốc doanh, công nghiệp ngoài quốc doanh với các loại hình sở hữu khác nhau, công
nghiệp lớn vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và đại công nghiệp....
-Các phương pháp phân loại này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong việc tổ chức và đầu tư vào việc ứng dụng
khoa học và công nghệ trong công nghiệp.


II-/ Vị trí, vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
1.- Vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế.

Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, vị trí đó xuất phát từ các lí do chủ yếu sau:
- Công nghiệp là một bộ phận hợp thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp -dịch
vụ. Do những đặc điểm vốn có của nó, trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất
lớn, công nghiệp phát triển từ vị trí thứ yếu trở thành ngành có vị trí hàng đầu trong cơ cấu
kinh tế đó.
- Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu
ngày càng cao của con người. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, công nghiệp là
ngành không những chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu
nguyên thuỷ được khai thác và chế biến từ các loại tài nguyên khoáng sản, động thực vật
thành các sản phẩm trung gian, để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, nhằm thoả mãn nhu cầu
vật chất và tinh thần cho con người.
- Sự phát triển của công nghiệp là một yếu tố có tính quyết định để thực hiện quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát
triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn, tuỳ theo trình độ phát triển của công nghiệp và của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ những đặc điểm và điều kiện cụ thể của đất
nước trong mỗi thời kì cần phải xác định đúng vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân, hình thành phương án cơ cấu công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ và định hướng
từ chuyển dịch cơ cấu đó một cách có hiệu quả. Đó là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
của mỗi quốc gia.
2.- Vai trò và tác động của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế.
2.1. Vai trò của công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế
-Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan đó xuất phát từ


bản chất và những đặc điểm vốn có của sản xuất công nghiệp. Trong quá trình phát triển
nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp luôn giữ vai trò chủ
đạo. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được hiểu là: trong quá trình phát triển kinh tế, công

nghiệp là ngành có khả năng tạo ra động lực và định hướng sự phát triển các ngành kinh tế
khác lên nền sản xuất lớn. Vai trò chủ đạo đó dược thể hiện trên các mặt sau:
- Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp có điều kiện tăng nhanh tốc
độ phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản
xuất, có khả năng và điều kiện sản xuất hoàn thiện. Nhờ đó lực lượng sản xuất trong công
nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do quy luật "quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất", trong công nghiệp có
được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất,
sự hoàn thiện về các mô hình tổ chức sản xuất đã làm cho công nghiệp có khă năng định
hướng cho các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất đi lên nền sản xuất lớn theo "hình
mẫu", theo "kiểu" công nghiệp.
- Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc điểm về công nghệ
sản xuất, đặc điểm về công dụng sản phẩm công nghiệp, công nghiệp là ngành duy nhất
tạo ra sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế, từ đó mà công
nghiệp có vai trò quyết định trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào để xây dựng cơ sở vất
chất cho toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân.
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất- kĩ
thuật, và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính
tổ chức, tính kỉ luật và trình độ kĩ thuật cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất,
công nghiệp là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng trong việc tạo ra thu
nhập quốc dân, tích luỹ vốn để phát triển nền kinh tế, từ đó công nghiệp có vai trò quan
trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế
như: tạo việc làm; xoá bỏ cách biệt thành thị nông thôn, giữa miền xuôi với miền núi...
- Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng có chủ trương "coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu" giải quyết vấn đề cơ bản về lương thực cung cấp
nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp. Để thực hiện được những nhiệm vụ


cơ bản đó, công nghiệp có vai trò quan trọng cung cấp các yếu tố đầu vào và giải quyết
đầu ra đưa nông nghiệp lên nền sản xuất hàng hoá.

2.2. Những tác động của phát triển công nghiệp trong quá trình phát triển kinh
tế.
2.2.1. Phát triển công nghiệp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Phát triển công nghiệp là chìa khoá để phát triển kinh tế bởi năng xuất lao động cao
trong công nghiệp sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở
rộng thị trưòng hàng tiêu dùng và dịch vụ. Đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế
biến.Vì đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả và cũng là ngành có
khả năng tăng xuất khẩu, giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm,
giảm tỉ lệ thất nghiệp, cải thiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội. Thúc đẩy phát triển kinh tế.
2.2.2. Phát triển công nghiệp với quá trình đô thị hoá.
Thông qua phân bố công nghiệp mà phân bố lại dân cư ở các vùng, thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng, thực hiện quá trình đô thị hoá đất nước. Quá
trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá thường diễn ra song song bởi các lí do sau:
a) Các yếu tố có tính chất tiết kiệm.
- Dân số đông sẽ giảm được chi phí tuyển dụng nhân công vào làm công nghiệp,
đặc biệt là cán bộ giỏi, công nhân lành nghề.
- Không phải tăng thêm chi phí xã hội trong việc xây dựng thêm kết cấu hạ tầng.
- Dịch vụ y tế giáo dục đã được và có điều kiện phát triển cao ở thành phố.
b) Hiệu quả kinh tế của việc hôi tụ nhiều công ty của nhiều ngành vào gần nhau.
-Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu sẽ giảm chi phí vận chuyển và cung cấp kịp thời.
- Gần các dịch vụ sửa chữa giảm chi phí.
- Tài chính ngân hàng cũng tập trung ở thành phố thuận lợi cho hoạt động công


