Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

LUẬN văn nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc việt nam trên thị trường nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 125 trang )

I.

LUẬN VĂN:

Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc
Việt Nam trên thị trường Nhật Bản


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều năm đầu thế kỷ 21, mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực do kinh tế khu
vực và thế giới phục hồi chậm, do thiên tai, hạn hán ... song Việt Nam đã thu được những
thành tựu phát triển kinh tế xã hội quan trọng, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh
giá cao như mức tăng trưởng kinh tế tương đối cao; cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển tích
cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa; từng bước chủ động hội nhập vào nền kinh
tế khu vực và thế giới. Để đạt được những thành tựu đáng kể đó không thể không nói đến
sự đóng góp của những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dầu thô, hàng may
mặc, gạo, thuỷ sản... trong đó đặc biệt là hàng may mặc với tỷ trọng lớn kim ngạch xuất
khẩu mang lại cho đất nước. Tuy nhiên, khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra
những cơ hội to lớn cho ngành may mặc Việt Nam như hiện nay thì Việt Nam cũng đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam vẫn còn
thấp do mẫu mã đơn điệu, chất lượng không đồng đều, việc thiết kế kiểu dáng chưa chủ
động, phụ thuộc nhiều vào các đối tác nước ngoài... Bên cạnh đó, hàng may mặc Việt Nam
xuất khẩu đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các hàng dệt may Trung Quốc, hàng
được gia công tại các nước đang phát triển khác ở Đông Nam á... Chính vì vậy, việc
nghiên cứu và tìm ra giải pháp góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của hàng
Việt Nam trên thị trường thế giới là vô cùng quan trọng.
Ngoài ra, hàng may mặc Việt Nam hiện đang có mặt tại nhiều thị trường dưới hai
hình thức là xuất khẩu có hạn ngạch (thị trường EU, Mỹ, Canada,..) và phi hạn ngạch
(Nhật Bản, Hàn Quốc, Đông Âu...). Việc xuất khẩu vào các thị trường có hạn ngạch tuy


rộng lớn nhưng gặp đầy khó khăn với rất nhiều rào cản. Đối với các thị trường phi hạn
ngạch thì Nhật Bản là thị trường lớn nhất và hàng Việt Nam cũng đã và đang từng bước
xâm nhập. Nhưng vấn đề mà Việt Nam đang gặp phải là sức cạnh tranh của hàng may mặc
vẫn còn thấp hơn nhiều nước, thị phần hàng may mặc chiếm tỷ trọng quá nhỏ, uy tín
thương hiệu hàng may mặc Việt Nam chưa cao…
Đứng trước những khó khăn, thách thức trên việc tìm ra những biện pháp góp phần
nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu trên thị trường Nhật Bản
là vô cùng cần thiết và cấp bách.


Xuất phát từ các tính cấp thiết trên được đặt ra trong thực tiễn, tác giả đã chọn đề tài
cho luận văn là: “Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường
Nhật Bản”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
 Mục đích nghiên cứu:
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị thiết thực nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.
 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về sức cạnh tranh của hàng hóa và sự cần thiết
phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Nhật
Bản.
- Phân tích thực trạng cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam
trên thị trường Nhật Bản, từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế cũng như các nguyên nhân
của những hạn chế đó trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên
thị trường Nhật Bản.
- Nghiên cứu định hướng của Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hoá sang thị
trường Nhật Bản cũng như của Nhật Bản trong việc nhập khẩu hàng may mặc của Việt
Nam để dự báo những lợi thế, bất lợi của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật
Bản, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng như
hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu của
Việt Nam.
Về mặt không gian, luận văn tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh hàng may mặc
xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.
Về mặt thời gian, luận văn nghiên cứu sức cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu của
Việt Nam trên thị trường Nhật Bản từ năm 1996 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu


Cơ sở xuyên suốt toàn bộ quá trình nghiên cứu là các phương pháp cơ bản được sử
dụng trong việc nghiên cứu khoa học xã hội nói chung cũng như trong kinh tế học nói
riêng như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử...
Ngoài ra, để làm rõ hơn đặc điểm, bản chất và nội dung nghiên cứu, luận văn còn sử
dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích hệ thống các hoạt
động kinh tế, phương pháp phân tích thống kê, phương pháp tổng hợp để nghiên cứu các
vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Lý luận chung về sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và sự cần thiết
phải nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
Chương 2: Thực trạng cạnh tranh & nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt
Nam trên thị trường Nhật Bản
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt
Nam trên thị trường Nhật Bản

Chương 1:
Lý luận chung về sức cạnh tranh của hàng hoá & sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh
hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.


Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa của đời sống kinh tế thế giới hướng
đến thế kỷ XXI, không một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế của mình mà không
tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Tuy nhiên đây lại là một quá trình
phức tạp bởi nó diễn ra trong một môi trường rộng lớn với sự tham gia của rất nhiều nước,
tập đoàn, công ty... ở các quy mô và mức độ khác nhau. Trong điều kiện như vậy, điều


không thể tránh khỏi là quyền lợi kinh tế bị xung đột. Chính vì vậy, bất kỳ chủ thể nào
tham gia vào quá trình này nếu muốn tồn tại và phát triển được chỉ có cách duy nhất là
phải cạnh tranh và nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh của mình.
1.1.

Cạnh tranh

1.1.1. Các khái niệm về cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh từ lâu đã được rất nhiều các nhà kinh tế học của các
trường phái kinh tế khác nhau quan tâm và nghiên cứu trên nhiều góc độ với phạm vi và
cấp độ khác nhau.
Theo Từ điển kinh doanh của Anh, xuất bản năm 1992 thì: “cạnh tranh là sự ganh
đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình". Còn trong Đại từ điển
Tiếng Việt, “cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau
nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình". Theo Từ điển Thuật ngữ kinh tế học, “cạnh
tranh là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia và nó nảy sinh khi hai
hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được”.
Các nhà kinh tế học thuộc trường phái tư sản cổ điển cho rằng: “Cạnh tranh là một quá
trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này mang lại cho mỗi thành viên trong thị
trường một phần xứng đáng so với khả năng của mình."
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã nhận xét: “Cạnh tranh tư bản chủ
nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành được những điều

kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Như
vậy, ở đây C. Mác chỉ đề cập đến cạnh tranh trong một không gian thu hẹp, đó là xã hội tư
bản chủ nghĩa, là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên cạnh tranh được nhìn
nhận dưới góc độ tiêu cực là “cá lớn nuốt cá bé”, là lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại.
Tuy nhiên, ngày nay cạnh tranh lại được thừa nhận và được coi là môi trường, động lực
của sự phát triển. Thế giới đã quan niệm: “Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt
giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều
kiện thúc đẩy sản xuất phát triển”.
Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu đã đưa ra khái niệm cạnh tranh ở phạm vi một quốc gia:
“là khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống,


nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, được xác định bằng thay đổi của tổng
sản phẩm quốc nội trên đầu người theo thời gian”.
ở Việt Nam, một số nhà kinh tế đã cho rằng: “cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về
giá cả hàng hóa, dịch vụ; và đó là con đường, phương thức để giành lấy lợi nhuận cao cho
các chủ thể kinh tế.”
Tóm lại, cạnh tranh xét về bản chất luôn được nhìn nhận trong trạng thái động và
ràng buộc trong mối quan hệ so sánh tương đối, mọi quan hệ giao tiếp mà các bên tham gia
nỗ lực tìm kiếm vị thế có lợi cho mình đều có thể diễn tả trong khái niệm cạnh tranh. Khái
niệm cạnh tranh được xem xét đầy đủ trên cả hai mặt: tích cực tạo động lực cho việc vươn
tới một kết quả tốt nhất nhưng một khi những kỹ năng này được thể hiện một cách cực
đoan, nó có thể dẫn đến một thực trạng tiêu cực với kết quả trái ngược. Cạnh tranh là quá
trình kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật
lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thường là nhằm chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, tiêu thụ có lợi nhất, tối đa hóa lợi
nhuận.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong thương mại quốc tế
Cạnh tranh là một hiện tượng tự nhiên, là quy luật phổ biến của nền kinh tế thị

trường. Bởi thế, bất cứ một quốc gia nào, một doanh nghiệp nào khi tham gia thị trường
thế giới đều phải chấp nhận cạnh tranh và phải tuân thủ theo các quy luật của cạnh tranh.
Trong thương mại nói chung và trong thương mại quốc tế nói riêng, cạnh tranh giữ vai trò
làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống, chất lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng nâng cao.
Cạnh tranh nếu bị hạn chế sẽ gây lãng phí rất nhiều nguồn lực của nền kinh tế thế giới, làm
giảm tính năng động, sáng tạo và hiệu quả của mỗi con người cũng như của toàn xã hội.
Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế: thay thế người thiếu khả năng bằng
người có đầu óc; thay thế sản phẩm mới với chất lượng, giá cả, dịch vụ ngày càng tốt hơn,
hoàn thiện hơn; thay thế doanh nghiệp lãng phí các nguồn lực xã hội bằng doanh nghiệp sử
dụng có hiệu quả hơn, thay thế sự đáp ứng nhu cầu xã hội không đầy đủ bằng sự đáp ứng
ngày một tốt hơn.
Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để
chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được nhiều sản phẩm với
nhiều hình thức khác nhau từ nhiều nhà cung cấp khác nhau ở các nước khác nhau với chất


lượng tốt và giả rẻ. Vì vậy, việc duy trì cạnh tranh là bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Cạnh
tranh chính là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu, là động lực thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh là điều kiện thuận lợi để họ tự khẳng định vị
trí của mình trên thị trường, tự hoàn thiện và phát triển để vươn lên giành được ưu thế với
các đối thủ cạnh tranh khác. Chính vì vậy, cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không
có đích của các doanh nghiệp để đưa ra các biện pháp kinh tế, tích cực, sáng tạo nhằm tồn tại
và phát triển trên thương trường nếu họ thích nghi được với các điều kiện của thị trường và
đào thải những doanh nghiệp không có khả năng thích ứng những đòi hỏi của thị trường.
Tóm lại, cạnh tranh trong thương mại quốc tế chính là động lực phát triển cơ bản
nhằm kết hợp một cách tối ưu nhất lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu
dùng và lợi ích xã hội của nền kinh tế thế giới.
1.1.3. Phân loại cạnh tranh
Cạnh tranh có thể được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau theo nhiều cách

khác nhau:
 Căn cứ vào phạm vi hoạt động ngành kinh tế
 Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh cùng một loại sản phẩm, dịch vụ.
 Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau.
 Căn cứ vào tính pháp lý của cạnh tranh
 Cạnh tranh hợp pháp
 Cạnh tranh bất hợp pháp
 Căn cứ vào tính chất, mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế
 Cạnh tranh tự do: là cạnh tranh trong một thị trường hoàn toàn không có sự
điều tiết của Nhà nước và pháp luật
 Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước: là cạnh tranh được định hướng, được
bảo vệ và giới hạn bởi các thể chế, chính sách và pháp luật
 Căn cứ vào mục đích, phương thức cạnh tranh


 Cạnh tranh lành mạnh: là hình thức cạnh tranh trung thực, bằng năng lực vốn
có của doanh nghiệp
 Cạnh tranh không lành mạnh: là cạnh tranh bằng các thủ đoạn, công cụ bất
hợp pháp
 Căn cứ theo chiến lược cạnh tranh
 Cạnh tranh trực diện: là cạnh tranh trực tiếp, công khai giữa các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh
 Cạnh tranh không trực diện
- Đánh thọc sườn
- Đánh tập hậu
 Căn cứ vào hình thái cạnh tranh
 Cạnh tranh hoàn hảo: là loại cạnh tranh tự do, theo đó có nhiều công ty vừa và
nhỏ tham gia vào thị trường với sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất, quy cách, chủng

loại, mẫu mã...
Cạnh tranh quốc tế trong xuất khẩu hàng may mặc ở một số thị trường có diễn ra
theo loại hình này. Thông thường, hàng năm, Chính phủ các nước phát triển phê chuẩn hạn
ngạch (quota) được phép nhập khẩu hàng may mặc từ các nước phát triển. Theo đó, các
nhà xuất khẩu hàng may mặc ở các nước đang phát triển thường cạnh tranh theo kiểu đấu
thầu để được phân bổ tỷ lệ hạn ngạch có lợi nhất.
 Cạnh tranh không hoàn hảo: là loại hình cạnh tranh mà theo đó việc độc quyền
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được tập trung vào một hay một vài tập đoàn thống trị như
lĩnh vực ô tô, thiết bị viễn thông, dầu khí...
Thị trường hàng may mặc thế giới, về cơ bản, không có loại hình cạnh tranh này
do trình độ tích tụ và tập trung trong ngành này còn thấp với mức lợi nhuận kém hấp dẫn
so với nhiều ngành trên (thực tế là trong 500 công ty lớn nhất toàn cầu mà tạp chí Fortune nổi
tiếng và uy tín của Mỹ xếp loại hàng năm thường không có sự hiện diện của các công ty, tập
đoàn trong lĩnh vực may mặc).
Độc quyền: Thị trường cạnh tranh độc quyền là thị trường mà ở đó có một doanh
nghiệp duy nhất kiểm soát hoàn toàn số lượng hàng hoá bán ra trên thị trường. Với thị
trường này các doanh nghiệp không thể tự do gia nhập vì phải bảo đảm nhiều yếu tố như


