Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH CỦA GIẦY DÉP VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG HOA KỲ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.21 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………............ 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ SỨC CẠNH TRANH
CỦA HÀNG HOÁ…………………………………….................................................
3
1.1. Tổng quan về cạnh tranh……………………………………………………....... 3
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh………………………………………………………..... 3
1.1.2. Phân loại cạnh tranh………………………………………………………….... 6
1.1.3. Vai trò của cạnh tranh ……………………………………………………........ 7
1.2. Sức cạnh tranh của hàng hoá…………………………………………………..... 9
1.2.1. Khái niệm…………………………………………………………………....... 9
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá……………………... 9
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá………………………………………………………....... 11
1.2.4. Các công cụ cạnh tranh……………………………………………………....... 14
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu………...... 17
1.3.1. Đối với doanh nghiệp………………………………………………………...... 17
1.3.2. Đối với nền kinh tế quốc dân………………………………………………...... 18
1.3.3. Đối với xã hội………………………………………………………………….. 19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH CỦA GIẦY DÉP VIỆT
NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG HOA KỲ………………………………………………
20
2.1. Tổng quan về thị trường Hoa Kỳ……………………………………………….. 20
2.1.1. Khái quát về nền kinh tế Hoa Kỳ……………………………………………… 20
1
2.1.2. Đặc điểm của thị trường Hoa Kỳ……………………………………………… 21
2.1.3. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ…………………………………………………. 27
2.1.4. Thị trường giầy dép Hoa Kỳ………………………………………………….. 31
2.1.4.1. Tình hình sản xuất………………………………………………................ 31
2.1.4.2. Tình hình tiêu thụ…………………………………………………….......... 32


2.1.4.3. Quy định của Hoa Kỳ về nhập khẩu giày dép…………………………....... 32
2.2. Tình hình chung về xuất khẩu giầy dép của Việt Nam…………………........... 35
2.2.1. Ngành giầy dép Việt Nam………………………………….............................. 35
2.2.2. Vai trò của Hiệp hội Da giầy Việt Nam………………………………………... 37
2.2.3. Các thị trường cho giầy dép xuất khẩu Việt Nam…………………………….... 40
2.2.3.1. Thị trường EU……………………………………………………………..... 40
2.2.3.2. Thị trường Hoa Kỳ………………………………………………………….. 41
2.2.3.3. Thị trường Mêhicô…………………………………………………………... 42
2.2.3.4. Thị trường Nhật Bản………………………………………………………... 42
2.2.3.5. Thị trường châu Phi………………………………………………………...... 43
2.2.3.6. Các thị trường khác………………………………………………………….. 44
2.3. Phân tích sức cạnh tranh của giầy dép Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ…….. 45
2.3.1. Sản lượng và doanh thu xuất khẩu…………………………………………….... 45
2.3.2. Thị phần của hàng hoá………………………………………………………… 48
2.3.3. Giá bán hàng hoá……………………………………………………………… 49
2.4. Đánh giá sức cạnh tranh của giầy dép Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ ….... 51
2.4.1. Ưu điểm…………………………………………………………………........... 51
2.4.1.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu tăng lên rõ rệt…………………............ 51
2.4.1.2. Các mặt hàng ngày càng đa dạng……………………………..................... 53
2
2.4.1.3. Chất lượng sản phẩm được nâng cao………………………........................ 54
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân……………………………………………................. 55
2.4.2.1. Hạn chế……………………………………………….................................... 55
2.4.2.2. Nguyên nhân………………………………………………............................ 57
CHƯƠNG III : ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH
TRANH CHO GIẦY DÉP VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG HOA KỲ….............
60
3.1. Cơ hội và thách thức đối với giầy dép xuất khẩu Việt Nam…………….............. 60
3.1.1. Cơ hội…………………………………………………………………............... 60
3.1.2. Thách thức………………………………………………………………............ 63

3.2. Định hướng phát triển ngành giầy dép……………………………………............ 67
3.3. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho giầy dép Việt Nam…………….............. 69
3.3.1. Giải pháp từ phía Chính phủ……………………………………………............. 69
3.3.1.1. Giải pháp về đầu tư………………………………………………….............. 69
3.3.1.2. Các giải pháp cung ứng nguyên liệu…………………………………........... 70
3.3.1.3. Giải pháp tổ chức quản lý và phát triển nguồn nhân lực……………............. 71
3.3.1.4. Nâng cao vai trò của hiệp hội Da giầy Việt Nam……………………............ 72
3.3.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp…………………………………………............. 73
3.3.2.1. Tăng lượng xuất khẩu trực tiếp………………………………………........... 73
3.3.2.2. Đa dạng hoá mẫu mã………………………………………………............... 74
3.3.2.3. Thực hiện tốt quan hệ công chúng…………………………………............... 75
3.2.3.4. Tăng cường xúc tiến thương mại……………………………………............. 76
3.2.3.5. Xây dựng thương hiệu cho giầy dép Việt Nam………………………........... 76
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….......... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………........... 81
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam luôn tăng trưởng ổn định ở
mức cao và được đánh giá là “ngôi sao đang lên ở Châu Á”. Nước ta đang tích cực
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hoá thị trường, đa
phương hoá mối quan hệ kinh tế”. Trong bối cảnh hội nhập, hoạt động xuất nhập
khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập và phát triển
trong mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các quốc gia. Thông qua hoạt động xuất
khẩu, các quốc gia thể hiện được những lợi thế so sánh của mình . Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức của WTO với nhiều cơ hội nhưng cũng ẩn chứa nhiều
thách thức mới. Vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo cho Việt Nam phát huy được lợi
thế so sánh của mình, tạo điều kiện cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, giầy dép luôn là