nghiệp.
- Có điều kiện tốt cập nhật thông tin trong nước và quốc tế.
c) Tiện nghi ở thành phố tốt hơn dễ thu hút mọi người.
Trong xã hội công nghiệp nhu cầu về tiện nghi sinh hoạt rất cao và ở khu vực thành
thị có khả năng đáp ứng tốt hơn, thu hút được mọi người và chính lực lượng này sẽ đóng
vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp

2.2.3. Phát triển công nghiệp với giải quyết việc làm.
Ngoài việc tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kĩ thuật cho các
ngành là cơ sở vất chất cho các ngành tạo ra việc làm thì quá trình phát triển công nghiệp
cũng yêu cầu một lực lượng lớn lao động mà đặc biệt là lao động có trình độ cao cho quá
trình phát triển. Công nghiệp càng phát triển thì yêu cầu về lao dộng càng cao, giải quyết
được việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp của nền kinh tế.
2.2.4. Phát triển công nghiệp với những mối liên kết trong nền kinh tế.
Quá trình phát triển công nghiệp đòi hỏi sự liên kết ngược từ các ngành khác với
công nghiệp cũng như giữa các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành
công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng.
- Trước hết nông nghiệp có ảnh hưởng qua lại rất lớn đối với phát triển công
nghiệp. Nâng cao năng xuất lao động trong nông nghiệp giúp cho công nghiệp phát triển
thuận lợi hơn và ngược lại. Mối quan hệ được thể hiện ở các mặt sau:
+ Thu nhập cao của nông dân sẽ làm tăng cầu về hàng hoá công nghiệp.
+ Năng xuất lao động nông nghiệp tăng sẽ làm tăng nguồn nguyên liệu cung
cấp cho công nghiệp.
+ Năng xuất lao động nông nghiệp tăng sẽ tăng nhanh lượng nông sản xuất
khẩu, thu ngoại tệ tăng tạo điều kiện nhập khẩu nguyên vật liệu làm đầu vào cho công
nghiệp.


+ Thu nhập của nông dân tăng sẽ tăng khả năng tiết kiệm, tăng khả năng đầu
tư phát triển kinh tế.
+ Năng xuất lao động nông nghiệp tăng lên cho phép rút bớt lao động ra khỏi
khu vực nông nghiệp. Đây là lực lượng lao động bổ sung cho công nghiệp.
+ Công nghiệp cung cấp đầu vào và giải quyết đầu ra cho nông nghiệp, công
nghiệp phát triển thu nhập người dân tăng kích thích giá nông sản tăng có lợi cho nông
dân, kích thích mở rộng sản xuất nông nghiệp, tăng năng xuất cây trồng vật nuôi...
-Sự liên kết ngược từ những ngành công nghiệp chủ yếu sản xuất hàng hoá tiêu
dùng qua các ngành công nghiệp sản xuất tư liẹu sản xuất. Sự liên kết ngược trực tiếp cho

bất kì một ngành công nghiệp j nào đó được xác định như sau:
Lbj= aij
Trong đó: Lbj là chỉ số liên kết ngược.
aij là hệ số leontief (hệ số đầu vào-đầu ra)
Công thức trên cho ta cách tính sự liên kết ngược một cách đơn giản bằng cách
công các hiệu số đầu vào trong nước của nó.
Ví dụ: Nếu ngành công nghiệp dệt tăng giá trị sản lượng lên 30% và nhập khẩu
tương đương 15% giá trị sản phẩm thì chỉ số liên kết ngược Lbj sẽ là 55% bằng phần chi
phí mua nguyên liệu trong nước: (100%-30%-15%=55%).
Chỉ số này chỉ nói lên mối liên kết ngược trực tiếp.
Nhưng nếu ngành dệt khuyến khích trồng bông thì liệu việc trồng bông có tác
dụng kích thích lại sản phẩm phân bón và thuốc trừ sâu không? Ta có thể xác định sự tác
động gián tiếp này bằng cách cộng những hệ số gián tiếp và hệ số trực tiếp của phần đảo
ma trận của Leontief kí hiệu hệ số Rij, ta có:
Ltj = Rij .