vốn, công nghệ kỹ thuật... nên giá cả trên thị trường do doanh nghiệp độc quyền đặt ra,
người mua phải chấp nhận giá.
 Căn cứ vào phạm vi địa lý
 Cạnh tranh trên phạm vi từng quốc gia
Quá trình cạnh tranh này thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng năng suất, hạ giá
thành sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, góp phần nâng cao
sức cạnh tranh chung của sản phẩm trong ngành cũng như của quốc gia khi tham gia vào
thương mại quốc tế.
 Cạnh tranh trên phạm vi quốc tế
Trên thị trường thế giới, cung hàng may mặc đang có xu hướng vượt cầu mà thực tế
trong những năm qua, mức hạn ngạch nhập khẩu của hàng loạt nước phát triển thường thấp

hơn nhiều so với khả năng cung cấp của các nhà xuất khẩu từ nhóm nước đang phát triển
nên lợi thế thuộc về các nhà nhập khẩu và cạnh tranh gay gắt chủ yếu diễn ra giữa các nhà
sản xuất, xuất khẩu.
Trên phạm vi quốc tế, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu được phân chia
theo các mức độ sau:
+ Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu thuộc nhóm nước phát triển với
nhóm đang phát triển. Đây là sự cạnh tranh gay gắt nhất bởi trình độ công nghệ kỹ thuật
của các bên có sự chênh lệch rõ rệt.
+ Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu thuộc nhóm nước phát triển với
nhau. Đây là quá trình cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu cỡ lớn có khả năng tài
chính mạnh, trình độ công nghệ cao.
+ Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất và xuất khẩu thuộc nhóm nước đang phát
triển với nhau. Sự cạnh tranh này nhìn chung không có sự chênh lệch quá lớn về quy mô,
khả năng tài chính và trình độ khoa học công nghệ cũng như lợi thế về lực lượng nhân
công dồi dào với giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú...
1.1.4. Các công cụ cơ bản của cạnh tranh
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi sự cạnh tranh mà bản
chất của cạnh tranh trong kinh doanh là phải tạo ra được ưu thế so với các đối thủ. Muốn


vậy, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường phải sử dụng khéo léo các công cụ cạnh
tranh. Đó là:
 Cạnh tranh thông qua giá cả
Trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp thường đưa ra một mức giá thấp hơn giá
của các đối thủ cạnh tranh nhằm lôi cuốn khách hàng, qua đó tiêu thụ được nhiều hàng hoá
hơn. Muốn theo đuổi chiến lược cạnh tranh này, doanh nghiệp phải có ưu thế cạnh tranh bên
trong hay khả năng làm chủ chi phí hoặc dựa vào tính kinh tế nhờ quy mô, hiệu quả hoạt
động, liên kết theo ngành dọc...
 Cạnh tranh thông qua sản phẩm
Khi thu nhập và đời sống của dân cư ngày càng cao thì phương thức cạnh tranh

bằng giá cả xem ra không có hiệu quả và chất lượng sản phẩm sẽ là mối quan tâm của
khách hàng. Đặc biệt, ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật cũng như
sự bành trướng của các công ty đa quốc gia thì vấn đề cạnh tranh bằng chất lượng càng trở
nên gay gắt. Cạnh tranh bằng sản phẩm còn có thể dựa vào lợi thế cạnh tranh bên ngoài,
tức là tính độc đáo hay mức độ hoàn thiện của sản phẩm về kỹ thuật, dịch vụ hay hình ảnh.
Đối với hàng may mặc thì những đặc trưng tạo nên những thuận lợi trong cạnh tranh
về sản phẩm là: sản phẩm đa dạng, thời trang; thay đổi theo mùa, thời tiết; kiểu dáng mới lạ,
độc đáo; chất liệu vải và các phụ kiện tốt, đẹp...
 Cạnh tranh thông qua mạng lưới kênh phân phối:
Thiết lập mạng lưới kênh phân phối hợp lý hiệu quả sẽ là yếu tố rất có lợi để cạnh
tranh. Hàng hoá mà được cung cấp đúng nơi, đúng lúc, kịp thời đáp ứng nhu cầu khách
hàng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất thì sẽ tạo được lòng tin, uy tín đối với khách
hàng và sẽ được khách hàng lựa chọn.
 Cạnh tranh thông qua các hoạt động xúc tiến quảng cáo.
Quảng cáo và xúc tiến bán hàng là những hoạt động nhằm nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá. Quảng cáo là nghệ thuật thu hút khách hàng thông qua các phương thức như
in ấn, bưu điện, truyền thanh, báo, phát thanh, thư từ, danh mục hàng hoá và các bản
thuyết minh... để giới thiệu một cách rộng rãi các loại hàng hoá, các thông tin dịch vụ. Tất
nhiên, sự thành bại trong kinh doanh chủ yếu tuỳ thuộc vào chất lượng sản phẩm nhưng
trong điều kiện đã đảm bảo chất lượng thì việc cố gắng nâng cao hiệu quả tuyên truyền
quảng cáo cũng là biện pháp để doanh nghiệp cạnh tranh thành công trong kinh doanh.


Bên cạnh quảng cáo, xúc tiến bán hàng và yểm trợ bán hàng được thực hiện thông
qua các triển lãm, hội chợ, cửa hàng giới thiệu sản phẩm... cũng là hoạt động giúp cho
chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
 Cạnh tranh thông qua dịch vụ bán hàng
Đây là phương thức cạnh tranh hết sức phổ biến trên thị trường quốc tế và có thể
được thực hiện trước, trong và sau khi bán hàng tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh. Đó có
thể là dịch vụ bán hàng tận nơi cho khách (door to door), dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng, lắp

đặt, chạy thử... Dịch vụ thường là những hoạt động đánh vào tâm lý người tiêu dùng rất
hiệu quả và sẽ là nam châm thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp.
1.1.5. Một số lý thuyết cơ bản về cạnh tranh
Cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
Chính vì thế, đã có nhiều nhà kinh tế học cố gắng xây dựng các lý thuyết giải thích nguồn
gốc cũng như các vấn đề liên quan đến cạnh tranh. Mỗi lý thuyết trên đều có những điểm
đáng xem xét trong việc giải thích những hiện tượng thành công hay thất bại trong cạnh
tranh trên môi trường quốc tế nhưng trong một số trường hợp thì những lý thuyết đó cũng
thể hiện những nhược điểm nhất định. Vì vậy, trong phạm vi Luận văn này, tôi xin trình
bày tóm tắt 2 lý thuyết về cạnh tranh mang tính tổng quát được đánh giá cao, đó là Mô
hình 7S của Mc.Kinsey, Mô hình 5 sức mạnh của Michael Porter.
 Mô hình 7S của Mc. Kinsey
Chiến
lược

Hệ thống
(system)

Cấu
trúc
Những giá
trị được
chia sẻ

(Shared
Kỹ năng tay
nghề

Phong cách quản



(skills)