mặt hàng chủ chốt – không chỉ chiếm tỷ trọng cao mà còn liên tục tăng trưởng theo
từng năm. Ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam là một trong những ngành công
nghiệp có thiên hướng xuất khẩu điển hình, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất
khẩu của hàng hoá Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam một trong 10 nước đứng đầu thế
giới về xuất khẩu giầy dép với sản phẩm có mặt ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt
là EU và Hoa Kỳ.
4
Tuy nhiên, thách thức đối với giầy dép xuất khẩu Việt Nam hiện nay trên thị
trường Hoa Kỳ nói riêng và thị trường thế giới nói chung là sức cạnh tranh chưa cao.
Sản phẩm đang bị cạnh tranh gay gắt bởi các đối thủ như Trung Quốc, Braxin,
Indonesia. Nhận thức được đây là một vấn đề cấp thiết nên em đã chọn đề tài “Nâng
cao sức cạnh tranh cho giầy dép Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ ” là đề tài
nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn đi sâu vào phân tích những thành công và hạn chế, đánh giá những
ưu điểm và nhược điểm trong nâng cao sức cạnh tranh cho giầy dép Việt Nam trên
thị trường Hoa Kỳ. Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp cụ thể để nâng cao sức cạnh
tranh cho giầy dép xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động nâng cao khả năng cạnh tranh
sản phẩm giầy dép của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ, không xem xét sự cạnh
tranh trên thị trường nội địa cũng như trong nội bộ ngành.
Luận văn tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, em đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết
hợp phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, đánh giá, các bảng biểu và số liệu để
minh hoạ.
5. Kết cấu luận văn
Trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu trên, luận văn được kết cấu thành 3
chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hóa
5
Chương 2: Thực trạng sức cạnh tranh của giầy dép Việt Nam trên thị
trường Hoa Kỳ.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho giầy dép
Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức của em có hạn, tài liệu tham khảo còn
chưa đa dạng và đây cũng là một đề tài còn mới nên trong luận văn này chắc chắn
không tránh khỏi thiếu sót. Em mong nhận được sự đánh giá và đóng góp ý kiến quý
báu của các thầy cô và bạn bè để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
6
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ
SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA
1.1. Tổng quan về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Thuật ngữ “cạnh tranh” là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế học. Đã
có rất nhiều nhà kinh tế học có đóng góp cho lý thuyết về cạnh tranh. Điểm lại lý
thuyết cạnh tranh trong lịch sử có thể thấy hai trường phái tiêu biểu: trường phái cổ
điển và trường phái hiện đại. Trường phái cổ điển với các đại biểu tiêu biểu như
A.Smith, John Stuart Mill, Darwin và C.Mác đã có những đóng góp nhất định trong
lý thuyết cạnh tranh sau này. Trường phái hiện đại với hệ thống lý thuyết đồ sộ với 3
quan điểm tiếp cận: tiếp cận theo tổ chức ngành với đại diện là trường phái Chicago
và Harvard; tiếp cận tâm lý với đại diện là Meuger, Mises, Chumpeter, Hayek thuộc
trường phái Viên; Tiếp cận “cạnh tranh hoàn hảo” phát triển lý thuyết của Tân cổ
điển.
Khi bàn về cạnh tranh, Adam Smith cho rằng nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân
chèn ép nhau thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình
một cách chính xác. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ
thúc đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng
lớn nào. Như vậy, có thể hiểu rằng cạnh tranh khơi dậy được sự nỗ lực chủ quan của

con người, góp phần làm tăng của cải của nền kinh tế.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, Các Mác cho rằng cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là
sự ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nằm giành giật được những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa đề thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Ở Việt Nam, đề cập đến “cạnh tranh”, một số nhà khoa học cho rằng: cạnh tranh
là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa – dịch vụ mua bán và đó là phương thức để
giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là
phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực
7
bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hóa lợi
nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là yếu tố thúc đẩy quá trình tích
lũy và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp.
Theo quy luật sinh tồn và đào thải trong tự nhiên đã được Darwin phát hiện, quy
luật của cạnh tranh là quá trình đào thải loại bỏ những chủ thể kinh doanh yếu kém, ít
khả năng thích ứng với thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất để
từ đó hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển toàn xã hội.
Hiện nay, trong kinh tế học còn nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh
tranh trên các cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Và hiện cũng chưa có
một lý thuyết nào hoàn toàn có tính thuyết phục về vấn đề này, do đó không có lý
thuyết “chuẩn” về năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên hai hệ thống lý thuyết với hai
phương pháp đánh giá được các quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng
nhiều nhất: Phương pháp thứ nhất do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thiết lập
trong bản Báo cáo cạnh tranh toàn cầu; phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về
quản lý và phát triển (IMD) đề xuất trong cuốn “Niên giám cạnh tranh thế giới”. Cả
hai phương pháp trên đều do một số giáo sư đại học Harvard như Michael Porter,
Jeffrey Shach và một số chuyên gia của WEF như Cornelius, Mache Levison tham
gia xây dựng.
Trong tác phẩm lợi thế cạnh tranh quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý
luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý
thuyết nổi tiếng là mô hình “Viên kim cương”. Các yếu tố quyết định của mô hình là

