Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

LUẬN văn sử dụng đất nông nghiệp để phát triển nông sản hàng hóa ở tỉnh bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 120 trang )

LUẬN VĂN:

Sử dụng đất nông nghiệp để phát triển
nông sản hàng hóa ở tỉnh Bạc Liêu


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan hệ kinh tế khu vực và quốc tế, Việt Nam hiện có những lợi thế
rất lớn về một số hàng hóa, trong đó có hàng nông sản. Đây là mặt hàng luôn chiếm
một tỷ trọng cao trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Để đẩy mạnh việc sản xuất mặt hàng này nhằm tranh thủ ngày càng tốt hơn
lợi thế của nước ta so với một số nước trong khu vực và trên thế giới thì việc sử
dụng có hiệu quả đất nông nghiệp là một yêu cầu cấp thiết của thực tiễn.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm hàng đầu. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đưa ra chủ trương đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp và Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khóa VI)
khẳng định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ và nền kinh tế hàng hóa được
thừa nhận. Chính sách đất đai kể từ khi đổi mới đến nay do đó luôn thể hiện sự
tích cực điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới, khuyến khích phát triển nông
sản hàng hóa, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nêu bật
chủ đề: Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, đất đai với tư cách là “tài sản
quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý” như Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định, đang được sử
dụng ngày một hiệu quả hơn; đem lại những thành công nhất định trong việc sản
xuất nông sản hàng hóa nói riêng và việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Việc sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu cũng nằm trong
xu thế chung của cả nước. Là một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, thuộc vùng
đất trẻ, được hình thành chủ yếu do sự bồi lắng phù sa ở các cửa biển tạo nên và


với 56 km bờ biển phía đông và đông nam, Bạc Liêu có điều kiện hết sức thuận
lợi để phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, đặc biệt là lương thực và thủy sản.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, động lực phát triển kinh tế gia tăng
mạnh mẽ; đi liền với nó là những chính sách ưu đãi đối với nông nghiệp của


Đảng và Nhà nước đã đưa đến kết quả ngày càng nhiều diện tích đất được khai
phá và sử dụng. Ngày nay trên địa bàn tỉnh chỉ còn một diện tích rất nhỏ thuộc
nhóm đất chưa sử dụng. Phần lớn diện tích đất được khai phá nhằm mục đích
phát triển nông sản hàng hóa; trong đó thủy sản là chủ yếu.
Tuy nhiên, việc sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng vốn có của nó. Việc sử dụng đất nông nghiệp để phát triển
nông sản hàng hóa nhìn một cách tổng quát vẫn còn thiếu đồng bộ, mang tính tự
phát, đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết như: nâng cao lợi ích của người sử
dụng đất để họ trở thành lực lượng sản xuất đủ mạnh có thể xác lập một nền sản
xuất hàng hóa; việc xử lý mối quan hệ giữa tích tụ ruộng đất - là cơ sở để xây
dựng một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn với việc đảm bảo được quyền
lợi chính đáng cả về mặt kinh tế và xã hội cho một bộ phận người dân gắn cuộc
sống của họ với mảnh đất ấy; vấn đề thực thi chính sách pháp luật về đất đai…
Việc giải quyết một cách hợp lý, hợp quy luật những vấn đề lý luận và
thực tiễn nêu trên sẽ làm cho việc sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
ngày càng hiệu quả hơn. Từ đó tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng một nền
nông nghiệp hàng hóa, đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo
cho người dân; trước hết là những người nông dân. Với mong muốn đó, tôi chọn
đề tài: “Sử dụng đất nông nghiệp để phát triển nông sản hàng hóa ở tỉnh Bạc
Liêu” để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là “tài sản quốc gia” và là một nguồn lực hết sức quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội. Đất đai luôn là vấn đề mang tính thời sự. Việc khai thác và sử
dụng nguồn lực này là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đã có nhiều công trình
nghiên cứu ở nhiều cấp độ và nhiều góc độ khác nhau như:
Công trình “Kinh tế tài nguyên đất” của Ngô Đức Cát, Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội, 2000; “Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, của Hà Huy Thành, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001; “Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân không có


đất hoặc thiếu đất ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thực trạng và giải pháp” của
tác giả Nguyễn Đình Hương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Ở góc độ quản lý kinh tế và kinh tế học có các công trình như: Luận án tiến
sĩ: “Các giải pháp kinh tế chủ yếu để khai thác sử dụng hợp lý đất đồi núi trọc ở
các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam”, năm 1996, của Dương Ngọc
Thí; Luận án tiến sĩ “Những giải pháp kinh tế tổng hợp nhằm khai thác và sử dụng
có hiệu quả vùng đất bãi bồi, mặt nước hoang hóa vùng ven biển Thái Bình”, bảo
vệ tại Viện kinh tế học, thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia,
năm 2002, của Phạm Ngọc Quân.
Ở góc độ Kinh tế chính trị có các công trình đã được bảo vệ tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh như: Luận văn thạc sĩ: “Hệ thống các bảng địa
tô chênh lệch của Mác - Ăngghen và một số vấn đề nông nghiệp Quảng Nam Đà Nẵng”, năm 1995, của Nguyễn Văn Mân; Luận văn thạc sĩ “Khai thác nguồn
lực đất đai để phát triển nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai”, năm 2000, của Bùi Thị
Thuận; Luận văn thạc sĩ: “Khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát triển
kinh tế hàng hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”, năm 2000, của Nguyễn Tiến Khôi;
Luận văn thạc sĩ: “Giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân để phát triển kinh
tế hàng hóa ở Quảng Bình”, năm 2002, của Lê Minh Tuynh và Luận văn thạc sĩ:
“Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay”, năm 2004, của Hà Công
Nghĩa.
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí trong nước. Về
cơ bản, các công trình nói trên đã đi vào phân tích, đánh giá thực trạng và đề ra
những giải pháp để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai nhằm đẩy

mạnh sản xuất nông nghiệp, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông thôn nhưng chủ yếu là ở tầm quốc gia và vùng kinh tế hoặc ở các địa
phương khác. Ở Bạc Liêu chưa có công trình khoa học nào dưới góc độ Kinh tế
chính trị nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở phân tích vai trò của đất nông nghiệp
đối với phát triển nông sản hàng hóa; các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng


đất nông nghiệp cũng như thực trạng của vấn đề này ở địa bàn tỉnh Bạc Liêu, để
đề ra những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm sử dụng đất nông nghiệp
trên địa bàn tỉnh ngày một hiệu quả hơn, góp phần đẩy mạnh sản xuất nông sản
hàng hóa để phát triển kinh tế - xã hội.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ về mặt lý luận vai trò của đất nông nghiệp - là tư liệu sản xuất cơ
bản, là nguồn lực quan trọng để phát triển nông sản hàng hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Bạc Liêu trong
giai đoạn thực hiện kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001 - 2005) theo phê duyệt
của Chính phủ tại Quyết định số 839/QĐ - TTg ngày 24/9/2002, đồng thời làm
rõ những nhân tố tác động đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã được nghiên cứu, luận văn đề xuất một
số phương hướng và giải pháp để sử dụng có hiệu quả đất nông nghiệp trong
tiến trình đẩy mạnh phát triển nông sản hàng hóa trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Về nội dung
Đề tài được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu đất nông nghiệp với tư
cách là một tư liệu sản xuất đặt biệt để phát triển nông sản hàng hóa.
4.2. Về thời gian nghiên cứu
Việc khảo sát hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu chủ yếu

tập trung vào giai đoạn từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là hệ thống những quan điểm cơ bản
của kinh tế chính trị học Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về những vấn
đề kinh tế.
- Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị học
Mác - Lênin như: phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp logic thống
nhất với lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khoa học chung như mô hình
hóa các quá trình kinh tế, quan sát, thống kê, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và
quy nạp, phương pháp hệ thống để giải quyết những vấn đề thuộc nội dung của
luận văn.