Trong đó:
Ltj = hệ số trực tiếp cộng hệ số gián tiếp, hay là toàn bộ liên kết ngược từ ngành
công nghiệp j.
Phương pháp đơn giản để xác định những liên kết thuận, trực tiếp:
Lft = j Xij / Zi .
Trong đó:
Lft là hệ số liên kết thuận cho ngành công nghiệp i.
Xij là sản phẩm của ngành công nghiệp thứ i có được bởi ngành công nghiệp sử
dụng thứ j (dãy thống kê bảng đầu ra-đầu vào).
Zi là sản phẩm i cho khâu sử dụng trung gian và khâu sử dụng cuối cùng.
2.2.5. Phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên.
a) Một số hậu quả của quá trình phát triển công nghiệp tới môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên có vai trò quan trọng đối với phát triển công nghiệp. Từ khí

quyển, thuỷ quyển, địa quyển đều có những tác động lớn nhỏ tới phát triển công nghiệp.
Môi trường tự nhiên cung cấp và đảm bảo không gian cần thiết, cũng như các loại tài
nguyên làm nguyên liệu đầu vào cho phát triển công nghiệp.
Sản xuất công nghiệp là quá trình biến đổi vất chất từ dạng tự nhiên của nó thành
dạng vật chất có giá trị sử dụng khác nhau đáp ứng nhu cầu của con người, đồng thời làm
biến đổi môi trường tự nhiên. Toàn bộ chu trình biến đổi mà công nghiệp tác đông vào môi
trường có thể thấy rõ qua sơ đồ:

Môi trường tự nhiênSản xuất công nghiệpChất thải công nghiệp

Sản phẩm có ích



Quá trình tiêu dùng

Chất thải


Cùng với quá trình phát triển công nghiệp, mức độ tác động của nó tới môi trường
tự nhiên cũng tăng lên. Những thành tựu của khoa học kĩ thuật được nhanh chóng đưa vào
phát triển sản xuất công nghiệp và cùng với quá trình này công nghiệp phát triển nhanh
chóng tăng cả về quy mô, phạm vi, tốc độ, cơ cấu đã tác động rất mạnh đển môi trường,
làm biến đổi môi trường. Sự phong phú đa dạng của hoạt động sản xuất công nghiệp với
một hệ thống ngành nghề ngày càng tăng, đã tạo ra hàng loạt những sự tác động khác nhau
vào môi trường tự nhiên. Con người thông qua sản xuất công nghiệp trở thành nhân tố tác
động mạnh mẽ nhất đến môi trường tự nhiên, làm cho môi trường không chỉ đơn thuần vận
động theo quy luật tự nhiên nữa. Thể hiện ở các mặt sau:
Quy mô của sản xuất công nghiệp tăng không ngừng và với tốc độ nhanh hàng
loạt các ngành công nghiệp mới ra đời, đã khai thác sử dụng tài nguyên với một khối

lượng lớn hơn trước rất nhiều, làm cho nguồn tài nguyên trở nên cạn kiệt. Hậu quả tất yếu
không thể tránh khỏi là diện tích đất đai dành cho nông nghiệp và nguồn động, thực vật
giảm đi nhanh chóng, phá vỡ thảm thực vật bao phủ bề mặt trái đất, làm giảm độ màu mỡ
gây bạc màu chua mặn....
Tốc độ khai thác, sử dụng các loại tài nguyên động, thực vật dùng cho chế biến
công nghiệp nhanh hơn rất nhiều lần khả năng tự tái sinh của thế giới động thực vật, đã
làm giảm màu xanh trên trái đất. Tình trạng khai thác rừng ồ ạt với quy mô tốc độ lớn đã
làm giảm tài nguyên rừng nghiêm trọng. Nhiều loại động, thực vật trên thế giới bị diệt
chủng, khoảng 60000 loài động, thực vật đang trong tình trạng suy thoái. Đây là nguy cơ
dẫn đến hậu quả khôn lường do môi trường tự nhiên tác động trở lại.
Công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản phát triển nhanh nhằm đáp ứng
nhu cầu của công nghiệp chế biến đã tác động trực tiếp to lớn đến môi trường, phá huỷ bề


mặt trái đất làm thay đổi địa hình nhiều nguồn tài nguyên bị sử dụng lãng phí. Một lượng
chất thải lớn hàng năm được trả lại môi trường dưới các dạng lí hoá tính khác nhau.
Tất cả những tác động đó của phát triển công nghiệp dẫn đến những hậu quả to lớn
đối với môi trường cụ thể là:
+ Hiệu ứng nhà kính, do tăng lượng khí CO

2

dẫn đến tăng nhiệt độ môi

trường.
+ Phá vỡ tâng ôzôn.
+ Bão từ.
+ Ô nhiễm đất, nguồn nước, không khí. Lượng ôxi và nguồn nước giảm
trong khi đó các loại khí độc như NH4, CO2... tăng rất nhanh.
b) Những biện pháp phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường.

- Lựa chọn công nghệ thích hợp vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển công
nghiệp hợp lí vừa đảm bảo các tiêu chí bảo vệ môi trường.
- Hoàn thiện hệ thống tổ chức sản xuất công nghiệp theo hướng kết hợp phát triển
công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên.
- Tổ chức công tác sử lí chất thải công nghiệp tăng cường vai trò và hoàn thiện các
công cụ quản lí của Nhà nước, nhằm hạn chế tác động tiêu cực của phát triển công nghiệp
tới môi trường.
- Tiến hành thực hiện một số biện pháp bảo vệ môi trường theo cơ chế thị trường:
+ Đánh thuế ô nhiễm.
+ Cấp giấy phép ô nhiễm chuyển nhượng.
+ Thành lập quỹ bảo vệ môi trường.