các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu, các ngành hỗ trợ và bối cảnh
cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có 2 biến số bổ sung là
vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ.
Theo Porter thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở tất cả
các ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ có thể thành công trên thương
trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành
nào đó. Porter phê phán các học thuyết cổ điển trước đây cho rằng ưu thế cạnh tranh
8
của các doanh nghiệp trên thương trường cạnh tranh quốc tế là chỉ dựa vào lợi thế
tuyệt đối của Adam Smith hay chỉ có lợi thế so sánh của David Ricardo. Theo ông,
khả năng cạnh tranh của một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo
và sự năng động của ngành của quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất
toàn cầu hoá thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi
thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra
và duy trì vị thế cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế.
Lý luận của Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia giải thích các hiện tượng thương
mại quốc tế trên góc độ các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế và vai trò của
nhà nước trong việc hỗ trợ cho các ngành có điều kiện thuận lợi để giành lợi thế cạnh
tranh quốc gia chứ không phải cho một vài doanh nghiệp cụ thể. Sự thành công của
các quốc gia ở ngành kinh doanh nào đó phụ thuộc vào 3 vấn đề cơ bản: lợi thế cạnh
tranh quốc gia, năng suất lao động bền vững và sự liên kết hợp tác có hiệu quả trong
cụm ngành.
Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri thức mới
thì vai trò của quốc gia càng tăng lên. Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và
thông qua quá trình địa phương hoá cao độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hoá,
cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên ưu thế quyết định sự thành công trong
cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số ngành trên thị trường toàn cầu vì môi
trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong và nhiều sức ép nhất. Các công ty
của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ việc có các đối thủ mạnh trong
nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, nhờ sự phong phú nhu cầu

khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành phụ trợ.
Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia
mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một
số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi thế
cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có được “quyền lực thị trường” để thành
công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc gia thường bị
hiểu nhầm với lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh chỉ là những điều kiện đặc thù tạo ra
9
ưu thế một khía cạnh nào đó của một quốc gia hoặc ngành kinh doanh của quốc gia
đó, như những điều kiện tự nhiên, tài nguyên hay con người. Nguồn nhân công rẻ, tài
nguyên dồi dào thường được coi là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy
nhiên đây mới chỉ là cơ sở cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế
cạnh tranh đảm bảo cho sự thành công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh
phải là khả năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan như: khách
hàng, nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị gia tăng cao cho doanh
nghiệp.
Như vậy, cạnh tranh là một sự tranh đấu mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh
đua nhau, tìm mọi biện pháp để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như :
chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng, đảm bảo tiêu thụ hiệu quả, nâng cao vị
thế của mình. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh
là tối đa hóa lợi ích.
1.1.2. Phân loại cạnh tranh
Xét theo chủ thể cạnh tranh
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau
Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể
- Cạnh tranh dọc
- Cạnh tranh ngang
Xét theo hình thái cạnh tranh

- Cạnh tranh hoàn hảo hay gọi là cạnh tranh thuần túy
- Cạnh tranh không hoàn hảo
Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh
10
- Cạnh tranh lành mạnh
- Cạnh tranh không lành mạnh
Xét theo công đoạn của quá trình kinh doanh hàng hóa
- Cạnh tranh trước khi bán hàng
- Trong khi bán hàng
- Sau khi bán hàng
Ngoài các loại hình cạnh tranh đã nêu trên, người ta còn xét theo một số tiêu chí
khác nữa: điều kiện không gian, lợi thế tài nguyên, nhân lực, đặc điểm tập quán sản
xuất, tiêu dùng, văn hóa ở từng dân tộc, khu vực, quốc gia khác nhau mà phân loại
thành cạnh tranh giữa các nước và các khu vực trên thế giới.
1.1.3. Vai trò của cạnh tranh
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường là một nền kinh tế năng động, có
tính cạnh tranh cao. Vì nói đến kinh tế thị trường là nói tới cạnh tranh, không có cạnh
tranh thì không còn gọi là nền kinh tế thị trường. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và các quy luật của nó. Chính vì vậy, vai trò của
cạnh tranh ngày càng được thể hiện một cách rõ rệt. Một số vai trò chủ yếu của cạnh
tranh xin được đề cập đến:
Thứ nhất, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp sử dụng tài nguyên một cách tối ưu
và khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Trong sản xuất,
nguồn tài nguyên là hữu hạn, thậm chí còn khan hiếm. Muốn tồn tại và chiến thắng
trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải không ngừng áp dụng khoa học công nghệ
mới vào sản xuất kinh doanh, sử dụng tối đa mọi nguồn lực nhằm thỏa mãn tốt nhất
nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, ngày nay người tiêu dùng còn quan tâm đến
công nghệ sản xuất của doanh nghiệp có đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn không, có gây
ô nhiễm môi trường sinh thái không. Do vậy, cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải
được các chứng chỉ do các tổ chức quốc tế có uy tín chứng nhận như ISO 9001, ISO

9002, ISO 14000.
11
Thứ hai, cạnh tranh làm cho tiêu dùng gắn liền với sản xuất, sản xuất ngày càng
thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Do cạnh tranh mà ngày nay các doanh
nghiệp phải tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích nhu cầu để từ đó lập kế hoạch sản xuất
đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất, kịp thời nhất và hiệu quả nhất. Sản xuất với
năng suất, chất lượng ngày càng tăng, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến người tiêu
dùng. Họ được tiêu dùng những hàng hóa có chất lượng cao và giá cả phải chăng,
chủng loại phong phú hơn dẫn đến sự lựa chọn dễ dàng hơn.
Thứ ba, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế trên cơ sở kết hợp một
cách hợp lý giữa lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của
toàn xã hội. Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, mà lợi nhuận chỉ có
thể thu được khi các doanh nghiệp bán được hàng hóa do mình sản xuất ra với chi phí
thấp, giá thành hạ. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ chấp nhận hàng hóa
của người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có quyền lựa chọn
những sản phẩm có chất lượng cáo, có kiểu dáng và mẫu mã đẹp với giá cả phù hợp.
Trong quá trình cạnh tranh, những doanh nghiệp nào kinh doanh kém hiệu quả, chi
phí bình quân cao sẽ bị loại ra khỏi thị trường. Ngược lại, những doanh nghiệp kinh
doanh có hiệu quả sẽ có môi trường tốt để phát triển. Khi đó, cạnh tranh có vài trò
điều tiết thị trường. Dưới tác động của cạnh tranh, các nhân tố sản xuất được sử dụng
có hiệu quả hơn, từ đó giảm thiểu tổng chi phí sản xuất của xã hội, nâng cao năng
suất lao động.
Như vậy, có thể nói cạnh tranh là quy luật tất yếu của tự nhiên, là động lực hay
A.Smith gọi là “bàn tay vô hình” thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Tuy
nhiên, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực đối với xã hội như sự phân hóa
giàu nghèo, thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm môi trường. Điều
này đòi hỏi chúng ta phải có các biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực của cạnh
tranh và phát huy những ảnh hưởng tích cực của nó đối với toàn xã hội.
12
1.2. Sức cạnh tranh của hàng hóa