6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của đất nông nghiệp.
- Phân tích, làm rõ thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Bạc Liêu từ năm
2001 đến nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp phục vụ phát triển nông sản hàng hóa trên địa bàn tỉnh
Bạc Liêu.
- Là một công trình có sự gắn kết giữa phân tích lý luận với tổng kết thực
tiễn địa phương, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch
định các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bạc Liêu trong
những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.


Chương 1

NHẬN THỨC CHUNG VỀ LÝ LUẬN ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. Đất nông nghiệp và vai trò của nó đối với phát triển nông sản
hàng hóa
1.1.1. Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp
- Khái niệm đất nông nghiệp:
Đất đai là một nguồn lực quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội, là một trong những thành phần chủ yếu của môi trường sống, đồng thời
là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh quốc phòng... Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô
cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn
của đất nước” [7, tr.61].
Khái niệm lãnh thổ của một quốc gia không thể tách rời với đất đai của
quốc gia đó. Các cuộc chiến tranh giành lãnh thổ trong lịch sử nhân loại thực
chất là chiến tranh giành đất đai và các nguồn tài nguyên gắn với đất. Đất đai và
con người là những nhân tố không thể thiếu được của một đất nước, một lãnh
địa mà bất cứ một nhà nước cầm quyền nào cũng ra sức giữ và củng cố bằng
mọi giá, dù có phải đổ nhiều của cải và xương máu. Do vị thế kinh tế quan trọng
của đất đai đối với đời sống con người mà đất đai có một vị trí hết sức đặc biệt
trong đời sống văn hóa, chính trị và cả đời sống tâm linh (nhất là ở các nước
phương Đông). Các quan hệ về đất đai giữa các quốc gia, giữa các tộc người với
nhau thường trở thành các vấn đề chính trị về chủ quyền, lãnh thổ; đôi khi bị đẩy
lên thành những điểm nóng trong các giai đoạn lịch sử, làm thay đổi vận mệnh
của nhiều quốc gia, dân tộc.
Trong lịch sử, các quan hệ về đất đai chuyển dần từ quan hệ khai thác,
chinh phục tự nhiên sang các quan hệ kinh tế - xã hội về sở hữu và sử dụng. Vị
thế quan trọng của đất đai làm cho quan hệ đất đai trở thành quan hệ phản ánh
lợi ích giai cấp một cách rõ nét.



Cơ sở để hình thành nên những quan hệ đất đai như trên xuất phát từ tầm
quan trọng lớn lao của đất đai đối với đời sống của con người, như C.Mác đã
khẳng định: “...đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi sự sản xuất và
mọi hoạt động của loài người” [20, tr.473]. Trình độ khai thác và sử dụng đất đai
để phục vụ cho cuộc sống phản ánh một khía cạnh quan trọng của trình độ chinh
phục thiên nhiên của con người, thông qua đó cũng phản ánh trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Trải qua quá trình
ấy, đất đai được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, và trước hết là để sản
xuất nông nghiệp. Có thể nói đây là mục đích cơ bản nhất và được hình thành
sớm nhất trong đời sống của loài người. Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều
có nền sản xuất xã hội với điểm xuất phát là sản xuất nông nghiệp, trong đó có
Việt Nam - vốn là một quốc gia có nền văn minh lúa nước đậm nét với hoạt
động sản xuất nông nghiệp truyền thống chủ yếu là canh tác lúa nước. Cũng do
đặc điểm này mà theo quan niệm thông thường, sản xuất nông nghiệp ở nước ta
thường được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là việc trồng lúa hay trồng cây hàng năm...
Đất nông nghiệp, vì vậy chỉ hiểu được đơn thuần là ruộng đất, nương rẫy hoặc đất
vườn. Tuy nhiên ở góc độ tiếp cận chính thống về mặt quản lý nhà nước và các
chương trình phát triển kinh tế, nông nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng,
khái niệm đất nông nghiệp cũng vì thế mà được mở rộng hơn về thành phần.
Điều 42 Luật đất đai năm 1993 của Việt Nam quy định: “Đất nông nghiệp
là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”
[18, tr.30]. Trên cơ sở khái niệm đó các văn bản pháp luật ngày càng đi vào xác
định một cách cụ thể hơn các hình thức đất đai thuộc nội hàm đất nông nghiệp.
Theo quy định tại điều 13 Luật Đất đai năm 2003, nhóm đất nông nghiệp bao
gồm các loại đất:
- Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng
vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác;
- Đất trồng cây lâu năm;
- Đất rừng sản xuất;



- Đất rừng phòng hộ;
- Đất rừng đặc dụng;
- Đất nuôi trồng thủy sản;
- Đất làm muối;
- Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ [19, tr.20].
Như vậy, đất nông nghiệp là đất được sử dụng vào mục đích sản xuất
nông nghiệp. Nông nghiệp ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Nói cách khác đây là nền nông nghiệp
toàn diện với trình độ sản xuất ngày càng được nâng lên theo sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Nó là kết quả của một quá trình mang tính lịch sử.
Con người trong quá trình tiến hóa của mình đã biết tạo ra lương thực,
thực phẩm thông qua việc trồng trọt, chăn nuôi trên những thửa đất thích hợp,
biết khai thác rừng để lấy lâm sản phục vụ cuộc sống... Trình độ phát triển của
nhân loại ngày càng cao thì tính chất của các hoạt động ấy cũng biến đổi theo và
mang tính chủ động hơn, con người không chỉ khai thác mà còn biết tác động trở
lại tự nhiên nhằm tái tạo tự nhiên, không chỉ sử dụng đất trồng trọt sẵn có mà
còn mở rộng khai hoang để tăng diện tích; trồng thêm đồng cỏ để chăn nuôi;
trồng rừng để tái tạo nguồn động thực vật; khai thác sử dụng mặt nước tự nhiên
để nuôi trồng thủy sản. Đất nông nghiệp là đối tượng của sự tác động đó và ngày
càng được khai thác một cách hiệu quả hơn. Trong nông nghiệp, đất đai là tư
liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò là môi trường sinh trưởng và phát triển không
thể thiếu được của cây trồng và vật nuôi. Đất đai nông nghiệp rất đa dạng về
chủng loại và chất lượng, tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên của từng vùng. Chất
lượng của đất nông nghiệp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất của
ngành nông nghiệp. Theo C.Mác ngoài các yếu tố khí hậu và các yếu tố khác thì
độ phì nhiêu tự nhiên của đất nông nghiệp được quyết định bởi cấu thành hóa
học của lớp đất trên mặt hay dung lượng các chất dinh dưỡng cần thiết cho thực
vật, ông cho rằng: “Mặc dù tính chất phì nhiêu ấy là một thuộc tính khách quan của

đất, nhưng về mặt kinh tế thì bao giờ nó cũng bao hàm một mối quan hệ nhất định,
mối quan hệ với trình độ phát triển nhất định của hóa học và của cơ khí trong nông
nghiệp và vì vậy mà nó thay đổi theo trình độ phát triển ấy” [20, tr.296].