2.2.6. Phát triển công nghiệp với nâng cao chất lượng cuộc sống.
Một câu hỏi được đặt ra là: Công nghiệp hoá có thực sự nâng cao chất lượng cuộc
sống hay không? Câu hỏi này được đặt ra bởi vì kết quả tăng trưởng kinh tế do công
nghiệp mang lại thường dẫn đến sự tắc nghẽn giao thông, sự đi lại nơi làm việc ngày càng
xa, gia tăng tội phạm, ô nhiễm môi trường. Nghĩa là tạo ra các yếu tố làm giảm chất lượng
cuộc sống. Đó là một thực tế nhưng để đánh giá chất lượng cuộc sống thì có rất nhiều cách
thức và rất nhiều yếu tố để đánh giá rất khó có thể đưa ra được kết luận đúng trên mọi giác
độ. .Ngày nay phổ biến người ta dùng ba yếu tố cơ bản là: tuổi thọ bình quân, mức độ biết
chữ, sức mua thực tế của người dân. Nhưng các yếu tố phản ánh chất lượng cuộc sống này
đều phụ thuộc vào mức thu nhập quốc dân (GDP) trên đầu người. Tính quy luật là khi thu
nhập quốc dân theo đầu người tăng lên thì tỉ lệ dân đô thị tăng lên, tỉ lệ học sinh tăng, tỉ lệ
thầy thuốc trên 1000 dân tăng, tỉ lệ người dưới mức nghèo khổ giảm, tuổi thọ trung bình
tăng....Những xu hướng trên khăng định rằng phát triển công nghiệp đã dẫn đến sự thay
đổi căn bản về mức sống của dân cư, cải thiện chất lượng cuộc sống.
3.- Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển công nghiệp.
Phát triển công nghiệp là sự chuyển đổi căn bản cả về chất và lượng của công
nghiệp trên cơ sở đổi mới công nghệ, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh

tế và cơ cấu lao động làm nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững của
toàn bộ nền kinh tế. Kết quả của quá trình phát triển công nghiệp là sự chuyển đổi căn bản
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế-xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động hiệu quả và trình
độ văn minh kinh tế xã hội cao.
Quá trình phát triển công nghiệp được thể hiện ở các chỉ tiêu sau:
3.1. Quy mô và tốc độ phát triển.
Trong qúa trình phát triển của công ngiệp thì quy mô và tốc độ phát triển của công
nghiệp không ngừng tăng lên. Để đánh giá quy mô của công nghiệp người ta sử dụng các
chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tổng sản lượng, giá trị gia tăng hàng năm, số lượng lao động
trong công nghiệp....Để đánh giá tốc độ tăng trưởng hàng năm của công nghiệp người ta


thường dùng các chỉ tiêu: Tốc độ tăng của giá trị tổng sản sản lượng công nghiệp và tốc độ
tăng của GDP công nghiệp. Trong quá trình phát triển của công nghiệp thì các chỉ tiêu này
phải được duy trì ở tốc độ cao. Nhưng khi công nghiệp đã phát triển, nghĩa là giá trị tổng
sản lượng và GDP công nghiệp lớn thì việc tạo ra được 1% giá trị gia tăng sẽ khó khăn
hơn.
3.2. Cơ cấu công nghiệp chuyển đổi theo hướng hiện đại hoá.
Chuyển đổi cơ cấu ngành.
Chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp biểu hiện dưới mặt lượng là sự thay đổi mối
tương quan tỉ lệ của mỗi phân ngành trong công nghiệp. Sự thay đổi đó biểu hiện ở một
trong hai yếu tố: Số lượng ngành thay đổi hoặc mối tương quan tốc độ phát triển giữa các
ngành có sự thay đổi. Về mặt chất sự chuyển đổi cơ cấu ngành thể hiện ở sự thay đổi
phương án bố trí các ngành trong chiến lược phát triển và vị trí từng phân ngành trong cơ
cấu làm thay đổi tính cân đối cũ để chuyển sang một trạng thái cân đối mới ở trình độ cao
hơn.
Chuyển đổi cơ cấu theo thành phần kinh tế.
Không có một lí thuyết chung đánh giá sự chuyển đổi cơ cấu công nghiệp theo
thành phần kinh tế trong quá trình phát triển công nghiệp, bởi xác định cơ cấu công nghiệp

theo thành phần kinh tế bị phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố chủ quan. Tuy nhiên ở nước
ta trong quá trình phát triển công nghiệp thì cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế
cần được chuyển đổi theo hướng tăng cường vị trí, vai trò của khu vực phi quốc doanh.
Thực tế cho thấy trong những năm qua khu vực kinh tế quốc doanh ở trong tình trạng trì
trệ kém phát triển và đã bộc lộ nhiều hạn chế về công nghệ, trình độ quản lí, trình độ lao
động và “sức ỳ” trong khu vực quốc daonh là rất lớn. Như vậy tăng cường vị trí vai trò của
khu vực phi quốc doanh trong quá trình phát triển là biểu hiện của sự chuyển đổi cơ cấu
theo thành phần kinh tế trong quá trình phát triển công nghiệp.
Tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ
Tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ là sự phân công sản xuất sản phẩm giữa