1.2.1. Khái niệm
Cạnh tranh gắn liền với hành vi của chủ thể, vì vậy có hành vi của doanh nghiệp
kinh doanh, của cá nhân kinh doanh và của một nền kinh tế. Trong quá trình cạnh
tranh với nhau, để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp
nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện
pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó của chủ thể, được gọi là sức cạnh tranh của
chủ thể đó hoặc khả năng cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh,
một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hóa nào đó trên thị trường thì ta cũng
dùng thuật ngữ “sức cạnh tranh của hàng hóa” hoặc “năng lực cạnh tranh của hàng
hóa”, đó cũng là chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hóa đó với khách hàng.
Như vậy, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so với các sản
phẩm cùng loại trên thị trường về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm
tham gia cạnh tranh đều đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu dùng. Điều đó có
nghĩa là những sản phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên một đơn vị giá cả là
những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa
Sức cạnh tranh của sản phẩm trong thương mại quốc tế là tổng hòa sức cạnh
tranh của doanh nghiệp, ngành và quốc gia. Như vậy có thể nói các yếu tố ảnh hưởng
đến sức cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc tế bao hàm các yếu tố từ phạm
vi doanh nghiệp, ngành cho đến quốc gia. Nhìn chung, các yếu tố ảnh hưởng đến sức
cạnh tranh của sản phẩm trong thương mại quốc tế có thể được tập hợp thành 4 nhóm
cơ bản
 Nhóm các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh
Đối với trường hợp này, sức cạnh tranh được xem là sức cạnh tranh bằng lợi thế
so sánh. Trước hết đó chính là sự dồi dào các yếu tố về tài nguyên thiên nhiên cũng
như nguồn lực con người và nguồn vốn. Các yếu tố này được thể hiện qua mức giá
13
bình quân thấp và đó cũng chính là cơ sở căn bản của lợi thế so sánh và sức cạnh
tranh. Một yếu tố khác là năng suất lao động của nhà sản xuất được phản ánh bằng
các hệ số đầu vào thấp. Lợi thế so sánh giúp một nước xác định được mặt hàng cần

sản xuất và xuất khẩu. Có thể coi lợi thế so sánh là điều kiện cần để có được khả
năng cạnh tranh quốc tế.
Lợi thế so sánh không phải là yếu tố tĩnh như nhiều quan điểm vẫn thường đưa
ra, mà có thể thay đổi năng động do lợi thế so sánh của chỉ phụ thuộc vào các yếu tố
tĩnh như tài nguyên thiên nhiên và đất đai mà nó còn phụ thuộc vào các yếu tố động
là lao động và vốn vì vậy lợi thế so sánh có thể thay đổi nhờ vào ứng dụng những
công nghệ mới thông qua R&D, FDI và liên kết sản xuất qua biên giới để tận dụng
lợi thế so sánh về tài nguyên của các nước và lợi ích kinh tế nhờ quy mô. Ngoài ra,
phân tích lợi thế so sánh còn cần tính đến khả năng nâng cao trình độ thành thạo của
công nhân và thay đổi mô hình sản xuất của các nước. Michael E.Porter đã đưa ra:
“Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia” để giải thích tại sao một số quốc gia lại có
được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm nhất định. Lý thuyết này cho
rằng khả năng cạnh tranh của một ngành sản xuất phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và
đổi mới của ngành đó.
Ông đã xác định bốn nhóm yếu tố mà mỗi một quốc gia đều có sẵn., nhưng với
mức độ khác nhau và các yếu tố đó hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia, đó
là (1) các điều kiện về yếu tố sản xuất (2) điều kiện cầu, (3) các ngành có liên quan
và các ngành hỗ trợ; (4) chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh giữa các công ty .
 Nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước
Theo Fargerberg thì sức cạnh tranh quốc tế là khả năng của một đất nước trong
việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập trung, đặc biệt là đối với tăng
trưởng thu nhập và việc làm mà không gặp phải các khó khăn trong cán cân thanh
toán. Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia được xác định bởi năng suất của nền kinh
tế quốc gia đó, trong khi năng suất là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh cạnh tranh
14
quốc tế. Tăng trưởng kinh tế tác động trực tiếp đến sức mua của xã hội, tạo điều kiện
để sản phẩm mở rộng quy mô sản xuất.
 Nhóm các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
• Nhóm các yếu tố trong môi trường nội địa
Môi trường nội địa bao gồm: (1) môi trường luật pháp, chính trị: sự ổn định