Luận điểm này của Mác cho thấy đất nông nghiệp muốn trở thành một tác
nhân kinh tế thì nó phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa những đặc tính tự nhiên và
hoạt động có mục đích của con người.
- Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp:
Thứ nhất, đất nông nghiệp là sản phẩm của tự nhiên kết tinh sức lao động
của con người.
Là một dạng tài nguyên thiên nhiên, đất nông nghiệp cũng như đất đai nói
chung được hình thành do quá trình phong hóa các loại đá dưới sự tác động của
các yếu tố tự nhiên như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, sinh vật,… phổ biến là quá
trình phong hóa hóa học, quá trình phong hóa vật lý chỉ diễn ra ở những vùng
khô hạn kéo dài. Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa kết hợp
với địa hình có mạng lưới sông suối dày đặc chia cắt đã thúc đẩy quá trình
phong hóa hóa học diễn ra mạnh mẽ. Nhìn chung các loại đá gốc tham gia quá
trình phong hóa ở nước ta có độ tuổi khác nhau, thuộc cả nguyên đại Cổ sinh (kỷ
đệ nhất) và Trung sinh (kỷ đệ nhị). Do đó sản phẩm phong hóa của chúng tức là
đất đai cũng có sự khác nhau về tính chất và cơ bản đuợc hình thành trong
nguyên đại Tân sinh (kỷ đệ tam và đệ tứ). Ở phần lãnh thổ phía Bắc các đá tuổi
Tiền Cambri phân bố dọc sông Hồng và các đá tuổi từ Cambri đến hết nguyên
đại Trung sinh, tức là cách đây từ 570 triệu năm đến khoảng 65 triệu năm hầu
như phổ biến. Ở Trung Bộ tồn tại các đá thuộc nguyên đại Cổ sinh và Trung sinh
là chủ yếu. Về phía Nam, khối nhô Kon Tum tồn tại các đá tuổi Tiền Cambri. Ở
khu vực này, đầu kỷ Đệ Tứ (cách đây khoảng 2,5 triệu năm) đã có sự phun trào
bazan rộng khắp để hình thành những vùng đất đỏ phì nhiêu. Khi kết thúc quá
trình phong hóa đá, đất đai được hình thành tạo cơ sở cho sinh vật phát triển.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài với nhiều vòng tuần hoàn, thế giới sinh vật lại

làm cho đất đai phong phú thêm bởi nguồn chất hữu cơ được tạo ra trong quá
trình sinh trưởng, phát triển và phân hủy của động thực vật. Dần dần đất đai trở
nên màu mỡ và có cấu trúc phức tạp hơn so với trước, trở thành môi trường sinh
sống ngày càng phù hợp đối với sinh vật và con người trong quá trình tiến hóa.
Tuy nhiên, lực lượng tự nhiên dù có chứa đựng khả năng phục vụ cuộc
sống tốt đến đâu đi nữa cũng chỉ phát huy hiệu quả khi có sự tác động của hoạt


động có mục đích của con người. Tác động lâu dài của con người biểu hiện dưới
hàng loạt các hoạt động sản xuất đã biến hệ thống tự nhiên thuần túy thành một
hệ thống tự nhiên - kỹ thuật. Đất đai được sử dụng vào mục đích phát triển nông
nghiệp, ngoài những đặc tính tự nhiên của nó thuận lợi cho việc canh tác thì nhất
thiết phải có hoạt động khai khẩn của con người để biến những mảnh đất hoang
thành đất trồng trọt. Quá trình khai khẩn có thể diễn ra ở các mức độ thuận lợi
hay khó khăn khác nhau tùy theo các điều kiện tự nhiên của khu vực đó quy
định nhưng đều có sự kết tinh lao động của con người. Vì vậy C.Mác khẳng
định rằng: “Tuy có những thuộc tính như nhau nhưng một đám đất được canh
tác có giá trị hơn là một đám đất bỏ hoang” [20, tr.248].
Trong giai đoạn tiền kỹ thuật của xã hội loài người, sự chinh phục tự
nhiên không phải dễ dàng. Nếu trong giai đoạn hiện nay với tầm hiểu biết sâu
rộng về thế giới tự nhiên, với sự hỗ trợ của nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại,
con người vẫn rất vất vả khi đối mặt với những thách thức của thiên nhiên, thì
trước đây bám trụ được với thiên nhiên để sinh tồn còn khó khăn gấp bội. Điều
đó cho thấy xã hội loài người phát triển cho đến ngày nay là kết quả của rất
nhiều công sức đổ vào công cuộc chinh phục tự nhiên mà điển hình là sức lao
động kết tinh vào đất đai để nó trở thành đất nông nghiệp tạo ra lương thực thực
phẩm nuôi sống con người.
Hơn nữa, đất đai của một đất nước, một dân tộc phải trải qua các cuộc
chiến chống ngoại xâm còn chứa đựng cả xương máu của nhiều thế hệ. Các cuộc
thám hiểm tìm ra những vùng đất mới cũng đều phải trả một giá rất đắt bằng cả

tiền của, mồ hôi và sinh mạng con người. Như vậy đất đai không chỉ đơn thuần
là sản phẩm của tự nhiên, mang những tính chất tự nhiên mà đất đai, theo đúng
nghĩa của nó, tức là có thể phục vụ được cho cuộc sống của con người, còn in đậm
những dấu ấn của con người trong suốt chiều dài lịch sử khai thác và sử dụng.
Ở Việt Nam hiện nay, những hoạt động mở rộng diện tích đất nông nghiệp
thông qua các chương trình khai hoang, phục hóa đi đôi với cải tạo đất đai, thực
hiện thâm canh ruộng đất nhằm nâng cao năng lực sản xuất của đất nông nghiệp
tiếp tục phản ánh sự kết tinh lao động của con người vào đất đai nhưng với hàm


lượng ngày càng cao theo trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Nếu chỉ là
sản phẩm tự nhiên thuần túy, thì đất đai không có giá trị. C.Mác khẳng định:
“Thác nước, cũng như đất đai nói chung, cũng như mọi lực lượng tự nhiên,
không có giá trị nào cả, vì không có một lao động nào được vật hóa ở trong nó;
do đó, nó cũng không có giá cả” [20, tr.290]. Ông cho rằng cái giá cả mà chủ đất
sẽ thu được khi bán thác nước chẳng qua chỉ là địa tô đã tư bản hóa: “… không
phải bản thân thác nước có giá trị, và giá cả của nó chẳng qua chỉ là biểu hiện
đơn thuần của số lợi nhuận siêu ngạch bị chiếm đoạt và được tính toán theo kiểu
tư bản chủ nghĩa” [20, tr.291].
Đất nông nghiệp không giống với những lực lượng tự nhiên khác ở chỗ nó
có sự kết tinh sức lao động của con người, do đó đất nông nghiệp có giá trị. Giá
đất về thực chất chính là địa tô do đất đai mang lại trong một số năm nhất định.
Vì vậy, đất đai là một dạng hàng hóa đặc biệt - hàng hóa về quyền sử dụng đất.
Cũng chính vì có sự kết tinh sức lao động của nhiều thế hệ mà đất nông
nghiệp có chủ sở hữu. Quyền sở hữu ruộng đất bao gồm hai nội dung: quyền
chiếm hữu và quyền sử dụng. Hai quyền này có thể cùng tồn tại trong một chủ
thể sở hữu. Tuy nhiên khi nền kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định,
hai quyền này có thể tách rời nhau.
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Như vậy về mặt chiếm hữu, đất đai thuộc sở hữu của toàn dân vì đất đai là