(Style)
Bộ máy nhân
viên

Hình 1: Mô hình 7S của Mc.Kinsey
Theo Mc. Kinsey, để đạt năng lực cạnh tranh, hệ thống tổng thể trong công ty gồm
phần cứng (chiến lược, cấu trúc và hệ thống) và phần mềm (phong cách quản lý, nhân


viên, tay nghề, những giá trị được chia sẻ) cần được vận hành và có cách thức ứng xử cạnh
tranh hợp thức để có khả năng định vị trong các đoạn thị trường mục tiêu nhất định.
 Mô hình 5 sức mạnh (the five forces model) của Micheal Porter
Micheal Porter đã nghiên cứu và xác định được tổng thể các yếu tố quyết định khả
năng cạnh tranh của quốc gia (các yếu tố đầu vào sản xuất, cầu thị trường, các ngành công
nghiệp bổ sung hoặc có liên quan, các yếu tố cạnh tranh). Trên giác độ doanh nghiệp,
Porter cũng đưa ra những chiến lược cạnh tranh mà một doanh nghiệp có thể xem xét áp
dụng trong các môi trường cạnh trạnh khác nhau. Đồng thời, trên quy mô ngành công
nghiệp, Porter đã đưa ra mô hình năm yếu tố xác định mức độ khốc liệt của cạnh tranh
trong ngành nhằm giúp doanh nghiệp và nhà đầu tư xác định cơ hội kinh doanh cũng như
những đe doạ trong kinh doanh khi quyết định xâm nhập vào thị trường.
Đối thủ tiềm
năng

Các đối thủ cạnh
tranh

Nhà cung

ứng

Người mua

trong ngành

Sản phẩm
thay thế

Hình 2: Mô hình 5 sức mạnh của Michael Porter
* Yếu tố 1: Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc
Là sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường nhưng có khả
năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị phần của các doanh nghiệp khác gây bất ngờ, tạo
những cú sốc lớn cho các doanh nghiệp hiện tại do họ đã qua một quá trình nghiên cứu, phân
tích, đánh giá và suy xét kỹ lưỡng khi thâm nhập vào thị trường mới.
Để hạn chế áp lực cạnh tranh từ mối đe doạ này, các nhà quản lý thường dụng lên các
“hàng rào gia nhập” như:
- Khác biệt hoá sản phẩm và tạo lòng trung thành với nhãn hàng từ khách hàng để
buộc người gia nhập mới phải đầu tư rất nhiều và mạo hiểm vào việc quảng cáo và xúc
tiến bán hàng để vượt qua lòng trung thành đó.
- Mở rộng sản xuất để giảm chi phí (tính kinh tế nhờ quy mô).


- Khả năng về vốn lớn.
- Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối.
- Mở rộng các dịch vụ bổ sung.
- Tìm lợi thế chi phí tuyệt đối (có các yếu tố đầu vào có lợi, độc quyền công nghệ,
độc quyền ảnh hưởng rút kinh nghiệm, vị trí thuận lợi....
- Khai thác sự hỗ trợ của Chính phủ. Trong một số ngành, ở một số nước, chính
sách của Chính phủ tạo ra hàng rào gia nhập ở một thái cực (Chính phủ cấp giấy phép cho

doanh nghiệp trước khi gia nhập ngành) hoặc Chính phủ đặt ra các quy định nghiêm ngặt
về điều kiện y tế, an toàn đối với ngành, đảm bảo môi trường... khiến việc gia nhập ngành
gặp nhiều khó khăn.
* Yếu tố 2: Quyền lực của người cung ứng
Với vai trò là người cung cấp các yếu tố đầu vào cho các nhà sản xuất, quyền lực
của các nhà cung ứng được thể hiện qua sức ép về giá các yếu tố đầu vào. Sức ép của nhà
cung ứng tới nhà sản xuất phụ thuộc:
- Tầm quan trọng của sản phẩm được cung ứng
- Liên kết của những người cung ứng gây ra
- Số lượng nhà cung ứng, mối liên hệ giữa nhà cung ứng với nhà sản xuất
- Đặc tính khác biệt hoá cao độ của người cung ứng với người sản xuất
Mặc dù, có thể có sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng và doanh nghiệp có quyền
lựa chọn nhà cung ứng tốt nhất nhưng quyền lực thương lượng của nhà cung ứng bị hạn
chế vẫn không đáng kể. Trong mối quan hệ này, để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp
trước khả năng tăng cao chi phí đầu vào, đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh
nghiệp phải biến được quyền lực thương lượng của người cung ứng trở thành quyền lực
của mình.
* Yếu tố 3: Quyền lực của người mua
Người mua có quyền lực với doanh nghiệp thông qua sức ép giảm giá, giảm khối
lượng hàng mua từ doanh nghiệp, đưa ra yêu cầu chất lượng, dịch vụ phải tốt hơn với cùng
một mức giá... Sức mạnh của người mua phụ thuộc 2 yếu tố cơ bản: mức độ nhạy cảm của
họ đối với giá và việc mặc cả nợ của họ.
* Yếu tố 4: Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm và dịch vụ thay thế


Sự ra đời các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến động của nhu
cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú hơn và cao cấp hơn. Sản
phẩm thay thế thường có sức cạnh tranh cao do được sản xuất trên dây truyền công nghệ
tiên tiến, có khả năng khác biệt hoá cao hoặc tạo các điều kiện ưu đãi hơn về dịch vụ hay
các điều kiện về tài chính. Chính điều này là nhân tố đe doạ sự mất mát về thị trường của

doanh nghiệp.
* Yếu tố 5: Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành
Các hãng trong ngành cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả, sự khác biệt hoá về
sản phẩm, hoặc sự đổi mới sản phẩm giữa các hãng hiện đang cùng tồn tại trong thị
trường. Sự cạnh tranh càng gay gắt khi đối thủ đông đảo và gần như cân bằng nhau, khi
tăng trưởng của ngành là thấp, khi các loại chi phí (chi phí cố định, chi phí lưu kho...) ngày
càng tăng, khi các đối thủ cạnh tranh có chiến lược đa dạng, ít có sự khác biệt hoá về sản
phẩm, số lượng các đối thủ cạnh tranh nhiều, hàng rào chi phí rút khỏi ngành cao...
 Một số nhận xét về việc vận dụng các mô hình
Hàng hóa là kết quả của quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Nói đến hàng hóa là nói đến doanh nghiệp. Chính vì vậy, khi đánh giá sức cạnh
tranh của hàng hóa thì phải xem xét, phân tích trong mối quan hệ với sức cạnh tranh của
doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua năng lực cạnh tranh của
các hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh. Sức cạnh tranh của hàng hoá được định đoạt
bởi sức cạnh tranh của doanh nghiệp bởi sẽ không có sức cạnh tranh của hàng hoá cao khi
sức cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đó thấp. Hiện nay có nhiều mô hình
cạnh tranh khác nhau có thể áp dụng đối với các doanh nghiệp nhưng hai mô hình được
trình bày ở trên là những mô hình phổ biến có khả năng phát huy tác dụng và được nhiều
doanh nghiệp nghiên cứu để phân tích sức cạnh tranh của doanh nghiệp và từ đó đánh giá
sức cạnh tranh của hàng hoá.
Mô hình của M.Porter đặt doanh nghiệp trong tổng thể môi trường cạnh tranh của
một ngành, một lĩnh vực nên được nhiều nhà kinh tế vận dụng để phân tích sức cạnh tranh
của một doanh nghiệp hay một ngành công nghiệp; xác định và đánh giá “hàng rào” ngăn
cản sự xâm nhập của doanh nghiệp đồng thời đánh giá được các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường cũng như khi xâm nhập thị trường mới. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể dự
đoán những yếu tố ảnh hưởng đến lực lượng cạnh tranh để từ đó đề ra những đối sách phù