các vùng lãnh thổ để hình thành phương án sản xuất sản phẩm và bố trí các đơn vị sản
xuất, các tổng hợp thể sản xuất trên phạm vi không gian lãnh thổ. Trên cơ sở nhận thức,
vận dụng các quy luật tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định. Tổ chức sản xuất theo lãnh thổ là
một hoạt động nhằm xác định phương án cơ cấu sản xuất theo ngành trên mỗi vùng lãnh
thổ kết hợp giữa chuyên môn hoá với đa dạng hoá các ngành sản xuất trên mỗi vùng lãnh
thổ trên cơ sở phát huy lợi thế của mỗi vùng để định hướng chuyên môn hoá sản xuất giữa
các vùng, nhờ đó nâng cao trình độ sản xuất giữa các đơn vị lãnh thổ trên vùng và giữa các
vùng trong quá trình phát triển.
Cơ cấu công nghiệp trong nước và nước ngoài.
Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới thì khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã tăng lên đáng kể. Với một nền kinh tế nhỏ bé và ngành công nghiệp phần nào còn
non trẻ của Việt Nam thì đầu tư nước ngoài đóng một vai trò hết sức quan trọng. Việc
chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trong nước và nước ngoài ở Việt Nam hiện nay cũng là
một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát triển của công nghiệp. Kể từ sau khủng
hoảng kinh tế khu vực cho đến nay vấn đè đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang
làm cho các nhà hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phải suy nghĩ, bởi đầu tư
nước ngoài liên tục giảm trong những năm gần đây. Trong thời gian tới chúng ta cần phải
có những biện pháp thích hợp để thu hút trở lại nguồn vốn này như trong giai đoạn đầu

những năm 90.
3.3. Mức độ tập trung hoá.
Sự ra đời và phát triển của các ngành sản xuất vật chất gắn liền với quá trình phân
công lao động xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Trong quá trình ấy trình độ tập trung
hoá sản xuất của chúng cũng không ngừng được nâng cao. Thực chất của tập trung hoá sản
xuất là quá trình tập trung lao động và các yếu tố vật chất vào một ngành chuyên môn hoá
nhờ đó làm tăng GDP của ngành. Mức độ tập trung hoá được xác định như sau:
k

GDPi
GDPtn

Li
Ltn

Trong đó: k là mức độ tập trung hoá.


GDPi là GDP ngành i.
GDPtn là GDP toàn ngành công nghiệp
Li là lao động ngành i
Ltn là lao động toàn ngành công nghiệp
Công thức này cho ta cách tính mức độ tập trung hoá của công nghiệp. Mức độ tập
trung hoá của ngành càng cao thể hiện ngành đó càng phát triển.
3.4. Sự phát triển của một số ngành sản phẩm chủ yếu.
Sẽ là nhầm lẫn khi nói rằng để phát triển công nghiệp chúng ta tiến hành đầu tư phát
triên tất cả các ngành sản phẩm công nghiệp . Điều này là không thể thực hiện được với
các quốc gia đang phát triển và đồng thời thì nó cũng sẽ không đúng dưới cả góc độ lí
thuyết là chúng ta luôn luôn giải bài toán kinh tế trong điều kiện khan hiếm nguồn lực.
Chính vì vậy việc hình thành lên một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu làm mũi nhọn cho

sự phát triển chung của toàn ngành công nghiệp là đúng đắn và cần thiết. Trên cơ sở tất cả
các lợi thế so sánh, căn cứ vào nhu cầu thị trườngvà căn cứ vào chiến lược phát triển của
công nghiệp thì trên mỗi vùng và trên toàn bộ lãnh thổ sẽ hình thành lên các sản phẩm chủ
lực cho mình. Sự hình thành lên các sản phẩm chủ lực sẽ giải quyết được bài toán khan
hiếm về nguồn lực và đồng thời sẽ tạo ra sự phát triển chung cho toàn ngành công nghiệp
cũng như sự phát triển của nền kinh tế và đây là một tiêu chí đẻ đánh giá sự phát triển
chung của công nghiệp .
Trong thời gian qua ở Việt Nam cũng như vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã hình
thành lên được một số sản phẩm quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Nhưng
cho đến nay một số sản phẩm quan trọng như sản xuất đường, ximăng, sản xuất và lắp ráp
ôtô, xe máy đang đứng trước những khó khăn lớn, sản phẩm tồn kho rất cao và chưa có thị
trường tiêu thụ. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số giải pháp kinh cầu và cho đến
nay cũng đã có một số kết qủa đáng kể. Nhưng nhìn chung thì các giải pháp đó cũng chưa
đủ mạnh để giải quyết tình trạng “trì trệ” trong phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.
III-/ Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng


điểm Bắc Bộ
quá trình phát triển công nghiệp như đã phân tích ở trên ảnh hưởng rất lớn đến
nhiều mặt của nền kinh tế trên cả hai phương diện tiêu cực và tích cực. Nhưng đồng thời
với quá trình đó thì công nghiệp cũng chịu tác động của nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã
hội. Các yếu tố đó cụ thể như sau:


1.- Các điều kiện tự nhiên.
-Vị trí địa lí đây là một nguồn lực cần được xem xét khi xác định cơ cấu công
nghiệp để phát triển. Đó là một tất yếu trong quá trình xây dựng nền kinh tế mở tăng
cường và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào đời sống kinh tế của quốc gia,
khu vực và thế giới. Vị trí địa lí thuận lợi là đầu mối giao lưu kinh tế quốc tế, sẽ tạo thành
lợi thế so sánh với các vùng khác. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có một vị trí địa lí hết

sức thuận lợi, nếu tận dụng được lợi thế này thì đây là một yếu tố tác động mạnh mẽ tới
quá trình phát triển kinh tế nói chung và tới phát triển công nghiệp nói riêng.
- Các loại tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản) và các điều kiện tự
nhiên (thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục địa...) tác động mạnh mẽ
tới quá trình phát triển công nghiệp của vùng. Các yếu tố này hoặc trở thành đối tượng lao
động để phát triển các ngành khai thác và chế biến, hoặc trở thành điều kiện để xây dựng
và phát triển các ngành công nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng lớn,
điều kiện khai thác thuận lợi sẽ cho phép xây dựng cơ cấu công nghiệp gồm nhiều ngành
với nền tảng vững chắc để phát triển. Cần chú ý rằng các nguồn lợi tự nhiên trên có loại
ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển công nghiệp có loại ảnh hưởng gián tiếp đến cơ cấu công
nghiệp qua sự ảnh hưởng đến phát triển các ngành kinh tế khác (nông, lâm, ngư nghiệp,
kết cấu hạ tầng kĩ thuật...). Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ không phải là vùng giầu tài
nguyên nhất so với các vùng khác trong cả nước. Tuy vậy vùng có một số loại tài nguyên
với trữ lượng lớn, quan trọng và một số chiếm tỉ trọng lớn so với cả nước. Địa bàn trọng
điểm cần phải tận dụng tiềm năng này để tiềm năng có thể trở thành lợi thế so sánh cho
phát triển công nghiệp.
2.- Các điều kiện về kinh tế xã hội.
2.1. Các điều kiện về lịch sử xã hội của vùng.
Mỗi vùng đều có những ngành nghề truyền thống, kinh nghiệm, kĩ năng truyền
thống và những tập quán sản xuất. Tất cả những yếu tố lịch sử xã hội của vùng là những
nhân tố tác động tới phương án tổ chức sản xuất trên vùng, tới sự phát triển công nghiệp
của vùng. Sự phát triển lâu đời còn tạo ra những mối quan hệ trong sản xuất cũng như


trong đời sống xã hội của vùng. ở đây những người lao động với tâm lí, tập quán, thói
quen với tiện nghi sinh hoạt đã tạo ra sự gắn bó với quê hương hình thành những nhu cầu
mở rộng sản xuất, tạo việc làm tại chỗ cho số lao động tăng lên hàng năm. Dân tộc là biểu
hiện tập trung của các yếu tố lịch sử xã hội có ảnh hưởng lớn đến tổ chức sản xuất trên
vùng. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với một lực lượng lao động có dân trí cao đa phần
là dân tộc kinh với ba đỉnh là ba thành phố lớn. Chính vì vậy các yếu tố lịch sử xã hội đều

mang tính chất tiên tiến, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển. Tuy vậy cũng cần phải chú
ý tới các yếu tố lịch sử xã hội này một cách đúng mức để nó luôn luôn tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển, tránh tình trạng có những tác động tiêu cực ngược chiều.
2.2. Dân số và nguồn nhân lực.
Dân số và nguồn nhân lực được coi là một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh
tế nói chung, công nghiệp nói riêng. Trước hết dân số và mức sống của dân cư tạo thành
thị trường to lớn mà các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phải phát triển mạnh
mẽ để đáp ứng nhu cầu. Thứ hai, trình độ dân trí, khả năng tiếp thu kĩ thuật mới của lao
động tạo thành cơ sở quan trọng để phát triển các ngành kĩ thuật cao. ở những quốc gia có
nguồn lao động dồi dào trong cơ cấu công nghiệp cần chú ý đúng mức việc phát triển các
ngành sử dụng nhiều lao động để góp phần tạo thêm việc làm, giải quyết tình trạng thất
nghiệp. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có một lực lượng lao động với trình độ học vấn
cao nhất cả nước, đây là một lợi thế rất lớn của vùng. Nếu như lợi thế này được phát huy
đúng mức thì sẽ trở thành động lực để cho địa bàn trọng điểm phát triển hơn đúng với tiềm
năng và yêu cầu đặt ra.
2.3. Tiến bộ khoa học công nghệ
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, cơ cấu công nghiệp
của một nước vừa phải phản ánh su thế phát triển khoa học công nghệ, vừa phải biểu thị
khả năng ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ. Sự ảnh hưởng của
tiến bộ khoa học công nghệ đến sự phát triển công nghiệp thể hiện trên các mặt chủ yếu
sau:
-Tiến bộ khoa học công nghệ thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội.