tài sản của cả dân tộc, để có được tài sản này đã biết bao thế hệ người Việt Nam
phải đổ mồ hôi và xương máu để cải tạo và gìn giữ. Việc tư hữu hoá đất đai sẽ
cản trở những chương trình, mục tiêu quy hoạch lớn phục vụ cho quốc kế dân
sinh và dẫn đến phân hoá giai cấp. Do đó việc không chấp nhận chế độ tư hữu
đất đai chính là xuất phát từ lợi ích chung của toàn dân tộc. Tuy nhiên để khuyến
khích việc đầu tư thâm canh ruộng đất, nâng cao năng suất nông nghiệp, quyền
sử dụng được trao cho các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế.
Điều 5 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Nhà nước trao quyền sử dụng
đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định” [19, tr.13].


Việc giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cùng với việc mở rộng các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn bằng
giá trị quyền sử dụng đất để sản xuất kinh doanh đã phát huy tác dụng to lớn
trong việc khuyến khích các chủ thể sử dụng đất nông nghiệp tập trung đầu tư
vào đất đai, bảo vệ, khai thác và sử dụng đất một cách hợp lý, có hiệu quả. Nói
cách khác, sự kết tinh sức lao động vào đất đai nông nghiệp ngày càng tăng dẫn
đến việc tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Vấn đề này có một ý nghĩa
đặc biệt trong việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, đất nông nghiệp có vị trí cố định và phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên của từng vùng.
Đất nông nghiệp cũng như đất đai nói chung cấu thành nên bề mặt của trái
đất, chúng có vị trí cố định, không thể di chuyển được theo ý muốn của con
người. Con người muốn sử dụng đất sản xuất lương thực, thực phẩm phục vụ
cho cuộc sống thì phải định cư tại những vùng đất thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp, có nghĩa là sức lao động và tư liệu sản xuất phải di chuyển theo đất
đai. Điều này giải thích tại sao các nền văn minh cổ xưa trên thế giới thường
được hình thành ở những vùng hạ lưu các con sông lớn, là những nơi có điều

kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, tiêu biểu như các nền văn minh
sông Nil ở Ai Cập, sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ, sông Hoàng Hà ở Trung
Quốc... Ở các vùng đất trù phú dễ canh tác, ít bị thiên tai sẽ hình thành nên
những điểm quần cư và ngày càng được mở rộng dần ra các khu vực xung
quanh. Không giống như các tư liệu sản xuất khác có thể được di chuyển, được
điều tiết từ nơi này sang nơi khác hoặc tập trung lại ở một khu vực nhất định
nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất của con người trong hoàn cảnh cụ thể, đất
nông nghiệp chỉ có thể được sử dụng tại vị trí chúng đang tồn tại và mang những
tính chất của điều kiện tự nhiên của khu vực đó như điều kiện thổ nhưỡng, thời
tiết, khí hậu, địa hình, vị trí... Ở các khu vực khác nhau trên thế giới, các điều
kiện tự nhiên có sự khác biệt. Đặc điểm này cũng quy định tính đa dạng của
nguồn động thực vật và năng suất cây trồng, vật nuôi của các châu lục, các quốc


gia hay các vùng khác nhau trong mỗi quốc gia. Trong nền sản xuất hàng hóa
những điều kiện này rất quan trọng vì nó là cơ sở để hình thành các vùng nông
nghiệp chuyên môn hóa, thúc đẩy sản xuất đi vào chiều sâu mang tính chất
chuyên canh. Ngoài ra yếu tố vị trí địa lý, địa hình của đất nông nghiệp còn là
những nhân tố kinh tế quan trọng. Theo C.Mác thì vị trí của các khoảnh đất “…
có ý nghĩa quyết định trong trường hợp các đất di dân khai khẩn và nói chung có
ý nghĩa quyết định đối với trình tự theo đó các khoảnh đất có thể lần lượt được
canh tác” [20, tr.295]. Ông cho rằng “…khi khai phá đất hoang ở một nước,
người ta cũng có thể đi từ những đất tốt hơn đến những đất xấu hơn, hoặc ngược
lại” [20, tr.295] là bởi vì “Một khoảnh đất có thể ở vào một vị trí rất tốt nhưng
đồng thời lại rất ít màu mỡ và ngược lại” [20, tr.295]. Vị trí tốt của đất nông
nghiệp được hiểu là gần thị trường tiêu thụ hoặc ở nơi có hạ tầng giao thông
phát triển. Do đó sẽ xác lập được ưu thế cho hoạt động sản xuất kinh doanh vì
giảm được chi phí lưu thông nông sản hàng hóa. Vị trí thuận lợi khác nhau của
các mảnh đất là một trong hai nguyên nhân chính hình thành nên địa tô chênh
lệch I. Tuy nhiên, vị trí của đất đai có thuận lợi hay không đối với sản xuất nông

nghiệp hàng hóa chỉ có tính chất tương đối và mang tính lịch sử do sự tiến bộ
của nền sản xuất xã hội có tác dụng san bằng các chênh lệch về hiệu quả. Sự
phát triển của giao thông vận tải có thể làm thay đổi trật tự thuận lợi ấy. Vì vậy
vấn đề quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp đặt ra mục tiêu phát triển nông
nghiệp cụ thể cho từng khu vực phải căn cứ vào cả yếu tố tự nhiên và xã hội.
Thứ ba, đất nông nghiệp có giới hạn về mặt số lượng và không đồng nhất
về mặt chất lượng.
Về mặt số lượng, đất nông nghiệp là nguồn tài nguyên thiên nhiên có giới
hạn vì nó chỉ là một bộ phận của đất đai cấu thành vỏ trái đất. Trong một quốc
gia thì nó là một bộ phận của đất đai bị giới hạn bởi ranh giới lãnh thổ của quốc
gia đó. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại một cách khách quan, con người
chỉ có thể sử dụng đất phục vụ cho những mục đích khác nhau của mình chứ
không thể tạo ra nó. Trái đất mặc dù có diện tích rất lớn nhưng diện tích đó cũng
chỉ là một con số hữu hạn.