hợp với thế cân bằng cạnh tranh mới. Tuy nhiên, khi áp dụng mô hình này cũng có một số
hạn chế như doanh nghiệp chỉ biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình, những rủi ro

trong quá trình kinh doanh nhưng khó đưa ra được một giải pháp cụ thể, hữu hiệu để nâng
cao được khả năng cạnh tranh; mô hình không đề cập đến tác động trực tiếp hay gián tiếp
của Nhà nước thông qua các chính sách, hệ thống pháp luật đến khả năng cạnh tranh của
công ty.
Mô hình của Kinsey giúp công ty nhìn rõ điểm mạnh, điểm yếu của mình trong mối
quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh để phát huy điểm mạnh thành lợi thế cạnh tranh
bền vững và cần được thường xuyên củng cố, biến chúng thành những vũ khí chính của
công ty và thông qua đó có thể có tác dụng kép trong việc khắc phục, giảm thiểu ảnh
hưởng tiêu cực từ những yếu điểm so với các đối thủ cạnh tranh. Để phân tích mô hình này
một cách hiệu quả thì cần phải kết hợp sử dụng mô hình SWOT, ma trận BCG.
Như vậy, để phân tích được khả năng cạnh tranh của công ty một cách tương đối đầy
đủ và chính xác thì cần phải áp dụng đồng thời các mô hình nói trên. Mô hình này sẽ bổ
sung, khắc phục những hạn chế của mô hình kia và ngược lại nhằm tìm được những giải
pháp tối ưu nhất giúp công ty nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Song song với việc
áp dụng các mô hình cạnh tranh trên thì công ty có thể sử dụng thêm các mô hình, phương
pháp phân tích và đánh giá khác, miễn là chúng có ích cho sự phát triển của công ty. Điều
quan trọng là công ty không những phải tìm ra được biện pháp khả thi mà phải tìm mọi
cách thực hiện được những giải pháp đó một cách triệt để thì mới có thể duy trì và nâng
cao được vị thế trên thị trường.
Tóm lại, những lý luận cơ bản nhất về cạnh tranh như đã trình bày ở trên giúp ta hiểu
được tính động lực, sự quyết liệt của cạnh tranh cũng như các phương thức cạnh tranh trong
lĩnh vực kinh tế và cũng từ đó hiểu được bản chất của cạnh tranh, các loại hình cạnh tranh,
công cụ cạnh tranh và một số lý thuyết cạnh tranh cơ bản trong nền kinh tế thị trường vốn đa
dạng và phức tạp.
1.2. Sức cạnh tranh của hàng hoá
1.2.1. Khái niệm
Sức cạnh tranh của hàng hóa được hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà
sản phẩm đó có để duy trì và phát triển vị trí của mình trên thương trường một cách lâu dài
và có ý nghĩa. Vì vậy, hàng hóa được coi là có sức cạnh tranh khi nó đáp ứng được các yêu



cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác
biệt, thương hiệu, bao bì… hơn hẳn so với những hàng hóa cũng loại, tạo ra sự hấp dẫn và
thu hút được khách hàng. Về mặt định lượng sức cạnh tranh của một sản phẩm biểu
hiện ở thị phần của sản phẩm đó trên thị trường.
1.2.2. Mối quan hệ giữa các cấp độ của sức cạnh tranh.
Trong xu thế hội nhập và trào lưu tự do hóa thương mại, khái niệm cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, việc tiếp cận đó cũng
cần được xây dựng trên cơ sở logic, hệ thống. Sức cạnh tranh (Năng lực cạnh tranh) có bốn
cấp độ, đó là: cấp độ quốc gia, cấp độ ngành, cấp độ doanh nghiệp và cấp độ sản phẩm
hàng hóa.
Năng lực cạnh tranh của quốc gia là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng
trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống
của người dân (Dự án VIE 01/025). Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ở một quốc gia do
năng lực cạnh tranh của ngành trong nước đó tạo thành.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng
thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài
nước (Dự án VIE 01/025). Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm
dịch vụ nên người ta còn phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực
cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh (sức cạnh tranh) của hàng hóa được đo bằng thị phần của hàng
hóa đó trên thị trường; giá bán hàng hóa so với các đối thủ cạnh tranh hay mức độ đáp ứng
thị hiếu, các yêu cầu về chất lượng, dịch vụ... so với đối thủ cạnh tranh (Dự án VIE 01/025).
Giữa bốn cấp độ năng lực cạnh tranh trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo
điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá năng lực
cạnh tranh của ngành nói chung và của sản phẩm hàng hoá xuất khẩu nói riêng thì cần thiết
phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh này.
Năng lực cạnh tranh của ngành bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và
năng lực cạnh tranh của hàng hóa mà ngành đó sản xuất ra thấp. Một nền kinh tế có năng
lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, ngược lại

để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thì môi trường kinh doanh của
nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được,
nền kinh tế phải ổn định; bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả... Là tế


bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh
tranh quốc gia. Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng
lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Năng lực (sức)
cạnh tranh của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của sản phẩm luôn được xem xét phân tích
trong mối quan hệ thuộc ngành. Sức cạnh tranh của sản phẩm hàng được định đoạt bởi
năng lực cạnh tranh của ngành bởi sẽ không có sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao
khi năng lực cạnh tranh của ngành sản xuất kinh doanh sản phẩm đó thấp. Nếu sức cạnh
tranh của doanh nghiệp tốt thì doanh nghiệp sẽ tồn tại, ngược lại nó sẽ bị thải loại bởi quy
luật cạnh tranh nghiệt ngã của thị trường.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu
Trong phân tích kinh tế, để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, người
ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
+ Thị phần của hàng hoá so với các đối thủ cạnh tranh
Đây là chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp và
hàng hoá trên thị trường. Thị phần cho ta biết khả năng chấp nhận của thị trường đối với
mặt hàng đang được sản xuất kinh doanh như thế nào? Trên thị trường thế giới, nếu thị
phần mà lớn chứng tỏ hàng hoá xuất khẩu đó có sức cạnh tranh lớn, có khả năng đánh bại
đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng. Thị phần càng nhỏ cho thấy
sức cạnh tranh của hàng hóa yếu, khả năng ảnh hưởng của hàng hóa đối với thị trường là rất
kém.
Thị phần có thể được tính theo các công thức sau:

Si 

Qi


x 100 %

n

Q

i

i 1

hay

Si 

Ri

x 100 %

n

R

i

i 1

trong đó: S là thị phần của một mặt hàng của quốc gia i
Q là khối lượng bán ra của mặt hàng đó trên một thị trường



R là doanh thu của một mặt hàng của quốc gia i
i là quốc gia
+ Giá bán hàng hoá so với giá bán của các đối thủ cạnh tranh
Trong một thị trường có sự cạnh tranh của hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau thì
khách hàng có quyền lựa chọn cho mình sản phẩm tốt nhất và nếu cùng một loại sản phẩm
với công dụng, chất lượng tương tự nhau và kiểu dáng không có gì khác biệt thì chắc chắn
họ sẽ lựa chọn sản phẩm có giá bán thấp hơn. Do vậy, giá cả là một công cụ cạnh tranh
hữu hiệu trên thị trường và được xem là một trong những chỉ tiêu để đánh giá sức cạnh
tranh của hàng hoá. Giá bán sản phẩm thấp hơn giá bán của các đối thủ cạnh tranh thì sản
phẩm sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại.
+ Mức độ đáp ứng thị hiếu của hàng hoá so với các đối thủ cạnh tranh
Đây cũng là một chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá. Chỉ tiêu này cho
thấy khả năng đáp ứng nhu cầu và mong muốn trên thị trường của hàng hoá một quốc
gia so với các đối thủ cạnh tranh, hay nói cách khác chính là khả năng thích nghi của
sản phẩm với thị hiếu của khách hàng so với các đối thủ khác. Khi mức độ đáp ứng thị
hiếu của hàng hoá một quốc gia cao hơn mức độ đáp ứng thị hiếu của hàng hoá các
quốc gia khác tức là sức cạnh tranh hàng hoá cuả quốc gia đó cao hơn và ngược lại.
+ Mức độ đáp ứng các yêu cầu về chất lượng và mẫu mã, kiểu dáng so với các đối
thủ cạnh tranh
Mức độ đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng, chất liệu, mẫu
mã, kiểu dáng... hàng hoá nếu cao hơn so với đối thủ cạnh tranh thì hàng hoá đó được
đánh giá là có sức cạnh tranh hơn so với các đối thủ.
+ Thương hiệu, uy tín, hình ảnh nơi SX so với các đối thủ cạnh tranh
Đây cũng là một chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh hàng hoá của một doanh nghiệp,
một quốc gia. Nó chính là ấn tượng, suy nghĩ của người tiêu dùng về nơi sản xuất ra hàng
hoá so với những nơi khác sản xuất hàng hoá cùng loại. Ví dụ như cùng là mặt hàng xe
máy nhưng người tiêu dùng Việt Nam lại ưu chuộng xe máy của các hãng Nhật Bản hơn
so với xe máy được sản xuất từ các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, tức là khi nói đến xe
máy, người tiêu dùng Việt Nam có ấn tượng tốt về Nhật Bản. Hay nói cách khác, uy tín và

hình ảnh nơi sản xuất chính là sự tổng hợp các thuộc tính như chất lượng sản phẩm, chất


lượng dịch vụ sau bán hàng, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm, phong cách quảng cáo... Nếu
một quốc gia tạo được uy tín và hình ảnh tốt đối với người tiêu dùng thì điều đó có nghĩa
là hàng hóa của nước đó có một lợi thế cạnh tranh lớn so với hàng hoá của các đối thủ
cạnh tranh. Ngược lại, sẽ không thể bán hàng, không thể nâng cao sức cạnh tranh khi uy
tín giảm sút, hình ảnh nơi sản xuất xấu đi. Uy tín là vấn đề mang tính chất sống còn đối
với một doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, thương hiệu sản phẩm ngày nay càng trở nên quan trọng trong thương
mại quốc tế. Xu thế hội nhập ATC/WTO còn yêu cầu cao hơn cho thương hiệu. Cùng một
mức chất lượng nhưng sản phẩm có thương hiệu được nhiều người biết đến có thể bán giá
cao hơn, có sức cạnh tranh cao hơn.
1.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu
Hàng hoá luôn gắn với doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp hoạt động lại gắn liền
với môi trường kinh doanh của mình. Vì vậy, tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá
xuất khẩu thì bên cạnh một số nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp hay còn
gọi là các nhân tố nội tại như năng lực tài chính, năng lực công nghệ, năng lực quản lý, văn
hoá trong kinh doanh... còn có các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Trong kinh doanh
quốc tế, có các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng
hoá xuất khẩu như kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa học - công nghệ, tự nhiên - văn hoá xã hội... ở cả nước xuất khẩu lẫn nước nhập khẩu và thế giới.
MT kinh doanh
quốc tế
MT nước
XK
N
DN

Môi trường
nước

nhập
khẩu

Hình 3: Các môi trường ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu
* Nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp
- Nhân tố con người:
Nhân tố con người tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá thông qua các yếu tố năng
suất lao động, sự sáng tạo, ý thức chấp hành kỷ luật, thái độ phục vụ khách hàng,... và ảnh
hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất... Chẳng hạn, lợi thế


trình độ tay nghề khéo léo của lao động ngành may mặc Việt Nam góp phần không nhỏ trong
việc tạo ra sản phẩm có chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị
trường thế giới.
- Khả năng tài chính:
Cũng như bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào, một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
hàng may mặc xuất khẩu nếu có tiềm lực tài chính lớn sẽ có thuận lợi trong việc nắm bắt
cơ hội kinh doanh, đuổi chiến lược cạnh tranh dài hạn, thực hiện các biện pháp nhằm nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hóa như đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị để
đảm bảo, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành hay tăng cường quảng cáo và xúc
tiến bán hàng… để khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, củng cố vị trí của
mình trên thị trường.
- Sự phù hợp của công nghệ:
Tình trạng, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc
tới sức cạnh tranh của hàng hóa. Đó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng
lực sản xuất của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến chất lượng, năng suất sản xuất cũng
như giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có công nghệ phù hợp sẽ có một lợi
thế cạnh tranh rất lớn so với các đối thủ cạnh tranh do có chi phí sản xuất thấp, chất lượng
hàng hóa cao, mẫu mã bao bì đẹp. Chẳng hạn, trong lĩnh vực may mặc, doanh nghiệp nào
đầu tư được máy móc chuyên dùng, hiện đại như máy may cạp bốn kim, máy vắt năm chỉ,