Phân công lao động xã hội xã hội là tác nhân trực tiếp tác động tới sự phát triển công
nghiệp, tới sự phân hoá nội bộ ngành công nghiệp thành những phân hệ khác nhau. Bởi
vậy, trình độ tiến bộ khoa học và công nghệ ngày càng cao, phân công lao động xã hội
càng sâu sắc, sự phân hoá công nghiệp diễn ra càng mạnh và cơ cấu công nghiệp càng
phức tạp, đa dạng tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển.
-Việc thực hiện các nội dung của tiến bộ khoa học và công nghệ trong tất cả các

lĩnh vức của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi phải phát triển mạnh một số ngành công
nghiệp. Nói cách khác sự phát triển một số ngành công nghiệp then chốt, trọng điểm là
điều kiện vật chất thiết yếu để thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả các nội dung của tiến bộ
khoa học công nghệ. Đồng thời tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra những khả năng sản
xuất mới đẩy nhanh nhịp độ phát triển một số ngành, tạo ra những nhu cầu mới, làm hạn
chế ảnh hưởng của tự nhiên cho phép phát triển công nghiệp ngay cả khi những điều kiện
tự nhiên không thuận lợi.
Về khoa học công nghệ của vùng kinh tế trọng điểm, đây là một hạn chế, công
nghiệp trong vùng đã có từ rất lâu nhưng ít được đổi mới. Chính vì thế cho đến ngày nay
công nghệ nhìn chung đã lạc hậu so với khu vực và thế giới. Địa bàn trọng điểm cần phải
có sự đổi mới công nghệ, tránh tình trạng tụt hậu quá xa, hạn chế sự phát triển của công
nghiệp cũng như sự phát triển chung của cả vùng.
2.4. Các điều kiện về vốn.
vốn có loại cơ bản: vốn sản xuất và vốn đầu tư.
-Vốn sản xuất được hiểu là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện
phục vụ cho quá trình sản xuất bao gồm vốn cố định và vốn tồn kho. Trong đó vốn cố định
là bộ phận cơ bản.
-Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ,
là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong
quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình.


Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong
đầu tư có thể tác động lớn đối với sự phát triển kinh tế nói chung và tới sự phát triển công
nghiệp nói riêng. Hoạt động đầu tư tác động tới cả tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế.
Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải, vật liệu xây dựng...tăng lên. Quá trình đầu tư này sẽ dẫn đến tăng vốn sản
xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản
xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Điều cần lưu ý là những tác động của

vốn đầu tư và vốn sản xuất tới nền kinh tế mà cụ thể tới phát triển công nghiệp không phải
là quá trình riêng rẽ mà nó là sự kết hợp, đan xen lẫn nhau, tác động một cách liên tục
nhiều chiều.
Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trình
sản xuất. Nếu lao động và tài nguyên chỉ được coi là yếu tố đầu vào thì vốn đầu tư vừa
được coi là yếu tố đầu vào, vừa được coi là yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu
tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp,
của ngành công nghiệp, của nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa
học-công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình
sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động khi mở rộng ra các công trình xây dựng và mở rộng ra quy mô sản xuất. Cùng với
quá trình đó là sự phát triển của ngành công nghiệp. Trên địa bàn trọng điểm Bắc Bộ trong
những năm qua việc sử dụng vốn đầu tư đã góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cũng như cơ cấu công nghiệp theo chiều hướng tích cực, tăng nhanh tỉ trọng của
công nghiệp chế biến trong cơ cấu công nghiệp. Một số ngành kinh tế quan trọng như;
thông tin, viễn thông, công nghiệp ximăng, sắt thép, điện tử, lắp ráp ôtô, xe máy đã có
những bước phát triển đáng kể. Nhưng trong những năm gần đây, vốn đầu tư toàn xã hội
trên vùng kinh tế trọng điểm có su hướng giảm sút. Việc giảm đầu tư này sẽ kéo theo
những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển công nghiệp cũng như
phát triển kinh tế của vùng. Đây là một vấn đề mà phải sớm có biện pháp giải quyết.
2.5. Các điều kiện về kết cấu hạ tầng.
Kết cấu hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp.