Sự giới hạn về mặt số lượng của đất đai đặt con người trước những quan
hệ phức tạp, biểu hiện tập trung ở quan hệ sở hữu và chiếm hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu này của nông nghiệp.
Theo V.I.Lênin, có hai loại độc quyền trong nông nghiệp đó là độc quyền
kinh doanh ruộng đất và độc quyền sở hữu ruộng đất. Sự giới hạn về mặt số
lượng của đất nông nghiệp gắn với độc quyền kinh doanh ruộng đất trong nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông viết: “Kết luận duy nhất rút ra một cách logic từ
tình trạng ruộng đất có hạn là toàn bộ ruộng đất sẽ bị bọn phéc - mi - ê chiếm
giữ” [16, tr.141]. Điều này hoàn toàn tương tự việc độc quyền kinh doanh những
lực lượng tự nhiên có hạn khác như C.Mác đã nhận thấy: “Số chủ xưởng đã
chiếm hữu được những thác nước gạt số chủ xưởng không chiếm hữu được thác
nước ra ngoài, không để cho họ lợi dụng lực lượng tự nhiên ấy, vì đất đai - đặc
biệt là đất đai có sẵn sức nước - là có hạn” [20, tr. 287]. Trong chủ nghĩa xã hội,
sự giới hạn đó cũng đặt ra những đòi hỏi về giải pháp sử dụng đất đai phải đảm

bảo sự phát triển bền vững và giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội nảy sinh
trên cơ sở lợi ích do đất đai mang lại.
Sự giới hạn của đất nông nghiệp ngoài những tính chất khách quan do tự
nhiên quy định đóng vai trò chủ yếu, còn có sự ảnh hưởng nhất định bởi mặt xã
hội, biểu hiện ở các chính sách phát triển nông nghiệp, ở định hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của các khu vực, quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Về cơ bản, tỷ trọng đất nông nghiệp trong tổng quỹ đất sử dụng giữa các
nước trên thế giới hoàn toàn khác nhau và tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên của
từng nước. Các nước có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chất đất nghèo nàn thì
đất nông nghiệp thường chiếm một phần rất nhỏ trong tổng diện tích đất sử
dụng. Tình hình cũng diễn ra tương tự đối với các vùng trong cùng một nước, sự
chênh lệch về tỷ trọng này thể hiện rõ nhất giữa các vùng có sự khác biệt về cơ
cấu kinh tế, giữa nông thôn và thành thị.
Khoảng trên 30% diện tích lãnh thổ Việt Nam được sử dụng trực tiếp cho
sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng, tính bình quân theo đầu người vào loại
thấp của thế giới. Ở Việt nam, trong lĩnh vực nông nghiệp luôn diễn ra hai quá


trình trái ngược nhau. Một mặt, có những cố gắng rất lớn để mở rộng diện tích
khai hoang, làm tăng thêm quỹ đất. Mặt khác, xảy ra quá trình ngược lại: đất
trồng lúa và cây lương thực không ngừng giảm, đặt biệt là ở những đồng bằng
châu thổ có đất phì nhiêu. Ở những vùng ven biển có độ cao thấp, đặc biệt là ở
đồng bằng sông Cửu Long, lưu lượng vào mùa khô rất thấp cùng với việc tàn
phá rừng đã làm mặn xâm nhập sâu vào đất liền, giảm diện tích trồng trọt và hạn
chế năng suất cây trồng. Ở các vùng ven biển miền Trung đang diễn ra hiện
tượng cát bay, cát lấn đất rất rõ rệt. Cát lấn dần vào đất liền, lấp đi nhiều diện
tích đất trồng trọt, tại một số vùng ven biển đang xảy ra hiện tượng sạt lở đất. Có
rất nhiều nguyên nhân gây hại môi trường đất và làm thoái hóa chất lượng (độ
phì nhiêu) của đất nhưng các nguyên nhân chính về mặt tự nhiên là địa hình dốc,
lượng mưa lớn tập trung. Địa hình đồi núi chiếm khoảng hơn 3/4 diện tích tự

nhiên của toàn lãnh thổ Việt Nam. Các dãy núi đồ sộ nhất và các đỉnh núi cao
nhất đều phân bố ở phía Tây và Tây Bắc, núi thấp dần về phía Đông và thường
kết thúc bằng một dải đất thấp ven biển. Các thung lũng thường hẹp, sâu là kết
quả của hoạt động xâm thực mạnh của sông suối. Do tác động của ngoại lực vào
mùa mưa lũ, các hiện tượng đá đổ, trượt đất, lũ quét… diễn ra phổ biến.
Nguyên nhân chính về mặt xã hội là tập quán canh tác lạc hậu đốt nương
làm rẫy và phá rừng vì lợi ích trước mắt đã làm cho đất đai của nước ta đứng
trước sự uy hiếp nghiêm trọng. Hiện nay vẫn còn khoảng hai triệu người sống du
canh du cư và di dân tự do phá rừng làm đất sản xuất nông nghiệp. Đó là chưa
kể đến hậu quả của việc phá rừng để làm đất nông nghiệp theo chủ trương tự túc
lương thực với quy mô tỉnh, huyện, xã (trước năm 1990) đã làm cho rất nhiều
diện tích đất dốc có rừng bị phá đi để sản xuất nhưng sau đó không được sử
dụng bền vững nên lại trở thành đất hoang trọc.
Đất nông nghiệp có giới hạn về mặt tuyệt đối, còn về mặt tương đối tính
theo đầu người thì ngày càng bị thu hẹp dần vì sự tăng trưởng mọi mặt của kinh
tế - xã hội và sự gia tăng tự nhiên của dân số. Đặc biệt với tốc độ phát triển công
nghiệp, đô thị và nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng như hiện nay đã dẫn đến một
diện tích rất lớn đất nông nghiệp bị chiếm dụng.


Bình quân đất nông nghiệp theo đầu người ở nước ta liên tục giảm trong
suốt thời kỳ từ năm 1980 đến năm 1990 (từ 1290 m2 xuống còn 1056m2) và mới
phục hồi dần trong thời kỳ 1991 - 2000 lên mức 1081m2 (năm 2000), dự kiến
khoảng 30 năm, sau khi dân số phát triển ổn định thì chỉ còn ở mức khoảng 770m2.
Trong tương lai, nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao sẽ gây áp lực mạnh đối
với đất đai và dễ dẫn đến tình trạng rối loạn trong khai thác sử dụng đất, nhất là
ở những nơi “đất chật người đông”, kinh tế trù phú có nhiều cơ hội tiếp nhận
đầu tư, lao động. Do đó, sự giới hạn này đặt ra yêu cầu cấp thiết về sử dụng một
cách có hiệu quả đất đai nông nghiệp, không thể tăng thêm số lượng đất đai
nông nghiệp mà phải đi vào nâng cao hiệu suất sử dụng đất, lấy phát triển theo

chiều sâu để bù cho sự hạn chế của phát triển theo chiều rộng.
Về mặt chất lượng, đất nông nghiệp không đồng nhất. Đất đai ở những vị
trí nhất định chịu sự chi phối của các điều kiện tự nhiên của khu vực, dẫn đến
các đặc tính tự nhiên cấu thành nên chất lượng của đất đai có sự khác nhau, do
đó chất lượng của đất sẽ không đồng nhất giữa các vùng, các khu vực khác
nhau. Địa hình và khí hậu tạo ra cái nền cơ bản mà sự sống về sau tận dụng và
chịu ảnh hưởng sâu sắc. Chất lượng của đất đai trong trường hợp chịu ảnh
hưởng của các yếu tố tự nhiên biểu hiện ở độ phì tự nhiên của nó, là dung lượng
khác nhau về các chất dinh dưỡng cần thiết cho sinh vật. Ngoài sự khác nhau về
vị trí thuận lợi, sự khác nhau về độ phì tự nhiên cũng là một nguyên nhân chính
hình thành địa tô chênh lệch I. Vấn đề này có những tác động nhất định đến
phương hướng sử dụng có hiệu quả đất đai để phát triển nền nông nghiệp hàng
hóa trong giai đoạn hiện nay.
Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm biến động thất thường, các
dạng địa hình luôn thay đổi và được cấu tạo bởi nhiều loại đá mẹ khác nhau làm
cho đất đai có nhiều chủng loại và phân bố xen kẽ nhau một cách phức tạp. Sự
khác biệt về chủng loại đất thể hiện ở sự khác nhau về cấu trúc, độ phì… của
từng loại đất nhất định.
Loại đất điển hình ở vùng đồi núi là đất Feralit đỏ vàng, hình thành trên
nhiều lớp vỏ phong hóa của đá trầm tích, đá mắc ma, có độ phì khá, ít chua,
được sử dụng rộng rãi để phát triển trồng trọt, làm ruộng bậc thang.