chính trị, hệ thống pháp luật đầy đủ nghiêm minh, chính sách thương mại sẽ có ảnh
hưởng đến cơ chế khuyến khích xuất khẩu, rào cản thương mại trong nước và tiếp
cận thị trường nước ngoài. Chính sách tỷ giá liên quan đến tỷ giá hối đoái thực và tỷ
giá hối đoái so sánh thực giữa nước xuất khẩu và nước bạn hàng; (3) cấu trúc cạnh
tranh: là sự đa dạng nhiều hình thức kinh doanh, sự tham gia của các đối thủ cạnh
tranh trong và ngoài nước.
• Nhóm các yếu tố của thị trường nước ngoài
Đó là các yếu tố tương tự như những yếu tố trong môi trường nội địa; ngoài ra
còn kèm theo các yếu tố khác: (4) trình độ công nghệ: sự chênh lệch về trình độ và
hiệu quả ứng dụng công nghệ, (5) cấu trúc phân phối: là khả năng phân phối có hiệu
quả sản phẩm ra thị trường nước ngoài; (6) yếu tố địa lý, cơ sở hạ tầng của nước
ngoài; (7) các yếu tố văn hóa: là sự khác biệt về văn hóa tôn giáo, con người dẫn đến
những thói quen tiêu dùng, tập quán kinh doanh khác nhau.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá
 Sản lượng và doanh thu xuất khẩu của mặt hàng so với các đối thủ cạnh tranh
Mức doanh thu tiêu thụ của mặt hàng là chỉ tiêu dễ dàng xác định nhất để đánh
giá sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Doanh thu của mặt hàng là chỉ tiêu phản
ánh giá trị của số lượng hàng hóa tiêu thụ được, được tính bằng số lượng hàng hóa
tiêu thụ nhân với giá cả của hàng hóa trong một thời gian nhất định.
Doanh thu = giá bán sản phẩm x sản lượng
15
Thông thường, khi sản lượng và doanh thu xuất khẩu của một mặt hàng nào đó
có mức tăng trưởng đều đặn qua các năm thì có thể được đánh giá là hàng hóa có
được cạnh tranh tốt, được thị trường quốc tế chấp nhận. Ngược lại, nếu nhu cầu của
thị trường nhập khẩu đang tăng lên, nhưng sản lượng và doanh thu xuất khẩu hàng
hóa không có được mức tăng đều đặn hoặc suy giảm thì chứng tỏ rằng sức cạnh tranh
của hàng hóa đó chưa cao so với các đối thủ cạnh tranh. Sản lượng và doanh thu xuất
khẩu của một mặt hàng phụ thuộc và chất lượng, giá bán và quá trình tổ chức tiêu thụ
của mặt hàng.
 Thị phần của hàng hóa so với các đối thủ cạnh tranh

Thị phần của một hàng hóa trên thị trường được tính bằng tỷ lệ phần trăm mà
mặt hàng đó có mặt trên thị trường so với tổng số hàng hóa. Thị phần của một hàng
hóa trên thị trường được xác định bằng công thức sau:
Thị phần của hàng hóa X trên thị trường = MX/M x 100%
Trong đó: MX: Số lượng hàng hóa X được tiêu thụ trên thị trường
M: Tổng số lượng hàng hóa cùng loại được tiêu thụ trên thị trường.
Chỉ tiêu này phản ánh sức cạnh tranh của mặt hàng trên thị trường. Mặt hàng
nào có thị phần càng lớn thì càng có sức cạnh tranh cao. Ngược lại, một mặt hàng có
thị phần nhỏ hay giảm sút trên thị trường thì mặt hàng đó có sức cạnh tranh yếu, khả
năng ảnh hưởng của mặt hàng đối với thị trường là rất kém.
Khi đề cập đến thị phần, người ta thường phân biệt thị phần của sản phẩm so
với thị trường thế giới và thị phần sản phẩm so với phân đoạn thị trường mà nó phục
vụ.
 Giá bán của hàng hóa so với các đối thủ cạnh tranh
Giá cả phản ánh giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Tuy nhiên, trong nền
kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của hàng hóa, thì không phải với một loại sản
phẩm cùng loại, chất lượng tương đương, sản phẩm nào có giá thấp hơn sẽ có tính
cạnh tranh cao hơn. Việc xác định giá của sản phẩm trên thị trường chịu sự tác động
16
của nhiều nhân tố khác nhau như chi phí cho sản phẩm, nhu cầu thị trường về sản
phẩm, mức độ cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, các quy định của chính phủ
về luật pháp và thuế quan… Giá của sản phẩm trên thị trường được hình thành thông
qua quan hệ cung cầu tức là thông qua sự thỏa thuận giữa người mua và người bán để
đi tới mức giá cả mà cả hai bên đều thấy có lợi và chấp nhận được.
Trong một thị trường có sự cạnh tranh của hàng hóa các nước thì khách hàng có
quyền lựa chọn cho mình sản phẩm tốt nhất mà mình ưa thích và cùng một loại sản
phẩm thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn sản phẩm có giá bán thấp hơn. Do đó, giá cả sản
phẩm là một trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu quan trọng của doanh nghiệp
trên thị trường. Trong trường hợp giá bán của sản phẩm thấp hơn giá bán của đối thủ
cạnh tranh thì sản phẩm đó sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại. Để chiếm được ưu

thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự linh hoạt trong lựa chọn chính sách
giá phù hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sống quốc tế của
sản phẩm hoặc từng đoạn thị trường.
 Mức độ đáp ứng các yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn của hàng hóa so
với các đối thủ cạnh tranh
Chất lượng của sản phẩm thể hiện ở giá trị sử dụng và thời gian sử dụng của sản
phẩm. Trong xã hội phát triển, yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải cung ứng
những sản phẩm có chất lượng cao để thỏa mãn nhu cầu ngày càng khắt khe của
người tiêu dùng. Người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm, dịch
vụ cùng loại có chất lượng cao hơn. Do vậy, chất lượng sản phẩm, dịch vụ là chỉ tiêu
rất quan trọng thể hiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới, hàng hóa sản xuất
ra muốn tiêu thụ được phải đảm bảo được chất lượng theo chuẩn mực. Hàng hóa xuất
khẩu nói chung, hàng hóa nông sản nói riêng phải đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng
theo các tiêu chuẩn ISO quốc tế và phải được các tổ chức quốc tế xét duyệt và cấp
chứng chỉ ISO. Để nâng cao sức cạnh tranh, vấn đề đặt ra đối với hàng nông sản xuất
17
khẩu không chỉ đảm bảo được chất lượng theo các tiêu chuẩn ISO mà còn thể hiện ở
một chất lượng vượt trội so với các sản phẩm khác cùng loại trên thị trường.
Để nâng cao được chất lượng sản phẩm, chiếm lĩnh và giữ được thị phần, một
nhân tố quan trọng là phải thực hiện đổi mới sản phẩm để tạo ra sự khác biệt của sản
phẩm so với đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, sự đổi mới của sản phẩm phải luôn gắn
chặt với sự phù hợp sở thích và đảm bảo đủ độ tự tin cậy cho người tiêu dùng.
 Thương hiệu và uy tín của hàng hóa so với các đối thủ cạnh tranh
Thương hiệu và uy tín của sản phẩm chính là sự tổng hợp các thuộc tính của sản
phẩm như chất lượng sản phẩm, lợi ích, mẫu mã và dịch vụ của sản phẩm. Thương
hiệu không những là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt sản phẩm của doanh nghiệp
này với sản phẩm của doanh nghiệp khác, mà nó còn là tài sản rất có giá trị của doanh
nghiệp, là uy tín và thể hiện niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm. Một
thương hiệu mạnh là một thương hiệu có uy tín cao và uy tín thương hiệu càng cao