máy trần dầy... chắc chắn sẽ đưa ra được các sản phẩm mới với nhiều tính năng ưu việt,
độc đáo và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Ngược
lại, doanh nghiệp sẽ bị bất lợi trong cạnh tranh khi họ chỉ có công nghiệp lạc hậu.
- Chiến lược kinh doanh:
Tuy sức cạnh tranh của hàng hóa là tính trừu tượng, có thể thay đổi theo thời gian
và không gian, nhưng nó không thể nằm ngoài các định hướng, mục tiêu của doanh
nghiệp. Mục tiêu đề ra của doanh nghiệp không chỉ là tăng lợi nhuận mà còn phải tìm một
chỗ đứng thích hợp nhưng vững chắc trong thị trường, đặc biệt khi càng ngày càng có
nhiều đối thủ cạnh tranh trẻ hơn, mạnh hơn, năng động hơn và được sự hỗ trợ rất nhiều của
khoa học công nghệ hiện đại. Để có được kết quả khả quan trong môi trường cạnh tranh
gay gắt đó thì doanh nghiệp phải thực hiện tốt các công tác nghiên cứu, đánh giá tổng quát
thị trường; phân tích khả năng của doanh nghiệp; lựa chọn và phân đoạn thị trường nước


ngoài, tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh... với những chiến lược Marketing và chiến lược thị
trường quốc tế nhằm cụ thể hoá định hướng hoạt động và phát triển cho doanh nghiệp
nhằm mục đích khai thác lợi thế và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Uy tín của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đó
có được lợi thế trong cạnh tranh. Uy tín doanh nghiệp được xây dựng dựa trên chất lượng,
giá trị sử dụng của sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng, thời gian giao hàng, quy mô của doanh
nghiệp... Với uy tín của mình, doanh nghiệp sẽ thu hút được nhiều khách hàng trung thành
hơn và đối thủ cạnh tranh sẽ gặp nhiều khó khăn, chịu nhiều chi phí nếu muốn lôi kéo
khách hàng của doanh nghiệp.
* Nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp
 Môi trường nước xuất khẩu
Môi trường nước xuất khẩu có nhiều môi trường thành phần như kinh tế, chính trịpháp luật, văn hóa-xã hội… và mỗi một môi trường thành phần đó lại có những ảnh hưởng
khác nhau đến sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
- Môi trường kinh tế của nước xuất khẩu ổn định hay không có tác động trực tiếp
đến hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tác động đến sức cạnh tranh

của hàng hóa nên có thể nói đây là nhân tố quan trọng nhất. Tính ổn định về kinh tế, trước
hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát.
Ngoài ra, còn có một số nhân tố quan trọng khác cũng ảnh hưởng đến sức cạnh
tranh của doanh nghiệp nói chung và hàng hóa xuất khẩu nói riêng như tỷ giá hối đoái giữa
đồng nội tệ với những đồng ngoại tệ mạnh, lãi suất cho vay, tiền công lao động...
Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế, thương mại... của nước xuất khẩu cũng là
những nhân tố có thể ảnh hưởng đến sức cạnh tranh cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Chẳng hạn, các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua đã
được hưởng nhiều ưu đãi về tài chính của Nhà nước như ưu đãi về thuế, ưu đãi về tiền sử
dụng đất, ưu đãi tín dụng, trợ giá xuất khẩu… nên giảm được chi phí sản xuất, hạ giá thành
sản phẩm xuất khẩu, tạo được ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Môi trường chính trị - luật pháp:


Các nhân tố về chính trị pháp luật là nền tảng quyết định các yếu tố khác của môi
trường kinh doanh. Một quốc gia có nền chính trị ổn định, pháp luật rõ ràng, nghiêm minh,
chặt chẽ và không phức tạp sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ở quốc gia đó thuận lợi
khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa
của mình trên thị trường.
- Môi trường văn hoá - xã hội:
Môi trường văn hóa- xã hội ở nước xuất khẩu cũng có nhiều nhân tố tác động đến
sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Chẳng hạn, những sản phẩm may mặc xuất khẩu
của Việt Nam trong thời gian gần đây nhờ khai thác được những nét bản sắc văn hóa dân
tộc truyền thống, lâu đời và đa dạng như sử dụng chất liệu thổ cẩm, đũi, tơ tằm… đã được
người tiêu dùng nước ngoài đánh giá cao, tạo được sức cạnh tranh nhất định trên thị trường
quốc tế.
- Môi trường công nghệ:
Trong giai đoạn khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay thì môi trường này
đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sức cạnh tranh của hàng hoá thông qua chất
lượng, chi phí sản xuất. Sự phát triển khoa học công nghệ giúp doanh nghiệp có cơ hội

được các công nghệ, kỹ thuật mới... để tạo lợi thế trong cạnh tranh. Tuy nhiên, một doanh
nghiệp có dây truyền sản xuất hiện đại không có nghĩa là doanh nghiệp đó sẽ có lợi thế lâu
dài trong cạnh tranh bởi với tốc độ phát triển khoa học công nghệ như hiện nay thì chỉ một
thời gian sau nó có thể đã lạc hậu. Công nghệ thay đổi có thể tạo ra sự làm chủ các sản
phẩm mới và có khả năng làm xuất hiện hay mất đi của thị trường một số loại sản phẩm và
các vấn đề liên quan đến chất lượng sản phẩm. Một trong những nhân tố quan trọng nhất
của thay đổi công nghệ là nó có thể ảnh hưởng tới hàng rào gia nhập và kết quả là sự định
hình lại một cách triệt để cấu trúc ngành.
 Môi trường nước nhập khẩu
- Môi trường kinh tế:
Cũng như môi trường kinh tế của nước xuất khẩu, tính ổn định về kinh tế của nước
nhập khẩu là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và
sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Chẳng hạn, với một nền kinh tế phát triển như Nhật
Bản, thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân cao thì nhu cầu hàng hoá thiết


yếu và hàng hoá cao cấp được nhập khẩu tăng với những đòi hỏi cao về chất lượng hàng
hoá dịch vụ, mẫu mã... Đây vừa là cơ hội tốt đối nhưng cũng đặt ra thách thức với những
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá thứ cấp bởi nó ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa
thứ cấp.
Ngoài ra, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, nguồn lực của nền kinh tế, các chính sách
xuất nhập khẩu… của nước nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa
được nhập khẩu. Nếu chính phủ nước nhập khẩu đánh thuế nhập khẩu cao hay sử dụng
hàng rào bảo hộ phi thuế quan thì hàng hoá xuất khẩu sẽ bất lợi khi phải cạnh tranh với
hàng hoá của nước nhập khẩu.
- Môi trường chính trị -pháp luật
Môi trường chính trị -pháp luật của nước nhập khẩu đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Nước nhập khẩu có nền chính trị ổn định,
cơ sở pháp lý rõ ràng, hệ thống pháp luật nghiêm minh là môi trường thuận lợi đảm bảo cho
các doanh nghiệp xuất khẩu tham gia cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng

hóa của mình. Chẳng hạn, những quy định khắt khe về hạn chế các chất độc hại cũng như
các quy định về hải quan phức tạp, rắc rối trong việc nhập khẩu hàng may mặc của Nhật
Bản khiến doanh nghiệp nào khi xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường này mà không
nắm rõ những quy định đó sẽ gặp khó khăn trong cạnh tranh.
- Môi trường văn hóa- xã hội:
Các nhân tố thuộc môi trường văn hoá - xã hội như trình độ văn hoá, chuẩn mực đạo
đức xã hội, cơ cấu dân số, phân hoá xã hội, sở thích, thói quen tiêu dùng, thái độ, niềm tin,
phong tục tập quán của người tiêu dùng trong việc mua sắm và sử dụng sản phẩm cũng có
ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá, đặc biệt trong môi trường kinh doanh quốc tế.
Phong tục tập quán thể hiện qua nhận thức của người tiêu dùng về xuất xứ hàng
hoá, thói quen tiêu dùng, sở thích... Chẳng hạn, người tiêu dùng Nhật Bản chuộng hàng
ngoại hơn, khi đó hàng hoá do nước ngoài sản xuất sẽ có lợi hơn trong cạnh tranh. Người
Nhật cũng có thói quen mua hàng thông qua hệ thống phân phối sẵn có nên các doanh
nghiệp xuất khẩu sẽ bất lợi khi cạnh tranh nếu không có hệ thống phân phối phù hợp.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể gặp khó khăn trong cạnh tranh ở thị trường nước ngoài
khi mầu sắc, hình thức sản phẩm... không phù hợp với sở thích người tiêu dùng nước


ngoài. Nhân tố ngôn ngữ không biểu hiện rõ nét trong cạnh tranh tại thị trường nội địa
nhưng nó lại là vấn đề cần được quan tâm khi tham gia hoạt động trong môi trường quốc
tế, đặc biệt trong các khâu thiết kế bao bì sản phẩm, quảng cáo trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
- Môi trường cạnh tranh:
Sức hấp dẫn của thị trường nước ngoài hay sức cạnh tranh của hàng hóa chịu ảnh
hưởng quan trọng của mức độ của cạnh tranh trên thị trường đó. Vì vậy, khi tham gia
thương mại quốc tế, các doanh nghiệp cần phải xem xét khả năng cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp thuộc các quốc gia, các doanh nghiệp thuộc quốc gia sở tại và các doanh
nghiệp có tổ chức đa quốc gia, xuyên quốc gia... dựa trên những điểm khác nhau về nguồn
lực, công nghệ và kỹ thuật sản xuất... Đối thủ cạnh tranh nội địa hoặc được hưởng một ưu
thế rất thuận lợi do những hỗ trợ của Chính phủ và tinh thần dân tộc của khách hàng, hoặc

ở thế bất lợi do sự bất tín nhiệm của khách hàng đối với uy tín của doanh nghiệp, hoặc trở
thành nạn nhân của thói chuộng hàng ngoại. Loại đối thủ thứ hai là các doanh nghiệp nước
ngoài khác cũng đang hoạt động trên thị trường đó. Nhà kinh doanh không thể chờ đợi ở
họ một thái độ hợp tác hay những phản ứng thụ động, mà ngược lại doanh nghiệp phải đối
phó với mọi biện pháp tinh vi, trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm giành lợi thế về nguồn lực
trong cạnh tranh để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của mình.
 Môi trường kinh doanh quốc tế:
Các biến động kinh tế trên thị trường thế giới cũng tác động rất lớn đến sức cạnh
tranh của hàng hóa xuất khẩu. Chẳng hạn như việc tăng giá nhiều nguyên liệu đầu vào trên
thị trường thế giới như xăng dầu, bông… trong thời gian qua đã ảnh hưởng đến chi phí sản
xuất, giá thành sản phẩm và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Ngoài ra, sự xuất hiện những liên minh kinh tế, liên minh thuế quan… với những
thỏa thuận song phương và đa phương mới đã ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa
xuất khẩu. Chẳng hạn, như việc Trung Quốc gia nhập WTO nên được hưởng những ưu đãi
về thuế đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh của các loại hàng hóa, trong đó có hàng may
mặc xuất khẩu không chỉ của Việt Nam mà rất nhiều nước khác trên thế giới.
Nhân tố chính trị trong môi trường kinh doanh quốc tế cũng có tác động lớn đến sức
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Đơn cử như những bất ổn về an ninh chính trị trong


thời gian vừa qua do khủng bố ở Mỹ, chiến tranh ở Trung Đông, bầu cử tổng thống ở
Mỹ… đã khiến cho vàng tăng giá, giá trị đồng tiền của nhiều nước bị mất giá, ảnh hưởng
đến sức cạnh tranh của nhiều loại hàng hóa xuất khẩu của các nước.
Tóm lại, những nhân tố trên là tất cả những vấn đề hiện hữu trong nền kinh tế thị
trường có ảnh hưởng trực rất lớn tới sức cạnh tranh của hàng hóa. Các yếu tố đó có tác
động và chi phối một cách trực tiếp hay gián tiếp đến các hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như sức cạnh tranh của bất kỳ một hàng hoá xuất khẩu nào, buộc doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng hoá đó khi doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế đầy
phức tạp phải điều chỉnh linh hoạt mục đích, hình thức, biện pháp và chức năng hoạt động
của mình cho phù hợp, nhằm tận dụng được tối đa cơ hội, giảm tối thiểu thách thức và

nâng cao được sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của mình.
1.3. Sự cần thiết của việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị
trường Nhật Bản
 Tính cấp thiết của việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế được điều tiết bởi các quy luật của thị
trường như quy luật cung cầu, giá cả, quy luật tiền tệ, quy luật cạnh tranh... Trong số các
quy luật của nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là một trong những quy luật có tác dụng
rất lớn trong việc điều tiết, thúc đẩy sự phát triển của thị trường nên sự tồn tại của cạnh
tranh là tất yếu trong mỗi nền kinh tế, cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi khi tham gia
vào kinh tế thị trường.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới, các quốc gia
càng liên hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, các hàng rào mậu dịch được dỡ bỏ dần, thay vào
đó là chế độ tự do mậu dịch. Như vậy, một thách thức hết sức to lớn đối với các nước phát
triển như Việt Nam là mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Khi đó, quốc gia nào có
hàng hoá chất lượng cao, giá rẻ hơn, hình thức hấp dẫn hơn hoặc thoả mãn các nhu cầu của
khách hàng... sẽ được khách hàng chấp nhận và ngược lại sẽ bị thải loại dần. Vì vậy, việc
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nói chung là hết sức cần thiết đối với Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực như hiện nay.
 Tính cấp thiết của việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam
trên thị trường Nhật Bản


×