Trên các bậc thềm phù sa cổ ven các châu thổ hoặc đồng bằng tồn tại
dạng đất Feralit nâu hoặc xám, có độ phì kém, dễ bạc màu, cấu trúc tầng mặt thô
do sét bị rửa trôi, dễ bị đá ong hóa. Đây là loại đất điển hình ở vùng Trung du
Bắc bộ và Đông Nam Bộ.
Ở vùng đồng bằng, tùy theo vị trí phân bố gần hay xa sông, gần biển hay
xa biển mà đất được chia thành hai nhóm chính: nhóm đất phù sa ngọt và nhóm
đất phù sa mặn. Đất phù sa được sử dụng chủ yếu trong nông nghiệp để trồng

lúa nước, có đặc điểm giàu chất hữu cơ, đạm nitrát. Tất nhiên những đặc tính
này có sự thay đổi giữa các loại đất thuộc châu thổ sông Hồng và châu thổ sông
Cửu Long.
Ngoài ra còn có các loại đất như đất Sialit nhiễm mặn, tồn tại ở các đồng
bằng ven biển, có thành phần cơ giới nặng; đất phèn ở một số tỉnh Tây Nam Bộ
có tính chất mặn, chua, muốn sử dụng được phải có biện pháp xử lý thích hợp;
đất đỏ Bazan phân bố ở một số tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có độ phì
lớn, có khả năng giữ độ ẩm cao; đất cát tơi và một số loại đất khác.
Mặt khác, sự tác động của con người trong quá trình sử dụng đất đai cũng
là một nhân tố làm cho chất lượng của đất giữa các khu vực có sự không đồng
nhất. Sự tác động thể hiện tập trung ở hoạt động sản xuất nông nghiệp của con
người. Trình độ lao động là một nhân tố quan trọng tác động đến độ phì của đất.
C.Mác cho rằng:
Bằng những phương tiện hóa học (chẳng hạn như dùng các loại
phân lỏng đối với những nơi đất sét rắn chắc, hoặc bằng cách đốt những
thửa đất sét nặng), hay những phương tiện cơ khí (như dùng loại cày đặc
biệt đối với đất nặng), người ta có thể loại bỏ những trở ngại làm cho một
thửa đất cũng màu mỡ bằng một thửa đất khác trở nên thực tế kém màu
mỡ hơn [20, tr.296].
Việc đầu tư có mục đích của con người vào những thửa đất nhất định để
cải tạo nó sẽ làm cho thửa đất ấy trở nên màu mỡ hơn những thửa đất cùng loại
nhưng không được đầu tư. Ngoài ra, chất lượng của một thửa đất được đầu tư
cải tạo liên tiếp cũng không đồng nhất nếu xét theo trình tự thời gian. Chất


lượng đất được nâng dần lên phản ánh hiệu quả của quá trình thâm canh trên
thửa đất ấy. Sản lượng thu được trên một đơn vị diện tích do đó cũng tăng lên
lần lượt sau mỗi lần đầu tư. Đây là cơ sở để hình thành địa tô chênh lệch II vì
thâm canh ruộng đất đưa đến việc tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất, tăng khối lượng sản phẩm. Nó cũng là một xu thế tất yếu trong phát triển

nông nghiệp vì đất nông nghiệp có giới hạn về mặt diện tích, sự phát triển theo
lối quảng canh, mở rộng diện tích có nhiều trở ngại.
Sự tác động của con người, mặt khác, nếu diễn ra không hợp lý sẽ ảnh
hưởng xấu đến chất lượng của đất nông nghiệp. Ở nước ta, tình hình khai thác
tài nguyên đất một cách thiếu khoa học đã và đang là một thách thức lớn đối với
sự phát triển bền vững, nhất là ở các vùng trung du và miền núi với kiểu canh
tác đốt nương làm rẫy mang tính chất du canh du cư. Tập quán canh tác chỉ
hướng vào tận dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất đai, không chú ý đến việc cải
tạo đã dẫn đến hậu quả hàng loạt diện tích đất đã trở nên bạc màu. Đến thời
điểm 1994, đã có hơn 13 triệu ha đất trống đồi trọc, trong đó diện tích bị xói
mòn trơ sỏi đá vào khoảng 1,2 triệu ha, số lượng các chất dinh dưỡng bị rửa trôi
hàng năm rất lớn, đạt đến 120 - 170 tấn/ha/năm, số lượng này thay đổi tùy theo
vị trí trên sườn đồi hay trên mặt bằng và tùy theo địa hình có phủ thảm thực vật
hay không.
Ngoài ra, sự phát triển công nghiệp thiếu tính quy hoạch, sự bùng nổ của
các phương tiện giao thông gây ô nhiễm không khí, nguồn nước, ảnh hưởng xấu
đến hệ sinh thái, làm thay đổi khí hậu, thời tiết dẫn đến chất lượng đất đai bị
biến đổi. Như vậy, về mặt thời gian, chất lượng của từng mảnh đất cũng không
đồng nhất. Với những ảnh hưởng xấu như trên thì hiển nhiên chất lượng đất đai
bị biến đổi theo hướng tiêu cực, làm giảm hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Thứ tư, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt của ngành nông
nghiệp và có sức sản xuất được nâng lên theo trình độ phát triển của khoa học
kỹ thuật.
Đất nông nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách vừa là tư liệu
lao động vừa là đối tượng lao động, vì vậy nó là tư liệu sản xuất của ngành nông


nghiệp. Về phương diện lịch sử có thể khẳng định rằng đất nông nghiệp được sử
dụng trước hết với tư cách là tư liệu lao động, sau đó tư cách đối tượng lao động
của nó mới được xác lập.