thì niềm tin và sự trung thành của người tiêu dùng đối với sản phẩm càng lớn. Điều
đó có nghĩa là nếu một sản phẩm nào đó có được uy tín và hình ảnh tốt đối với người
tiêu dùng thì sản phẩm đó có một lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với sản phẩm của các
đối thủ cạnh tranh.
Ngày nay, phần lớn các hàng hóa xuất khẩu trên thị trường quốc tế đều có gắn
với thương hiệu. Thương hiệu của hàng hóa đã trở thành yếu tố quan trọng đảm bảo
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện đại và người tiêu
dùng sẵn sàng mua sản phẩm hàng hóa với số lượng cao hơn, thậm chí trả giá cao
hơn, từ đó nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm.
1.2.4. Các công cụ cạnh tranh
Công cụ cạnh tranh là tập hợp các yếu tố, các chính sách, kế hoạch, chiến lược
mà doanh nghiệp sử dụng nhằm tạo ưu thế so với đối thủ cạnh tranh. Việc lựa chọn
các công cụ và biện pháp cho phù hợp để áp dụng trong từng trường hợp cụ thể là cả
một nghệ thuật trong cạnh tranh.
18
 Cạnh tranh bằng sản phẩm
Nhu cầu của thị trường ngày càng biến động nhanh chóng và đa dạng. Để nâng
cao sức cạnh tranh, doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược phát triển sản phẩm theo
các hướng
• Đa dạng hóa sản phẩm
Đa dạng hóa sản phẩm thực chất là quá trình mở rộng danh mục hàng hóa, tạo
nên một cơ cấu sản phẩm có hiệu quả. Cùng với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học
công nghệ, vòng đời của sản phẩm đang ngày càng bị rút ngắn lại. Doanh nghiệp cần
có nhiều chủng loại sản phẩm hàng hóa để hỗ trợ cho nhau.
Trong quá trình mở rộng kinh doanh, các doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng
hóa sản phẩm với các hình thức khác nhau. Có thể dùng hình thức hoàn thiện và cải
tiến các loại sản phẩm đang sản xuất để giữ vững thị trường hiện tại và thâm nhập thị
trường mới, có thể đa dạng hóa theo bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm, hoặc có thể
sản xuất ra những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có chung chủng loại
nguyên liệu gốc, hoặc sử dụng tổng hợp các chất có chứa đựng trong một loại nguyên

liệu để sản xuất một số sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau.
• Nâng cao chất lượng sản phẩm
Có thể hiểu chất lượng sản phẩm là mức đọ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng
của nó. Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh lợi hại trên thị trường. Khi nền
kinh tế phát triển, thu nhập của người tiêu dùng ngày càng cao thì những yêu cầu về
chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ cũng gia tăng tương ứng. Đặc biệt, đối với các
thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, chất lượng hàng hóa phải đạt được
mức “chất lượng hàng hóa quốc tế” và phải được một số tổ chức có uy tín chứng
nhận. Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO đưa ra khái niệm: “Chất lượng sản phẩm là
tổng thể những chi tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của sản phẩm, thể hiện
được sự thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với
công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”. Nếu theo như khái niệm trên,
19
chất lượng được hiểu trên hai khía cạnh là tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật và chất lượng
sản phẩm với sự phù hợp nhu cầu thị trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm thì phải
xem xét cả hai khía cạnh trên.
• Cạnh tranh bằng giá bán của sản phẩm
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh
nghiệp dự định có thể nhận được từ người mua qua việc trao đổi sản phẩm trên thị
trường. Giá cả có một vai trò rất quan trọng, đối với doanh nghiệp là khẩu cuối cùng
của quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa, còn đối với người tiêu dùng là một trong
những yếu tố quyết định đến hành vi mua hàng. Giá cả là dấu hiệu tin cậy phản ánh
tình hình biến động thị trường. Thông qua giá cả, doanh nghiệp có thể nắm bắt được
sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Trong cạnh tranh, giá cả được sử dụng như một công cụ cạnh tranh hữu hiệu
thông qua chính sách định giá bán. Khi đưa ra chính sách định giá bán, doanh nghiệp
cần phải xem xét các vấn đề như: lượng cầu đối với sản phẩm, chi phí sản xuất và giá
thành đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp phải chấp
nhận giá bán thấp hơn giá thành vì những mục tiêu khác như: để thâm nhập thị
trường dễ dàng hơn. Điều cuối cùng là phải nhận dạng đúng thị trường nhằm đảm