Người ta không thể phát triển được công nghiệp trên một hệ thống kết cấu hạ tầng yếu
kém. Hệ thống giao thông, các cảng biển, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, hệ thống
thông tin liên lạc... đây là những yếu tố thuộc về kết cấu hạ tầng, tác động trực tiếp tới sự
phát triển của công nghiệp. Đến lượt mình khi đã phát triển thì công nghiệp lại có những
tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của kết cấu hạ tầng. ở đây ta có thể nói kết cấu hạ
tầng là điều kiện, tiền đề, là cơ sở vật chất cơ bản thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp.

Chính vì vậy để phát triển công nghiệp thì việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng là vô cùng cần
thiết. Nhưng có một vấn đề cần phải lưu ý là việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng thường đòi
hỏi một lượng vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu, đây là lí do không khuyến khích tư nhân
đầu tư vào lĩnh vực này. Chính vì thế Nhà nước cần phải có sự đầu tư phù hợp vào kết cấu
hạ tầng, việc xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng phù hợp là điều rất cần thiết, điều này
đảm bảo nguyên tắc là phát triển kết cấu hạ tầng để đạt được mục tiêu cuối cùng là phát
triển công nghiệp, phát triển kinh tế.
Trong thời gian qua vùng kinh tế trọng điểm cũng đã được đầu tư thích đáng vào hệ
thống kết cấu hạ tầng tuy nhiên cũng còn có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại trên một
giác độ tổng hợp. Điều này sẽ được trình bày cụ thể hơn trong chương II “ Thực trạng
phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm” của chuyên đề.
2.6. Các vấn đề về thị trường.
Thị trường là một vấn đề có vai trò hết sức quan trọmg cho quá trình phát triển công
nghiệp. Thị trường ngày càng trở nên đa dạng ngoài thị trường truyền thống là thị trường
hàng hoá thì ngày nay xuất hiện thêm nhiều loại thị trường mới như thị trường vốn, thị
trường lao động, thị trường công nghệ....Để đánh giá ảnh hưởng của thị trường tới sự phát
triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm ta chia các loại thị trường trên ra thành hai loại
cơ bản là thị trường các yếu tố đầu ra và thị trường các yếu tố đầu vào. Nhìn chung sự
phân chia này chỉ là tương đối nhưng cả hai loại thị trường này đều tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển của công ngiệp. Ngoài ra người ta còn chia thị trường thành thị trường trong
nước và thị trường ngoài nước. Dưới đây chuyên đề sẽ đi sâu phân tích những tác động của
thị trường trong nước và thị trường ngoài nước tới sự phát triển công nghiệp vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ.


a) ảnh hưởng của thị trường trong nước.
Theo thống kê cho thấy địa bàn trọng điểm có mối quan hệ trao đổi với tất cả các
vùng và có thị trường trao đổi rộng khắp trong cả nước.
Dự báo nhu cầu thị trường trong nước.
Theo dự báo dân số cả nước đến năm 2005 khoảng 83-84 triệu người năm 2010

khoảng 87-88 triệu người. Đây là thị trường rất lớn cần tính đến cho sự phát triển công
nghiệp trên địa bàn trọng điểm.
Về nhu cầu hàng tiêu dùng
Theo dự báo sơ bộ phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005 GDP bình quân đầu
người của Việt Nam đạt 600-800 USD và đến năm 2010 đạt 900-1200 USD, mức tiêu
dùng hàng hoá bình quân đầu người đạt 250-300 USD/năm vào năm 2005 tăng 3-5 lần so
với năm 1995, và đến năm 2010 đạt đạt 400-500 USD/năm tăng 6-8 lần so với năm 1995.
Tuy nhiên nhu cầu hàng tiêu dùng không đơn thuần tăng lên về mặt số lượng mà thu nhập
thay đổi thì cơ cấu tiêu dùng sẽ thay đổi, thu nhập càng cao thì yêu cầu về chất lượng hàng
hoá, dịch vụ bán hàng, dịh vụ sau bán hàng đều phải nâng cao, đồng thời thì tỉ lệ thu nhập
dành cho tiêu dùng các hàng hoá thứ cấp giảm và các hàng hoá tiêu dùng cao cấp sẽ tăng
lên. Với những tính toán sơ bộ trên cho thấy công nghiệp trên địa bàn trọng điểm có một
thị trương nội địa to lớn với sức mua ngày càng tăng, có cơ hội phát triển nhưng cúng sẽ
phải cạnh tranh rất gay gắt với các địa bàn khác và hàng nhập khẩu.
Về nhu cầu tư liệu sản xuất
Từ nay đến năm 2010 cả nước đứng trước sự thay đổi to mlớn trên tất cả các mặt,
đặt ra những nhu cầu cho ngành công nghiệp cả nước cũng như công nghiệp trên địa bàn
trọng điểm.
-Nhu cầu to lớn về thiết bị và phụ tùng cho các ngành sản xuất, đáp ứng nhu cầu
đầu chiều sâu của các ngành. Đó là các thiết bị nhỏ lẻ, phụ tùng thay thế, các máy công
tác, các loại động cơ điện... những sản phẩm thuộc các ngành cơ khí chế tạo mà trên địa
bàn đặc biệt là Hà Nội đã có ưu thế.


×