Lần đầu tiên con người chỉ sử dụng đất nông nghiệp như một tư liệu lao
động, có nghĩa là dùng đất nông nghiệp, thực tế là dùng các chất dinh dưỡng có
trong đất như các chất hữu cơ, chất khoáng… để làm phương tiện chuyển tải lao
động của con người đến cây trồng, tác động đến cây trồng để thúc đẩy nó sinh
trưởng và phát triển. Hoạt động có mục đích này có sự gắn bó mật thiết với các
quy luật tự nhiên. Thông qua việc phân tích thực tiễn của quá trình ấy, con người
rút ra được những kết luận về sự ảnh hưởng của những thuộc tính vốn có của đất
nông nghiệp đối với cây trồng và nhận thức được rằng để nâng cao năng suất
canh tác cần loại bỏ những ảnh hưởng xấu và tăng cường ảnh hưởng tốt của đất.
Muốn thế phải tác động vào đất để thay đổi những thuộc tính lý hóa và những
thuộc tính khác cấu thành chất lượng đất. Lúc này tư cách là đối tượng lao động
của đất nông nghiệp xuất hiện.
Việc trở thành đối tượng lao động của đất nông nghiệp còn do nhu cầu
ngày càng cao về chất lượng và chủng loại sản phẩm nông nghiệp của con người
quy định. Để đáp ứng được nhu cầu này phải có những thay đổi về chất lượng
của đất nông nghiệp bởi sự đa dạng của đất nông nghiệp quyết định tính đa dạng
và hiệu quả của sản phẩm. Khi đó con người sẽ sử dụng các công cụ, phương
tiện thích hợp tác động vào đất đai nông nghiệp nhằm cải tạo đất. Trong thực tế,
việc áp dụng khoa học kỹ thuật để tác động là chủ yếu. Ngoài ra, việc khai thác
hợp lý đất đai dựa vào điều kiện sinh thái của đất, tôn trọng quy luật tự nhiên
cũng rất quan trọng. Trong những trường hợp trên, đất nông nghiệp trở thành đối
tượng lao động, là chủ thể tiếp nhận những hoạt động cải tạo có mục đích của
con người.
Như vậy, đất nông nghiệp chỉ trở thành đối tượng lao động khi con người
có ý thức cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phải đáp ứng những yều cầu ngày càng
đa dạng trong sản xuất và tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp. Đây cũng là một
bước tiến quan trọng trong công cuộc chinh phục tự nhiên của con người.


Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất của ngành nông nghiệp, hơn nữa còn

là một dạng tư liệu sản xuất đặc biệt thể hiện ở một số điểm cơ bản:
Trước hết, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất hữu hạn. Trong khi những
tư liệu sản xuất khác của nền sản xuất xã hội được tạo ra ngày càng nhiều theo
nhu cầu và trình độ sản xuất, thì đất đai là tư liệu sản xuất có hạn, cũng giống
như thác nước mà C.Mác đã nghiên cứu và chỉ ra rằng: “Ở nơi nào không có
điều kiện tự nhiên ấy thì dù có bỏ ra một số tư bản nhất định người ta cũng vẫn
không thể tạo ra điều kiện ấy được” [20, tr.287]. Vì vậy, việc sử dụng tư liệu sản
xuất này cũng đặt ra những yêu cầu cụ thể không giống như việc sử dụng tư liệu
sản xuất thông thường. Đó là sử dụng phải tôn trọng các quy luật tự nhiên đi đôi
với việc bảo vệ và cải tạo, bồi dưỡng đất.
Bên cạnh đó, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất không thể di chuyển
được theo nhu cầu sản xuất như những tư liệu sản xuất khác mà chỉ được sử
dụng ở những vị trí cố định của bề mặt trái đất, mang những nét đặc trưng của
từng vùng khí hậu, do đó chất lượng của loại tư liệu sản xuất này cũng rất khác
nhau. Hơn nữa tư liệu sản xuất này không thể sử dụng một cách biệt lập với môi
trường tự nhiên như những tư liệu sản xuất mang tính chất kỹ thuật. Nó tồn tại gắn
với tự nhiên và chỉ được sử dụng hiệu quả trong môi trường tự nhiên thuận lợi.
Ngoài ra, các tư liệu sản xuất thông thường sẽ bị hao mòn hữu hình và vô
hình sau một thời gian sử dụng còn đất đai nếu được sử dụng một cách hợp lý,
tuân thủ các quy luật tự nhiên thì độ phì của đất sẽ tăng lên. Theo C.Mác:
Nếu sức sản xuất phát triển một cách nhanh chóng, tất thảy máy
móc cũ cũng cần phải được thay thế bằng những máy móc khác có lợi
hơn, nghĩa là những máy móc cũ phải bị hoàn toàn vứt bỏ. Trái lại,
nếu được xử lý một cách thích đáng thì đất sẽ tốt mãi lên. Ưu thế của
đất là những khoản đầu tư liên tiếp có thể đem lại lợi nhuận mà không
làm thiệt đến những khoản đầu tư trước [20, tr.484].
Như vậy, sức sản xuất của loại tư liệu sản xuất này không ngừng nâng cao
theo trình độ kỹ thuật và sự phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mác cho rằng:
“Trong nông nghiệp, người ta có thể đầu tư liên tiếp một cách có hiệu quả, vì



bản thân ruộng đất phát sinh tác dụng như một công cụ sản xuất” [20, tr.484].
Ông phê phán “…cái lý lẽ nông cạn nói rằng trên một thửa đất có hạn về mặt diện
tích, không phải bất cứ một lượng tư bản nào cũng có thể đầu tư được” [20, tr.483].
Xét về phương diện lịch sử, người đầu tiên nêu ra “cái lý lẽ” ấy là học giả tư sản
Tuyếc - Gô với “quy luật ruộng đất ngày càng mất dần màu mỡ” về sau được
các nhà kinh tế học tư sản tầm thường lợi dụng một cách triệt để. Nội dung chủ
yếu của luận điểm này là: Khi đầu tư thêm vào ruộng đất vượt quá mức độ nhất
định thì sản lượng sẽ giảm xuống, có nghĩa là bất cứ sự đầu tư thêm nào vào
ruộng đất vượt quá mức độ nhất định đều thu hoạch ít hơn so với lần đầu tư
trước. Mục đích của lý luận này nhằm che đậy mâu thuẫn của chế độ tư bản, cho
rằng nguyên nhân gây nên sự bần cùng hóa nhân dân lao động là do yếu tố tự
nhiên, do “quy luật ruộng đất ngày càng mất dần màu mỡ”.
V.I.Lênin cũng vạch ra sai lầm của lý luận này là đã vứt bỏ cái chủ yếu
nhất, tức là sự nâng cao trình độ kỹ thuật và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ông cho rằng trong trường hợp kỹ thuật cải tiến không ngừng, năng suất lao
động không ngừng nâng cao thì việc đầu tư thêm không bao giờ làm cho ruộng
đất ngày càng mất dần màu mỡ. Chỉ có trong trường hợp kỹ thuật không đổi,
đầu tư thêm mới đem lại thu nhập ít. Do đó khoa học kỹ thuật càng phát triển thì
sức sản xuất của đất nông nghiệp - tư liệu sản xuất của ngành nông nghiệp ngày
càng được nâng cao, tăng cường khả năng đẩy mạnh sản xuất kinh doanh nông
sản hàng hóa.
1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp đối với phát triển nông sản hàng hóa
Trong lịch sử loài người từ xưa đến nay, nông nghiệp là nguồn cung cấp
lương thực thực phẩm chủ yếu. Ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu lương thực, thực
phẩm và các sản phẩm khác từ nông nghiệp cho tiêu dùng trong nước và để xuất
khẩu ngày càng tăng. Vì vậy trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, việc đưa
nông nghiệp từ kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc chuyển sang kinh tế hàng hóa, từ
sản xuất hàng hóa nhỏ lên sản xuất hàng hóa quy mô lớn và hiện đại là nhiệm vụ
có tính chiến lược lâu dài, gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa

đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ chiến lược này, đòi hỏi phải phát huy một


cách tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế, trong đó đất nông nghiệp là một
nguồn lực cơ bản.
- Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu để sản xuất nông nghiệp hàng hóa:
Đất nông nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách vừa là tư liệu
lao động vừa là đối tượng lao động để trở thành tư liệu sản xuất của ngành nông
nghiệp, hơn nữa còn trở thành tư liệu sản xuất chủ yếu của sản xuất nông nghiệp
hàng hóa lớn trong giai đoạn hiện nay, khi nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự
phân công lao động ở trình độ cao và nền kinh tế - xã hội đã bước sang một giai
đoạn phát triển mới.
Thực tế này đã đặt vai trò của đất nông nghiệp trước những đòi hỏi cao
hơn, ngoài việc thực hiện vai trò là tư liệu sản xuất tạo ra một khối lượng nông
sản, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng tự cấp tự túc như trong nền kinh tế
tự nhiên, đất nông nghiệp còn phải tạo ra một khối lượng nông sản hàng hóa đáp
ứng nhu cầu của thị trường. Như vậy đất nông nghiệp phải thực hiện thêm
nhiệm vụ của một nhân tố trong kinh doanh (với tư cách là đối tượng kinh
doanh) nhằm mang lại lợi nhuận, thông qua đó, tạo khả năng tái sản xuất mở
rộng cho người sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là mục đích của việc sử dụng
đất nông nghiệp ở bất cứ nơi nào trên thế giới trong một nền nông nghiệp hàng
hóa, vì mục tiêu kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công
nghệ, nhiều mô hình ứng dụng công nghệ mới để sản xuất nông nghiệp mà
không cần sử dụng đất đai đã ra đời, tuy nhiên những mô hình này vẫn chưa
phải là phổ biến. Hơn nữa, việc sản xuất ra nông sản hàng hóa theo phương thức
này có chi phí sản xuất quá cao, nếu xét về mặt hạch toán kinh doanh thì không
mang lại hiệu quả kinh tế. Do đó, đất nông nghiệp vẫn là sự lựa chọn hàng đầu
và không thể thay thế được, nó vẫn là tư liệu sản xuất chủ yếu để sản xuất ra
nông sản hàng hóa trong thời điểm hiện nay.

- Đất nông nghiệp là môi trường không gian để sản xuất nông nghiệp,
cũng đồng thời là môi trường sống:
Sản xuất nông nghiệp khác với các hoạt động sản xuất khác ở chỗ không
thể tách khỏi môi trường tự nhiên với các yếu tố như đất, nước, khí hậu, ánh


sáng, nhiệt độ… Ngoại trừ những trường hợp sử dụng công nghệ cao như sản
xuất nông sản trong môi trường nhân tạo (nhà kính, phòng thí nghiệm) vốn chưa
phổ biến và chưa thể thay thế được phương pháp sản xuất truyền thống. Trong
các yếu tố tự nhiên trên, đất đai là yếu tố có tính chất quyết định nhất. Trong lĩnh
vực trồng trọt, đất nông nghiệp ngoài tư cách là tư liệu sản xuất còn là môi
trường để cây trồng phân bố trên bề mặt của nó, có nghĩa là ngoài vai trò làm
phương tiện chuyển tải lao động của con người đến cây trồng để thúc đẩy nó
sinh trưởng và phát triển, thì đất nông nghiệp còn là điểm tựa cố định cho cây
trong suốt quá trình này, là khoảng không gian để cây trồng thực hiện quá trình
trao đổi chất và tiếp nhận những tác động của các yếu tố tự nhiên khác. Trong
lĩnh vực chăn nuôi, ngoài vai trò tạo ra nguồn thực vật làm thức ăn cho gia súc,
gia cầm, đất nông nghiệp còn là môi trường sinh trưởng, là khoảng không gian
chăn thả vật nuôi, cho dù đó là mô hình chăn nuôi tự nhiên ở các khu vực đất
đồng cỏ hay chăn nuôi tập trung ở các trang trại. Hơn nữa, đất nông nghiệp còn
là môi trường diễn ra các hoạt động thu hoạch sau sản xuất, là không gian tập
kết nông sản và quan trọng hơn, nó còn là môi trường sinh sống của người lao
động nông nghiệp và cư dân nông thôn, gắn liền với các vấn đề sinh hoạt của cộng
đồng. Vì vậy việc thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường đất nông nghiệp trong
quá trình sản xuất cũng chính là bảo vệ môi trường sống cho con người.
- Đất nông nghiệp là phương tiện huy động vốn phục vụ sản xuất nông
sản hàng hóa:
Đất nông nghiệp là nguồn nội lực quan trọng để phát triển nông sản hàng
hóa, do nó còn là hàng hóa đặc biệt để khai thác nhằm tạo ra nguồn vốn đầu tư
cho thâm canh nông nghiệp thông qua việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất

với một phần diện tích, từ đó tạo ra lượng nông phẩm hàng hóa ngày càng nhiều.
Bên cạnh đó, những chủ thể sản xuất kinh doanh muốn mở rộng sản xuất
còn có thể vay vốn bằng việc thế chấp quyền sử dụng đất. Việc đảm bảo hoàn lại
vốn vay thông qua con đường thế chấp vừa mang lại sự an toàn tài chính cho
ngân hàng vừa nâng cao được ý thức trách nhiệm của người đi vay đối với
khoản vốn vay để mở rộng sản xuất kinh doanh của họ. Trong điều kiện khan


hiếm vốn đầu tư sản xuất đã trở nên phổ biến, nhất là đối với người nông dân
trong giai đoạn hiện nay, việc chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất đã
phần nào giải quyết được nhu cầu bức xúc của các chủ thể sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt là những chủ thể sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá IX về
“Tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định đất đai “là nguồn nội lực và
nguồn vốn to lớn của đất nước” [7, tr.61]. Với ý nghĩa đó, vai trò của đất đai
ngày càng trở nên quan trọng đối với việc huy động các nguồn lực phục vụ cho
việc phát triển sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nguồn lực tài chính.
Ngoài ra, đất nông nghiệp trong một số trường hợp cá biệt còn có những
vai trò mang tính chất bổ sung, hỗ trợ, chẳng hạn như những loại đất có đặc tính
thuận lợi để phát triển một loại nông sản nào đó còn cấu thành nên lợi thế cạnh
tranh của nông sản ấy trên thị trường. Hơn nữa, một số sản phẩm nông nghiệp
mang tính chất đặc biệt chỉ có thể sản xuất trên những vùng đất nhất định mà
không thể sản xuất được ở những vùng đất khác có nhiều khả năng trở thành sản
phẩm nông nghiệp độc quyền (ví dụ như vải Thanh Hà, nhãn lồng Hưng Yên,
chè Thái Nguyên, cà phê Buôn Ma Thuột, bưởi Năm Roi, bưởi Đoan Hùng...),
giá cả độc quyền của nó mang lại lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp. Trong
đó vai trò của đất nông nghiệp với những tính chất riêng mang lại lợi thế đặc
biệt cho nông sản có ý nghĩa quyết định.
Như vậy, đất đai chỉ có thể trở thành yếu tố sản xuất khi nó được khai thác

và sử dụng, và chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai thác và sử
dụng nó một cách hiệu quả. Việc sử dụng đất nông nghiệp để phát triển sản xuất
hàng hóa là một trường hợp điển hình.
1.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng và những yêu cầu đặt ra đối với đất
nông nghiệp trong việc phát triển nông sản hàng hóa
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp thể hiện ở việc sử dụng
quỹ đất hợp lý, tiết kiệm và bền vững; sử dụng đúng tiềm năng quỹ đất kết hợp
với phát triển quỹ đất theo hướng làm tăng độ phì của đất; khai hoang, lấn biển


×