bảo sự phù hợp với nhu cầu và giá bán sản phẩm.
 Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh và đây
cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và lợi nhuận. Để tiêu thụ sản phẩm, công
việc đầu tiên của doanh nghiệp là lựa chọn kênh phân phối sản phẩm một cách hợp
lý, có hiệu quả nhằm mục đích đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của khách
hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng để bù đắp chi phí sản xuất và thu hồi vốn.
Xây dựng được một hệ thống mạng lưới phân phối tốt có nghĩa là xây dựng được
một nền tảng vững chắc để phát triển thị trường, bảo vệ thị phần của doanh nghiệp
quốc gia đối với sản phẩm xuất khẩu.
 Cạnh tranh bằng các công cụ khác
20
• Định hướng khách hàng
Định hướng khách hàng là việc doanh nghiệp hoạt động theo phương châm “sản
xuất ra các sản phẩm, dịch vụ phải trên cơ sở nhu cầu khách hàng và chất lượng của
sản phẩm, dịch vụ là mức độ thỏa mãn nhu cầu khách hàng của sản phẩm, dịch vụ
đó”
• Dịch vụ sau bán hàng
Ngày nay, khách hàng không chỉ chú ý đến giá cả hàng hóa, chất lượng sản
phẩm mà ngày càng quan tâm đến dịch vụ hậu mãi khi mua bất kỳ sản phẩm nào. Do
đó, bố trí các cơ sở chăm sóc khách hàng ở những nơi thuận tiện với đầy đủ trang
thiết bị, đội ngũ nhân viên có tay nghề cao, tận tình phục vụ là một công cụ tuyệt vời
để hỗ trợ tốt cho việc bán hàng.
• Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán cũng là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh
nghiệp sử dụng. Phương thức thanh toán gọn nhẹ, rườm rà hay nhanh chóng sẽ ảnh
hưởng đến công tác tiêu thụ và do đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu
Trong nền kinh tế hiện đại, thị trường thế giới đã trở nên thống nhất, các rào cản

thương mại ngày càng được dỡ bỏ. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của một quốc
gia đều ít nhiều mang tính quốc tế. Hội nhập trở thành một điều kiện tiên quyết để
phát triển. Vì vậy, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu là yêu cầu khách
quan và mang tính chất sống còn đối với các nhà kinh doanh quốc tế.
1.3.1. Đối với doanh nghiệp
Ở đây cũng phân biệt sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa với sức cạnh tranh
của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Sức
21
cạnh tranh của hàng hóa có được do sức cạnh tranh của chủ thể doanh nghiệp, nền
kinh tế tạo ra nhưng sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nữa. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa có ảnh hưởng lớn và thể
hiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì sự ảnh hưởng chủ yếu của sản phẩm đến
sức cạnh tranh của doanh nghiệp nên các doanh nghiệp muốn duy trì phát triển thị
trường đang hoặc sẽ tiến hành kinh doanh thì rất cần thiết phải nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường đó.
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, nếu doanh nghiệp chỉ trông chờ vào
các thị trường truyền thống thì chắc chắn đến một lúc nào đó họ sẽ mất khó có thể
cạnh tranh với các đối thủ có những điều kiện tương tự. Yêu cầu về nâng khả năng
cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu tại các thị trường mà doanh nghiệp có lợi thế so sánh
đang trở nên cấp bách và là hướng đi đúng đắn, lâu dài cho các doanh nghiệp khi
tham gia vào thị trường toàn cầu, nơi không còn sự can thiệp nhiều của chính phủ,
của các hàng rào thương mại quốc gia. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất
khẩu chính là nâng cao khả năng đáp ứng của doanh nghiệp đối với nhu cầu người
tiêu dùng quốc tế.
1.3.2. Đối với nền kinh tế
Một mặt, tổng số sức cạnh tranh của doanh nghiệp của một nước tạo thành sức
cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế
khi sức cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt
khác, sức cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế
và trong nước ( đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế).

Đối với nền kinh tế quốc dân muốn tăng trưởng và phát triển ổn định tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp trong và ngoài nước thì cần thiết
lập được một vị thế trên trường quốc tế. Vị thế thế nền kinh tế của một quốc gia lại
được xây dựng từ các doanh nghiệp, từ các sản phẩm xuất khẩu của quốc gia đó. Xây
dựng hình ảnh, nâng cao sức cạnh tranh của một nền kinh tế suy cho cùng thì việc
quan trọng đầu tiên đó là xây dựng hình ảnh thương hiệu, sức cạnh tranh của các
22
doanh nghiệp và các sản phẩm xuất khẩu tại các thị trường có tầm ảnh hưởng lớn đến
nền kinh tế thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
1.3.3. Đối với xã hội
Việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu góp phần đem lại cho
người tiêu dùng nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn những sản phẩm của chủng
loại, chất lượng tương tự với mức giá rẻ. Điều này rõ ràng có tác dụng thúc đẩy phúc
lợi xã hội đi lên.
Mở rộng khái niệm này có thể thấy rằng cái lợi đối với người tiêu dùng không
chỉ còn bó hẹp trong một quốc gia riêng lẻ nữa mà đó là cả thị trường toàn cầu, người
tiêu dùng được sử dụng hàng hóa có tính cạnh tranh nhất, do các doanh nghiệp, các
nền kinh tế có lợi thế cao nhất về hàng hóa đó sản xuất ra. Nâng cao khả năng cạnh
tranh sản phẩm xuất khẩu một mặt tạo điều kiện thu được nguồn lợi nhuận từ bên
ngoài quốc gia, mặt khác đó cũng chính là yếu tố tác động đến các sản phẩm nhập
khẩu vào quốc gia và sản phẩm tự sản xuất trong nước, giúp cho người tiêu dùng
trong nước có nhiều sự lựa chọn cho nhu cầu sử dụng của mình.
Tóm lại, dù là đối với doanh nghiệp với nền kinh tế hay đối với xã hội thì nâng
cao khả năng cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu là hoạt động có tác động mạnh mẽ, có
hiệu quả giúp cho doanh nghiệp, nền kinh tế của một quốc gia nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình trên trường quốc tế, đồng thời cũng giúp cho người tiêu dùng
được sử dụng hàng hóa có chất lượng tốt, giá thành rẻ, các dịch vụ khác liên quan
đến sản phẩm cũng tốt hơn.
23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH CỦA

GIẦY DÉP VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
2.1. Tổng quan về thị trường Hoa Kỳ
2.1.1. Khái quát về nền kinh tế Hoa Kỳ
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (United States of America), thường gọi là Mỹ hoặc
Hoa Kỳ, gồm 50 bang và đặc khu Colombia (tức là thủ đô Washington) hợp thành.
Hoa Kỳ nằm ở Tây bán cầu, Bắc giáp Canada, Nam giáp Mexico và vịnh Mexico,
Đông giáp Đại Tây Dương, Tây giáp Thái Bình Dương, bang Alaska nằm phía Tây
bắc Canada, quần đảo Hawaii ở Thái Bình Dương. Với diện tích 9.629.047 km
2
, Hoa
Kỳ đứng thứ 4 thế giới sau Liên bang Nga, Canada, Trung Quốc, chiếm 6,2% diện
tích toàn cầu. Phần lục địa chính từ Đông sang Tây rộng 4.500 km, từ Bắc xuống
Nam rộng 2.500 km. Hoa Kỳ là một quốc gia đa chủng tộc: da trắng (69,1%), da đen
(12,1%), gốc Latin (Hispanic) (12,5%), gốc Châu á (3,6%), thổ dân Hoa Kỳ (0,8%).
Hiện nay và trong nhiều năm nữa, Hoa Kỳ vẫn là nước có nền kinh tế lớn nhất
thế giới. Năm 2007, GDP của Hoa Kỳ ước đạt xấp xỉ 13,79 nghìn tỷ USD (tính theo
giá Đô la cùng năm), chiếm khoảng 26% tổng GDP toàn thế giới. Nếu tính theo sức
mua (PPP) thì GDP của Hoa kỳ chiếm khoảng 20%. Thu nhập bình quân đầu người ở
Hoa Kỳ năm 2007 đạt 43,594 USD, xếp thứ 9 trên thế giới.
Cơ cấu kinh tế của Hoa Kỳ năm 2007 gồm dịch vụ 78,7%, công nghiệp chế tạo
20,3%, và nông nghiệp 1%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Hoa Kỳ vẫn có xu
hướng tăng.
Kể từ thập kỷ 90 trở lại đây, Hoa Kỳ đã duy trì được mức tăng trưởng GDP cao
hơn mức tăng trưởng chung của cả khối G7. Mức tăng trưởng GDP bình quân của
Hoa Kỳ trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi đó mức tăng chung của cả khối G7 trong
cùng thời kỳ chỉ là 2,6%. Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP thực tế bình quân của Hoa Kỳ
từ năm 2000 trở lại đây thấp hơn so với thập kỷ 90 và không ổn định.
24
Hoa Kỳ rất mạnh và đóng vai trò chi phối thế giới trong các lĩnh vực tài chính
tiền tệ, thương mại điện tử, thông tin, tin học, bưu điện, du lịch, vận tải hàng không,

vận tải biển, y tế, giáo dục, điện ảnh, tư vấn v.v. Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ,
hiện nay, Hoa Kỳ chiếm khoảng 50% tổng lưu lượng thanh toán và đầu tư quốc tế
thực hiện bằng đồng đô la.
Các ngành công nghiệp chính của Hoa Kỳ bao gồm: dầu lửa, sắt thép, ô tô, hàng
không, viễn thông, hóa chất, điện tử, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, khai thác
gỗ, khai khóang. Các ngành chế tạo hàng không, điện tử, tin học, nguyên tử, vũ trụ,
hóa chất là những ngành công nghiệp mũi nhọn của Hoa Kỳ. Các sản phẩm nông
nghiệp chính của Hoa Kỳ gồm lúa mỳ, các loại ngũ cốc khác, ngô, hoa quả, bông, thịt
bò, thịt lợn, gia cầm, sản phẩm sữa, lâm sản, cá.
Tổng kim ngạch thương mại quốc tế (gồm cả hàng hóa và dịch vụ) của Hoa Kỳ
năm 2005 đạt xấp xỉ 3,27 nghìn tỷ USD, tăng khoảng 12% so với năm 2004, trong đó
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá khoảng 2,57 nghìn tỷ, chiếm 78% và bằng 20%
GDP.
Hoa Kỳ là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hoa Kỳ là một
trong ba nước thành lập ra Khu vực mậu dịch tự do Bắc Hoa Kỳ (NAFTA). Hoa Kỳ
đã ký hiệp định thương mại tự do song phương với một số nước, và dành ưu đãi
thương mại đơn phương cho nhiều nước đang và chậm phát triển. Hiện nay, Hoa Kỳ
có quan hệ buôn bán với 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trung quốc đã vượt
Nhật bản trở thành bạn hàng lớn thứ 3 của Hoa Kỳ sau Canada và Mêhicô là hai nước
thành viên của NAFTA.
2.1.2. Đặc điểm của thị trường Hoa Kỳ
Dung lượng thị trường Hoa Kỳ rất lớn do Hoa Kỳ có dân số đông, thu nhập bình
quân đầu người cao. Sức mua của người Hoa Kỳ lớn vì họ chi tiêu mua sắm nhiều.
Trong năm 2004, tổng doanh số bán hàng tại Hoa Kỳ đã lên tới hơn 4 nghìn tỷ USD,
tăng 8% so với năm 2003. Theo thống kê, trong 15 năm qua, tỷ lệ tiết kiệm của người
Hoa Kỳ đã từ 6% giảm xuống còn 1%. Hàng hoá mà người Hoa Kỳ tiêu dùng hầu hết
25

×